Bảo Ninh
Tên thật: Hoàng Ấu Phương
(18/10/1952 - ........) Nghệ An
Nhà văn
Bảo Ninh quê ở Quảng Bình nhưng sinh ra tại Nghệ An.
Tên thật là Hoàng Ấu Phương, con trai của giáo sư Hoàng Tuệ nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh, Bảo Ninh đã từng là lính bộ đội chiến đấu ở mặt trận B-3 Tây Nguyên với sư đoàn 10, sau giải ngũ, trở lại học Đại học Hà Nội từ 1976 đến 1981.
Từ 1984 - 1986 Bảo Ninh học khóa 2 trường viết văn Nguyễn Du và làm việc cho báo Văn Nghệ Trẻ.
Bảo Ninh cũng là nhà văn đặc biệt được biết đến trong thời kỳ Đổi Mới với chính sách cởi mở hay"cởi trói" văn học tại Việt Nam.
Tác phẩm Thân Phận Của Tình Yêu được in lần đầu năm 1987, về sau lấy lại tên cũ là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Quyển tiểu thuyết đã mau chóng trở thành một hiện tượng văn học được dịch sang nhiều thứ tiếng và giới thiệu khắp nơi trên thế giới.
Tác phẩm Thân Phận Của Tình Yêu được in lần đầu năm 1987, về sau lấy lại tên cũ là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Quyển tiểu thuyết đã mau chóng trở thành một hiện tượng văn học được dịch sang nhiều thứ tiếng và giới thiệu khắp nơi trên thế giới.
Gần đây nhất đã được chuyển ngữ sang tiếng Ba Tư (Iran).
Văn là nghĩ
“Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn tự xem mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân mình và bạn đọc của mình những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không ngừng của đời sống con người, một đời sống tuy ngắn ngủi và khá là ảm đạm, nhiều buồn đau và bất hạnh, song lại cũng hàm chứa vô cùng tận những lẽ đời đáng sống, những giá trị cao quý, những vẻ đẹp tuyệt vời, hạnh phúc và niềm vui”
Bảo Ninh
(in trên bìa tập sách Bảo Ninh - Những truyện ngắn)
Tác phẩm đã in
Tập Truyện ngắn
Nxb Trẻ 2013
Đọc sách 'Bảo Ninh - Những truyện ngắn': Nỗi buồn không phải của chiến tranh
Bảo Ninh - Những truyện ngắn có bìa đơn giản, nổi bật nhất là chữ Bảo Ninh cỡ lớn, màu đỏ tươi được mạ bóng. Cuốn sách không cần cách “chào mời” nào khác, tên tác giả chính là lý do người đọc tìm đến. Nếu đã biết ông là ai, độc giả chắc chắn sẽ “vồ” lấy đọc ngay. Nếu chưa biết ông (dễ rơi vào lứa độc giả 9X), có thể người ta sẽ đi lướt qua cuốn sách trên giá như lướt qua bất cứ cuốn sách nào trông quá dày và giá hơi cao.
Đây là tuyển tập dày dặn, gồm 36 truyện ngắn của tác giả Nỗi buồn chiến tranh, mà NXB Trẻ khẳng định là một tuyển tập khá đầy đủ những truyện hay và ấn tượng nhất của một trong những nhà văn lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Nhà báo Dương Phương Vinh, người đọc khá kỹ văn Bảo Ninh, lại cho rằng gia tài truyện ngắn của ông còn nhiều nữa.
Truyện ngắn Bảo Ninh buồn, ảm đạm, không hẳn vì kể chuyện chiến tranh. Có những truyện hầu như không thấy bóng dáng chiến tranh, mà là đời sống ở một đô thị bắt đầu trỗi dậy (Hà Nội) thời mấy chục năm trước.
Bảo Ninh cũng là một nhà văn hay viết về Hà Nội và đề tài đô thị thời bình, có thể khẳng định như vậy bất chấp tên tuổi ông có lẽ gắn liền với đề tài chiến tranh/hậu chiến vì mức độ nổi tiếng của cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.
Nhà văn Bảo Ninh
Bảo Ninh ở một diện mạo khác
Không phải ngẫu nhiên mà tập truyện được ra mắt cùng với chùm sách về Hà Nội “Sách trẻ với thủ đô” của NXB Trẻ trong tháng 10 này, bên cạnh tác phẩm về Hà Nội của những tác giả có tên tuổi khác như Nguyễn Việt Hà, Phạm Ngọc Tiến, Đỗ Phấn.
Nhà văn Bảo Ninh không có mặt ở buổi ra mắt sách ngày 7/10 ở Thư viện Hà Nội vì đang ở Hàn Quốc. Cũng lâu rồi ông không phát biểu trước công luận, ít thấy dự ra mắt sách. Có lẽ đó là cách ứng xử khôn ngoan của một tác giả đã được công nhận về tầm vóc, có vị trí trong nền văn chương, và của những người cầm bút có thực tài nói chung.
Bảo Ninh viết không nhiều như nhiều nhà văn cùng thế hệ và cùng tầm khác, nhưng cũng không phải là “nhà văn một tác phẩm” (Nỗi buồn chiến tranh) như nhiều người nhầm tưởng. Tập truyện ngắn này là một minh chứng.
Sống và chỉ sống mà thôi
Trong văn Bảo Ninh nổi bật một Hà Nội hậu chiến. Một Hà Nội gần gần mà xa xa, thỉnh thoảng vẫn được nhắc lại đâu đó trong một bài hát, một triển lãm ảnh, một đoạn phim... Vậy còn trong văn? Bảo Ninh góp một góc nhìn trầm lắng, phải nói là buồn, không thấy lạc quan, nếu nhìn vào kết cục của các nhân vật.
Bảo Ninh viết về chiến tranh hay không về chiến tranh đều hướng ngòi bút vào các mối quan hệ tình cảm giữa con người, cá nhân nhưng không nhỏ nhặt và đòi hỏi sự quan sát tinh tường.
Văn là nghĩ
“Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn tự xem mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân mình và bạn đọc của mình những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không ngừng của đời sống con người, một đời sống tuy ngắn ngủi và khá là ảm đạm, nhiều buồn đau và bất hạnh, song lại cũng hàm chứa vô cùng tận những lẽ đời đáng sống, những giá trị cao quý, những vẻ đẹp tuyệt vời, hạnh phúc và niềm vui” - Nhà văn Bảo Ninh (in trên bìa tập sách Bảo Ninh - Những truyện ngắn)
Trong Mắc cạn, hình ảnh thời bao cấp khốn khó được lồng vào chuyện của đôi vợ chồng bỏ nhau nhưng cuộc sống vẫn gắn chặt vào nhau: “Con người ta thuở ấy cũng như con người ta muôn thuở chỉ lo sống, cứ thế sống, sống và chỉ sống mà thôi”.
Trong Lối mòn dọc phố, Hà Nội khi loại bỏ phương tiện giao thông tàu điện là bối cảnh cho một mối tương giao kỳ lạ của người công chức nghèo và một cô gái đẹp lạ lẫm trên một chuyến tàu đêm muộn màng: “Không còn tàu điện nữa. Đường ray đã bị bóc. Cái bộ xương han gỉ, cái di tích sống động và tàn tạ của Hà thành cả một thế kỷ 20 đã thật sự chết rồi... Hàng ngày bám theo lối mòn giữa phố ấy, lòng tôi vẫn âm thầm ấp ủ một cuộc gặp gỡ không bao giờ còn có thể”.
Tiếc là các truyện ngắn trong sách không được ghi kèm năm sáng tác để độc giả dễ liên tưởng với hoàn cảnh xã hội. Thời điểm sáng tác, giả sử với những truyện ngắn có bối cảnh miền quê hoặc rừng núi không quá quen thuộc của Nguyễn Huy Thiệp (Con gái thủy thần, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ...) thì không quá cần thiết. Nhưng với bối cảnh Hà Nội như trong truyện ngắn Bảo Ninh, thứ bối cảnh đã quá quen thuộc với không chỉ người Hà Nội nhờ mức độ phủ sóng trên truyền thông, thì cần. Hà Nội qua các giai đoạn lịch sử là thứ người ta luôn tò mò tìm hiểu và so sánh.
Vật đổi sao dời
Viết về thời đại của mình là việc chẳng có gì lạ lẫm. Nhà văn là người chấp nhận thách thức theo đuổi những thứ “vừa cố định vừa đổi thay” (chữ của Bảo Ninh), gắng tạo ra những tác phẩm có giá trị lâu bền, nhìn thấu cả sự ổn định và đổi thay. Là người cầm bút, ai cũng viết ở hiện tại nhưng mơ rằng mãi về sau vẫn còn người đọc mình.
Tiếc là cả Bảo Ninh và những nhà văn tên tuổi cùng thế hệ với ông (từ sau Đổi mới đến nay) hiện có phần mất nhịp với độc giả trẻ đương đại. Văn hay thì không cũ, ảnh đẹp cũng không cũ, nhưng rõ ràng có những đề tài văn học hoặc nhiếp ảnh cũ theo thời gian. Chúng hơi trôi ra ngoài mối quan tâm của xã hội đương đại, nắm giữ một vai trò thiêng liêng nhưng thiệt thòi là gợi về ký ức.
Những đặc điểm từng cực kỳ quen thuộc khiến đông đảo độc giả đồng cảm, nay trở thành lạ lẫm với thế hệ độc giả mới. Vật đổi sao dời. Văn về thời bao cấp, cũng như những triển lãm ảnh về Hà Nội thời bao cấp, chúng cuốn người ta vào hoài niệm khi thi thoảng xuất hiện trong đời sống nghệ thuật đương đại, nhưng có vẻ không có nhiều mối liên quan với hiện tại và tương lai.
Tất nhiên, hiện tại nằm trong quá khứ và tương lai, nhưng dường như thế hệ nhà văn nào, thế hệ độc giả đó. Những người đọc “chệch” thế hệ, thực sự hoài cổ, có lẽ ngày càng thu hẹp thành số ít.
Bảo Ninh - Những truyện ngắn, 570 trang, do NXB Trẻ ấn hành tháng 10/2013. Các truyện tiêu biểu: Mắc cạn, Bí ẩn của làn nước, La Mác-xây-e, Khắc dấu mạn thuyền, Lối mòn dọc phố, Lan man trong lúc kẹt xe, Thời tiết của ký ức...
Trước đây, có vài tuyển tập truyện ngắn của Bảo Ninh đã được xuất bản như Chuyện xưa kết đi, được chưa? (NXB Văn học), Bảo Ninh - Tác phẩm chọn lọc (NXB Phụ nữ), Lan man trong lúc kẹt xe (NXB Hội Nhà văn), Truyện ngắn Bảo Ninh (NXB Công an Nhân dân).
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của ông (được dịch ra 19 thứ tiếng) hàng năm vẫn được tái bản dưới nhiều hình thức, với cả tên gọi khác Thân phận của tình yêu.
(Thể thao & Văn hóa Cuối tuần)
Tác phẩm tiêu biểu đã được dịch sang nhiều thứ tiếng
Nxb Hội Nhà văn. 1991
Bản dịch tiếng Pháp
Phan Huy Đường
Phan Huy Đường
V.V.
Truyện ngắn được nhiều độc giả biết đến
Gió Dại
Kìa. Nghe thấy không. Hình như là Diệu Nương đấy!
Nhiều tháng, và chừng nhiều năm trời rồi, Diệu Nương, cô gái ấy đã bị bắn chết từ những bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai trước khi bắt sang một ngày mới ở làng Diêm người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau thế.
– Kìa...
Như thế có thể nghe thấy quá khứ, như thế có thể thu được hồi thanh của thời gian vậy.
“Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội
Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua...”
Khi đó là giờ của rạng đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to lạ lùng, toả ánh biếc trên tầng không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ bóng tối và sương mù đang nhẹ tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ hiện.
Một vệt đường 14. Những cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ.
Eo óc tiếng gà gáy da diết và cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên các miệng giếng trong làng. Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng.
Vào giờ đó, phía bên kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ pháo binh của quân đoàn 2 nguỵ vẫn đang ngon giấc nồng và chiếc thám thính cơ L19 bọn nguỵ dành riêng cho làng Diêm còn chưa chấm hiện lên ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy ngoài rìa làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất vừa lội lọt sang được bên bờ bên kia, để lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt nước mùa khô phẳng phiu.
Vào khoảng giờ này hồi trước, trong thinh không đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ mi-sa buổi sớm, nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng tiếng. Khắp sân nhà thờ toác hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn lấp. Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm đá dưới hiên nhà thờ, một mình vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa cửa ngóng mặt trời lên và chờ đợi bóng dáng con chiên.
Suốt đêm, trên khúc đường 14 chạy ngang trước nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua làng. Bây giờ tất cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người.
Sau sương, trên đường thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc ra đồng. Đây đó, im lìm rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè nhẹ thở ra làn khói bếp.
“Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội...” , từ đâu đó dưới đáy sương nương theo ngọn gió sau chót của trời đêm đang lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất lên, bổng bay.
Trong cõi lòng ủ ê của linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. Ông rùng mình, bàn tay chực đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi đầu xuống, khẽ thở dài.
Xa, sau rặng đồi thâm thấp nhấp nhô trên bờ đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang thầm lặng nhô lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa vòm trời đã ngả màu lơ. Ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Khắp nơi, những giọt sương lớn rực lên như những hạt kim cương chói ngời dính trên ngọn cỏ. Cùng với ngày mới tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa vút cao, tự thoát đi trở thành những thanh âm vô chủ, ngân lên hoang dã trở thành khúc du ca của thiên nhiên.
Trong làng, bọn trẻ hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ.
Bên sông, trong trận địa cao xạ bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm công tác chuẩn bị chiến đấu trong ngày đều bất giác ngừng hết việc lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu trời, dõi ống nhòm về phía làng.
“...trăng ơi mày quá tệ mà em đi không về...”
– Kìa. Trông kìa. Cô ta đấy!
