Trần Dạ Từ
Tên Thật: Lê Hà Vĩnh
(1940 ........) Hải Dương
Tên Thật: Lê Hà Vĩnh
(1940 ........) Hải Dương
Nhà thơ, Nhà báo, Viết nhạc
Trần Dạ Từ tên thật Lê Hạ Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương, Bắc Việt. Ông là chồng của nhà văn – nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu Vân).
Ông di cư vào Nam năm 1954, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam.
Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới.
Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.
Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hóa”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra lửa dài hơn 4000 câu.
Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thụy Ðiển, gia đình ông được sang Thụy Điển sinh sống.
Năm 1992 sang định cư tại California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt Báo.
Tác phẩm:
Thuở làm thơ yêu em
(Sài Gòn, 1960)
(Sài Gòn, 1960)
Tỏ tình trong đêm
(Sài Gòn, 1965)
(Sài Gòn, 1965)
Nụ cười trăm năm
(Viết tại Mỹ, chưa xuất bản)
(Viết tại Mỹ, chưa xuất bản)
Thơ Cũ Của Nàng
Người đi qua đời tôi
Trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai
Gió mù lên mấy trời
Mây mù lên mấy biển
Người đi qua đời tôi
Hồn lưng mùa rét mướt
Đường bay đầy lá mùa
Vàng xưa đầy dấu chân
Lòng vắng như ngày tháng
Đen tối vùng lãng quên
Người đi qua đời tôi
Chiều ầm vang tiếng sóng
Bàn tay mềm khói sương
Tiếng hát nào hơ nóng
Người đi qua đời tôi
Nghe những lời linh hồn
Phi lao dài tiếng ru
Êm ái lòng hối tiếc
Trên lối về nghĩa trang
Trong mộ phần tối đen
Người đi qua đời tôi
Không nhớ gì sao người
Em đi qua đời anh
Không nhớ gì sao em.
Mộng Đời
Hoa và trái một đêm nào thức dậy,
Nghe mộng đời xao-xuyến giấc xuân xanh
Con đường đó một đêm nào trở lại
Cùng gió mưa phùn trên cánh tay anh
Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa-xưa còn đó chút trông-chờ
Màu thơ dại vẫn tươi màu kỷ-niệm
Bóng cây nào ôm mãi mắt hư-vô
Tháng giêng đó, anh mỉm cười bước tới
Khi yêu em tay cũng mở như lòng
Môi Thần-Thánh biết gì đâu tội-lỗi
Lối đi nào ngây-ngất bước song-song ?
Anh sẽ nhắc trong những tàn phai ấy
Đêm hoàng-lan thơm đến ngọt vai mình
Ai sẽ biểu trong một lần trở lại
Hoàng-lan xưa còn nức-nở hồn anh
Tháng Giêng hết thôi giận hờn đã muộn
Khi xa em, vai mới biết đau buồn
Tơ gấm biếc nào nâng từng bước chậm
Trả giùm tôi về những dấu chân chim
Hoa và trái đêm nay đây thức dậy
Ôi mộng đời em hiểu chữ xuân-xanh
Con đường đó đêm này đây trở lại
Cùng gió mưa phùn buốt cánh tay anh ...
Thủa làm thơ yêu em
Thủa làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy cách xa
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha .
Thủa làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố
Anh đi rồi lại đến
Bài thơ không hết lời
Bao nhiêu lần hò hẹn
Sớm chiều sao xa xôi
Mười bảy năm chợt thức
Bây giờ là bao giờ
Bàn tay trên mái tóc
Nghìn sau còn bâng quơ
1.Nhã ca
Bây giờ ngày đã hết
Ban đêm đương bắt đầu
Chỉ còn lại mình anh
Và trái đất cằn khô
Bây giờ tháng đã hết
Mùa đông đương bắt đầu
Chỉ còn lại mình anh
Và tiếng nói hư vô
Bây giờ năm đã hết
Thời gian đương bắt đầu
Chỉ còn lại mình anh
Và nốt nhạc cô đơn
Bây giờ thôi đã hết
Lãng quên đương bắt đầu
Chỉ còn lại mình anh
Và nỗi nhớ nhung đen
Buổi hẹn đầu
Biết yêu người, thuở mười lăm
Trong vườn ngây dại, ta nằm xót xa
Cỏ cây ồ ạt ra hoa
Chùm môi bông phượng la đà tới lui
Khi không da thịt cả cười
Cùng ta trộn lẫn đất trời với em.
Tự Tình Ca
Tại sao mặt trời chọn tôi để rực rỡ
Tại sao mặt trăng chọn tôi để tình tứ
Tại sao những vì sao chọn tôi để long lanh
Tại sao những bông hoa chọn tôi để nở
... Và tại sao
Trong giấc mơ ở mãi cuối trời kia
Cả em cũng chọn tôi để nhớ ?
Bài Ru
mi sầu thôi khép đi em
hồn anh rộng đã trăm miền không gian
ngày vơi, cửa trống, thu tàn
lá thưa cành nặng cây dàn quạnh hiu
lối đi vừa chớm tiêu điều
mùa nghiêng bóng nhỏ ngày xiêu cột dài
phố chiều gió vọng bàn tay
ru anh về với đôi ngày lãng quên.
Khi Em Mười Sáu
Cho tôi xin nửa bóng trăng ngoài
Với nửa mùa thu trong mắt ai
Lá rụng bao nhiêu hè phố cũ
Sao nghe lòng rưng rưng nhớ người
Đêm biếc cành soan, thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa
Tôi dối lòng tôi đêm sắp tàn
Đêm tàn để lạnh giấc mơ em
Để bàn tay gối sầu trên ngực
Và gió thu đầy trong mắt trăng
Tôi dối lòng tôi trăng sắp mờ
Trăng mờ em sẽ thấy bơ vơ
Sẽ thương cho những con đường cũ
Và nhớ bao nhiêu lối hẹn hò
Nhưng hẳn là em không nhớ đâu
Giấc mơ còn mát ánh trăng sầu
Hoa còn thơm tuổi đời trên má
Mùi áo còn say muôn kiếp sau
Lòng nhớ lòng thương lòng ngại ngùng
Bây giờ tôi cách núi xa sông
Bài thơ từ thủa trăng mười sáu
Mười sáu trăng chờ em biết không
Tôi dối lòng tôi bao nhiêu lần
Bao nhiêu lần trăng vẫn là trăng
Lòng nhớ lòng thương lòng sắp khóc
Đêm chưa tàn đâu đừng nói năng.
Hoa và trái đêm nay đây thức dậy
Ôi mộng đời em hiểu chữ xuân-xanh
Con đường đó đêm này đây trở lại
Cùng gió mưa phùn buốt cánh tay anh ...
Dạ Khúc Một Hai Ba
I.
Khi buổi chiều rụng xuống, lũ cột đèn đứng lên
Con phố này nỗi đau buồn bật sáng
Làm sao anh không thể nhớ em ngày tóc chẻ đôi
Mùa đông dài, tiếng guốc nhỏ,
Khua mãi vào vô thức
Làm sao anh không thể nhớ em
Dù chỉ một lần
Đã đi qua đây không nhìn ai
Và gọi tên anh
Đêm rũ rượi bài hát buồn, cánh tay
Rồi nước mắt
II.
Một vòng hoa trôi tới chân anh
Với con mắt trên lầu cao lén ngó
Khi hạnh phúc vỡ tan như bóng đèn
Dơ tay lên, che mắt nhìn
Quá khứ
Một vòng hoa trùm lấy thân anh
Bàn ghế thoi thóp thở
Hai người bên cạnh, những người xung quanh
Thoi thóp nhớ.
Một vòng hoa đặt xuống đời anh
Rồi cỏ mọc lên không nói gì
Không nói gì, không, không còn thiết nói gì
Cả bài thơ, cả tuổi thơ này nữa
Người ca sĩ già ôm chiếc máy phóng thanh
(vòng hoa trôi tới vòng hoa trùm lấy
và vòng hoa đặt xuống)
Ôi tiếng nào ru anh vào giấc ngủ em
Bài ca ấy hay vòng hoa phúng viếng.
III.
Anh đi qua đó lần thứ hai
Giấc mơ quen tựa bàn tay bỏ thõng
Hai dãy lầu cao chiếc bóng lẻ loi
Dấu vết em không còn lại chút gì
Như đời sống
Đi qua đó lần thứ hai
Này
Người đàn bà đứng trên bao lơn nhìn xuống kia
Nhớ tôi không
Một cái đầu to hai cánh tay dài
Và những cơn bão vọng
(Trích Thủa Làm Thơ Yêu Em)
Mùa ngô cũ
Đuổi bắt trên đồi cao
Trời mưa dầm gió rét
Hai đứa níu kéo nhau
Té lăn cù tưởng chết
Tỉnh dậy dưới chân đồi
Ruộng ngô ai ngào ngạt
Chạy khắp ruộng tìm coi
Nào ngờ em trốn mất
Tháng Ba ngô kết trái
Một mình ta giận thay
Bắt đền ruộng ngô đấy
Bẻ về cho biết tay
Ôm về em bó ngô
Hai đứa cười khúc khích
Đêm nay ta nhóm lửa
Nướng ngô vui bằng thích
Hạt ngô thơm mùi sữa
Nở đều như răng em
Ta ghé môi cắn vỡ
Ăn mãi chưa đã thèm
Ngô chín vàng đêm đêm
Giục lòng ta cháy đỏ
Gío mưa gieo ngoài thềm
Giật mình biết đâu đó
Lời muốn nói yêu em
Như than hồng trong miệng
Nhai dập nghìn hạt mềm
Vẫn cất không thành tiếng
Muốn nương nhờ vai em
Hai bàn tay bão dậy
Vật vã trăm nghìn phen
Vẫn dằn lòng mai vậy
Mai rồi mai lần lữa
Thoáng chốc mười mấy năm
Bao nhiêu mùa ngô vàng
Bấy nhiêu muà nhung nhớ
Hôm nay qua đồi xưa
Trượt chân bàng hoàng mãi
Ôi ngày thơ tình thơ
Mất về đâu tuổi dại
Tháng Ba ngô kết trái
Một mình ta buồn thay
Ruộng ngô vàng vẫn đấy
Nhưng bẻ về với ai
Về với ai giờ nữa
Một mình ta ngẩn ngơ
Nghe hạt ngô đầu mùa
Vỡ trong răng nức nở
Bài Kỷ Niệm
Tôi nhớ người thôi hết mùa xuân
đường đi nghe mắt đã âm thầm
chân buồn lên đống đôi chiều nắng
mang lá xanh còng gây tiếc thương
thuở ấy tôi về ngang đất cũ
ngày thơ ngây cũng đẹp như hồn
người đi trên những con đường đó
lòng cũng lên mùi cỏ mới thơm
em áo còn bay chiều ước hẹn
giấc mơ đời ngọt vị bâng khuâng
nắm tay dài mãi niềm lưu luyến
chân chậm dừng như đến ngại ngần
tôi gửi đời tôi trong tóc ấy
ôm người chưa chắc nổi vòng lưng
chiếc hôn đầu chết trên vừng trán
môi đã nghìn năm biết tủi hờn
tôi nhớ người thôi hết đời tôi
đường đi không kết nổi câu cười
buồn hoang đến nửa đời thơ dại
trong những chiều ai mang áo phơi
Ký ức về Huế
Một con đường bắt đầu từ mùa đông
Băng ngang vườn hoa nhỏ
Ăn thẳng vào trí nhớ
Nơi đi về của em
Từng ấy năm
Từng ấy năm bao nhiêu đêm
Bao nhiêu cành khô
Bao nhiêu lần thức dậy
Một hòn đá trên đỉnh núi ném xuống
Tiếng còi xe lửa đều đặn những buổi chiều
Và những toa tàu hiền lành, chậm chạp
Mang anh tới
Trong sương lam và khói
Dưới chân núi
Cơn mê sảng của em
Từng ấy năm
Từng ấy bao nhiêu đêm
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu lời nguyền rủa
Một khách sạn tồi tàn giữa khu phố sầm uất
Phòng số 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và hành lang
Với mùng nệm chăn gối bàn ghế
Và mắc áo
Tro bụi của chiến tranh
Nơi khua động của em
Từng ấy năm
Từng ấy năm bao nhiêu đêm
Bao nhiêu lo âu
Bao nhiêu lần trở lại
Một dòng sông bắt đầu từ giấc mộng
Cắt đôi thành phố
Chảy thẳng vào anh
Cùng tiếng chuông với bọt bèo mưa lũ
Nơi trôi nổi của em
Từng ấy năm
Từng ấy năm bao nhiêu đêm
Bao nhiêu chìm đắm
Bao nhiêu lần sống chết
Bao nhiêu anh và em
Ngự trị
Mang trong mắt bao nhiêu lời tình tự
Thuở ta về mùa đông dài phố cũ
Đi bên nhau hồn chậm với vai gần
Tiếng ca buồn ôi tiếng hát thanh xuân
Ta dừng lại và nghe chiều rét mướt
Em mười sáu, tuổi kiều thơm dịu ngọt
Chiều đời êm áo lụa mát bàn tay
Tình song song phơi với dấu chân bầy
Đi rất chậm sợ ngày vui chóng hết
Thuở ta về mấy con đường lá chết
Mùa đông làm sơ xác những xương khô
Người hoang mang sầu lẩn dấu sương mù
Hơi thở nóng gọi dồn lên triền mắt
Tim đập mạnh như vỡ niềm khao khát
Ta níu hồn cho tình nhẹ nhàng trôi
Tay ước mong không dám níu vai người
Mây chờ đợi vẫn nguyên vầng trán ấy
Ngực thê thiết còn ngàn đời thơ dại
Chút xuân đầu chưa đủ ấm lần vai
Giờ cách xa, mầu dạn với đêm dầy
Tay đã với bao nhiêu niềm nhục nhã
Môi đã nhận trăm ngàn lần sỉ vả
Ngực dại khờ hơi thở đã nồng tanh
Tiếng ca buồn ôi khúc hát thanh xuân
Ta vẫn nhận trong những chiều rét mướt
Thuở ta về giấc mơ nào dịu ngọt
Bước chân đời sau đã cách xa nhau
Em biết không hờn tủi chiếc hôn đầu
Trong những lần mùa đông dài phố cũ
Mà sớm Nam Giao hay còn chiều sông Ngự
Ta vẫn tưởng mình đương kiếm tìm nhau.