Một người lính kêu lên, đưa tay trỏ.
Cảnh vật được ống nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cây che lấp con đường nhỏ viền quanh làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang hát. Trong màn ban mai ảo mộng và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình ảnh hoà nhập. Một thân hình thon thả, một dáng đi uyển chuyển. Suối tóc mượt xoã trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của bài ca, một ảo giác lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và quyến rũ, mềm mại và sống động nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí.
Đứng trên nóc hầm thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm.
Huyền thoại về Diệu Nương, nữ ca sĩ nguỵ Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ lại trong vùng giải phóng, lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này. Trí tưởng tượng của từng người thêm thắt vào làm giàu thêm những chi tiết hoang đường.
– Rong chơi! – Chính trị viên buông ống nhòm, nhăn mặt. – Không bắt cái đồ đĩ ấy câm miệng lại thì cả đại đội sẽ bị nó hớp hết hồn vía. Rồi sẽ khối đứa đâm đầu theo nó để rong chơi.
– Nhưng làm sao cấm hát được? – Đại đội trưởng nhún vai.
– Cấm! Vì đó là nhạc vàng phản chiến, là nguỵ ca.
– Đấy là Trịnh Công Sơn.
– Cũng thế thôi. Mà làm sao cứ đúng giờ này là nó lên giọng nỉ non, hay nó làm ám hiệu? Hay nó toan rủ rê, ve vãn lính mình bỏ trận địa để xuống ngủ với nó rồi sinh bệnh, mất sức chiến đấu? Có phải nó toan thế không?
– Nhưng cô ta hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô.
Ở bên kia sông, một toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ gianh. Ánh kim loại lấp lánh. Người đi sau cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm.
Mặt sông A Rang màu lam bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo tiếng hát. Cơ thể người lính đón nhận tiếng hát với cái rùng mình nhè nhẹ. Giai điệu của bài ca như đụng khẽ vào tim anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm gội trong khí mát ban mai, nhưng càng lan xa bài ca càng rung lên nỗi buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vời vợi và rộng lớn vô biên, dường như tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên tự do, mênh mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến những đường ranh, không biết đến các tuyến tiền duyên, không màng gì đến chiến tranh, trận mạc, bom pháo, giết chóc.
– Buồn thay, khúc du ca lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải.
Mặc dù người ta đồn thổi, người ta thêu dệt, cuộc đời của Diệu Nương vẫn hoàn toàn là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A Rang này vào mùa hè năm 1972, sau ngày quân Giải phóng tổng tấn công và quân Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai, từ đâu cô phiêu bạt tới, tên thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà những người xưng là có biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu Nương hình như cô cũng không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên cả.
– Nghe nói khi dạt về đến đây cô ta thậm chí chẳng còn lấy một manh vải che thân.
Tôi cũng có nghe nói vậy. Song, vào “mùa hè đỏ lửa” thì có riêng gì Diệu Nương mới ra thân tàn ma dại, tôi nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ loáng chốc thôi là thành tro than.
Năm 72, mùa hạ rùng rợn, chiến sự giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc các ngã đường, nằm la liệt trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông. Người còn sống, sống ngắc ngoải, dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Người ta bảo rằng cả đến thiên nhiên cũng thể như bị hoá kiếp. Cảnh làng biến tướng.
Thực ra thì không làm gì còn làng nữa, chỉ còn tàn tích. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa làng nửa phố, nhà cửa san sát, trù phú, thịnh đạt lắm. Cách thị xã có mười cây số đường chim bay, làng được quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi lính hưởng lương, đàn bà buôn bán chạy chợ. Cả làng ngoan đạo. Bây giờ bao nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục thối ra dưới những đống hoang tàn chìm lấp trong cỏ tranh và cỏ đuôi chồn.
Ngày ngày làng rơi trong tầm đại bác từ thị xã rót về và ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn đuôi nhau bổ nhào hoặc bay bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng cỏ. Cây cầu sắt bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm, bom pháo càng thêm ác liệt. Đất trời nghiêng ngửa.
Giữa năm 73, tiểu đoàn 17 pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt trên hai bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không quân nguỵ. Đại đội tôi bám chân ngay kề làng Diêm.
Một cái làng cô hồn. Cỏ dại, gai góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải rác, xiêu vẹo những túp nhà nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ nát. Từ những đống hoang tàn, bầy chó trong làng bới ra được đủ thứ nát bét của đời sống một thời đã sụp đổ: những mớ nhầu bấy rách bươm và sặc sỡ váy áo, mũ mão, đồ da, đồ nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thuỷ tinh, vật dụng gia đình... cùng những khúc xương người mà đàn chó xâu xé, giằng giật của nhau, tha đi, chuyền cho nhau như đánh khăng.
Dân cư của làng thưa vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn ông còn chẳng được bao nhiêu thế mà đa phần lại là phế binh nguỵ đã hết thời được ngó ngàng chăm sóc, què cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn bà trẻ con ló mặt ra khỏi nhà. Những mụ vợ lính lạc chồng, những ả goá rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ ranh ốm đói gầy giơ xương, trần truồng, bụng ỏng.
Phần đông bọn họ vốn không phải là người làng Diêm. Mùa hè năm 72 từ nhiều trị trấn, làng mạc, khu gia binh, họ nhập vào dòng thác người bại trận đổ xô theo đường 14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng giải phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã diễn ra một cuộc thảm sát.
Người ta kể lại rằng đêm ấy, nghe tiếng động cơ của một chiếc C130 lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ, đám dân chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối, người ta hò hét, kêu gào, vẫy bọn phi công, có nhẽ người ta hình dung chiếc máy bay ấy là con tàu Nô-ê cứu nạn do Chúa Trời điều tới. Không ai nghe thấy những loạt đề-pa, không ai nhìn thấy những loáng lửa đầu nòng chớp lên giần giật ở chân trời. Sau cả giờ đồng hồ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom kéo rền rền cho tận sáng. Trong nhúm những người may mắn còn được sống có lẫn Diệu Nương.
Bọn họ trở thành người làng Diêm từ đấy. Từ đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Bất kể xưa kia từng là nhân vật thế nào, gia thế ra sao, làm nghề gì, là ông hay thằng, sang hay hèn, tất cả đều phải cam chịu sống đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự cày cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương của chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng thừng trấn áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt.
Cả Diệu Nương cũng đã một lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì tội nhiều lần tự do hát những ca khúc vàng vọt. Được thả, cô vẫn chẳng chừa nết điên, vẫn buông thả không khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và sáng sáng chiều chiều, trong say sưa mê sảng cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người ta còn đồn rằng đêm đêm cánh đàn ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ dán hoặc cào sột sột vào vách liếp. Họ thu trong tay họ, người thì phong lương khô hoặc túi gạo sấy, người thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là kim chỉ, gương lược, diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Tất nhiên là những lời dè bỉu ấy chẳng có bằng cứ nào, chỉ là phỏng chừng, song dù vậy tiếng tăm điên rồ và vô liêm sỉ của cô vẫn xầm xì lan truyền đi. Có thể chính vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con thiên nga, đại khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì còn những lời đồn đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc của Diệu Nương.
Ví dụ, nhiều người đã nghe nói rằng thuở trước Diệu Nương là ca sĩ của một ban nhạc Sài Gòn. Ban nhạc này nhận lời lên biểu diễn cho một đơn vị biệt động quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diễn cuối cùng của họ rủi thay lại trùng với giờ N mở màn “Mùa hè đỏ lửa”. Xe tăng và bộ binh giải phóng tràn ngập Tân Trấn, tuyến phòng thủ bị vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác. Diệu Nương theo dòng người chạy loạn về tới làng Diêm thì cùng đường. Áo xống lộng lẫy của nữ danh ca biến thành tã trong cuộc tháo chạy ngang đồng cỏ ngút lửa. Đêm đến, trong hoả ngục rùng rợn của cuộc tàn sát, pháo dập bom rơi, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết chất trên sân nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi mới được moi ra, toàn thân cô bê bết máu đặc như một thỏi son. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại – người ta bảo thế, lúc điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vã, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng như mất trí.
Từ đấy, mặc dù được giải phóng nhưng đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa phát cây được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất nên thân cô không được trui rèn, không tự cải tạo được bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ làm tăng thêm vẻ lạc loài. Giọng hát vàng của cô chẳng hữu ích cho ai trong thời buổi nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói.
Tuy nhiên, ngày ngày, vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng ca vẫn thúc bách Diệu Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng thốt như làn gió dại lướt xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ cuộc đời nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắp đẹp và tuổi thanh xuân mà nay tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia không thể vượt qua được cả chiến tuyến.
“... nhưng ôi, chúng ta , chính chúng ta đây
một thời chúng ta cũng có
một quê hương và một mối tình...”
Ở làng Diêm bây giờ vẫn còn nhiều người nhẩm lại được giai điệu và lại ca của bài hát buồn vô hạn ấy mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hàng trăm tên áo rằn bị trói thành cặp, lầm lũi lê bước. Những người lính áp giải, đầu súng gắn lê, gay gắt và lạnh lùng lùa đàn tù, thúc họ đi mau lên để qua nhanh khỏi khu vực làng xóm.
Hai bên đường sau các ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những khuôn mặt thấp thỏm, sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong tìm kiếm người thân trong đám tù nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ đường.
Chợt sau rặng cây phía cuối làng thấp thoáng một bóng người. Ấy là Diệu Nương, và giờ đấy, giờ tận chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô.
Môi mấp máy, mắt nhìn chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá đi theo đoàn tù. Những người đàn ông lưng còng đang lê bước trên đường không để ý tới cô. Trong bóng chiều chạng vạng mặt mũi họ tối om như mặt đất.
Bỗng người ta nghe thấy những thanh âm là lạ như tiếng ai khe khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng yếu ớt và vấp váp hát lên một khúc ca hầu như chưa ai từng nghe thấy trên đời, thoạt nhiên hầu như không tài nào hiểu nổi. Tiếng hát nhỏ, giai điệu u tối và không rõ lời.
Như thể nghẹn ngào, Diệu Nương dừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một người chợt cất cao giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người. Giọng hát của Diệu Nương như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn tù biến thành dàn đồng ca. Những giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt tù phải im miệng. Những ngọn lê chúc cả xuống.
Dân làng ra cả hai bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn chân nhìn theo đám rước đang khuất trong dám bụi mù bốc lên trên con đường tù đày hầu như vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài ca của Diệu Nương và của những con người xấu số đau khổ vang vọng trong thinh không lúc ấy đã tràn đầy bóng tối.
“Trong cuộc huynh đệ tương tàn
Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến
Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây
Một thời chúng ta cũng có
Một quê hương và một mối tình...”
*
Giờ đây Diệu Nương đã chết. Nhưng trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào là nấm đất của Diệu Nương, ai là người có thể chỉ ra được? Và cả nấm mồ của người bị giết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ.
Cuộc sống triền miên trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá rụng, những lượt thời gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm nay tấp lên năm khác.
Ngôi nhà thờ của làng Diêm cuối cùng rồi cũng bị máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ, nuốt dần các bực thềm. Sân nhà thờ thành bãi tầm ma. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi người ta nhớ tới vị linh mục. Ông đã bỏ làng ra đi, không ai biết là đi đâu...
Bên sông, trận địa pháo cao xạ giá chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa đã sụt lở. Đây đó, vài hố bom đìa vẫn còn hoác miệng, những hố bom bi, bom phát quang và hố đạn pháo thì thời gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa dính pháo đội với làng nay chỉ mù mờ một vệt trăng trắng uốn lượn lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính tráng đi xa rồi chắc vẫn chưa quên con đường mòn ấy. Trên đường ấy, hồi đó ngày hai bận anh nuôi từ trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban đêm, nhất là những đêm tối giời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng “dân vận”". Thoáng bóng cán bộ đại đội hay là đội tuần tra của du kích, những kẻ xé rào đi ăn sương lẳng lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau. Vẳng tiếng cuốc kêu phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo. Cầm lòng không đậu.
Hồi ấy lệnh trên hầu như cấm tiệt bộ đội không được tiếp xúc với đám dân cư còn chưa được giác ngộ, còn nửa nguỵ của vùng mới giải phóng, không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng cháng vào làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ cục, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi kỷ luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ rước vào thân. Song, mặc dù vậy, lính gần dân lửa gần rơm...
Dẫu không phải tình cá nước, nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội với những túp lều nát trong làng đã thầm lặng in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban ngày, trừ tổ anh nuôi, không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống đó là đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom lại khối kỷ vật và ở trong lòng mỗi người thì chắc hẳn còn tơ vương nhiều kỷ niệm về các chàng pháo thủ ngày ấy. Người ta bảo rằng trong quan hệ quân dân khuất tất hồi đó đã lén lút sinh ra không ít niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình, cho dù, hầu hết chỉ thoảng qua, vội vã, chợt nhen, chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới gì, chẳng đi đến đâu, nhưng vẫn là tình.
Hồi ấy niềm ước hạng nhất của lính ngoài trận địa là được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội chỉ mỗi mình Cù chốt hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng thay một lần.
Chẳng hiểu là tới bây giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích gì không. Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà chung bởi anh hy vọng đây là toạ độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải chung giếng với linh mục nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong và ngọt nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi song ông ta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hoà, ứng xử biết điều hơn bất kỳ ai trong đám dân chúng làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường vô dụng. Sống giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ chiếng, một hạng nông dân miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có ăn mà chỉ toàn một lối xoay xở đắp đổi qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn, nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh nhớ nhung hoài tiếc thuở vàng son thối nát đi lính và làm đĩ cho Mỹ cho nguỵ, Cù nghĩ. Có lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm mong ngóng một thời cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là đê tiện.