Lục Bát Tháng Tư
Cây ngùi, bóng sẻ đôi hiên
Chiều vơ ngõ lụi, tay phiền giấc trưa
Lòng đi bước sẻ đôi mùa
Tóc thơ dại đã xanh vừa khói sương
Một xa mắt sẻ đôi tường
Hồn lưu lạc muốn về nương náu người
Lục Bát Tháng Sáu
ngày mưa lũ giọng sông hồ
lòng nghiêng mái dột màn thưa mặt người
cây buồn nặng lá chia phôi
hồn đưa tiễn cũng vừa thôi nghẹn ngào
ngồi coi đời sắp thương đau
anh nghe tóc nhỏ mang sầu tương lai.
Và Một Chút Đời Sống
Một mảnh khăn ướt đắp lên mặt nàng
Trên đó những mùa đông xám phẳng
Một tấm mền đen đắp lên thân thể nàng
Với cỏ dại lút đầu, cùng khắp mình dĩ vãng.
Tôi mở mắt, quờ tay, nhưng chẳng còn ai
Duy bài hát mang tên người xa vắng.
Và sự vô cùng ấy trùm lên linh hồn nầy
Rồi trong đó, biển cao dần tiếng vọng.
Hòn Đá Làm Ra Lửa
Đen đúa. Sần sùi. Không đáng một xu
Vụt gốc xoài, quạ không thèm mổ
Quăng tận ổ, kiến không thèm bu
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó
Đó là một trong hai hòn đá cổ sơ
Chỉ có em và tôi cất giữ
Vụt gốc xoài, quạ không thèm mổ
Quăng tận ổ, kiến không thèm bu
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó
Đó là một trong hai hòn đá cổ sơ
Chỉ có em và tôi cất giữ
Rời nhau ra. Lặng lẽ. Dư thừa
Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa
Không hề từ que diêm, từ hộp quẹt
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những quả bóng lân tinh đêm ấu thời
Đã đưa tôi về em
Không hề từ cột điện, từ dây nhợ
Chính từ lửa chung của đôi ta
Ngọn đèn nơi ngã ba năm nào
Khuôn mặt đêm tháng giêng giàn giụa
Không hề từ mặt trời, từ gió nồm
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những cành phượng chụm đầu bốc cháy
Lợp đỏ một mùa hè ngây dại
Chính từ lửa chung của đôi ta
Đám cháy hoa phượng
Đám cháy những nụ hôn lặng lẽ
Những năm tháng mù lòa
Những bài thơ khù khờ, cóp nhặt
Đã cuộn khói ngạo nghễ
Không phải quê quán, mẹ cha, con cái
Cũng chẳng phải đất đai, của cải
Chính cuộn khói dại dột bốc lên
Từ lửa chung của đôi ta
Đã làm tôi kéo em vấp ngã
Chúng ta đã chia lìa
Chúng ta bị tước bỏ, bị bôi xóa
Lần cuối, khi quay đi trong xiềng xích
Em nhớ mà. Chúng ta cùng thấy nhau
Hòn đá cổ sơ sần sùi
Trong mắt nhìn mỗi đứa
Cánh cửa bứt khỏi cổng, nhà bứt khỏi người
Trang giấy bứt khỏi mặt bàn
Chữ nghĩa bứt khỏi sách
Chúng ta bị bứt ra khỏi nhau
Ngày tháng năm bị bứt khỏi sự sống
Em vào nhà tù này, ra nhà tù kia
Bị đạp đổ. Đứng dậy
Bị phủ dụ. Quay đi
Bị đe dọa, mặc cả. Nhổ bọt
Em đã nhe răng, đã giương vuốt
Nghĩa lý gì
Mọi loại móng vuốt dữ dằn của tuyệt vọng
đều vô hiệu
Em đã bị xua đuổi khỏi thành phố
Và biến mất
Như bao nhiêu người đã lặng lẽ biến mất
Tôi không biết giờ này em ra sao
Có lượm lại đủ lũ con cái tan tác không
Tôi không biết giờ này chúng thế nào
Em có gì để ăn, cho chúng ăn
Em có cách gì để thở, cho chúng thở
Em còn chỗ nào để nương náu, tạm bợ
Những con số dầu hắc hằn học
Hằn trên lưng trên ngực rách rưới
Những con số chì than dửng dưng
Trong sổ cái, sổ con bụi bậm
Những con số lặng lẽ lầm lì
Trong những T. những K. những Z. *
Những con số vô danh, vô nghĩa
Những chữ cái vô tư, vô tội
Nhan nhản khắp nơi
Em sẽ tắt đi vĩnh viễn trong đó chăng
Như tôi. Như bao nhiêu người khác
Khi đĩa đèn ta cạn
Tôi đã kéo em vấp ngã
Chúng ta thật dễ vấp ngã nữa
Đã có lúc tôi thấy em đang chìm
Tôi mong em được chìm nhẹ nhàng
Như bao nhiêu người đã chìm xuống
Chúng ta bặt tin nhau. Ba trăm ngày
Có lúc tôi thấy em trôi dạt
Tôi mong em được cứu, được vớt
Được quên hết và thức dậy thảnh thơi
Lỗi tại tôi. Tôi thật mong ước vậy
Chính tôi đã kéo em vấp ngã
Em chỉ lỡ nhận quá nhiều nụ hôn
Và xây xẩm
Em làm gì đâu nào
Em sẽ ăn cơm mới, mặc áo mới
Đi đứng nhẹ nhàng trên những lối đi mới
Trò truyện thung dung bằng một tiếng nói mới
Em xứng đáng được vậy
Em làm gì đâu nào
Như bao nhiêu người khác
Dưới một bầu trời khác
Trên một mặt đất khác
Trong một cuộc đời khác
Tha lỗi cho tôi. Tôi lỡ yếu mềm
Đã tưởng tượng vớ vẩn và mơ ước tồi tệ
Chúng ta không dễ dàng được thế
Bầu trời của ta. Mặt đất của ta. Đời ta
Nụ cười chân thật mà chúng ta phụng sự
Thứ tiếng nói tuyệt vời cho thi ca
Sự diễm lệ của khổ đau mơ ước
Mà chúng ta tự hào
Tình bạn, tình yêu mà chúng ta gìn giữ
Chưa hết. Nụ hôn và hoa phượng
Lửa và khói. Hạnh phúc và lỗi lầm
Chúng ta đã bứt ra khỏi nhau
Em mất tích. Em kiệt sức. Em một mình
Thật quá nặng cho em
Làm sao em thở
Mà đã hết đâu. Vẫn còn. Còn nữa
Vẫn còn nó. Nó sần sùi trong cổ
Không bay hơi. Không bốc khói
Không khò khè
Nó lầm lì buộc ta phải nhớ
Có thể không được sống,
không được chết bên nhau
Tên ta, đời ta. Đừng hòng rời nó
“Tại sao tôi chọn em. Nào tôi có chọn”[1]
Chính nó chọn ta để buộc vào nhau
Chính nó. Hòn đá cổ sơ tai quái trong ta
Ngọn lửa chung của ta
Chính nó chọn cho ta bạn hữu
Chính nó chọn cho ta kẻ thù
Cách nói. Cách cười. Cách nhìn. Cách nuốt
Nó đang chọn giùm ta
Cả cách còn, cách mất
Ta có thể không biết nhau giờ này ra sao
Không biết chính mình giờ tới, ngày tới ra sao
Nhưng nó. Nó biết nó ở đâu trong ta
Nó biết nó phải sần sùi lúc nào
Như đã sần sùi trong mắt khi quay đi
Nó biết nó phải sần sùi kiểu cách nào
Như đã sần sùi theo ta đi tù đầy
Nó biết nó phải sần sùi mức độ nào
Như nó đang sần sùi trong cổ
Làm thế nào cạn được
Trong nụ hôn nông nàn
Gắn bó hạnh phúc và khổ đau
Dưới chân những thánh đường tương lai chưa hiện hình
Các đôi lứa sẽ còn hẹn hò nhau
Như chúng ta từng hẹn hò
Suốt mùa hè ngây dại ở Thiên Mụ
Làm thế nào cạn được
Chúng đâu chịu ngừng thì thầm dụ dỗ
Trái chanh, trái cóc,
Quả khế, quả me
Giữa kẽ răng cô vợ trẻ mang bầu
Lần đầu thèm của chua
Như em ngày nào
Làm thế nào cạn được
Trong cái miệng háu đói
Anh chồng đi làm về
Ngó vợ cạnh nồi cơm bốc khói
Như chúng ta vẫn tin sẽ cùng nhau thấy lại
Làm thế nào cạn. Chẳng bao giờ cạn nổi
Nước miếng. Tình yêu. Sự sống
Dòng sữa nuôi đích thực các câu hò đối đáp ví von
Nhiên liệu bất tận cho tiếng cười tiếng nói
Nguồn khởi đầu của dòng suối sinh nở
Sẽ còn sinh nở mãi
Yên tâm nhé em. Em lo lắng gì nữa
Quả thật đằng sau khúc tụng ca bi tráng của J. S. Bach
Có nỗi khiếp sợ dịch đậu mùa la hét
Nhưng, cái mặt rỗ chằng chịt của tôi em từng ôm
Nó chẳng nhắc em sao: Việc chủng ngừa đậu mùa đã công hiệu
Sẵn sàng nhé, hòn đá cổ sơ
Đây rồi, ngọn lửa chung của ta
Được lắm. Chẳng cần phải nhờ thêm bóng tối
Tôi đang tưởng tượng em dễ dàng
Chân tay mặt mũi em. Thân thuộc biết bao
Hình thể con người. Tuyệt diệu thật
Hèn chi ta yêu nhau đến thế
Hèn chi ta yêu bạn bè ta đến thế
Chúng ta không chọn nhau
Chính ngọn lửa của chúng ta chọn giùm
Chúng ta cũng không chọn quê hương
Không chọn cha mẹ, anh chị em
Chúng ta đâu có chọn bằng hữu
Chúng ta yêu nhau. Yêu bè bạn.