Và nhất là bọn đàn bà. Cù không hiểu nổi cớ làm sao mà đồng đội của anh nhiều tay lại chịu để cho chúng hớp hồn dễ vậy. Cả đại đội năm chục thằng, bao nhiêu năm tút hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời đất quang quẻ, có sông, có làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà nào phải là người phụ nữ hiền thục, trung hậu đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc hay các chị em giàu truyền thống cách mạng trong vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ, rặt một lũ vi trùng giống cái.
“Vi trùng giống cái truyền bệnh tiêm la, giang mai...”, chí ít thì đấy cũng là cách anh thường nói để răn đe các tay phụ bếp.
Không phải bất cứ gã nào ngoài trận địa Cù cũng nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những tay bẻm mép, láu lỉnh, lắm tài vặt, dễ léng phéng sinh chuyện gái trai rắc rối là Cù gạt ngay. Có tay bề ngoài củ mỉ cù mì nhưng làm anh nuôi mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm pháo vì hoá ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.
“Đã là thằng anh nuôi ngày ngày thường xuyên với gạo nước rau mắm của đơn vị – Cù bảo – thì hai bàn tay phải tinh khiết, cấm đụng chạm tới một sự dơ dáy uế tạp, nhất là cấm kỵ không có được vọc vào đàn bà”.
Dân làng cũng hãi Cù. Chẳng ai dám mon men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với tay phụ bếp nào, muốn xin xỏ đổi chác gì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm ra trận địa mới hòng.
Ngày hai lần, tinh mơ và chiều, để một người coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa ăn ra cho các khẩu đội. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh nhẹn, thính mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường 14 một đoạn ngắn rồi rẽ xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các túp lều nghèo nàn tường đất mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước, hai bàn tay vòng sau chắp lại đỡ lấy đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc bao tải, toả hơi nóng và mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính.
Bày chó trong làng thoáng bóng con Ních, chạy dạt cả. Đói meo, chúng núp sau các đống đổ nát hai bên đường, nhìn ra nhưng không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị mùi nóng sốt quyến rũ bám theo hai cái gùi.
– Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi – Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ.
– Bọn nguỵ con, cút xéo! Cù quát.
Nhưng nếu có ông lỏi nào gan lỳ bám theo tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy nó lại. Anh móc trong cái bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp ngô luộc, có hôm cả một con cá khô. Anh bảo:
– Đó. Có vậy. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng. Ơn cách mạng đời chúng mày được giải phóng nhưng phải biết chịu kham khổ. Phải biết cuốc cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có ưỡn ườn ra trên giường mà chờ sung. Cách mạng còn lâu dài. Đến hết đời chúng tao. Hết cả đời chúng mày...
Nghe nói đến bây giờ người ta vẫn thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông, ngửi hít những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh rồi leo lên một cái hầm pháo phòng không ngập trong cỏ gianh, đờ đẫn ngó làn nước trôi.
– Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi.
Một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn, quen miệng cất tiếng gọi khi trông thấy con chó già cô độc đi trên đường thui thủi. Dường như thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình bóng hai người lính anh nuôi cõng trên lưng hai chiếc gù.
Con chó bị riết chặt vào con đường mòn. Và bao giờ nó cũng qua làng vào hai thời điểm thấp nhất của mặt trời: khi ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm xao lãng cuộc mộng du ấy. Không ai dám đụng tới con vật đó.
– Chính con chó này đã giết chết Diệu Nương.
Những người mang máng biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hay biết gì về tấn thảm kịch cũng sờ sợ con chó, mơ hồ cảm thấy cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng, lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù quáng và điên dại đặc biệt con người.
*
Lần ấy, đến hẹn, khẩu đội 3 và khẩu đội 4 cử mỗi A một người vào làm anh nuôi thay cho Bình khẩu đội 1 và Tuấn khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình còn giữ Tuấn lại. “Thằng ấy thạo việc rồi với lại nó rất chịu thương chịu khó có thể kế cận cho tôi làm anh nuôi mãi cũng được”. Cù giải thích thế.
Tuấn vốn gốc gác bộ binh. Bị thương nặng, đáng lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó đã tình nguyện ở lại chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà bổ sung cho tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân pháo thủ số 3 ở khẩu đội 2.
Vóc người anh cao, ốm yếu, võ vàng, cổ lộ hầu, một vết sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang tai xuống sát mép. Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn “mếu”. Mặc dù là dân Hà Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nói ít lạ lùng và nói miễn cưỡng. Giữa một đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, chuyện trò nở như ngô rang, Tuấn âm thầm nín thinh, chẳng góp lại, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí nổi xung. Tuyệt đối thờ ơ lãnh đạm. Một nhà quý tộc hay một gã chán đời?
Tuấn dửng dưng với những cú bổ nhào trực tiếp lao cắm xuống trận địa của máy bay cường kích. Bom nổ xa, nổ gần, róc két nã trúng bờ công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt, bàng quang với tất thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa cuộc hỗn chiến, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung dung tự tại, anh ta chỉ một nhiệm vụ điềm nhiên bình thản quay tay quay điều chỉnh cự ly bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa.
– Đánh nhau kiểu cao xạ sao mà tẻ – có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế với tôi – Đánh nhau mà như thể đánh máy chữ ấy. Chẳng có kịch tính nào, khác xa bộ binh.
– Tại cậu đứng mãi số 3 nên thấy thế đấy, – Tôi bảo – Nếu thích thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị, tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế số 2 này mà dận cò.
– À không. Là nói thế. Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin chả ước gì. Thế tuốt!
– Chán đánh nhau sao cậu không ra Bắc, lại ở lại?
Tuấn nhún vai.
– Hay thất tình? Chắc hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì hả?
Tuấn “à” một tiếng rồi lại ngậm tăm. Miệng méo xệch.
Thực ra Tuấn vợ con chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được gì về Tuấn ngoài mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm tình chẳng thiết thổ lộ. Chẳng bao giờ thấy anh viết thư hay được thư. Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ.
Nhưng ngoài cái nết kín bưng nổi bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Anh chơi ghi ta rất được, có lẽ là được nhất đại đội. Khác với lối chơi đàn của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không lúc lắc vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn một cách thẫn thờ chẳng cuốn hút ai, chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình.
– Cậu chơi bài gì vậy, nhạc nghe lạ thế, Tuấn?
Tuấn lại chỉ “à” khẽ một tiếng.
Lúc vào làm anh nuôi, Tuấn xách đàn theo. Một cây ghi ta cũ kĩ, thùng đàn xây xát sắp nứt, dây không chuẩn nhưng mà tiếng rất tốt. Nghe nói Tuấn đã mang theo cây đàn vào bộ đội và mọi người đều lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà anh vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời lính.
Vào làng buổi sáng, chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói trên lưng.
– Vất vả không Tuấn?
– Cũng vất.
– Bọn đàn bà làng Diêm thế nào, giàu kịch tính không?
– À.
Tuấn hờ hững. Bảo ở pháo thì ở, bảo vào anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt sắng cũng chẳng thoái thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng, song anh làm việc hết mình, không hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu ca.
Thời gian đầu Cù không thích Tuấn, anh bực với cái nết âm thầm ngậm tăm ấy, nhưng rồi cũng đâm quen. Trầm tính không phải là một cái phốt, với lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt tối, túi bụi, tất bật, luôn chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra nữa mà chuyện vãn.
Chỉ có một khoảng ngắn ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn, ba chàng anh nuôi mới được tắm táp nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với nhau đôi lời trước khi mệt nhọc rủ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi thằng nhấp mỗi chén và nghe Cù cắt cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ phác một giai điệu.
Bấy giờ, khoảng đầu tháng năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước lên, con lũ chuyển mùa ầm vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền.
Bình khẽ huýt sáo nhịp theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn đàn. Âm điệu quá đỗi quen thuộc mỗi sáng mỗi chiều “Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội...”
Ngoài trời miên man mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu hiu hắt. Như tiếng thở dài.
*
Bếp anh nuôi và căn nhà của linh mục nom sang nhau qua một vườn rau. Hai bên dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để vào làng.
Nhà của linh mục cũng nền âm, lại thêm bốn ụ đất bao quanh nên từa tựa một cái hang. Trong tu phòng chẳng có đồ đạc gì. Một cái chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một cái bàn, một cái kệ để sách và ảnh thánh. Ở bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng sáng con chiên trong làng đưa cơm nước tới để lên cái giá đó cho linh mục. Mỗi ngày ông ra khỏi tu phòng đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ngoài khuôn viên nhà thờ. Ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí thành như một ẩn sĩ.
Bỗng dưng ông rời bỏ nhà thờ, rồi bỏ làng Diêm, lặn mất tăm. Và không hiểu có phải là do ngẫu nhiên không mà ngày ông bỏ đi trùng với ngày Diệu Nương bị giết. Lập tức sinh ra những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cứ gì cả. Có điều là từ đấy trong hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương người ta đều thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm của ông.
Bản thân linh mục cũng là một số phận xui xẻo. Tai hoạ đến với ông cũng bất ngờ, na ná như tai hoạ của Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về làng Diêm để cai quản ngôi nhà thờ của làng thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa ông từ thị xã về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ sông A Rang. Pháo 130 ly cấp tập nã và chiến xa T54 xuất hiện thình lình trên con đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng đón cha cũng lập tức nháo nhào tan tác.
Người ta bảo rằng đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn Mỹ dội bom xuống biển người di tản, tình cờ Diệu Nương và linh mục nằm kề bên nhau. Chính ông đã moi cô ra khỏi núi xác chết. Và mặc dù khi ấy cô chỉ còn là một cái xác loã lồ và một các xác bê bết máu me, ông đã làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy.
Diệu Nương đã được sống nhiều tháng trong nhà thờ, kề cận bên linh mục, y như thể cô là một ma-xơ hay là một người bõ, một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là trái lẽ song giữa hỗn mang đại loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề luật nào mà không bị nới lỏng.
Về sau, khi đã bỏ ra sống ở túp lều ngoài rìa làng, Diệu Nương vẫn thường lẻn về nhà thờ gặp cha. Để xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và để tiếp tế cho cha những tặng phẩm mà hàng đêm người này người khác vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Ấy là những thức họ san sẻ ra từ khẩu phần lính mỗi ngày của họ, hoặc là những đồ nhu yếu họ quơ được khi thu chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi thì ở trong lều, khi thì ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ.
Cô là đồ điếm, song từ bao giờ cô đâm ra như thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy, không nhớ không biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời, cô trở thành đồi bại?
Rất có thể bản tính Diệu Nương đã hư hỏng sẵn rồi. Chẳng vậy mà thiên hạ đồn cô vốn gốc gác “thiên nga”? Ngủ với cô rồi giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo nhau về cô, bảo cô là cái ổ của những tật bệnh xấu xa.
Riêng tôi, mà có lẽ chẳng riêng tôi, không coi cái nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì sất. Đến với Diệu Nương tôi đã được hưởng những phút giây chưa từng được hưởng bao giờ ở quê nhà ngoài kia.
Nhiều năm qua rồi mà tôi vẫn không muốn quên và thực ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức tôi mơ màng mường tượng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một mình đi trên đường vắng, dáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay là khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi...
Những khi ấy, trái tim rộn ràng kinh hãi, tôi từ ngoài đêm tối rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng thay mành cửa, bước vào trong lều tối đen.
– Lại đây, anh lính của em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi.
Tôi bước tới một bước và bất ngờ chạm vào một cái gì tuyệt vời, một cái gì nóng hổi, mềm mại, dập dờn, một cái gì không thể diễn tả. Và ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục ngọt ngào.
– Bạn tình của em, anh tên là gì? Có phải lần đầu anh đến với em không?
Tấm thân óng ả của Diệu Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp huỷ hoại thấm đượm một vẻ gì thật quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những người đàn bà khác hoà lại. Không chỉ có những cái vuốt ve của cô, không chỉ những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực nồng nàn âu yếm, cô rên rỉ, cô dở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội đi, mệt nhoài bải hoải, ở cô vẫn dạt dào ma lực của tội lỗi đàn bà.
– Anh đã đi à, đã đi rồi sao? – Cô níu tay tôi – Còn lâu trời mới sáng. Hãy nán lại một lát đã anh. Em còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi...
Nhưng không mấy ai chịu nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà Diệu Nương mong được thổ lộ với người bạn tình thoáng chốc. Không ai muốn nghe bởi không ai có thể làm gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám vì tình mà liều mạng và vì tình mà cả gan làm phản.
Nhung dĩ nhiên, để lần sau lại có thể đến với Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người ta cứ hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay.
Bởi vì ai cũng vậy cả nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ giúp cô và y đã y lời.
*
Về sau, khi sự đã rồi, mới nghe nhiều người nói rằng thực ra trước đây khi còn ở bộ binh Tuấn đã có nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế anh đã quen Diệu Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao xạ của chúng tôi chưa về lập trận địa ở trên bờ sông A Rang và Diệu Nương hồi ấy vẫn đang dung thân dưới mái nhà của vị linh mục.
Người ta kể rằng làng Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải phóng đã cạn. Chính quyền kêu gọi nỗ lực tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải liệu lấy kế sinh nhai.
Bởi vì một vị linh mục thì không đời nào lại cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả hai. Cô theo những người đàn bà khác trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không quen nhọc nhằn lam lũ, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt sụt sùi. Gần trọn một ngày rồi mà dám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm bụi.
Bấy giờ có một tốp mấy người lính dừng chốt mắc võng nghỉ ở ven sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười nhạo, tếu táo với nhau, chế giễu và thương hại thay cho cái giống đàn bà gốc nguỵ chẳng khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bây giờ đây đổi đời mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp người. Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người lính nỗi thương tâm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị được ra tay giúp đỡ cô.
Và vậy là từ đầu tới cuối đêm, mấy chàng bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả một vạt rừng. Họ còn dốc ba lô, ruột tượng kỉ niệm Diệu Nương một gùi đầy lương thực. Lúc từ giã, một người trong tốp lính xưng tên là Tuấn. Anh hứa dăm hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.
Rẫy của Diệu Nương được đốt gọn và sạch nhất làng, cháy đều, không sót một thân cây nào cháy dở dang. Chia tay, Tuấn lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn.
Cơn mưa đầu mùa, sắn lên xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn gieo thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương mở một vườn rau.
Và cứ vậy không hiểu xoay xở bằng cách nào, cách năm ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã, Tuấn băng đồng cỏ về thăm làng Diêm.
Cũng vào thời gian này Diệu Nương rời nhà thờ ra xóm ở túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô ở rìa làng. Hình như nhờ có Tuấn, Diệu Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải phóng. Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười.
Có những lần, từ chốt Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta. Anh đàn khẽ cho Diệu Nương thầm thì hát. Hồi ấy cô chỉ hát nho nhỏ thế thôi, nồng nàn, giữa hai người với nhau.
Chắc là giữa hai người đã có sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều nguyện ước da diết nhất của cô. Cô ước được thoát khỏi kiếp sống cày cuốc cực khổ ở chốn gian lao xa lạ này, cô ước được người đáng tin đưa cô vượt qua chiến tuyến trở về với quãng đời êm ấm thân thuộc của mình trước ngày được giải phóng.
Với Tuấn, vượt hơn mười cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải là điều không thể. Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu thời hiệp định, những ngày bỗng dưng đất trời yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy bay và tuyệt nhiên không một phát đại bác.
Say đắm ái tình và bốc đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có điều là bỗng nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua, biệt vô âm tín Tuấn không trở lại làng Diêm.
Từ đó, lặng lẽ Diệu Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đoạ. Cô không hề nói gì với ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn trong tâm trí cô. Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm ao ước mà cô từng thổ lộ với Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà chiến sự càng ngày càng tàn bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng quét sạch mọi manh nha của hoà bình.
Cho tới một đêm nọ, một đêm mưa, trên đường mò vào nhà thờ với cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần lán của những người lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng đàn. Lẳng lặng cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối. Diệu Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của những đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy.
Thất thần, vô tri giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chợt chồm lên, cất tiếng sủa.
– Ai ? Cù vùng khỏi võng, chộp lấy súng, hét.
Diệu Nương lùi lại một bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt ngắt, cô quay người chạy.
Cù lao ra cửa. Mưa đổ ào ào trước mặt anh.
– Thám báo! – Cù quát – Mày đứng lại!
Dưới một nhoàng chớp bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rượi, xiêu đảo.
– A! Con đĩ! Đứng lại, tao thì giết!
Cù gầm lên, phóng mình ra mưa và trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy, điên tiết, Cù nâng súng quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp chới phía trước.
Tuấn xô tới, giật súng.
– Thằng ngu xuẩn! Đồ nông nô!
Tuấn gào, khản đặc và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu tiểu liên xuống vũng bùn cạnh Cù rồi băng mình vào mưa đêm đen đặc, đuổi theo Diệu Nương. Khắp làng ran tiếng kẻng báo động. Du kích từ nhiều ngã ập tới.
Bình vực Cù vào lán.
– Bọn du kích tới, mày bảo là không có chuyện gì cả – Cù lấy ống tay áo lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và máu, nhổ cái răng cửa bị gãy ra, khó nhọc bảo Bình – Nói là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi thì đi xem xem hai đứa chúng nó ra sao rồi...
Anh thở dài:
– Mà tại sao nó lại vùng chạy cơ chứ, hả?
Rất lâu sau này, kể lại chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo tôi:
– Giá kể Diệu Nương nó không dính đạn, hai đứa chúng nó dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng đã thoát được rồi cũng nên.
Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy trong toàn bộ tấm thảm kịch xảy ra hồi đó chỉ có Cù là nhân vật duy nhất không tài nào ai hiểu nổi.
Chính anh đã cố tình xả súng vào Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt một thời gian dài đã tận tình giúp vào việc chăm sóc cô. Ông linh mục chỉ chấp nhận hé cửa tu phòng cho một mình Cù vào thăm Diệu Nương mỗi ngày. Bông băng, thuốc men, đồ ăn ông chỉ nhận nếu là do Cù mang sang. Tuấn hoàn toàn bị ông ta cấm cửa.
Cù và Bình không hé răng và hở chuyện. Ngoài đại đội không ai biết kẻ bị Cù bắn chính là Diệu Nương. Cũng không người nào biết có cuộc xô xát giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ mối quan hệ nung nấu mà mơ hồ giữa Diệu Nương và Tuấn.
Đến kỳ thay anh nuôi, Cù xin đại đội cho giữ Tuấn lại.
*
Bỗng nhiên, Diệu Nương biến mất. Không còn nghe tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ vơ, trống huếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã chết. Chết đuối hay là chết tan xác vì trúng phải một trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu.
Mùa mưa ấy dài đằng đẵng, buồn bã, ê ẩm. Dần dần tôi mới thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc Diệu Nương, vì nhớ nhung tiếng hát của cô, một ả đàn bà chẳng đáng gì. Mà không riêng tôi, tôi cảm thấy thế, cả đại đội đều rầu rĩ. Chúng tôi không còn lý do gì để bám lại trên mảnh đất này nữa.
Đột nhiên vào ngày nắng hửng đầu mùa khô, chúng tôi được biết Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn trong nhà thờ để chữa trị vết thương. Nay cô đã gần khỏi... chỉ có điều, nay cô mới thực sự bỏ trốn.
Người bảo cho chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. Ông lần ra trận địa vào lúc tảng sáng, cái áo chùng ướt đẫm sương.
– Người của các ông đã quyến rũ cô gái. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lầm ấy. Hắn đã phản bội các ông, lại kéo cô ta phản Chúa.
Ông còn cho biết ông đã mật báo với Cù ngay khi Tuấn và Diệu Nương bỏ trốn, nghĩa là ngay từ tối qua. Vậy mà Cù không hề báo cáo cho đại đội. Anh ta đứng đấy, đầu trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả.
– Nên để cho họ đi – Cù nói, sa sầm – Còn nếu cần bắt lại thì cũng được. Cô ta bị thương không thể đi nhanh. Với lại có con Ních đấy.
Tôi có vinh dự tham gia nhóm tác chiến cùng với Cù và hai trinh sát. Chúng tôi khẩn trương xuất kích. Con Ních thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù.
Chúng tôi lặng lẽ tiến theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết không để chúng trốn thoát mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của đơn vị.
Chỉ lạ là không hiểu tại sao dấu vết con Ních dò theo không nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang, ngược sang mé tây đồng cỏ. Phía đó chỉ có rừng rậm.
Ý chí đuối dần. Chúng tôi lết đi chậm chạp. Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần mẫn lần theo dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo.
Chính vào lúc chúng tôi đã nản chí, bắt đầu bàn chuyện quay về thì hình tích hai kẻ chạy trốn thực sự hiện ra.
Dưới tán một cây kơ-nia mọc chơ vơ giữa tảng cỏ tranh cao lút đầu Tuấn và Diệu Nương đã nghỉ chân. Đàn kiến đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc lá rê vấn bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt rõ ràng, hằn sâu trên cỏ, như thể cỏ đã tạc nên thân hình người đang nằm. Một bức hoạ khắc nổi dáng vóc đàn bà, không thể nhầm lẫn...
Chúng tôi đuổi kịp họ trước lúc mặt trời lặn. Đã chớm tới cánh rừng thưa bên bờ tây đồng cỏ.
Mệt nhoài, chúng tôi dừng lại trước một dòng suối. Con Ních bị dòng nước xoá dấu vết. Chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi hoàng hôn màu hồng thẫm.
Thốt nhiên, giữa sự im lặng và tiếng rì rầm của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất ngờ giống như một gợn sóng mỏng.
– Tiếng đàn – Cù khẽ thốt lên.
Chúng tôi sững sờ, lắng nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không ngờ sau một lát nín thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy thầm thì tiếng hát.
Chúng tôi vượt nhanh qua suối, nhẹ chân tiến tới nơi vẳng lên giọng ca. Đấy là một dải rừng thông. Những cây thông cao vút mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong chiều. Chúng tôi khom rạp xuống, áp sát lại.
Một tiếng cành khô gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng.
Tôi đứng thẳng lên sau mọt thân cây và căng mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ với chiếc ăng-gô treo bên trên. Cây đàn ghi-ta vứt bên bếp. Một chiếc võng dù căng giữa hai cây thông. Tôi biết rằng hai con mồi đang núp sau một bụi cây không xa bếp lửa.
Im lặng kéo dài, kéo dài mãi. Một cách máy móc tôi gạt chốt hãm khẩu AK vào nấc liên thanh.
– Các bạn... các anh em... – Giọng Tuấn – Chúng tôi không làm hại gì cả... Hãy để chúng tôi đi...
– Câm mồm! – Bào, trinh sát viên hét – Đứng dậy. Giơ cao hai tay. Đi ra!
Một phút. Nhiều phút. Vẫn lặng ngắt. Cù bỗng buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních chạy xéo qua và giây lát sau tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối rít, mừng rỡ.
Nhưng cũng đúng lúc đó, bụi cây lay động.
“Ta rong chơi...” – Tiếng hát.
– Con điên – Cạnh tôi, ai đấy gầm lên – Đồ đĩ!
Và tức thì súng nổ. Cả bốn khẩu AK cùng khạc đạn. Chớp đạn nhằng nhằng, xé rách lượt bóng tối đầu tiên đang phủ xuống.
Bốn khẩu tiểu liên cùng bắn hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững lại.
Sau bụi cây bị đạn băm, hai con người ấy quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào giây phút cuối cùng, người đàn ông cố dùng thân mình đỡ đạn cho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. Ánh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảng lưng trần.
Chúng tôi đứng chết trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói vào nhau trong sự cam chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi thuốc đạn là dấu vết duy nhất của ý chí điên khùng, đã tan đi.
– A a a... – Cù bật rống lên.
Ngồi xuống bên Tuấn và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.
*
Hai hôm sau chúng tôi nhận lệnh hành quân, cơ động về phương Nam. Vĩnh viễn giã từ làng Diêm. Tôi đã bình tĩnh trở lại. Cả Cù cũng vậy. Cuộc chiến đấu đang chờ đợi sẽ là lối thoát cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.
Mùa khô nung vàng đồng cỏ. Và những ngọn gió dại gào hú làm bốc lên những cột lốc đỏ lòm bụi. Những ngọn gió điên rồ như có móng vuốt, cào xé mặt đất.
Chúng tôi chỉ không ngờ rằng chúng tôi đang tiến vào mùa khô cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hoà bình, vậy mà hoà bình vẫn đến.
Trên đồng cỏ, suốt mùa khô, gió thổi. Những trận gió lành và những cơn gió dại.
Bảo Ninh
Những tập truyện khác
Trại Bẩy Chú Lùn
Nxb Văn Học 1987
Khắc Dấu Mạn Thuyền
Nxb Văn Học
Lan Man Trong Lúc Kẹt Xe
Nxb Hội Nhà văn 2005
Chuyện Xưa Kết Đi, Được Chưa?
Nxb Văn Học 2009
Tham khảo thêm về tác giả Bảo Ninh
Bảo Ninh
Đọc "Ma Chiến Hữu" của Mạc Ngôn
Đọc "Ma Chiến Hữu" của Mạc Ngôn
Đọc tiểu thuyết Ma Chiến Hữu của nhà văn Mạc Ngôn do dịch giả Trần Trung Hỷ dịch ra tiếng Việt mà tự cám cảnh. Thấy buồn quá. Cuộc chiến tranh cách đây đã vừa tròn ba chục năm Mạc Ngôn đề cập tới tưởng là phải được tái hiện và được ngẫm nghĩ trước nhất bởi nhà văn nước mình, vậy mà không, hoàn toàn không. à, cũng không hẳn là không vì trước đây thì có. Vào lưu trữ ở các thư viện lục tìm những số nhật báo, tuần báo ra từ cuối năm 78 không lâu trước ngày bùng nổ chiến cuộc cho tới khi vùng biên im hẳn tiếng súng, chừng mười năm trời, thì sẽ đọc thấy bên cạnh tin thời sự, tin chiến thắng rất nhiều ký sự, phóng sự, bút ký, truyện ngắn và thơ ca liên quan đến các bản tin ấy. Khi chiến sự ngừng thì các tác phẩm văn chương có tính trực chiến như thế cũng theo thế mà ngừng. Như vậy là phải, như vậy là lẽ dĩ nhiên, vì đã hoà bình rồi. Có điều tịnh không một chút gì đọng lại thì lại là sự lạ lùng.
Năm tháng trôi qua, đời sống ngày lại ngày đẩy tất cả các sự kiện của thế sự mỗi thời lùi vào dĩ vãng. Hôm trước, năm trước còn là chuyện dữ dội, to tát, nóng bỏng, chấn động trên mặt báo và dư luận, năm sau, hôm sau đã được chuyện khác hoàn toàn thế chỗ. Tuy nhiên, mặc dù sự đời thì như thế mà tâm tưởng của con người ta lại không như thế. Có những câu chuyện trong đời người càng lùi xa theo tháng ngày càng trở nên đậm nét hơn và thấm thía hơn. Bởi vậy nên mới có cái mà người ta vẫn gọi là "độ lùi thời gian ", rất cần thiết cho sự ra đời của một tác phẩm văn học. Và có lẽ đấy là một trong những duyên do khiến Mạc Ngôn viết Ma Chiến Hữu vào năm 2004. Là một sĩ quan tuyên giáo nhưng ông đã không dùng câu chữ của mình để tức thời văn chương hoá chiến cuộc, mà đợi 25 năm sau mới trở về với trận chiến đã qua.