Yêu quê hương
Giản dị. Bình thường
Tôi quên nói với em điều này:
Tôi yêu em đến mức có thể yêu luôn
Những người đang gọi chúng ta là kẻ thù
Tội nghiệp. Em hãy hình dung họ
Anh cùm. Anh kẻng. Anh bẹc giê
Anh bom. Anh mìn. Anh tên lửa
Anh loa rỉ hí hửng tung hô
Anh súng ống hầm hè bắt bớ
Anh kẻng tù hả hê nạt nộ
Anh danh tướng đánh trống thổi kèn
Anh lãnh tụ tiền hô hậu ủng
Tội nghiệp. Tội nghiệp họ
Dễ hiểu thôi. Em nhớ mà
Để nhuộm đỏ những nụ hôn đầu đời
Chúng ta đã hì hục làm đẹp
Nhét hoa phượng, nhét thơ thẩn vào lửa
Lửa và những nụ hôn, chúng cần gì làm đẹp
Trò vớ vẩn phù phiếm bị đốt bỏ
Bốc khói
Khói. Sự đỏm dáng liều lĩnh khờ khạo
Anh lính rơm khoe khoang được dịp canh giữ lửa
Tôi kéo em vấp ngã vì hắn
Như chúng ta
Để làm đẹp những dấu chân của mình
Nhân loại đã ném vô số thứ quái gở vào lửa
Lửa và dấu chân, chúng cần gì làm đẹp
Sự quái gở phí phạm bị đốt bỏ. Bốc khói
Những cuộn khói khổng lồ
Vần vũ khắp lịch sử
Trang giấy chúng ta bị vò nát, ném bỏ
Có thể không bao giờ còn được nhặt lên
Bài thơ này, bài thơ khác có thể không viết ra
Tình yêu, sự ấm áp tôi hưởng nơi em
Như hòn đá cổ sơ trong chúng ta
Có thể không bao giờ còn được nhắc tới
Vẫn chẳng hề hấn gì
Nụ hoa tình yêu và đạo đức vô hình
Nở mãi trong vườn ta
Ý nghĩ, sự ăn ở tốt lành
Dù không ai biết đến
Vẫn lặng lẽ toả hương trong không gian
Làm đẹp bầu trời và cuộc sống
Khỏi cần sần sùi nữa
Hòn đá cổ sơ đen đúa của ta
Tôi biết chúng ta sẽ ra sao
Bạn bè chúng ta. Kẻ thù chúng ta
Quê hương đẫm lệ và thế giới ngộp khói
Tôi biết chúng ta sẽ gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực tôi
Ngọn lửa ta hớn hở, tung tăng
Hòn đá ta to nhỏ, rì rầm
“Chẳng hề hấn gì. Chẳng hề hấn gì”
Và tôi mỉm cười
Thư thái hình ảnh em bước tới
Đó là một buổi sáng tháng giêng rực rỡ
Không thứ cờ quạt nào vấy nhơ nổi bầu trời
Không thứ chủ nghĩa nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi núi và em mặc chung áo nắng vàng
Suối nước và em đi chung từng bước chân
Giản dị thôi. Như ngày nào. Em tới
Tới và nói chung với cây cối một lời
“À. Anh ấy nằm đây
Phải vậy chớ
Anh ấy vẫn giữ nó
Hòn đá làm ra lửa.”[2]
Chú thích
1-Thơ Thanh Tâm Tuyền
2- Bài thơ này Trần Dạ Từ viết tặng người bạn đời là nhà thơ Nhã Ca khi tác giả đang bị giam trong trại tù Gia Trung-Hàm Tân (1979-1988). Bài thơ được viết ra giấy lần đầu tiên tại Thụy Điển năm 1989.
Thơ Trần Dạ Từ
Tiếng hát Quỳnh Giao
Tiếng hát Quỳnh Giao
Tham khảo thêm về nhà thơ Trần Dạ Từ
Hồi ký: Ở Tù Với Trần Dạ Từ Và Bạn Hữu
Sơ lược về người viết: Hồ Văn Đồng là một nhà báo lớn của miền Nam. Sinh tại đất Quảng, học tại Huế, lập nghiệp tại Saigon, ông từng là tổng thư ký, chủ bút, chủ nhiệm nhiều nhật báo danh tiếng của miền Nam. Năm 1950, ông là người sáng lập văn phòng Việt Tấn Xã tại Hà Nội. Những năm sáu mươi, ông là người sáng lập, tổng thư ký Nghiệp Đoàn Ký Giả Nam Việt, chủ tịch Hội Chủ Báo. Ông cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam có hai năm tu nghiệp báo chí tại đại học Stanford, tham gia sinh hoạt báo chí quốc tế và là Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Báo Chí Thế Giới đặc trách khu vực châu Á. Sau tháng Tư 1975, ông hai lần bị Cộng Sản bắt giam, cộng chung 12 năm. Năm 1989, sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, ông vượt biển, định cư tại Virginia từ 1989, tiếp tục viết bình luận cho nhiều báo Việt ngữ tại hải ngoại. Bài viết sau đây của ông được trích từ sách “Quê Hương Bạn Hữu Tù Đầy” do Trung Tâm Độc Lập, Stuttgard, Cộng Hoà Liên Bang Đức ấn hành nhân “Ngày Văn Nghệ Sĩ Việt Nam 1990” được tổ chức tại Stuttgard. Nhà báo Hồ Văn Đồng bệnh nặng từ giữa năm 2005 và từ trần sau đó, hưởng thọ 83 tuổi.
Ngày 3 tháng Tư, 1976, khi công an Cộng sản mở chiến dịch hốt gọn văn nghệ sĩ Saigon, tôi đang ở Phan Rang, ngụp đầu trong một cánh đồng mía.
Là một anh nhà báo về già, từ nhiều năm trước 1975, sau khi đóng cửa báo Quyết Tiến, sang nhượng nốt cơ sở nhà in ở đường Võ Tánh cho anh Đặng Văn Bé –chủ nhiệm báo Thách Đố, tôi thực sự về vườn, hiểu cả theo nghĩa đen: Ra Phan Rang, tự tay tổ chức trồng dăm ba mẫu mía, vật lộn với mấy lò nấu đường, mỗi tháng chỉ về thăm nhà ở Saigon vài ngày.
Khi Cộng sản chiếm Saigon, dù có chung tâm sự với anh em làng văn làng báo cũ, tôi vẫn cười cười, biểu họ: “Moa đâu còn là nhà báo. Moa là nông dân. Lê Nin kêu nông dân là liên minh vững chắc của giai cấp tiên phuông. Mao chủ tịch còn sửa lưng cả Lê Nin, kêu nông dân là thành phần cốt cán. Các toa phởn phơ ở thành phố quen hư thân mất nết, ngán đi kinh tế mới. Moa đã tự giác đi kinh tế mới lao động sản xuất từ khuya rồi. Nông dân trăm phần trăm, còn ngán chó gì nữa.”
Ngày 9 tháng 3, khi tôi xách cái bị lát nông dân từ Phan Rang về Saigon thăm nhà, công an Cộng sản đã rình sẵn từ bao giờ, còng tay cái rụp.
Tại sở công an thành phố, trước là trụ sở Nha Cảnh sát đô thành, đường Trần Hưng Đạo, khi cánh cửa sắt nặng nề của phòng giam mở ra, tôi nghe nhiều tiếng cười. Một giọng nói vui vẻ vang lên: “A, Anh Đồng đen đây rồi. Đi đâu giờ này mới chịu mò tới. Nhờ anh tí, bắt anh em chờ mãi.” Vẫn in hệt lối nói quen thuộc trong làng báo miền Nam, thường dành cho anh em tới trễ trong một buổi họp mặt thân mật. Chỉ khác chút xíu: cuộc họp mặt lần này đông đảo chưa từng thấy, mà lại là họp mặt trong nhà tù Cộng sản.
Phòng giam vuông vắn mỗi bề khoảng 5 thước, lố nhố năm sáu chục hình người, gần như nêm cứng, chen chân muốn không lọt.
“Lại đây nè, cha nội. Xớ rớ chi vậy.”
Giọng nói quen thuộc lại vang lên. Một anh chàng thấp lùn phe phẩy quạt giấy, mặt mũi vêu vao, đang ngoác miệng ra cười, vẫy vẫy về phía tôi. Tôi nhận ra anh bạn phóng viên Anh Quân. Bên cạnh là anh Doãn Quốc Sỹ, anh Đằng Giao, anh Trần Dạ Từ … Phòng giam nêm chặt kiểu cá mòi đóng hộp, dưới mái tôn nóng điên người, tất cả đều cởi trần, mồ hôi nhễ nhại. Tôi chào tất cả và nói:
“Đông đảo phe ta cả, vui quá há.”
Đáp lời tôi, anh Doãn Quốc Sỹ cười hiền lành:
“Vui thật ông ạ. Còn Khô Vinh đại sư nữa kìa.”
Tôi nhìn theo mắt anh Sỹ hướng về một góc phòng. Trên bệ cao cầu tiêu chung trong góc, tôi nhận ra còn có thêm anh Nguyễn Mạnh Côn. Khô Vinh đại sư là tên một nhân vật tiểu thuyết của Kim Dung. Anh em gán cho anh Côn biệt danh này trúng quá vì anh vốn gầy gò, người nhỏ thó, xương xẩu giống hệt một nhà tu khổ hạnh. Ngồi trần trụi trên cầu tiêu, Khô Vinh đại sư nhìn tôi cười cười, ra dấu chào.
Phòng giam chúng tôi ở, được gọi bằng một tên hoa mỹ là “Tập thể hai.” Tại sở công an, còn có khu A, khu B, tập thể một, phòng giam nữ, và các phòng biệt giam… Thời điểm này, không kể khám Chí Hòa, Đề lao Gia Định, trụ sở các phường quận, nghe nói bin đinh Đại Lợi và nhiều cao ốc, nhà cửa khác trong thành phố, cũng đều đã biến thành trại giam. Số văn nghệ sĩ bị giam ở nhiều nơi, nhưng đông nhất vẫn là Đề lao Gia Định cũ, (nay được gọi bằng một bí số: T20) và ngay tại Sở công an.
Ký giả Nguyễn Tú (Nhật báo Chính Luận), đã bị bắt cùng với văn nghệ sĩ Miền Nam trong chiến dịch tổng truy lùng của chính quyền Cộng sản ngày 3 tháng 4 năm 1976. Ông gây tiếng vang trong làng báo quốc tế qua những bài báo viết về cuộc rút lui của quân đội Miền Nam từ những vùng Cao Nguyên trong những ngày tháng cuối cùng của mùa Xuân 1975. Nguyễn Tú bị giam ở nhiều trại tù lao động trong 13 năm, ông được thả vào năm 1989 và sau đó vượt biên sang Hồng kông, và được bảo lãnh sang Hoa Kỳ năm 1990
Khi công an Cộng sản bắt văn nghệ sĩ, nghe kể, họ bắt luôn vợ chồng Đằng Giao – Chu Vị Thủy và cháu nhỏ mới sinh bẩy ngày. Chị Thủy là con gái nhà báo Chu Tử. Có anh em nói, danh sách bắt bớ này phần chính do Vũ Hạnh đề nghị. Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quí Chung, chuyên viết những truyện kháng chiến đường rừng. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ trích đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.