Nhưng tại sao Mạc Ngôn viết mà tôi và các bạn văn của tôi thì không hề. Như thể là tôi vô cảm với những ngày tháng đau thương không thể nào quên đó trong cuộc đời đất nước, trong cuộc đời của bản thân tôi và gia đình tôi, cuộc đời của bao nhiêu người bạn từ thời thơ ấu, thời quân ngũ, của bao nhiêu con người từng là hàng xóm cùng ngõ cùng nhà với tôi thuở ấy. Sự thực là cũng đã âm thầm dự dịnh viết, ít nhất là một truyện ngắn nào đó, nhưng rồi đã do dự, đã e ngại. Và cái kiểu e dè như thế thì còn tệ hơn cả thái độ dửng dưng. Bây giờ, cầm cuốn sách của Mạc Ngôn trong tay, càng thêm thấm thía rằng làm nhà văn mà như mình thật là quá xoàng.
Một số nhà văn và độc giả bạn hữu của tôi thấy rằng việc xuất bản một cuốn sách có nội dung liên quan tới cuộc chiến năm 1979 mà tác giả lại của phía đối phương là một sự báng bổ. Song tôi, và chắc chẳng riêng tôi, không nghĩ thế. Là một nhà văn nặng tình nghĩa với người nghèo khổ, tác giả Mạc Ngôn sẽ khó mà có thể bưng tai bịt mắt bỏ qua một đại tai ương, một bi kịch lớn lao cay đắng đến như vậy. Và việc Nhà xuất bản Văn Học cho dịch cho in Ma Chiến Hữu cũng là sự cần thiết cho độc giả. Cuộc chiến năm 1979 chẳng những không bao giờ phai mờ trong ký ức của thế hệ chúng tôi, những người đương thời với cuộc chiến ấy, mà cả trong tâm trí các thế hệ sau cũng thế, ngay dù có muốn khoả lấp thì vẫn sẽ mãi còn đó. Và để hiểu, để suy ngẫm về cuộc chiến ấy thì tất nhiên sẽ có những độc giả và nhà văn thế hệ sau chúng tôi tìm đọc các tác phẩm văn học viết về nó. Văn học Việt Nam tịnh không có tác phẩm nào, thì thôi, người ta đành đọc một chiều qua văn học dịch. Thiết nghĩ như thế cũng được, như thế còn hơn là một sự im lìm trống vắng bao trùm lên hiện thực sừng sững và hiển nhiên của thời kỳ lịch sử kinh hoàng và bi thương ấy. Và nếu đấy là tác phẩm của một nhà văn cỡ Mạc Ngôn thì độc giả Việt Nam thời sau này cũng sẽ thông qua đó chẳng những hiểu được tâm trạng những người lính thường và dân lành Trung Quốc mà còn có thể gián tiếp mường tượng được phần nào hoàn cảnh và nỗi niềm nước Việt Nam người Việt Nam của mình thời đó. Còn hơn là chẳng có cái gì hết để mường tượng.
Bản thân bởi đã đọc Đàn Hương Hình, và nhất là Báu Vật Của Đời, nên khi cầm Ma Chiến Hữu trong tay, chưa giở ra đọc, tôi cũng đã tin rằng trong cuốn tiểu thuyết này mình sẽ không bị đọc phải những câu chữ và quan niệm ấu trĩ làm cho mình không còn ưa thích một tác giả mà mình vốn ưa thích.
Nhiều nhà văn và độc giả có trình độ thẩm văn thượng thặng mà tôi quen biết không đánh giá cao Mạc Ngôn, họ chê văn ông thô, tư tưởng lộ liễu, sự viết lách ngỗ ngược một cách tự nhiên chủ nghĩa và quá nặng nhục cảm "phong nhũ phì đồn". Tôi không biết cách phân tích bình luận này nọ, chỉ biết đọc và thấy rất khoái văn Mạc Ngôn. Và thú thực là rất phục ông. Có thể là vì vốn dĩ từ bé đã chỉ biết sau thời Lỗ Tấn, ở Trung Hoa nhân dân, điện ảnh thì có những thứ đại loại như Lửa Hận Rừng Dừa, văn học thì Vượt Sông áp Lục... cho nên khi xem phim Cao Lương Đỏ và đọc Báu Vật Của Đời, tác phẩm dịch ra tiếng Việt đầu tiên của Mạc Ngôn, tôi thấy bất ngờ. Không chỉ thấy hay mà còn thấy hay một cách đáng sửng sốt. Tự chủ ngòi bút, tự mình vì tự do của tâm hồn mình, không xá cái gì hết, không e ngại, không mập mờ nhìn trước ngó sau, chỉ tâm trí mình lòng dạ mình thế nào thì Mạc Ngôn viết thế.
Tôi cũng tin một nhà văn đích thực nhà văn như Mạc Ngôn thì không đời nào tụng ca chém giết. Mặc dù Ma Chiến Hữu là tác phẩm về đề tài chiến tranh nên sẽ khó tránh những trực cảnh trận mạc nhìn từ một phía, sẽ càng khó tránh, hoặc đúng hơn là không thể tránh, không cần tránh việc thể hiện chính xác và đích thực những lời lẽ, những ngôn từ, giọng nói, cách nói, kiểu nói của các nhân vật lính thường, hoặc trái lại, nhân vật ông tướng ông tá cất lên ở các bối cảnh trên chiến trường và hậu tuyến, song giọng của bản thân nhà văn, dù hiện rõ ra hay ẩn trong tác phẩm, phải là giọng riêng. Và tôi tin một nhà văn như Mạc Ngôn sẽ không khi nào có giọng hò hét xung sát, kêu gào hận thù, vẫy gọi đổ máu. Nghĩ thế nên khi cầm cuốn sách lên tôi rất nghi ngờ mấy dòng in đậm ở bìa sau: một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng.
Mà quả nhiên, sau khi đọc xong, tôi thấy nội dung cuốn sách đâu có vậy. Dịch giả đã dịch thành công tác phẩm ra tiếng Việt, văn của bản dịch khá hay, và hẳn là nội dung được đảm bảo. Vậy thì tại sao lại có những dòng in đậm đó? Không lẽ là của Mạc Ngôn? Thực chất đấy là những dòng chữ xúc phạm và bóp méo Mạc Ngôn. Cố nhiên lại càng báng bổ và xúc phạm tình cảm của độc giả Việt Nam.
Do chạm phải mấy dòng in đậm thiếu suy nghĩ đó ở bìa sau cuốn sách, tôi không khỏi nhớ tới một chuyện cách đây mấy năm. Hồi đó chẳng hiểu thế nào mà tôi lại dự vào cái vinh dự chấm kịch bản phim phục vụ lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Đạo diễn Hải Ninh ưu ái bảo tôi dự vào, trong khi có vẻ như chính bản thân ông lại không hề muốn can dự vì biết trước và biết quá rõ rằng nó sẽ lình xình đủ chuyện. Quả nhiên. Kịch bản Hội Thề của nhà văn Nguyễn Quang Thân xuất sắc nhất, tất cả những người dự chấm đều nhất trí như thế. Có nghĩa là Hội Thề sẽ thành phim để chiếu vào đại lễ năm 2010 ? Tôi tưởng điều ấy là dĩ nhiên, cuộc thi không phải là đã được mở ra nhằm mục đích đó hay sao? Khi nhất định muốn biết vì sao lại không như vậy thì tôi được một người trong ngành văn hoá cho biết rằng, có nhiều lý do lắm ạ, mà lý do thấy rõ nhất là "tính nhậy cảm". Hội Thề, tuy là hội thề để đem lại hoà bình, nhưng vẫn liên quan đến đại thắng của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, mà như thế thì... không có lợi.
Nếu cùng một kiểu tư duy như thế thì điện ảnh và văn học Trung Hoa sau thời Cách mạng Văn hoá nảy đâu ra được Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca, Giả Bình Ao, Vương Mông, Mạc Ngôn, Dư Hoa...
Ma Chiến Hữu mà gặp phải tư duy kiểu như vậy biên tập thì ngay từ năm 2004, nguyên bản tiếng Hoa, đã không thể ra mắt độc giả Trung Quốc. Bởi vì cuốn sách này không "tụng ca" cái gì cả, chẳng minh hoạ cái gì hết, trong sách chỉ là hiện thực về thân phận người lính và nông dân nghèo khổ bị thời cuộc xô đẩy hiện lên từ cách nhìn của Mạc Ngôn.
Ma Chiến Hữu không hay được như Phong Nhũ Phì Đồn và Đàn Hương Hình, những vẫn là tác phẩm hay.
Trong Ma Chiến Hữu các nhân vật người và ma gặp gỡ nhau trên cành cây, uống rượu, câu cá, tán dóc, hồi tưởng thời thơ ấu, thời quân ngũ... Kiểu viết này rất khó, nhưng đạt được thì sẽ có chiều sâu đầy lôi cuốn và mê hoặc. Cách viết và kể như vậy, ở Việt Nam có nhiều, nhất là truyện ngắn về đề tài chiến tranh. Tiểu thuyết thì có cuốn Tàn Đen Đốm Đỏ của nhà văn Phạm Ngọc Tiến, mà thành công của nó một phần là nhờ đạt được cách kể cách viết mộng mị, ma và người, hư và thực.
Ma của Ma Chiến Hữu có phần hơi thật quá. "Bộ quân phục của anh ta đã mục nát, tôi vừa chộp tay vào là nó đã rách toác trông như một loại giấy bồi bị thấm nước… Gương mặt đầy mụn sần sùi màu đỏ bầm đã kề sát mặt tôi: té ra là người cùng làng, là đồng đội của tôi, là Tiền Anh Hào, người đã hy sinh vào tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mươi chín trong một trận phản kích”. Song có thể đó chính là dụng ý của tác giả. Ông muốn huỵch toẹt nói thẳng, không muốn ẩn vào sự mơ hồ của hồn ma kiểu Liêu Trai.
" Tớ đau khổ nhưng không phải vì cậu chết mà vì cái chết của cậu chẳng có ý vị hùng tráng nào"
" Cậu đeo trên người 18 quả lựu đạn, một khẩu liên thanh với 180 viên đạn nhưng chưa kịp bắn một viên đạn, chưa kịp ném một quả lựu đạn nào mà đã chết, tiếc ơi là tiếc!"
"Tớ đã gào lên rằng tớ sẽ báo thù cho cậu và xông lên, sau này nghĩ lại, trong hoàn cảnh ấy, tớ chẳng còn lòng dạ nào mà gào lên như thế"...
Tôi đoán là văn chương của Mạc Ngôn trong cuốn sách này hẳn rất trái lời trái ý những người hô hào cuộc chiến năm 1979. Vậy sao lại được xuất bản ở Trung Quốc ? Là vì người Trung Quốc không phải ai cũng là thống tướng Hứa Thế Hữu, và không phải ai cũng răm rắp " quân lệnh như sơn " tuân phục những người như ông ta.
Tôi cũng tin là nhà văn Mạc Ngôn chẳng những đồng ý cho nhà Văn Học dịch Ma Chiến Hữu ra tiếng Việt và xuất bản ở Việt Nam mà còn rất mong muốn điều đó. Tất nhiên là từ chủ quan suy nghĩ của mình, song tôi thật sự cảm giác rất rõ rằng khi viết Ma Chiến Hữu nhà văn Mạc Ngôn đã hướng lòng mình tới độc giả Việt Nam.
Đọc Ma Chiến Hữu, tôi nhận ra là mình đã không hiểu gì người Trung Quốc hoặc chỉ hiểu với những định kiến. Mà lẽ ra tôi không nên định kiến, nhất là đối với người dân lành, nhất là đối với giới trí thức và nhà văn. Bởi tôi là tín đồ của Tam Quốc, Đông Chu, Thuỷ Hử, Hồng Lâu Mộng. Tôi ngưỡng mộ Lỗ Tấn thuở xưa và sau này là Trương Hiền Lượng, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn... Già nửa lính trung đội tôi khi tiến vào Sài Gòn năm 75 là dân Hàng Buồm. Chính trị viên phó tiểu đoàn là dân Mã Mây, họ Vương. Hàng xóm ngay sát vách nhà tôi tới năm 78 là ông lạc rang húng lìu trước cửa rạp Kinh Đô và bác dầu cháo quẩy đầu Đình Ngang. Con trai con gái hai nhà ấy học với tôi từ lớp 1 đến hết lớp 10.
Đọc Ma Chiến Hữu, tôi cũng gián tiếp nhận ra rằng ở Trung Quốc người ta nghĩ nhà văn Việt Nam hiện đại đầu bảng chỉ có Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc. Và họ nghĩ thế chẳng sai, bởi hình như đến bây giờ chỉ tập sách đó dịch và xuất bản ở Trung Quốc.
Không chịu hiểu người, không để người hiểu mình, là cái kiến thức của tôi và của thời tôi vậy.
Bài đã đăng Văn nghệ Trẻ
Bảo Ninh
Cái thật bao giờ cũng có sức quyến rũ.
Cái thật bao giờ cũng có sức quyến rũ.
Việc hai cuốn nhật ký chiến trường của các liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc - những "cây bút" vô danh - trở thành sách văn học best - seller đã khiến nhiều người giật mình, trong đó có những nhà văn tên tuổi. Nhà văn Bảo Ninh - người đầu tiên tìm thấy Nhật ký Đặng Thùy Trâm ở Mỹ - nói rằng, đó là sự quyến rũ của câu chuyện chân thật. Lần đầu tiên nhìn thấy cuốn nhật ký, tôi đã rất xúc động. Đó là một phần TS của tôi. Đó là những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời tôi. Cái đẹp của sự xả thân. Cái sự xả thân của chị Trâm, anh Thạc hồi ấy sao mà đơn giản thế. Đừng vội gán cho chị Trâm những lý tưởng to tát như vì Đảng, vì dân, cũng đừng cường điệu chị lên, đừng bắt chị phải vác cái huy hiệu "anh hùng". Bởi theo tôi, chị rất đỗi bình thường. Trước cái chết, nếu "không run sợ" tức là đang nói dối! Có lẽ chị Trâm chỉ nghĩ đơn giản là mình nổ súng đánh lạc hướng thì mấy người thương binh sẽ có chút thời gian chạy vào rừng... Phản ứng của độc giả trẻ là hoàn toàn chân thật. Đừng nghĩ thanh niên VN không thèm quan tâm đến quá khứ mà chẳng qua vì "chúng" không thích những bài giảng sáo rỗng đấy thôi! Thanh niên thời nay và thanh niên hồi xưa vẫn thế. Họ không hoàn toàn hư hỏng. Và, khi bắt gặp một câu chuyện rất thật, một câu chuyện viết cho chính mình, họ đã "lên cơn sốt". Cái thật bao giở cũng có sức quyến rũ hơn sự giả tạo!
+ Thế chẳng hóa ra các tác phẩm viết về chiến tranh lừng lẫy một thời và cả những câu thơ nằm lòng hồi ấy vẫn chưa đủ sức "quyến rũ" hay sao?
- Những tác phẩm như Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng, Tiền tuyến gọi... có thể thông cảm được vì tác giả viết trong thời kỳ chiến tranh. Khi ấy, người ta cần huy động sức mạnh toàn dân và chính người ta cũng nghĩ như thế... Nhưng văn chương chỉ sống được khi nó là sự chân thật. Cái hay nhất của cuộc đời lại là những điều bình dị.
+ Ngay Nỗi buồn chiến tranh của anh xem ra cũng không "ăn thua" gì. Kiên và Phương (nhân vật chính của tiểu thuyết - cũng vẫn "cứng" lắm...
- Đúng là nhân vật của tôi hơi "lai" thời đại hôm nay. Đúng là các tác phẩm lớn qua thời gian sẽ bị cũ đi. Không hẳn vì nó dở. Mà vì độc giả đã trưởng thành lên, đã bớt ấu trĩ đi. Người ta đã từng trải hơn còn anh cứ đi loanh quanh luẩn quẩn bên ngoài rìa cuộc sống thì làm sao có sách "gối đầu giường" được! Tôi thấy đây lại là điều đáng mừng... Và cũng đáng lo khi người cầm bút chỉ quen một nếp tư duy - tức là khi viết về cuộc chiến chỉ quen nhìn theo một lối là nó rất đẹp, còn viết về thời bình thì ôi thôi, sao mà kinh thế. Kỳ thực, thời chiến cũng có biết bao chuyện kinh khủng chứ!
+ Tôi lại nghĩ rằng - ngoài sự dũng cảm ra, nhà văn mình đang mắc cái bệnh thích "cõng" quá nhiều ý tưởng, mà chẳng ý tưởng nào thực sự "chín" nên mới không "vọt" ra được...
- Cái hạn chế của nền văn học mình thì có nhiều lý do. Nhưng với nhà văn thì chủ yếu do sức nghĩ và sức làm việc có hạn. Lứa chúng tôi ít học, viết dựa vào kinh nghiệm. Cho nên, ít có tư tưởng gì lớn. Vốn ngoại ngữ lại hạn chế nên cũng ít có dịp tiếp xúc với tinh hoa thế giới. Năm 1991, khi tôi, anh Nguyễn Khắc Trường, anh Dương Hướng được giải thưởng cũng chính là năm kết thúc một thời kỳ của văn học VN.
+ Chứ không phải "mở ra một thời kỳ" như nhà phê bình Nguyên Ngọc nói?
- Vâng. Đó là thời kỳ tổng kết - tổng kết về chiến tranh, tổng kết về một thời đại đã qua. Còn sau đó văn đàn im hơi lặng tiếng vì nhà văn chưa nhìn ra mẫu số chung của thời kỳ mới. Khó lắm!
+ Vì thế mà bây giờ Bảo Ninh vẫn nhâm nhi: "Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi. Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương và cay đắng ngậm ngùi... " và than rằng "cuộc đời tôi kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng"... Người ta bảo anh "tịt" hẳn rồi
- bao nhiêu tinh lực đã trút hết cả cho Nỗi buồn chiến tranh còn đâu...
- Nếu không có cái khoản viết báo Tết thì đúng là tôi còn "tịt" luôn cả truyện ngắn. Nhưng thôi, hiện tôi đang viết một cuốn sách mới. Cũng vẫn đề tài chiến tranh. Vì nó gần với tôi nhất. Nhưng lần này là cái nhìn ở góc khác. Nhân vật là người làm việc cho chế độ Sài Gòn. Lúc viết, tôi chỉ nghĩ đến bạn bè cùng thời của tôi - những người đã chết... Với lứa chúng tôi thì chỉ "nhai" lại mình thôi.
Không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hy vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng... Có thể rồi chúng ta sẽ có cuốn tiểu thuyết vĩ đại của ngày hôm nay hoặc có thể không. Còn nhà văn lớn của chúng ta có thể đang là đứa trẻ đánh giày ngoài đường ấy...
Theo Thể thao và Văn hóa
Nhật trao Giải thưởng Văn hóa cho Nhà văn Bảo Ninh
Đỗ Trường:
Bảo Ninh, người làm lễ bỏ mả cho giai đoạn văn thơ minh họa
Bảo Ninh, người làm lễ bỏ mả cho giai đoạn văn thơ minh họa
“Nỗi buồn chiến tranh” – viết về chiến tranh thời hậu chiến, từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp
* 09/01/2013
Phạm Xuân Thạch
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm có số phận đặc biệt. Xuất bản lần đầu tiên năm 1990 với tiêu đề do các biên tập viên nhà xuất bản Hội nhà văn lựa chọn – Thân phận của tình yêu – chỉ một năm sau đó, cuốn sách đầu tay của nhà văn cựu chiến binh thuộc những thế hệ sinh viên đầu của Trường viết văn Nguyễn Du được tái bản với tiêu đề của chính tác giả – Nỗi buồn chiến tranh. Cũng trong năm đó, cuốn sách được giải thưởng của Hội nhà văn, một trong những giải thưởng văn chương quan trọng nhất ở Việt Nam. Khác với những tiểu thuyết khác cùng được trao giải trong năm này (Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của Dương Hướng), sự lựa chọn của Hội đồng xét giải dành cho tác phẩm của Bảo Ninh đã khiến cho trường hợp Nỗi buồn chiến tranh trở thành một trong những lựa chọn bị tranh cãi nhiều nhất trong số các giải thưởng văn chương của tổ chức văn học này cho đến hôm nay. Tính phức tạp của những đánh giá về tác phẩm thể hiện ngay từ cuộc tọa đàm về cuốn tiểu thuyết do Hội Nhà văn và Tuần báo Văn nghệ tổ chức trong năm 1991 và một loạt các bài viết sau cuộc tọa đàm. Bên cạnh những ý kiến đánh giá cao tác phẩm về nội dung và đặc biệt hình thức nghệ thuật (của Đỗ Đức Hiểu, Nguyên Ngọc, Trần Đình Sử…), có không ít nhà phê bình coi cuốn sách của Bảo Ninh là “điên loạn”, “rối bời”, “lố bịch hóa hiện thực”, “bôi nhọ quân đội” (bài viết của Đỗ Văn Khang trên tuần báo Văn nghệ số 43, ra ngày 26/10/1991). Và sau đó là sự im lặng và lãng quên. Cuốn sách hầu như vắng bóng trong các công trình, các tác phẩm phê bình và các chuyên luận về văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
Trong khi đó, ngay sau khi dành được giải thưởng ở Việt Nam, cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới và xuất phát từ nhiều mục đích cũng như hệ giá trị khác nhau, được đánh giá một cách nồng nhiệt. Tờ Independent, một trong những nhật báo có uy tín của nước Anh đã nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh : “Vượt ra ngoài sức tuởng tượng của người Mỹ, Nỗi buồn chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque(…). Một cuốn sách viết về sự mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn…một thành quả lao động tuyệt đẹp”. Hơn mười năm sau lần xuất bản đầu tiên, năm 2003, cuốn sách của Bảo Ninh lại lặng lẽ được tái bản và xuất hiện trong đời sống văn học ở Việt Nam : với tiêu đề Nỗi buồn chiến tranh (NXB Hội nhà văn, trong tuyển tập Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới – một sự thừa nhận ?) và Thân phận của tình yêu(NXB Phụ nữ). Lặng lẽ bởi ngoài các mục tin sách và thống kê doanh thu sách bán chạy của một vài tờ báo, cuốn sách hoàn toàn vắng bóng trong đời sống phê bình báo chí và đại học. Như vậy là gần mười lăm năm sau khi cuốn tiểu thuyết ra đời, những câu hỏi đặt ra từ chính tác phẩm dường như vẫn còn bị bỏ ngỏ. Là một cuốn tiểu thuyết về tình yêu bi thảm trong chiến tranh – về Thân phận của tình yêu- hay là một tiểu thuyết về Nỗi buồn chiến tranh – những suy nghiệm của một cá nhân, một nhân vật có vấn đề (un héros problematique – khái niệm của Lukacs) về thực tại lịch sử? Là một cách tân nghệ thuật dẫn tới một độ chênh với “tầm đón nhận” của công chúng và giới phê bình hay là một cuốn sách suy đồi về chiến tranh? Những câu hỏi vẫn còn đó và trong tất cả mọi trường hợp, sự im lặng hay lảng tránh không phải là một câu trả lời lý tưởng. H.G. Gadamer từng khẳng định : “Chúng ta chỉ thực sự hiểu một văn bản nếu chúng ta thực sự đã hiểu câu hỏi mà văn bản đó trả lời”.
Trước một hiện tượng văn học phức tạp như Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi giả định một cách đọc của riêng mình, ngõ hầu có thể chạm được đến bản chất của tác phẩm, chạm đến “câu hỏi mà văn bản đó trả lời” cũng như những câu hỏi đặt ra từ chính tác phẩm. Sự bùng nổ của những trường phái phê bình trong thế kỷ XX, đặc biệt ở các nước phương Tây, mở ra cho người nghiên cứu muôn vàn những ngả đường dẫn đến tác phẩm văn học. Dẫu vậy, cũng chính sự bùng nổ đó cũng khẳng định một thực tế : không một phương pháp nào có đủ khả năng trả lời được đầy đủ các câu hỏi đặt ra từ văn bản. Trước thực tế đó, một mặt cách đọc của chúng tôi sẽ đi thẳng vào tháo dỡ cấu trúc hình thức và từ đó khôi phục lại trường ngữ nghĩa của văn bản tiểu thuyết. Đồng thời, xuất phát từ một lối “đọc sâu” (close reading) cấu trúc văn bản chúng tôi đề xuất một thao tác đọc liên văn bản (intertextualité) tiểu thuyết của Bảo Ninh trong hệ thống sáng tác của chính anh và trong đời sống văn chưong giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới, đặc biệt, trong sự đối chiếu với những cây bút tiêu biểu của văn học chiến tranh thập niên 80 (Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Minh Châu…). Với một cách đọc như vậy, chúng tôi giả định có thể chạm đến tầng ngữ nghĩa thực sự ngõ hầu chạm đến những “câu hỏi còn bị treo lại” về một trong những tác phẩm phức tạp nhất của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới mà phác hoạ ra được những thay đổi có tính quy luật của văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh ở Việt Nam.
1. Từ những thách thức của lối viết
Có thể khẳng định, ở thời điểm Nỗi buồn chiến tranh ra đời, Bảo Ninh là một trong những cây bút quan trọng góp phần làm nên một cuộc cách mạng trong nghệ thuật tiểu thuyết ở Việt Nam. Anh đã chuyển dịch toàn bộ phạm vi tồn tại của nhân vật trung tâm từ đời sống xã hội vào đời sống tâm lý. Nhân vật chính trong tiểu thuyết của anh không phải là một con người hành động, anh không mô tả, kể, tái hiện lại đời sống xã hội của một con người (tồn tại trong xã hội, tiếp xúc với những nhân vật khác, xung đột và giải quyết xung đột … ) để từ đó khái quát những vấn đề nhân sinh. Trái lại, anh tái hiện lại một thế giới tâm lý đầy những dằn vặt, ẩn ức (trong đó có cả những ẩn ức tình dục – một yếu tố cho đến thời điểm đó không phải là quen thuộc đối với văn học Việt Nam), những hồi ức và những ám ảnh. Toàn bộ thiên truyện được xây dựng trên một tình huống giả định về một tự sự hai lần hư cấu. Trước hết, đó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất của nhà văn – cựu chiến binh Kiên về tuổi thơ, tuổi trẻ, những năm tháng trận mạc, cuộc đời hậu chiến và chính hành trình viết tiểu thuyết của anh. Đó là một cuốn tiểu thuyết được sáng tạo trong những cơn dằn vặt tinh thần và những xung đột nội tâm khủng khiếp nhưng câm lặng của Kiên, một cuốn tiểu thuyết mãi mãi không bao giờ được hoàn thành. Ngày Kiên rời bỏ khu phố và “ngọn hải đăng Ha le” – căn phòng viết của anh – cuốn tiểu thuyết chỉ là một đống bản thảo, không đánh số trang, bị xáo tung và nhiều trang bị đốt. Đến lượt mình, cuốn sách lại được người trần thuật (xưng tôi, lộ diện trong phần cuối cùng của tiểu thuyết – mà qua sự hé lộ ít ỏi về tiểu sử, người đọc có thể biết rằng cũng là một nhà văn – cựu chiến binh) tiếp nhận, sắp xếp lại, định dạng và hoàn chỉnh lại trong dạng thức cuối cùng. Tình huống hư cấu này chi phối toàn bộ nguyên tắc kết cấu của tác phẩm khiến cho Nỗi buồn chiến tranhmột mặt mang dáng dấp của một tiểu thuyết dòng tâm tưởng (nhưng không trong dạng thức thuần tuý nhất của thể loại này như những tác phẩm của M. Proust, J. Joyce hay W. Woolf); một mặt là một tiểu thuyết trong tiểu thuyết – hay chính xác hơn tiểu thuyết về tiểu thuyết (tương tự như Bọn làm bạc giảcủa A. Gide)[3].