Khi tôi bị bắt vô sở công an, chị Chu Vị Thủy đã được cho mang cháu nhỏ về quản thúc tại gia. Trong số văn nghệ sĩ nằm tù Cộng sản, chỉ có chị Nhã Ca là phụ nữ duy nhất. Suốt thời kỳ ở sở công an, chị bị nhốt cát sô. Anh Nguyễn Mạnh Côn cười, bảo tôi: “Con mụ dữ quá.” Tuy cười, anh rất quan tâm việc này.
Một bữa, sau buổi “đi làm về”, có nghĩa là bị gọi đi hỏi cung, khi trở về phòng, anh kể với chúng tôi: “Moa bảo họ là bao nhiêu tai to mặt lớn ở miền Nam này, đâu có người nào cách mạng bắt đi tù cả chồng lẫn vợ như trường hợp Trần Dạ Từ và Nhã Ca. Nhốt bà mẹ của 6 đứa con nhỏ, có đứa còn chập chững tập đi, thì vẻ vang gì. Nói thật, bà ta chỉ là một bà viết văn bình thường, chẳng hiểu biết gì về chính trị. Nếu sách bà ta có chống cộng, ấy là do tôi mà có. Thả bà ta về, rồi muốn tôi làm trâu làm chó gì cũng được”.
Tuy Hồ văn Đồng thuật lại rằng “Nhã Ca là phụ nữ duy nhất nằm tù Cộng Sản,” nhà văn Lý Thụy Ý (chủ biên tờ Văn Nghệ Tiền Phong trước 75) cũng bị bắt đi tù lao động ở rừng Bô La 3 năm. Chóe biến bút mực của Lý Thụy Ý thành thập tự trong bức ký họa
Anh Côn hút thuốc phiện lâu năm, đang bị vật lên vật xuống. Nhiều phen phải cấp cứu. Một buổi tối, công an mở cửa kêu anh “đi làm việc.” Vài phút sau đã thấy anh trở vô. Mọi người hỏi sao lẹ vậy, anh đáp: “Tên X. gọi ra. Hắn đưa cho moa một cục, nói là cách mạng chiếu cố. Moa trả lại hắn, bảo tôi không cần nữa. Chỉ có vậy thôi.” Tôi còn nhớ rõ, có người hỏi “cục gì?” Anh Anh Quân, cũng là dân từng nằm bàn đèn thuốc phiện, nháy mắt: “Cái ông này. Cục vàng chớ gì nữa.” Anh Côn bấm vô đầu ngón tay út: “Bằng chừng này này”. Thấy Anh Quân suýt soa tiếc rẻ, tôi nói với anh Côn: “Sao anh không cầm đại vô, rồi cho Anh Quân nó phê cho coi.”
Người tù được cử làm trưởng phòng, anh Hoàng Phú Lâm, gia đình chủ Đệ Nhất Khách Sạn, cũng là một quân nhân trong văn phòng ông Đại tướng Cao Văn Viên ở Tổng tham mưu. Anh Lâm từng chính mắt thấy ông bà Viên kính nể anh Côn như ông thầy, nên rất trọng anh Côn. Cả phòng, đối với mấy anh em nhà văn, đều rất quí mến.
Từ lúc hết bị thuốc phiện hành, anh Côn tươi tỉnh hơn, trò chuyện vui hơn. Các bạn trẻ trong phòng giam thường ngồi quanh anh, để nghe anh kể những truyện khoa học giả tưởng rất hấp dẫn. Trong tù, có gì đâu để ăn, anh cũng nói ăn ngon miệng hơn hồi ở nhà.
Mấy năm trước, Nguyễn Mạnh Côn trở thành nhà thầu khoán có hạng trong quân đội. Anh Trần Dạ Từ đã thu xếp xong từ lâu, việc anh Phạm Duy nhường lại ngôi nhà cũ (một “dinh cơ” đồ sộ trong ngõ Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận) cho gia đình anh Côn. Năm 1975, cùng với Trần Dạ Từ, “nhà thầu” này bao dàn việc ấn loát binh thư cho Tổng cục quân huấn do tướng Nguyễn Bảo Trị làm Tổng cục trưởng. Riêng dịch vụ này đã lên tới cả trăm triệu bạc, lại còn đang khởi công đại tu bổ Nghĩa trang quân đội ở xa lộ. Khi bắt anh Côn và anh Từ, công an cộng sản dùng cả đoàn xe chở đầy nhóc toàn sách binh thư chiến thuật, dạy đủ món, từ thủy lôi tới tổ chức biệt kích. Công an nghe đâu còn thu cả lô quĩ phiếu mấy chục triệu bạc tiền in binh thư chưa kịp lãnh ở nhà anh Trần Dạ Từ, hèn chi họ chả cho là ghê lắm. Các “đồng chí” làm sao tưởng tượng nổi, ở miền Nam, đây chỉ là việc làm ăn bình thường, người thầu khoán vớ vẩn nào cũng có thể như vậy.
Trong tù, nhiều khi vui chuyện có lần anh Nguyễn Mạnh Côn kể: “Một lần hai anh em vô Tổng tham mưu thăm Trung tướng (Nguyễn Bảo) Trị, khi ra tớ bảo Từ hỏng rồi cậu ạ. Một anh thi sĩ, một anh nhà văn, mở miệng ra toàn là thấy tiền với bạc. Xe vô một chỗ thế này thì anh em lính canh phải đứng đón, mở cửa. Vậy thì còn chó gì là thi sĩ với nhà văn nữa. Cứ điệu này, chắc tiêu tùng luôn.”
Anh nói thêm, một cách nghiêm chỉnh:
“Cái vụ anh em mình ai nấy sạch sẽ vô tù, không chừng là vớ bở to đấy các cậu ạ. Tin lời tới đi. Biết đâu, nhờ đó mà nhà văn nhà thơ tái sinh.”
Anh Doãn Quốc Sỹ kết luận:
“ Mèo lại hoàn mèo.”
Chân dung nhà thơ, nhà giáo dục Nguyễn Sỹ Tế (còn có bút hiệu là “Người Sông Thương”). Ông bị giam tù 12 năm ở trại Gia Trung và Hàm Tân. Họa sĩ Chóe phác họa chân dung ông như một tên tù “thâm niên” sống trong thời Trung Cổ ở Âu Châu
Chúng tôi đều cười, mừng cho sự tỉnh táo lạc quan của bạn, khi bạn đã chia tay được với nàng tiên nâu.
Nhưng cũng ngay thời gian ở sở công an, anh Côn bắt đầu nói về cái chết. Một bữa, anh bàn với tôi:
“Lần này, sống mà về được, hai anh em mình phải xuống Thủ Đức, tìm một khu đất riêng, làm sẵn một “sanh phần” cho bọn mình, ông ạ.”
Sanh phần là ngôi mộ làm sẵn. Thấy chúng tôi bàn hoài chuyện trồng cây, đào huyệt cho mình, anh Trần Dạ Từ gạt đi, kêu là thời của bọn đỏ mà tính chuyện vớ vẩn.
Anh Côn nói với anh Từ:
“Không vớ vẩn đâu, cậu ạ. Đỏ đen gì cũng chỉ là nhất thời. Thời của họ cũng chẳng lâu lắt gì. Các cậu sẽ được nhìn thấy nó phải sụp đổ như thế nào. Ở tuổi của Từ, điều này chắc như đinh đóng cột. Thế hệ các cậu, chính cậu, sẽ phải góp phần làm cho nó đổ, rồi rán mà gánh vác lấy việc thu dọn sau đó. Còn tớ với ông Đồng đen, bọn tớ già rồi, xong phần mình rồi. Bọn tớ nhất định cứ đi tìm đất làm sanh phần như thường.”
Anh Nguyễn Mạnh Côn là tác giả cuốn “ Chống Mác xít,” nhiều năm phụ trách phần bình luận phát thanh bằng tiếng Pháp của đài Saigon. Anh rất giỏi toán học, khoa học, anh viết văn, viết báo hình như bằng thứ chữ nghĩa chính xác của nhà toán học nhiều hơn là chữ nghĩa kiểu nghệ sĩ. Sau hiệp định Paris, anh Côn cho phát hành cuôn sách dầy cộm, mang tên “Hòa Bình, nghĩ gì, làm gì?” Những người từng chỉ huy ngành chiến tranh chính trị, cao đẳng quốc phòng, như các tướng Vĩnh Lộc, Trần Văn Trung, Nguyễn Bảo Trị… đều tâm phục anh.
Có ông bạn dược sĩ già, nói là thông gia với gia đình nhà báo Đỗ Quí Toàn, ở tù cùng phòng, không khoái mấy chuyện xây sanh phần, nhưng nghe anh Côn bảo thời của bọn đỏ chẳng lâu lắt gì, thì như người vừa uống xong thuốc bổ, nhất định bắt cả anh Côn lẫn tôi phải xài tiếng Pháp, phân tích thật kỹ cho ông nghe.
Ông bạn dược sĩ già trong buổi truyện trò năm nào hiện đang ở khu Irvine, Nam California. Vợ chồng Trần Dạ Từ ở Thụy Điển. Tôi vừa vượt biển vô được đất Mỹ. Đằng Giao, Anh Quân còn bên nhà. Anh Doãn Quốc Sỹ đang tiếp tục nằm trong nhà tù. Riêng anh Nguyễn Mạnh Côn không còn nữa. Lời xưa anh nói, chỉ hơi sai một chút: Chúng tôi không còn dịp cùng nhau xuống Thủ Đức, tự trồng cây, đào huyệt, lo lấy sinh phần cho mình.
Đúng hai năm sau ngày anh Trần Dạ Từ ra khỏi nhà tù Cộng sản, cũng đúng một năm sau ngày Văn Bút và chính phủ Thụy Điển đón tiếp gia đình anh ở Stockholm, ngày 9.9.1989, bạn hữu văn giới ở Hoa Kỳ đã họp mặt mừng anh tại một nhà hàng ở Nam Cali.
Cùng với các anh Nguyên Sa, Phạm Duy, Mai Thảo, Tạ Tỵ, Viên Linh, Lê Đình Điểu và nhiều anh em khác, tôi đã có dịp nói về chuyện ở tù cộng sản với Trần Dạ Từ và bạn hữu. Tiếc thay, khi chỉ vừa nhắc tới trái chuối, củ khoai hai anh em có lần bẻ cho nhau trong tù, là tôi đã òa khóc ngay trên diễn đàn, không sao nói được thành tiếng nữa. Sức lực tuổi già tệ hại quá. Bao nhiêu năm trong ngục tù, anh em nhà văn nhà báo bên nhau đâu có ai nhìn thấy nhau khóc. Tất cả chúng tôi, ngay trong ngục tù, vẫn ráng tươi cười với nhau.
Tôi thú thật không hề biết gì về văn thơ. Về thơ Trần Dạ Từ cũng vậy. Chỉ biết anh trong nghề làm báo. Tờ nhật báo cuối cùng của anh Từ, trước khi đóng cửa vì luật báo chí VNCH đòi chủ báo thế chân 20 triệu, in trong nhà in của tôi ở đường Võ Tánh.Vị trí làng báo Saigon dành cho Trần Dạ Từ làm tôi ngạc nhiên, cứ tưởng anh phải là một người lớn tuổi hơn. Khi gặp, tôi mới biết anh sinh năm 1940. Thời đệ nhất Cộng Hòa, cả miền Nam chỉ có 9 nhật báo. Năm 1962, anh Trần Dạ Từ đã là Tổng thư ký nhật báo Dân Việt, một tờ báo gốc Thiên Chúa giáo cánh Bắc. Anh Chu Tử viết truyện dài và mục Ao thả Vịt nổi tiếng, là từ báo này. Sau 1964, bộ biên tập bạn hữu của Từ sẽ còn điều khiển các tờ báo có lúc có số bán vượt mức như Sống, Hòa Bình, Độc Lập.