Những dạng thức kết cấu nói trên khiến cho Nỗi buồn chiến tranh trở thành một thách thức đối với việc đọc của công chúng ở Việt Nam ít nhất cho đến thời điểm đó. Nó không có những xung đột nguời – người (ta – địch, người xấu – người tốt, người lạc hậu – người tiến bộ …) xuyên suốt toàn bộ thiên truyện. Nó không được phân chia thành những chương phần với những đường dây cốt truyện mạch lạc. Về cơ bản, toàn bộ tiểu thuyết được chia thành 7 phần dựa trên các cách trang thống nhất trong cả bốn bản in (năm 1990, 1991 và hai bản năm 2003). Những hồi ức của cựu chiến binh Kiên bị cắt vụn và phân tán trong các phần của văn bản. Có những hồi ức xuất hiện ngay từ trong phần đầu tiên (hồi ức về cái chết của người nữ giao liên Hoà, về nhà ga Thanh Hoá và Phương) như là những khúc ouverture báo hiệu những chủ đề chính của tác phẩm (cái chết của những người lính và sự huỷ diệt tình yêu…) và chỉ được tái hiện trọn vẹn trong những phần cuối cùng của thiên truyện. Và đa phần những hồi ức không được gắn bó theo một trật tự nhân quả hoặc thời gian đảm bảo cho sự trong sáng của kết cấu. Nó tương hợp với đời sống tinh thần của Kiên, một thế giới tâm lý đầy những ám ảnh và những dằn vặt khủng khiép. Nó tạo nên cho người đọc một thứ cảm giác đúng như cảm giác của người kể chuyện khi lần đầu tiên tiếp xúc với toà núi non bản thảo của Kiên : “Một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời”.
Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, sự thách thức đối với việc đọc còn được gia tăng bởi tính chất gây sốc của những chất liệu cấu thành nên tiểu thuyết. Sự bạo hành tràn ngập trong tác phẩm. Và song hành với bạo hành là những cái chết. Có cái chết buồn thảm như cái chết của cha và dượng Kiên hay cái chết của Can, người lính đào ngũ; có cái chết bi thảm như cái chết của những người đồng đội của Kiên trong chiến tranh. Có những trường đoạn miêu tả cái chết (trận thảm sát xóa sổ cả một đơn vị “mùa khô đầu tiên sau Hiệp định” – xuất hiện ngay từ phần đầu tiên của tiểu thuyết). Có những hình ảnh trở thành một thứ âm bản của sử thi chiến tranh (mùa mưa, những cánh rừng đại ngàn, thời kỳ bài bạc, ma tuý “hồng ma”, mối quan hệ dị thường giữa những người lính trinh sát trong đơn vị của Kiên và những cô gái thủ kho trong rừng già…). Có hình ảnh buồn bã về ngày chiến thắng trĩu nặng những dự cảm kinh hoàng về sự tổn hại của nhân tính trong nhà ga hàng không Tân Sơn Nhất. Và đồng thời, lần đầu tiên, những ẩn ức và đời sống tình dục được người viết đưa vào tác phẩm và trở thành một chiều kích không thể quy giản trong cuộc đời của nhân vật chính.
Vậy phải chăng Nỗi buồn chiến tranh là một “tiểu thuyết đen” về chiến tranh, bấn loạn, “rối bời” và đầy những hình ảnh kinh hoàng về chiến tranh giải phóng dân tộc và những mảnh đời chiến bại của những cựu chiến binh trong những năm tháng hậu chiến ?
2. Những mạch ngầm văn bản
Như đã trình bày, Nỗi buồn chiến tranh là một tiểu thuyết hướng nội và chủ quan hoá triệt để. Những xung đột và những vận động cơ bản của tiểu thuyết đều diễn ra trong thế giới nội tâm của nhân vật. Mở ra bằng mùa mưa đầu tiên ở Cánh Bắc sau chiến tranh và cuộc hành trình đi tìm hài cốt đồng đội của Kiên trong những cánh rừng già, những dự cảm của Kiên báo hiệu những xung đột cơ bản trong cuộc đời anh. Trước hết đó là xung đột giữa một ham muốn trở về với cuộc sống hoà bình và quên đi quá khứ với dự cảm về chuyện “quên thật là khó”, “chẳng biết đến bao giờ thì lòng mình mới có thể nguôi nổi, trái tim mình mới thoát khỏi gọng bàn tay xiết chặt của những kỷ niệm chiến tranh. Những kỷ niệm có thể là êm đềm, có thể là ác hại nhưng đều đã để lại những vết thương mà tới bây giờ một năm đã qua, hay mười năm, hay hai mươi năm nữa vẫn còn đau, đau mãi”. Dự cảm đó cụ thể dần thành ý thức về một cuộc đời “khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng” mà “lòng tin và lòng ham sống không phải là những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng”. Tiếp đó là xung đột giữa những “tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh” và sự thôi thúc bên trong của việc viết, một thứ “nghịch lý hiểm nghèo của bút pháp”. Anh cảm thấy bị thôi thúc bởi việc viết, “viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt bằng thì quá khứ và quá khứ của quá khứ” nhưng đồng thời đó lại là một cái viết đối lập với tất cả những gì anh đã sáng tạo và cố gắng sáng tạo. Hai xung đột nội tâm cơ bản trong cuộc đời của Kiên được anh ý thức một cách thiêng liêng thành một “thiên mệnh” chi phối sự sinh tồn của anh trong những ngày hậu chiến, “thiên mệnh” dẫn dắt anh trong hai cuộc phiêu lưu cuối cùng cả cuộc đời : hành trình tìm lại và phục sinh quá khứ và hành trình sáng tạo văn chương.
Nỗi buồn chiến tranh là hành trình đau đớn của một số phận dị kỳ tìm lại quá khứ của mình. Suốt dọc hành trình sống của Kiên, số phận giống như một thứ lực ly tâm hất văng những người thân thiết nhất ra khỏi cuộc đời anh. Hoặc họ lặng lẽ rời bỏ khỏi anh (Mẹ, Phương…) hoặc cái chết giật họ khỏi cuộc đời anh (cha, dượng, những người đồng đội…) Những cái chết và khoảng trống tâm hồn để lại sau những cái chết chính là nguồn động lực thúc đẩy cuộc hành trình ngược về quá khứ của Kiên – cuộc hành trình tìm lại ý nghĩa ẩn dấu sau những cái chết buồn bã / hoặc đau đớn của những người thân, người đồng đội. Toàn bộ cuộc đời hậu chiến của Kiên bị trôi đi trong cuộc hành trình “đi tìm thời gian đã mất” đó, từ những dự cảm ban đầu cho đến những giác ngộ của anh về nỗi buồn chiến tranh (phần 3) và chân lý về những cái chết trong chiến tranh (phần 4).
Song song với hành trình tâm tưởng tìm về ký ức là cuộc hành trình của sáng tạo văn chương. Mạch vận động này được khởi phát từ phần thứ hai của tiểu thuyết từ những thôi thúc nội tâm về một cái viết kỳ lạ gắn liền với một “thiên mệnh” của cuộc đời, một cái viết xung đột với tất cả những tín điều văn chương mà Kiên vẫn tin tưởng và theo đuổi. Chỉ đến những phần cuối cùng của thiên truyện thì thiên chức ấy mới được hiển hiện trong một sự thức nhận toàn vẹn những chân lý về chiến tranh, về trách nghiệm của chính anh – người sống sót sau chiến tranh – trong cuộc đời hậu chiến và về ý nghĩa thực sự của nghề viết văn. Không phải vô lý khi Kiên thừa nhận “cuốn tiểu thuyết đầu tay cực kỳ bấp bênh và còn vô cùng dang dở này như là một cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả cuộc đời làm lính của anh, đồng thời là một sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự sinh tồn của anh không chỉ trên tư cách một người cầm bút”. Đối với Kiên, một người sống sót qua những khủng khiếp của cuộc chiến, sống nghĩa là mang món nợ với những người đã khuất, đúng như anh thú nhận : “Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được hưởng nhiều may mắn hơn thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã được sống, chiến đấu, trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mắt Kiên hoặc là đã chết trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng Kiên. Nhiều người hy sinh bởi lỗi lầm của anh”. Và như vậy, đối với Kiên, sống gắn liền với trách nghiệm nói thay lời trăn trối của những nguời đã chết trong chiến tranh, những “đồng đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”, để làm cho tiếng nói chung của một thời đại “đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh những chan chứa tình người” không bị chìm vào quên lãng và sự vô tình của “nền hòa bình thản nhiên” hậu chiến. “Thiên mệnh” ấy chính là sức mạnh duy nhất duy trì cuộc sống thời hậu chiến của Kiên, là sức mạnh níu kéo anh lại với cuộc đời trong những phút giây cận kề cái chết và sự suy sụp tinh thần (phần 3). Công cụ duy nhất của anh để thực hiện chức trách ấy chính là văn chương. Đó chính là con đường khiến cho Kiên trở thành một nhà văn “tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri của những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ”. Có thể nói, đối với Kiên, thiên chức văn chương cũng chính là thiên chức cuộc đời.
3. Thế giới nhân vật – biểu tượng và ý nghĩa
Nhân vật là một chất liệu có tính bản thể của tự sự. Tương tự như văn bản, chất liệu đó có thể được soi sáng từ nhiều chiều kích khác nhau. Nhân vật của một tự sự có thể được hành xử như một thực thể sống, có đời sống tâm lý và đặc biệt những ẩn ức tâm lý được dấu kín[4]. Nhân vật cũng có thể là hình chiếu của những dồn nén tâm lý hoặc sự phản chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc được coi như hình chiếu của đời sống xã hội. Dẫu vậy, trước hết, nhân vật – chính xác hơn thế giới nhân vật – là một cấp độ chất liệu của văn bản và trong ý nghĩa đó, nếu như văn bản cógiá trị tạo sinh nghĩa độc lập thì nhân vật cũng cần phải được ứng xử như một hệ thống có quan hệ nội tại và giá trị của các yếu tố được tạo sinh từ mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống này. Từ nhận thức đó, chúng tôi đề xuất một cái nhìn có tính ký hiệu học về nhân vật tự sự đối với tác phẩm của Bảo Ninh.
Có ba tuyến nhân vật chạy song song trong cuộc đời của Kiên : những người phụ nữ, những người đồng đội và những người thân (cha, mẹ, dượng). Đa phần trong số họ hiện diện trong hình hài của những ký ức, không tiểu sử, thậm chí, có những nhân vật chỉ là những tiếng nói vang vọng trong lương tâm của Kiên. Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn gắn liền với cái chết. Hoặc họ là nạn nhân của cái chết, hoặc họ là người gây ra cái chết. Cái chết phản ánh bản chất hai mặt của chiến tranh. Nó gắn liền với bạo lực,thứ bạo lực tăm tối hủy diệt con người “chà đạp, hành hạ, (…), làm nhục, (…), giết chết, (…) chôn vùi, quét sạch, tuyệt diệt”, nó chà đạp lên nhân tính của con người và hủy diệt “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương”, nó khơi dậy bạo lực và sự tàn bạo trong con người, sự dửng dưng với cái ác. Ở phương diện đó, vết thương khủng khiếp nhất mà chiến tranh để lại không chỉ là sự thương tổn và cái chết cụ thể mà quan trọng hơn, là sự chà đạp lên nhân tính. Ở một phía khác, cũng chính cái chết của những người đồng đội phản ánh một phương diện khác của chiến tranh : cái đẹp của tình người. Điều đó được đúc kết trong một chân lý thật đơn giản : “những con người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi đời này nhưng đã lẳng lặng chấp nhận quy luật đơn giản của chiến tranh : mình chết thì bạn mình sống !”. Tiếng nói, kỷ niệm và những hồi ức của những đồng đội đồng vọng vào dòng tâm tư của Kiên, chiếu dọi vào hiện thực tàn bạo của chiến tranh, làm phát lộ nỗi đau đích thực của con người trong chiến tranh – nỗi đau của nhân tính (mà trong đó vang vọng lời cảnh báo của người lính ở phi trường Tân Sơn Nhất trong ngày giải phóng : “liệu mà coi chừng nhân tính”) – và làm ngời sáng vẻ đẹp của tình người trong chiến tranh.
Một tuyến nhân vật chủ đạo khác trong Nỗi buồn chiến tranh lànhững người phụ nữ đi qua cuộc đời Kiên. Trong tiểu thuyết, người phụ nữ là hiện thân của tình yêu – đối âm của chiến tranh. Tình yêu gắn liền với cái đẹp, với nhân tính là cái đối lập với bạo lực hủy diệt nhân tính. Nếu như chiến tranh đánh thức trong Kiên phần tàn tạo, biến anh thành một cỗ máy, “âm thầm và mệt mỏi” – nghĩa là vô cảm – của sự giết chóc thì những người phụ nữ từ Hạnh cho đến Phương, đến người nữ y tá trong Điều trị 8 (một hóa thân của Phương) lại đánh thức trong anh tình yêu, một tình yêu mà cho đến tận cuối cuộc đời anh, vĩnh viễn không trọn vẹn. Những người phụ nữ hóa thân thành những tiếng gọi níu kéo Kiên không chỉ với cuộc sống và cả với cái thiện, nhân tính và tình người. Trong khoảnh khắc khi anh chuẩn bị thực hiện cuộc hành quyết những người lính đối phương, chính tiếng nói của Phương (“Anh sẽ giết nhiều người chứ ?” “Sẽ thành anh hùng chứ?”) đã níu kéo anh ở lại ở phía bên này của cái thiện. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng của cuộc đời, người phụ nữ hiển hiện như nơi trú ẩn của cuộc đời anh (hiển hiện qua hình ảnh người thiếu phụ ở Đồi Mơ) và là ngọn nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo trong anh (Phương và người đàn bà câm). Có thể nói trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, người phụ nữ là biểu tượng cho cái Đẹp và Nhân tính, những thứ có ý nghĩa với cuộc đời Kiên như một sự cứu rỗitrong một thế giới khủng khiếp của chiến tranh.