Tú Kếu (tên thật là Trần Đức Uyển), tác giả của 1001 bài thơ trào phúng trước 1975, cũng là chủ biên của tuần báo Sống. Sau 1975 ông bị án tù 18 năm vì tội âm mưu tuyên truyền chống chính quyền, nhưng nhờ tài sửa TV trong tù, ông được thả ra khỏi tù trước khi bản án mãn hạn (ký họa Chóe)
Sau khi bị cầm tù thời Phật giáo tranh đấu năm 1963, ra tù, Trần Dạ Từ vẫn tiếp tục làm tờ Dân Việt, nay đã đổi tên thành Việt Báo, do anh Phương Linh làm chủ nhiệm.Tôi còn nhớ đây là lúc thịnh thời nhất của Phật giáo miền Trung. Tờ “Lập Trường” do nhóm các anh Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần xuất bản ngoài Huế, làm mưa làm gió, tới mức đòi phải thiên đô ra Huế. Bài quan điểm đòi Thủ đô chính trị phải là Huế thì viết rằng gần mực thì đen. Thủ đô chính trị phải là Huế, gần đèn, mới mong rạng được.
Thời ấy, cánh chính khách theo các thầy ngoài Huế đang lên chân. Chủ báo Lập Trường được mời vô Saigon làm Hội đồng Nhân Sĩ. Chính nghĩa chống độc tài quân phiệt rạng ngời, phần lại lo bị chụp mũ cần lao, chế độ cũ, làng báo Saigon êm re.
Chính lúc đó trên tờ Việt Báo xuất hiện loạt bài ký rõ tên Trần Dạ Từ, minh danh “hỏi thăm” anh em nhóm Lập Trường, từng điểm một rành rọt. Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, phần quan điểm thời cuộc do anh Nguyễn Mạnh Côn, thường viết với bút hiệu Đằng Vân Hầu, gọi việc anh Từ ký rõ tên cho loạt bài này là sự dại dột đáng kính trọng của người làm báo. Còn nhớ, lãnh tụ sinh viên nổi danh thời 1964 là anh Nguyễn Trọng Nho, tuyên bố tán thành các luận cứ của Trần Dạ Từ. Làng báo Saigon bắt đầu hưởng ứng. Báo Lập Trường im, một thời sau, tự đóng cửa. Cao Huy Thuần lấy học bổng đi sang Pháp học. Sau 1975, báo Cộng Sản ở Hà Nội nói Cao Huy Thuần là nhà nghiên cứu, chuyên về tiểu sử Hồ Chí Minh.
Sống với nhau trong tù, nhất là qua anh Côn lúc đầu, biết thêm về anh Trần Dạ Từ, tôi càng ngạc nhiên hơn. Hóa ra anh Từ còn lạ hơn tôi tưởng. Thấy anh hồi ngoài hai mươi tuổi đã làm tổng thư ký một tờ nhật báo công giáo, lại là người đưa hồi ký của Linh Mục Cao văn Luận lên báo Độc Lập, tôi đinh ninh anh phải là công giáo thì anh lại là một Phật tử. Trong bộ biên tập anh Từ điều khiển và bạn hữu anh, nhiều người là đại khoa bảng. Tôi đinh ninh anh phải là người học hành ghê lắm, hóa ra anh chưa học xong tiểu học. Tiếng Tây, tiếng Mỹ bập bẹ, cùng lắm chỉ đủ để đoán mò ra nội dung bản tin viễn ký hàng ngày, trước khi trao cho người phiên dịch trong tòa báo. Thì ra, người bạn đồng nghiệp trẻ của chúng tôi, vốn xuất thân chỉ là cậu bé bán báo, mười hai tuổi đã sống ngoài lề đường.
Tết năm 1955, trước khi người Pháp rời hẳn Việt Nam, đài Pháp Á ở Saigon tổ chức giải thơ, phần thưởng lớn gấp ba đài Saigon. Người tới đòi lãnh giải nhất là một cậu bé 15 tuổi mặc quần sọoc. Chủ sự chương trình Pháp Á là anh Hoàng Cao Tăng phải họp hội đồng giám khảo lôi cậu bé ra thử tài đủ kiểu, buộc anh Hồ Đình Phương, thư ký hội đồng, phải lập biên bản, ký bảo lãnh, mới chịu phát cho cậu bé mấy ngàn bạc tiền trúng giải. Năm 1956, vẫn cậu bé, lại đoạt giải nhất giải truyện ngắn của tuần báo Nhân Loại, do anh Tam Ích coi ban giám khảo. (Người đoạt giải nhì là anh Lê Vĩnh Hòa, sau này là nhà văn liệt sĩ của Mặt Trận Giải Phóng). Anh Hồ Đình Phương phụ trách trang “Bình Thơ” trên báo Văn Nghệ Tiền Phong dành cả 4, 5 kỳ báo bình thơ cậu bé khác thường này.
Bước vô làng báo chuyên nghiệp, cậu bé làm thơ văn ấy phải làm từ việc thầy cò, viết lấp chỗ trống đủ các mục, từ tin cán chó, tới bài quan điểm, rồi mới thành Trần Dạ Từ.
Hồi còn tù ở Sở công an, anh Nguyễn Mạnh Côn có lần nói với tôi: “Có dịp, ông nhớ bắt tên Từ học thêm, phải cho nó thật giỏi tiếng Pháp.” Anh Côn kể từ lâu đã bắt anh Từ học thuộc bản tuyên ngôn của Đảng cộng sản bằng tiếng Tây. Tôi nghe mà phì cười. Học kiểu ấy thì làm sao mà khá cho nổi.
Hồi hai anh em cùng nằm một chiếu ở trại khổ sai Gia Trung, đến phiên tôi dạy anh Từ học thêm tiếng Pháp. Lại có thêm một chuyện buồn cười. Không khá gì hơn ông thầy Nguyễn Mạnh Côn, anh Từ lại phải tộng cho bằng hết toàn văn Lê Nin bằng tiếng Tây, nhờ hình Lê Nin, mà sách gửi được vô trại tù.
Tụng kỹ Lê Nin quá, có lần anh Từ nói: “Có dịp, anh em mình ph đượcải chú giải lại Lê Nin bằng sự việc ông ạ. Tức cười thật, thì ra trí tuệ phương tây bị chữ nghĩa bắt nạt, chả hiểu gì cả.”
Năm 1977, cũng tại Gia Trung, chị Nhã Ca đi cùng vợ tôi lên thăm, sau đó anh Từ cho tôi biết anh Mai Thảo, sau cả năm bị lùng bắt, đang ở trong nhà anh trên đường Tự Do. Tôi với anh Doãn Quốc Sỹ nhìn nhau, không biết nói sao.
Nhà văn Mai Thảo được Chóe vẽ đang ngồi trên xe xích lô đạp (đây là phương tiện giao thông duy nhất của Mai Thảo ở Sàigòn trước 1975). Sau 2 năm lẩn trốn sự truy nã gắt gao của chính quyền Cộng sản, ông vượt biên thành công và sang Mỹ năm 1978, qua đời ở quận Cam năm 1998
Đầu năm 1978, thân nhân anh Mai Văn Lễ (Khoa trưởng luật khoa Huế, nguyên phó chủ tịch Hội đồng kinh tế quốc gia, rất thân quí anh Từ) lên thăm cho hay chị Nhã và lũ nhỏ bị đuổi khỏi nhà, trục xuất khỏi thành phố.
Suốt cả năm không có tin nhà, chả biết vợ con sống chết ra sao, anh Từ không hề hé răng nói một câu lo lắng, vẫn bình tĩnh tụng Lê Nin toàn tập.
Anh Doãn Quốc Sỹ sau này, trong tù, sẽ thay tôi đọc cả chục bài thơ của Trần Dạ Từ, bằng tiếng Tây.
Nói rằng trong tù không hề khóc, với tôi, cũng sai. Tôi đã có hai lần khóc.
Một lần, khi làm việc trực nhật, xuống bếp trại bưng nồi cơm, thấy mấy hạt cơm rơi phía ngoài nồi, trước mặt đông đủ anh em, tiếc của trời, cho là thường, tôi bốc bỏ vô miệng.
Hôm sau, có người báo là bọn cán bộ bảo đội trưởng phải họp đội, mang tôi ra đấu tố vì tội lượm cơm của đội ăn riêng. Anh Từ bảo riêng tôi: “Nó muốn kiếm chuyện, chọc mình cãi lại cho có cớ bêu xấu rồi nhốt. Chuyện không đáng. Đừng dại húc đầu. Anh đừng thèm cãi tiếng nào. Nhận ngay lỗi, tự mình xin chịu biện pháp kỷ luật nặng nhất. Vậy là hết chuyện để nói qua nói lại.”
Phiên họp đội đấu tố được tổ chức. Tôi nói, bao năm rồi tôi vẫn nhớ nguyên từng chữ, như sau: “Tôi xin nhận hết tội lỗi đã bốc cơm của đội và của nhân dân bỏ vô miệng. Năm nay tôi gần 60 tuổi, một người chừng ấy tuổi mà không ra gì, bốc cả đến mấy hạt cơm rơi bỏ vô lỗ miệng, ngay trước mặt bao anh em khác, thật làm tất cả phải xấu hổ. Tôi xin nhận hết tội lỗi to lớn này. Xin các anh em hãy hăng hái phê bình. Xin cán bộ hãy cho tôi hưởng hình phạt nào nặng nhất, như cúp phần ăn hoặc đi kỷ luật, để giúp tôi tự sửa mình. Xin hết.”
Mọi người nhìn nhau, không thấy ai đấu tố. Sau đó cũng không thấy hình phạt. Chúng tôi cũng chỉ lặng lẽ cười với nhau. Ít lâu sau, khi nghe tin anh Nguyễn Mạnh Côn chết, lại nghe kể trước khi chết miệng anh còn kêu cơm cơm. Tự nhiên, tôi bỗng thấy mình khóc.
Tôi còn khóc một lần nữa, khi chuyển trại.
Được rời khỏi đội khổ sai nặng nề nhất trại, bị gọi là đội trừng giới, với nhiều người, là cái may. Với tôi, thì vậy là phải xa anh Từ và bạn hữu. Trong tù, anh Từ là người lặng lẽ, không bao giờ chịu hái một cây rau cọng cỏ hoặc kiếm thêm củ khoai củ sắn, chính tôi vẫn thường lo cho anh.
Gặp nhau lần cuối bên bờ suối, kiếm được trái chuối củ khoai, tôi dúi vội cho anh.
Khi quay đi, một lần nữa, tôi thấy mình lại khóc.
Xin các bạn họp mặt hôm 9.9.1989 chào mừng Trần Dạ Từ tha lỗi cho tôi, đã vì khóc mà bỏ ngang phần phát biểu.
Hoa Thịnh Đốn, tháng 3.1990
HỒ VĂN ĐỒN
Nhạc Trần Dạ Từ
Đêm ra mắt CD "Gội Đầu - Bay" của Thi-Nhạc sĩ Trần Dạ Từ
Gội Đầu
Tiếng hát Khánh Ly
Bay
Tiếng hát Thương Linh
Gọi Tên Dòng Sông
Tuấn Ngọc
Em Đi Với Con Thơ
Thương Linh
Thành Phố Tuyết
Khánh Ly
Ném Con Cho Giông Tố
Quang Tuấn
Cho Tôi Về Kiếp Xưa
Khánh ly
Dế Mèn
Khánh Ly
Đi Giữa Cơn Mê
Lê Uyên
Lòng Ta Ở Với Người
Phạm Hà
Lời Năn Nỉ
Thương Linh
Saigon Blues
Thương Linh
Tấm Lòng Phan Rang
Lê Uyên
Make Me Your Guitar
Thương Linh
The End
Đọc thơ Trần Dạ Từ
HÒN ĐÁ LÀM RA LỬA
Nguyễn Bá Trạc
(Bài thơ này được làm trong đầu tại trại tù Gia Trung-Hàm Tân (1979-1988), ghi thành chữ lần đầu tại Thuỵ Điển tháng 11-1988, và đăng toàn bài lần đầu tại Hoa Kỳ trong tạp chí Văn do Mai Thảo chủ biên tháng 2-1989. Bài thơ được đọc tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ ngày 28-1-1992.)
Đen đúa. Sần sùi. Không đáng một xu
Dzụt gốc xoài. Quạ không thèm mổ
Quăng tận ổ. Kiến không thèm bu
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó
Đó là một trong hai hòn đá cổ sơ
Chỉ có em và tôi cất giữ
Rời nhau ra. Lặng lẽ. Dư thừa
Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa.
1.
Không hề từ que diêm, từ hộp quẹt
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những quả bóng lân tinh đêm ấu thời
Đã đưa tôi về em
Không hề từ cột điện, từ dây nhợ
Chính từ lửa chung của đôi ta
Ngọn đèn nơi ngã ba năm nào
Khuôn mặt đêm tháng giêng dàn dụa
Không hề từ mặt trời, từ gió nồm
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những hàng phượng chụm đầu bốc cháy
Lợp đỏ một mùa hè ngây dại
Chính từ lửa chung của đôi ta
Đám cháy hoa phượng
Đám cháy những nụ hôn lặng lẽ
Những năm tháng mù loà
Những bài thơ khù khờ, cóp nhặt
Đã cuộn khói ngạo nghễ
Không phải quê quán, mẹ cha, con cái
Cũng chẳng phải đất đai, của cải
Chính cuộn khói dại dột bốc lên
Từ lửa chung của đôi ta
Đã làm tôi kéo em vấp ngã
Chúng ta đã chia lìa
Chúng ta bị tước bỏ, bị bôi xoá
Lần cuối, khi quay đi trong xiềng xích
Em nhớ mà. Chúng ta cùng thấy nhau
Hòn đá cổ sơ sần sùi
Trong mắt nhìn mỗi đứa.
2.
Cánh cửa bứt khỏi cổng, nhà bứt khỏi người
Trang giấy bứt khỏi mặt bàn
Chữ nghĩa bứt khỏi sách
Chúng ta bị bứt ra khỏi nhau
Ngày tháng năm bị bứt khỏi sự sống
Em vào nhà tù này, ra nhà tù kia
Bị đạp đổ. Đứng dậy
Bị phủ dụ. Quay đi
Bị đe doạ, mặc cả. Nhổ bọt
Em bị xua đuổi khỏi thành phố
Và biến mất
Như bao nhiêu người đã lặng lẽ biến mất
Tôi không biết giờ này em ra sao
Có lượm lại đủ lũ con cái tan tác không
Tôi không biết giờ này chúng thế nào
Em có gì để ăn, cho chúng ăn
Em có cách gì để thở, cho chúng thở
Em còn chỗ nào để nương náu, tạm bợ
Những con số dầu hắc hằn học
Khằn trên lưng trên ngực rách rưới
Những con số chì than dửng dưng
Trong sổ cái, sổ con bụi bậm
Những con số lặng lẽ lầm lì
Trong những T. những K. những Z.
Những con số vô danh, vô nghĩa
Những chữ cái vô tư, vô tội
Nhan nhản khắp nơi
Em sẽ tắt đi vĩnh viễn trong đó chăng
Như tôi. Như bao nhiêu người khác
Khi đĩa đèn ta cạn
Tôi đã kéo em vấp ngã
Chúng ta thật dễ vấp ngã nữa
Đã có lúc tôi thấy em đang chìm
Tôi mong em được chìm nhẹ nhàng
Như bao nhiêu người đã chìm xuống
Chúng ta bặt tin nhau. Ba trăm ngày
Có lúc tôi thấy em trôi dạt
Tôi mong em được cứu, được vớt
Được quên hết và thức dậy thảnh thơi
Lỗi tại tôi. Tôi thật mong ước vậy
Chính tôi đã kéo em vấp ngã
Em chỉ lỡ nhận quá nhiều nụ hôn
Và xây xẩm
Em làm gì đâu nào
Em sẽ ăn cơm mới, mặc áo mới
Đi đứng nhẹ nhàng trên những lối đi mới
Trò truyện thung dung bằng một tiếng nói mới
Em xứng đáng được vậy
Em làm gì đâu nào
Như bao nhiêu người khác
Dưới một bầu trời khác
Trên một mặt đất khác
Trong một cuộc đời khác.
3.
Không. Không phải vậy. Tha lỗi cho tôi.
Tôi lỡ yếu mềm
Đã tưởng tượng vớ vẩn và mơ ước tồi tệ
Chúng ta không dễ dàng được thế
Bầu trời của ta. Mặt đất của ta. Đời ta
Nụ cười chân thật mà chúng ta phụng sự
Thứ tiếng nói tuyệt vời cho thi ca
Sự diễm lệ của khổ đau mơ ước
mà chúng ta tự hào
Tình bạn, tình yêu mà chúng ta gìn giữ
Chưa hết. Nụ hôn và hoa phượng
Lửa và khói. Hạnh phúc và lỗi lầm
Chúng ta đã bứt ra khỏi nhau
Em mất tích. Em kiệt sức. Em một mình
Thật quá nặng cho em
Làm sao em thở
Mà đã hết đâu. Vẫn còn. Còn nữa
Vẫn còn nó. Nó sần sùi trong cổ
Không bay hơi. Không bốc khói
Không khò khè
Nó lầm lì buộc ta phải nhớ
Có thể không được sống,
không được chết bên nhau
Tên ta, đời ta. Đừng hòng rời nó
Tại sao tôi chọn em. Nào tôi có chọn
Chính nó chọn ta để buộc vào nhau
Chính nó. Hòn đá cổ sơ tai quái trong ta
Ngọn lửa chung của ta
Chính nó chọn cho ta bạn hữu
Chính nó chọn cho ta kẻ thù
Cách nói. Cách cười. Cách nhìn. Cách nuốt
Nó đang chọn dùm ta
Cả cách còn, cách mất
Ta có thể không biết nhau giờ này ra sao
Không biết chính mình giờ tới, ngày tới ra sao
Nhưng nó. Nó biết nó ở đâu trong ta
Nó biết nó phải sần sùi lúc nào
Như đã sần sùi trong mắt khi quay đi
Nó biết nó phải sần sùi kiểu cách nào
Như đã sần sùi theo ta đi tù đầy
Nó biết nó phải sần sùi mức độ nào
Như nó đang sần sùi trong cổ
Hình như chúng ta thường phạm tội bất công
Tôi nhớ ta ít khi chịu vuốt ve cái cổ
Nơi trong tôi, hòn đá đang sần sùi
Tôi lắng nghe nó, nhờ vả nó
Để hình dung ra em
4.
Nó ở đâu. Hòn đá tai quái em đang giữ
Trong mắt em. Trong ngực em. Trong cổ em
Nó dịu dàng hơn. Với em, phải vậy chớ
Em có từng nhờ nó để hình dung tôi chăng
Chưa bao giờ cái cổ quan trọng vậy
Nó giúp tôi hình dung em dễ dàng
Em đang nín thở. Em nhăn mặt
Tôi nghe hòn đá em ân cần:
“Thở đi. Thở đều đi. Đừng nhăn nhó”
Em đang hốt hoảng. Đang giận dữ
Em bị truy bức, bị lục soát, hạch hỏi
Tôi nghe hòn đá em thì thầm:
“Chúng lùng sục tôi đấy. Chúng sợ
Lo quái gì. Làm sao chúng thấy được”
Em đang đăm chiêu. Em buồn rầu
Em bị bóng đen của cùng khốn vây hãm
Tôi nghe hòn đá em thủ thỉ:
“Cười đi. Coi nè. Tui nè. Tui biết làm”
Và em mỉm cười, chờ nó làm ra lửa
Tài thật. Dễ thương thật. Phải vậy chớ
Nụ cười em lấp lánh trong tôi
Hòn đá đúng đấy
Nó biết làm. Nó sẽ làm
Có thể chúng ta sẽ sống sót
Cùng vuốt ve lại trang giấy bị vò nát, ném bỏ
Cùng bắt đầu lại từ chỗ được bôi xoá
Như thơ em từng nói với con cái
Có thể đêm trở về
khỏi cần những quả bóng lân tinh
Chúng ta biết cách tìm ra nhau
Khỏi cần cột đèn, khỏi cần hoa phượng
Chúng ta đã thuộc khuôn mặt nhau
Đã biết cách rực đỏ
Cũng khỏi cần đám cháy
Khỏi cần những bài thơ cuộn khói ngạo nghễ
Chúng ta biết cách tằn tiện những nụ hôn
Biết cách dành dụm lửa
Như em từng dành dụm
những ngọn nến xinh đẹp
Phải tằn tiện, dành dụm lại thôi
Tôi đã rủ rê em phung phí bao nhiêu năm
Chúng ta mê mẩn nhau
Sôi xục với bạn hữu
Hăm hở xào xáo sách vở và cuộc đời
Bịt mắt mô tả sấm chớp của trời đất
Phải làm lại. Phải bắt đầu lại thật
Chúng ta đã cùng ăn. Bao nhiêu cơm ngon
Nói ra. Xấu hổ
Đáng đi tù. Đáng bỏ đói
Đáng bị bôi, bị xoá
Tôi chưa từng biết em chụm lửa cách nào
Chưa từng biết nồi cơm sôi ra sao
Ngọn lửa sẽ tái sinh
Ta sẽ cùng chụm lửa
Được nấu nướng bên nhau, thật hạnh phúc
Chắc sẽ đủ tiêu ớt hành ngò
Cho món xào chua cay mặn ngọt
Chắc sẽ đủ chất men của đời sống
Để cất được chén rượu ấm áp mời bạn bè
Và nồi cơm sôi. Nồi cơm sôi
Tôi sẽ sửng sốt nhìn
Bằng con mắt háu đói
Sẽ thật thà mô tả
Cho bạn hữu và kẻ thù cùng biết
Những hạt cơm tương lai
Phải cười như thế nào
Trong con mắt háu đói của nhân loại.
5.
Nhưng chúng ta đang biết cái đói khác
Cái đói tùng xẻo rỉ rả đêm ngày
Được xưng tụng là kinh điển, chính sách
Được trang phục lộng lẫy bằng mỹ từ
“Phát minh vĩ đại của thiên tài
Vũ khí chuyên chế vô địch của giai cấp
Chủ nghĩa bách chiến bách thắng của thế kỷ”
Ở đâu ra cái đói quỉ quái ấy?
Từ quả cân đẫm mồ hôi, lão địa chủ thu tô
Từ đồng xu cắt cổ, bác chà gom nợ lãi
Đâu giản dị có vậy
Cái đói phát minh của thiên tài
Mọc từ luống cầy trên trán hói
“Cầy đi cầy lại cầy tới cầy lui”
Đã để lại bao nếp nhăn tối tăm
Trên vầng trán đẹp đẽ đáng tiếc, sớm hói vì hằn học
Cái đói thành vũ khí chuyên chế vô địch
Nó được tính toán, được kết hợp lô gích
Sự co thắt dạ dầy. Nước miếng. Tiếng kẻng
Được tung, được hứng
Được quảng cáo xôm tụ:
“Kiểm kê. Quản lý. Làm chủ”
Và nó vơ. Nó vét. Nó ban phát ơn huệ
Biến chén cơm, miếng bánh thành ma tuý
Biến tiếng kẻng cho ăn thành lệnh của ma quỉ
Để khuất nhục đồng loại
Tôi biết cái vũ-khí-đói này
Em ở đâu. Em coi chừng nó
Kẻng ăn gõ
Nước miếng ứa
Rớt nhãi chẩy
Biến hoá thành muôn hình nghìn vẻ
Nơi em biệt tích, trong giấc ngủ chập chờn
Em có thường mơ được ăn cơm không
Những người lương thiện nấu nướng cách nào
Đêm tối quanh tôi, nấu nướng đang rôm rả
Anh này trổ tài làm cơm cháy vàng rực
Anh kia đang lựa vịt chọn gà
Anh khác nữa, cân đo gia vị
Họp lại thành bữa ăn thịnh soạn
Tha hồ mời bạn tù đánh chén
Không nước, không lửa, không củi
Không nồi, không gạo, không cả muối
Càng khoẻ. Cần gì. Anh em nấu bằng miệng
Thưởng thức. Nhai nuốt. Bằng nước miếng
Tiêu hoá bằng chính xương thịt mình
Nước miếng ứa
Rớt nhãi chẩy
Kẻng ăn gõ
Nó đang gõ. Nó còn tiếp tục gõ
Gõ không ngừng. Gõ đây. Gõ đó
Chẳng cần biết làm gì
Cái kẻng thí nghiệm thông thái
Dây treo của nó. Búa gõ của nó
Nó khoa học, nó tài giỏi ra sao
Nó vẻ vang, nó oai vệ dường nào
Em đâu muốn tôi kể chuyện đó
Chúng ta đang nghe kẻng ăn gõ
Chúng ta biết nó
Nó là cái niềng bánh xe cũ phế thải
Có thể là mảnh đạn, là vỏ bom
Có nơi, như ở trại tù Z.30D,
nó là cái chuông đồng
Mang về từ ngôi chùa cổ nào đó bị cướp phá
Nó có dàn treo, có mái che
Sơn đỏ sơn xanh. Kẻ hầu người hạ
Nó lủng lẳng khắp nơi
Cổng tù. Cơ quan. Làng mạc. Thành phố
Nó được gõ. Bằng vồ. Bằng búa
Cẩn thận nghe em. Nó đang gõ
Nó gõ sáng. Gõ trưa. Gõ chiều
Rền rĩ những thể xác yếu đuối
Nó gõ tai bắt vểnh. Gõ mắt bắt nhắm
Gõ dạ dầy bắt cồn. Gõ gan ruột bắt cào
Gõ khuỷu tay bắt tung hô
Gõ đầu gối bắt xì xụp
Gõ mồm miệng bắt hát, bắt hò
Bắt gào thét, nguyền rủa, đấu tố
Cẩn thận nghe em. Nó tiếp tục gõ nữa
Không nghe nó boong boong
Chớ tưởng nó ngừng
Đừng quên
Nó tự xưng là vũ khí chuyên chế vô địch
Chủ nghĩa bách chiến bách thắng của thế kỷ
Đâu phải chỉ chuông chùa, mảnh bom, niềng xe cũ
Đâu phải chỉ bằng vồ bằng búa
Vầng trán đẹp đẽ hói sớm, em nhớ không
Đang biến thành cánh đồng
Những nếp nhăn tối tăm
Thành luống cầy hằn học
Nó không trồng lúa. Nó đang trồng người
Một loại người không cười không khóc
Cái kẻng cơm vô hình
Đang lủng lẳng trên đỉnh đầu thế giới
Đang lòn sâu vô ruột vô gan
Đang gõ suốt ngày đêm
Không âm. Không vang
Kẻng cơm gõ. Nước miếng ứa. Rớt nhãi chẩy
Cái lệnh ma quỉ ấy muốn vậy
Nó đòi tất cả phải cống nạp
Bằng hết nước miếng của nhân loại
Để ngâm tẩm thứ thuốc quái quỉ gì
Ai biết.
6.
Cây sậy chân tay quều quào của chúng ta
Có thể hết bưng nổi cái sọ dừa cứng đầu
Vũ chết hôm kia. Hồ chết hôm qua
Nguyễn. Và Nguyễn. Và Nguyễn nữa sắp chết
Sẽ đến lượt Lưu. Đến lượt Doãn. Đến lượt Lê
Ăn nhằm gì. Có thể sẽ không còn chúng ta
Nhưng, nước miếng nhân loại
sẽ chẳng bao giờ cạn
Làm thế nào cạn được
Trong miếng cơm nhai dập ngọt ngào
Bao nhiêu thế hệ bà mẹ đã mớm đút con dại
Như tôi, đứa con thơ èo uột nơi quê mùa
Từng được mẹ mớm đút
Làm thế nào cạn được
Trong nụ hôn nồng nàn
Gắn bó hạnh phúc và khổ đau
Dưới chân những thánh đường tương lai chưa hiện hình
Các đôi lứa sẽ còn hẹn hò nhau
Như chúng ta từng hẹn hò
Suốt mùa hè ngây dại ở Thiên Mụ
Làm thế nào cạn được
Chúng đâu chịu ngừng thì thầm dụ dỗ
Trái chanh, trái cóc,
Quả khế, quả me
Giữa kẽ răng cô vợ trẻ mang bầu
Lần đầu thèm của chua
Như em ngày nào
Làm thế nào cạn được
Trong cái miệng háu đói
Anh chồng đi làm về
Ngó vợ cạnh nồi cơm bốc khói
Như chúng ta vẫn tin sẽ cùng nhau thấy lại
Làm thế nào cạn. Chẳng bao giờ cạn nổi
Nước miếng. Tình yêu. Sự sống
Dòng sữa nuôi đích thực những câu hò đối đáp ví von
Nhiên liệu bất tận cho tiếng cười tiếng nói
Nguồn khởi đầu của dòng suối sinh nở
Sẽ còn sinh nở mãi.
7.
Yên tâm nhé em. Em lo lắng gì nữa
Quả thật đằng sau khúc tụng ca bi tráng của J. S. Bach
Có nỗi khiếp sợ dịch đậu mùa la hét
Nhưng, cái mặt rỗ chằng chịt của tôi em từng ôm
Nó chẳng nhắc em sao:
Việc chủng ngừa đậu mùa đã công hiệu
Hãy tin sự khôn ngoan của nhân loại
Tôi chia xẻ với em khúc tụng ca bi tráng
của quê hương và thời đại chúng ta
Cái đói tùng xẻo. Kẻng ăn. Rớt nhãi
Sự khuất nhục
Những vết xẹo chằng chịt một thời
Tất cả. Rõ ràng
Có công dụng của nó
Nước miếng nhân loại sẽ chẳng bao giờ cạn
Một loại vắc xim mới sẽ xuất hiện
Nụ cười những hạt cơm tương lai
sẽ được chích ngừa
Mưu ma chước quỉ không đụng được đến nó
Chữ đói, vĩnh viễn được trả về đúng nghĩa:
Nốt nhạc chung tươi tắn trong ngôn ngữ loài người
Cái đói, vĩnh viễn được trả về đúng chỗ:
Trong con mắt háu đói, cái miệng háu đói
Trước nồi cơm đầy đặn, tươi cười
Cái đói sinh động
Cái đói tuyệt vời
Tia nhìn của hạnh phúc rạng rỡ
Ngọn đèn xanh bật sáng cho nụ cười
Chìa khoá mở tung mọi cánh cửa
Món quà đằm thắm, anh chồng đi làm về tặng vợ
Như tôi hằng mong sẽ còn dịp tặng em.
8.
Sẵn sàng nhé, hòn đá cổ sơ
Đây rồi, ngọn lửa chung của ta
Được lắm. Chẳng cần phải nhờ thêm bóng tối
Tôi đang tưởng tượng em dễ dàng
Chân tay mặt mũi em. Thân thuộc biết bao
Hình thể con người. Tuyệt diệu thật
Hèn chi ta yêu nhau đến thế
Hèn chi ta yêu bạn bè ta đến thế
Chúng ta không chọn nhau
Chính ngọn lửa của chúng ta chọn dùm
Chúng ta cũng không chọn quê hương
Không chọn cha mẹ, anh chị em
Chúng ta đâu có chọn bằng hữu
Tôi thường kể với em về họ
Như sao, những đứa con bị đẻ rơi
Bị buộc cùng sáng một góc trời
Chúng tôi đã côi cút nô đùa
Giữa tro bụi lem luốc của mưa thu
Dưới móng sắc cay nghiệt của gió bấc
Anh cao ngồng. Anh lùn tịt
Anh đít vịt. Anh cổ cò
Anh vai so. Anh mặt rỗ
Anh răng vổ. Anh mắt lồi
Dị hợm. Tức cười
Mỗi anh một vẻ
Trong hơi ấm tưởng tượng của lòng mẹ
Chúng tôi đã dành dật lớn khôn
Đã hăm hở nhấp nháy
Anh tiểu thuyết miệng lưỡi, gái mê
Anh văn chương đờ đẫn, mê gái
Anh đàn địch. Anh vẽ vời
Anh thỏ đế. Anh tay chơi
Anh thiền sư. Anh đãng tử
Anh mô phạm bụng bự
Anh báo bổ cà thọt
Anh lập thuyết khói mây vi vút
Anh thơ thẩn nham nhở ướt mèm
Anh sách vở lem nhem
Anh súng ống cọc cạch
Mỗi anh một cung cách
Chúng ta yêu nhau, yêu bằng hữu
Kinh ngạc và thích thú biết bao
Chớp mắt. Thấy mình có trong nhau
Mở cửa. Thấy anh em đông đủ
Bắt tay, chào hỏi. Thấy thành phố
Bước đi, trò truyện. Thấy quê hương
Hất mặt, vươn vai. Thấy bầu trời
Hít hà. Thấy thời đại mình thở
Phải rồi. Chúng ta có chung một thành phố
Nơi ‘định mệnh chân dài’ của mỗi người đã ngủ
Những cây me Nguyên Sa canh cửa dịu dàng
Cột điện Thanh tâm Tuyền hung dữ
Quán rượu Mai Thảo - Phạm đình Chương
Rù rì đêm nguyệt cầm Cung Tiến
Chúng ta có chung một tuổi trẻ
Buổi sáng trong bầu tròn
Buổi chiều trong ống dài
Hò hẹn yêu đương với thiên tai
Sinh nở giữa pháo kích, oanh tạc
“Như khi Tường vượt sông Bến Lức
Đạn tiểu liên bắn xối vào tim”
Như đêm trở về trong thơ Toàn
“Cây xanh xao dơ lên trời ủ rũ”
Chúng ta có chung những tiểu sử
Địa chỉ Đỗ ngọc Yến ở Saigon
Ngõ hẻm Nguyễn Khắc Giảng ở Chợ Quán, Chi Lăng
Góc phố mưa Nguyễn Trung
Khu trường mù, tuổi thơ Phan Văn Song
Cánh đồng hoa nhài Lê Tất Điều ở Bình Thới
Nơi đi về tan tác của Long
Xe buýt vàng Viên Linh. Thơ Đen Tú Kếu
Nhà in chợ Cô Giang với Nghiễm
Bao nhiêu toà báo tối tăm khác
Với Lý Hoàng Phong, Lê Xuyên, Hồ văn Đồng,
Nguyễn Hữu Đông, Chu Tử
Chúng ta có chung một thời đại
Tình ca Phạm Duy
Rừng phong Vũ Hoàng Chương
Mê hồn ca Đinh Hùng
Mối tình mầu hoa đào của Nguyễn Mạnh Côn
Mụ đế quốc khốn khổ của Võ Phiến
Khu rừng lau mênh mông của Doãn quốc Sỹ
Những khuôn mặt dị dạng
trong Thế giới của Choé
Chúng ta có chung một quê hương
Nhai dập con khô mực khô thiều
Tấm tắc vị ngọt ngào sông biển
Nhâm nhi hạt đậu phọng trong miệng
Thấm thía cái bùi béo ruộng vườn
Chúng ta có chung niềm nhớ thương
Những hạnh phúc, khổ đau, tan tác
Có chung cả tù đầy, lưu lạc
Em thấy chưa
Ngọn lửa chung của ta. Tuyệt diệu thật
Trong đêm tối đầy ải nơi tôi
Em đâu phải hiện ra lẻ loi
Quanh em, có bao nhiêu bè bạn.
9.
Chúng ta yêu nhau. Yêu bè bạn. Yêu quê hương
Dản dị. Bình thường
Tôi quên nói với em điều này:
Tôi yêu em đến mức có thể yêu luôn
Những người đang gọi chúng ta là kẻ thù
Tội nghiệp. Em hãy hình dung họ
Anh cùm. Anh kẻng. Anh bẹc giê
Anh bom. Anh mìn. Anh tên lửa
Anh loa rỉ hí hửng tung hô
Anh súng ống hầm hè bắt bớ
Anh kẻng tù hả hê nạt nộ
Anh danh tướng đánh trống thổi kèn
Anh lãnh tụ tiền hô hậu ủng
Tội nghiệp. Tội nghiệp họ
Dễ hiểu thôi. Em nhớ mà
Để nhuộm đỏ những nụ hôn đầu đời
Chúng ta đã hì hục làm đẹp
nhét hoa phượng, nhét thơ thẩn vào lửa
Lửa và những nụ hôn, chúng cần gì làm đẹp
Trò vớ vẩn phù phiếm bị đốt bỏ
Bốc khói
Khói. Sự đỏm dáng liều lĩnh khờ khạo
Anh lính rơm khoe khoang được dịp canh giữ lửa
Tôi kéo em vấp ngã vì hắn
Như chúng ta
Để làm đẹp những dấu chân của mình
Nhân loại đã ném vô số thứ quái gở vào lửa
Lửa, nụ hôn và dấu chân, chúng cần gì làm đẹp
Sự quái gở phí phạm bị đốt bỏ. Bốc khói
Những cuộn khói khổng lồ
Vần vũ khắp lịch sử
Bà mẹ nhân loại từng vấp ngã vì khói
Bà sẽ còn tiếp tục vấp ngã nữa
Như chúng ta. Giản dị thôi.
Điều này em hiểu được:
Sự ăn nằm dại dột sinh đứa con khờ khạo
Tên nó là chiến tranh
Tên nó là cách mạng.
Chiến tranh. Cách mạng. Ngày hội của quần chúng
Tội nghiệp. Họ được dạy dỗ vậy
Tội nghiệp. Họ tin sống tin chết như vậy.
Cuộc hội hè ầm ĩ ba mươi năm
Họ được vỗ tay. Được la ó, cổ võ
Quả pháo đùng lớn họng đã chung cuộc
Xác pháo sặc sỡ vui mắt tung toé bay
Ngày hội đến hồi phải thu dọn
Tội nghiệp
Những người quen nhìn đâu cũng thấy kẻ thù
Anh ta đang sửng sốt ngơ ngác
Hội hè ầm ĩ đâu cả rồi
Sao yên lặng vậy
Tội nghiệp anh ta. Biết làm gì bây giờ
Anh ta được nhào nặn
bằng tiếng đì tiếng đùng
Được ru ngủ bằng tiếng la tiếng thét
Được bú mớm bằng tiếng gầm tiếng gừ
Được tập bò, tập đi, tập chạy
Bằng tiếng nổ, tiếng dội
Không còn cái hội hè ầm ĩ kia
Làm sao chịu nổi
Anh ta đang bị sự im lặng vây hãm
Tội nghiệp anh ta. Anh ta hoảng
Bọn yên lặng ở đâu ra. Đông quá
Nó ra bằng quyển vở, ngòi bút, cục gôm
Bằng chéo khăn, tấm áo, manh quần
Bằng đôi đũa, quả trứng
Nó ra bằng đầu. Nó ra bằng bụng
Nó ra bằng mắt. Nó ra bằng tai
Bằng nén nhang, giọt lệ, nụ cười
Nó ra từ con người
Nó ra từ cuộc sống
Từ mặt đất. Từ bầu trời
Không ngớt. Không ngớt
Nó ra. Nó ra
Tội nghiệp anh ta
Yên lặng. Yên lặng.
Và
Yên lặng
Cái loa lại hết cỡ. Nó đồng khởi
Lại anh hùng dũng sĩ ba mặt giáp công
Còng kẻng búa bẹc giê xuất trận
Lại mìn súng tên lửa xung phong
Công đồn: khai hoả vào nụ cười
Đả viện: Phục kích từng giọt lệ
Lại danh tướng đánh trống thổi kèn
Lại lãnh tụ tiền hô hậu ủng
Hò hét nhau đánh nhanh diệt gọn
Tội nghiệp
Đứa con ầm ĩ của đám hội hè tàn
Im lặng mênh mông
Anh ta ngộp
Anh ta la hét. Anh ta tung. Anh ta nổ
Anh ta chỉ có thể thở được
Bằng tiếng dội la hét từ chính mình
Em thấy chưa
Những người tưởng mình là anh hùng
Họ bị phỉnh gạt. Tội nghiệp họ
Trận hồng thuỷ cựu ước còn có lúc ngừng
Đâu có cuộn khói khổng lồ nào không tan
Đâu có đám hội chiến tranh cách mạng nào
Không tới hồi kết cuộc
Tội nghiệp anh ta
Anh ta la hét bao lâu nữa.
10.
Công việc sẽ bề bộn, khi khói tan
Phải bàn tính. Phải sửa soạn. Phải làm
Nào quét dọn, giặt giũ, tắm rửa
Nào thăm hỏi, sêu cưới, cúng giỗ
Nào gieo cấy, thu gặt mùa màng
Nào làm sạch bầu trời, làm đẹp mặt đất
Việc chúng ta: làm thơ và yêu nhau
Ta đâu biết làm việc gì khác
Nhưng đừng quên cùng nhắc mọi người
Phải nhớ anh bạn trước gọi là kẻ thù
Đỡ đần anh ta tí chút chứ
Đâu sẽ vô đó. Chẳng có gì đáng ngại
Lẽ phải sẽ phải là lẽ phải
Khi được nói bằng tấm lòng thương yêu
Được nghe bằng đôi tai tin cậy
Có lẽ tương lai phải mai mối cưới hỏi cho họ
Những anh loa, kẻng, cùm, súng, mìn, tên lửa
Mỗi anh một cô vợ
Các anh sẽ được nếm giọt lệ đợi chờ
Với chăn gối nồng nàn đêm xuân
Sẽ được sống phút cây cỏ nẩy mầm
Sẽ thấy lại luống cầy dản dị: Trồng lúa cho người ăn
Sẽ mau chóng hiểu ra
Sự im lặng chả có gì đáng sợ
Đầu ai rồi cũng có ngày hói
Đừng hói vội vã vì hằn học
Vầng trán nào chẳng có lúc nhăn
Hãy nghĩ tới nhau, nhăn dịu dàng
Tiếng đì đùng. Pháo tết đó thôi
Không có gì đáng sợ
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Thở nhẹ nhàng đi. Khỏi la. Khỏi nổ
Thấy hạt cơm cười, cứ việc cười theo
Rồi sẽ quen cái no. Sẽ thèm cái đói
Thấy nén nhang thơm, sẽ biết bồi hồi
Rồi bạn bè. Làm lụng. Rong chơi
Trưa hè bình yên, lại gối tay vợ ngủ
Em thấy chưa. Họ đáng yêu đấy chứ
Hơi tiếc
Nếu tương lai không nhậu chung một bữa.
11.
Chẳng có gì đáng lo cho họ
Cũng đừng lo lắng cho chúng ta
Như anh biết yêu em và làm thơ
Tương lai biết phần việc của nó
Nguyễn. Và Nguyễn. Và Nguyễn nữa
Sắp chết
Sẽ đến lượt Lưu. Đến lượt Lê. Đến lượt Doãn
Có thể sẽ không còn chúng ta
Như đã không còn Khái Hưng,
Phan Văn Hùm, Phan Khôi
Đã không còn Vũ Hoàng Chương,
Nguyễn mạnh Côn, Hồ Hữu Tường,
Trần Việt Sơn, Nguyễn Hoạt
Không còn. Như bao anh em khác
Có thể không còn
Cũng chẳng mất đi đâu
Dòng chẩy nào không hao hụt, bốc hơi
Có thể chúng ta vẫn quanh quất đâu đó
Như bọt nước tung toé reo vui
Nơi này. Nơi kia
Trong bước đi bất tận của dòng suối sinh nở
Trang giấy chúng ta bị vò nát, ném bỏ
Có thể không bao giờ còn được nhặt lên
Bài thơ này, bài thơ khác
Có thể không viết ra
Tình yêu, sự ấm áp tôi hưởng nơi em
Như hòn đá cổ sơ trong chúng ta
Có thể không bao giờ còn được nhắc tới
Vẫn chẳng hề hấn gì
Nụ hoa tình yêu và đạo đức vô hình
Nở mãi trong vườn ta
Ý nghĩ, sự ăn ở tốt lành
Dù không ai biết đến
Vẫn lặng lẽ toả hương trong không gian
Làm đẹp bầu trời và cuộc sống.
12.
Khỏi cần sần sùi nữa
Hòn đá cổ sơ đen đúa của ta
Tôi biết chúng ta sẽ ra sao
Bạn bè chúng ta. Kẻ thù chúng ta
Quê hương đẫm lệ và thế giới ngộp khói
Tôi biết chúng ta sẽ gặp nhau thế nào
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực tôi
Ngọn lửa ta hớn hở, tung tăng
Hòn đá ta to nhỏ, rì rầm:
Chẳng hề hấn gì. Chẳng hề hấn gì
Và tôi mỉm cười
Thư thái hình ảnh em bước tới
Đó là một buổi sáng tháng Giêng rực rỡ
Không thứ cờ quạt nào vấy nhơ nổi bầu trời
Không thứ chủ nghĩa nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi núi và em mặc chung áo nắng vàng
Suối nước và em đi chung từng bước chân
Giản dị thôi. Như ngày nào. Em tới
Tới và nói chung với cây cối một lời
“À. Anh ấy nằm đây
Phải vậy chớ
Anh ấy vẫn giữ nó
Hòn đá làm ra lửa.”
*
TRẦN DẠ TỪ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. Ông là chồng của nhà văn, nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu Vân). Ông di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước bắt đầu chia cắt, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió mới. Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.
Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị chính quyền bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hoá”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra lửa. Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thuỵ Ðiển, gia đình ông được sang Thuỵ Điển sinh sống, đến năm 1992 sang quận Cam, miền Nam bang California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt báo.
(Nguồn: Thi Viện Trang thơ Trần Dạ Từ - Lê Hạ Vĩnh (12 bài thơ) (thivien.net) )
GHI CHÚ Hiện nay Trần Dạ Từ và Nhã Ca sống nghỉ dưỡng tại Malmö miền Nam nước Thụy Điển, gần biên giới Đan Mạch (NBT ngày cuối tháng 8, 2024)
Nhã Ca & Trần Dạ Từ
1960
Trần Dạ Từ & con trai
(1976)
(1976)
Nhã Ca, Kiều Chinh, Du Tử Lê, Trần Dạ Từ
Nhà thơ Du Tử Lê & Trần Dạ Từ
Trần Dạ Từ & Nhã ca
Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Kiều Chinh, Trần Dạ Từ
Trần Dạ Từ & Phan Nguyên
Nguyễn Bá Trạc & Trần Dạ Từ
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.