Trong ý nghĩa đó, hình tượng người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh có một sự đồng vọng với hệ thống hình tượng những người đồng đội đã chết của Kiên. Người phụ nữ không chỉ là ánh sáng cứu rỗi cuộc đời con người mà còn là nạn nhân của sự hủy diệt. Điều đó được biểu thị tập trung trong hình tượng Phương, người phụ nữ xuyên suốt cuốn tiểu thuyết. Đối với Kiên, Phương là người đánh thức tình yêu trong anh thời tuổi trẻ, là nguồn sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiến trận của anh nhưng đồng thời, Phương cũng là một nạn nhân của chiến tranh, bị làm nhục ngay trong những giờ khắc khởi đầu của cuộc chiến và mối tình của họ mãi mãi là một mối tình đau khổ không thành với những vết thương không thể chữa lành trong cuộc sống thời bình. Cái chết của những người lính, sự tan vỡ của tình yêu và sự chà đạp nhân phẩm người phụ nữ là những mặt biểu hiện sức mạnh hủy diệt của chiến tranh, sức mạnh chà đạp lên đời sống con người.
Từ góc nhìn này, có thể dọi một ánh sáng khác vào mối quan hệ kỳ lạ vượt qua tuổi tác giữa cha của Kiên và Phương. Cha và dượng của Kiên thuộc về cùng một hệ thống, chính xác hơn, một kiểu nhân vật. Họ nổi bật ở sự yếu đuối và lạc loài. Họ là những hình ảnh cuối cùng buồn bã của một lớp người đã qua, một thứ chứng tích của thời thuộc địa, những “nhà thơ thời tiền chiến” (dượng của Kiên) và những hoạ sĩ thời “mỹ thuật Đông Dương” (cha của Kiên). Cắm rễ vào một thời đại “nhất khứ bất phục phản”, không thể hoà nhập vào đời sống và thời đại hiện tại (những dằn vặt về sáng tạo bộc lộ qua những cơn mê sảng của cha Kiên), họ như những cái bóng hiu hắt của quá khứ giữa thời hiện tại. Ở phương diện đó những con người này vừa có ý nghĩa như một sự đối chiếu (cái lãng mạn và một thứ tự do cá nhân của một thời đã qua và cái anh hùng của một thời đang đến, một thời bão táp và cách mạng của thế hệ Kiên), vừa nổi bật ở một khả năng tiên cảm về thời đại sắp tới. Khả năng tiên cảm ấy thể hiện ở những lời tiễn biệt buồn bã như một lời trăn trối của dượng với Kiên trước ngày anh ra trận trong ngôi nhà nhỏ bên sông Hồng. Nó thể hiện trong cái nghi thức “man rợ và dấy loạn” của cha Kiên đốt đi toàn bộ tác phẩm của mình trước khi ông từ dã cõi đời. Đối với ông, hành vi đốt tác phẩm thể hiện điểm tột cùng của một sự lạc loài của một tâm hồn trong thời đại mới đồng thời cũng là tiên cảm về mặt bên kia của một thời đại chiến tranh đang tới, một thời đại anh hùng nhưng tột cùng đe doạ đối với cái Đẹp – cái giá đau đớn của chiến tranh. Mối quan hệ và những tình cảm của cha Kiên giành cho Phương vượt ra ngoài trường ngữ nghĩa của những tình cảm thông thường của con người. Đó là sự chiêm ngưỡng Cái Đẹp (ở ý nghĩa phổ quát) của một người nghệ sĩ và sự lo âu của một người thấu thị trước tương lai về những mối đe doạ đối với Cái Đẹp.
Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, hình tượng người cha nghệ sĩ của Kiên cũng có giá trị như một thứ Đạm Tiên báo trước cuộc đời anh. Đi qua chiến tranh với hành trang là những kỷ niệm “có thể là êm đềm, có thể là ác hại”, Kiên trở thành người bị cầm tù của quá khứ với một thứ “thiên mệnh” thiêng liêng ngược về quá khứ. Anh cũng phải trải qua những vật vã trong sáng tác và những đau đớn trong cuộc đời hiện tại như cha mình. Và hành động cuối cùng trong cuộc đời nghệ sĩ của anh cũng là một nghi lễ thiêu huỷ toàn bộ sản phẩm tinh thần của cuộc đời mình. Hành động đó mang một ý nghĩa hai mặt. Với Kiên, hoàn thành cuốn tiểu thuyết đồng nghĩa với việc hoàn tất một thiên chức, thiên chức “kể lại, viết lại, làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa”, thiên chức nói thay lời trăn trối của những người đã khuất, lời trăn trối về “sự nghiệp liêng đau khổ của người lính chống Mỹ”, để cho tiếng nói của “cả một thế giới, một thời đại, cả một lịch sử” không bị vùi xuống lòng sâu đất ẩm cùng với thân xác vô danh của những người lính, cho dù “bản thân việc nhận thức ra được lời trăn trối đó chẳng mang lại gì nhiều cho đời sống hiện tại”. Đối với Kiên, nếu như thiên chức viết văn đồng nghĩa với thiên chức cuộc đời thì khoảnh khắc khi anh hoàn thành tác phẩm, thách thức cuối kết của cuộc đời, cũng là thời điểm anh thức nhận được trọn vẹn nhất chân lý của cuộc đời anh cũng như những năm tháng trận mạc. Vượt qua những kinh hoàng và bạo hành của chiến tranh, vượt lên trên cái sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, cái còn lại, cái sức mạnh thực sự “làm nên vẻ đẹp tinh thần của cuộc kháng chiến”, cái bất tử mà chiến tranh không thể huỷ diệt nổi chính là Nhân tính và Tình người “bất diệt những tình nguời”. Chỉ khi thức nhận được chân lý bình dị nhưng cũng đau đớn đó Kiên mới có thể giải thoát khỏi gánh nặng của những ám ảnh đen tối của quá khứ. Ở đó hành vi đốt bản thảo và từ bỏ “ngọn hải đăng Hale”, căn phòng và khu phố kỷ niệm có ý nghĩa như một giải thoát trong một sự giác ngộ thiêng liêng. Khác với những nhân vật điển hình của mỹ học phản ánh xã hội, những hình chiếu của những tấng lớp xã hội, hình tượng Kiên và người cha của anh trước hết cần được hiểu những số phận dị thường, những thực thể cô độc và cá biệt mà một thứ “thiên mệnh vô danh, thiêng liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn” đã buộc họ phải trải qua những cảnh huống đầy trái ngược của lịch sử, đúng như Kiên đã thú nhận : “Chính bởi thiên mệnh ấy mà anh có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế và tóm lại, một cuộc sống như đã sống suốt bốn chục năm qua với những đau khổ và hạnh phúc như thế. Cũng vì mang trong đời một định mệnh huyền cơ nào đấy nên anh mới có thể sống sót qua cuộc chiến tranh với những hoàn cảnh mà bình thường ra không thể có cơ hội thoát chết. Ánh sáng trong suốt và hình bóng vô hình của một thiên mệnh như thế thực ra đã từng biểu hiện trong đời anh nhưng thoảng lướt và bất chợt đến nỗi không bao giờ anh kịp hiểu, không bào giờ kịp níu giữ”.Vị thế cô độc và số phận dị thường ấy giúp họ nhìn thấy được những góc khuất của lịch sử. Cái nhìn của họ không phải là sự phản chiếu cái nhìn cộng đồng về lịch sử mà nó là một cái nhìn, một suy nghiệm cá nhân về lịch sử. Chỉ có điều, nếu như cha của Kiên sau khi đã thấu thị những đe doạ của một thời đại mới đối với cái đẹp, ông dừng lại ở bên này cánh cửa của lịch sử (cái chết về tinh thần – đốt tranh – và thể xác trước chiến tranh) thì Kiên lại đi theo một hành trình khác : dấn thân vào chiến tranh, trải nghiệm những cảnh huống kinh hoàng của chiến tranh và ra khỏi chiến tranh với gánh nặng của những kỷ niệm đau đớn. Tuy vậy, bằng một ý chí sống thấm đẫm màu sắc chủ nghĩa anh hùng, trong những ngày tháng hậu chiến, anh đã vật lộn với những ám ảnh quá khứ để đạt đến một sự thấu thị về ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh, về những gì bất diệt trong chiến tranh, về những gì mà bạo hành và cái chết không thể huỷ diệt : “vĩnh cửu những tình người”. Theo chúng tôi, đó chính là chìa khoá để “đọc sâu” (close reading) tác phẩm vào loại gây tranh cãi nhiều nhất của văn học đương đại này. Sự thức nhận của nhân vật chính trong thời điểm kết thúc cuộc hành trình tâm tưởng của anh trong những ngày hậu chiến phản ánh một dạng thức của chủ nghĩa anh hùng : đối diện với sự thật đau thương của chiến tranh để chạm đến ý nghĩa đích thực, đẹp đẽ và cao cả của cuộc chiến – một thứ chân lý cao cả được giác ngộ từ những trải nghiệm đau đớn. [5] Ở đó, anh nhận ra cái bản chất hai mặt của chiến tranh : “Những ngày đau thương nhưng vinh quang. Những ngày bất hạnh nhưng tràn ngập tình người”. Chính vì vậy nên với Kiên trở về với những hồi ức của chiến tranh không chỉ là trở về với những ám ảnh kinh hoàng của trận mạc mà còn là cuộc hành trình trở về để được “sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã biến mất, đã già cỗi hoặc biến tướng. (…) về gần với tình yêu, với tình bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua ngàn nỗi đau đớn của chiến tranh”. Và bay bổng trên cuộc hành hương ngược về quá khứ, trên sự thức nhận nhọc nhằn, đau đớn nhưng tuyệt đẹp đó là nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn của những con ngưòi đã đi qua và trải nghiệm chiến tranh, đã chứng kiến sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, chứng kiến sự trỗi dậy của cái ác trong chiến tranh, chứng kiến những gì tốt đẹp nhất bị giết chết trong chiến tranh, chứng kiến “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương” bị tước đoạt sự sống trong chiến tranh. Nhưng cũng chính sự dai dẳng của nỗi buồn ấy cũng là minh chứng cho một cái gì không thể bị huỷ diệt bởi chiến tranh : Nhân tính và Tình người. Đó chính là cảm giác mà Người trần thuật khái quát trong điểm kết thúc cuốn tiểu thuyết : “Nhưng chúng tôi cùng chia xẻ chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mông, nối buồn cao cả, vượt lên trên mọi niềm hạnh phúc, mọi nỗi bất hạnh. Nhờ có nó, chúng tôi đã sống sót qua cuộc chiến, thoát khỏi cảnh giết chóc triền miên, thoát khỏi sự bao vây đau đớn của súng đạn, lưỡi lê, sự ám ảnh của bạo hành để trở về, mối ngưòi theo một con đường khác nhau, với cuộc đời, một cuộc đời, không chắc đã hạnh phúc hơn, (…), nhưng đó là cuộc đời tốt đẹp nhất mà chúng tôi có thể mơ ước, cuộc sống trong hoà bình”. Trong ý nghĩa cuối cùng của tác phẩm đó, có lẽ, đã đến lúc phải trả lại tên thật cho cuốn tiểu thuyết : Nỗi buồn chiến tranh.
4. Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và con đường mới viết về chiến tranh trong thời hậu chiến
Ở điểm cuối cùng của một hành trình xuyên qua các lớp cấu trúc hình thức và biểu tượng của văn bản tiểu thuyết, có thể khằng định, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử – hiện thực chiến tranh. Mới trong sự đối chiếu với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trước 1986. Cái mới ở đây được xác định không chỉ ở việc anh đưa vào trong tác phẩm của mình những chất liệu hiện thực chưa từng có trong văn học chiến tranh (dẫu điều này cũng có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trước hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một phương pháp tiếp cận hiện thực khác với phương pháp điển hình hoá của văn học hiện thực truyền thống. Anh không tiếp cận hiện thực thông qua những nhân vật điển hình, hoặc mang tính phản ánh, hoặc mang tính lý tưởng (trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ là sự kết hợp cả hai yếu tố này). Anh xây dựng và tô đậm tính cá biệt của số phận nhân vật. Anh rời bỏ phạm vi tồn tại xã hội và đi sâu vào chiều kích tâm lý của nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật chính trong cuốn sách của Bảo Ninh có giá trị vừa như một số phận đặc biệt, vừa như một thứ Nhân vật – Người chứng. Dạng thức này tạo nên một khoảng cách giữa nhân vật và hiện thực lịch sử đồng thời thay đổi bản chất quá trình phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Theo đó, nhà văn không mô tả trực tiếp hiện thực mà “ghi lại” hình chiếu của hiện thực qua tấm gương một ý thức cá nhân. Trong một tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II (TP Hồ Chí Minh – 2004), chúng tôi xác định phương thức phản ánh hiện thực này là một phương diện của quá trình cá nhân hoá hư cấu.
Trong một cái nhìn rộng hơn, sự xác lập cái nhìn mới về hiện thực trong tiểu thuyết của Bảo Ninh tương ứng với những thay đổi về quy chế tồn tại của người nghệ sĩ và đời sống văn học và đời sống xã hội. Nỗi buồn chiến tranhđược ra đời từ những thay đổi của văn học Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới mà một trong những tiến trình nòng cốt chính là khẳng định vai trò độc lập của cá nhân nghệ sĩ trong đời sống văn học nghệ thuật. Đó cũng là thời điểm cố nhà văn Nguyễn Minh Châu công bố tiểu luận Hãy viết lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ trên tuần báo Văn nghệ. Xuyên qua lớp ngôn từ gây sốc của bài tiểu luận có ý nghĩa như một lời di chúc của nhà văn quân đội đã trải qua chiến tranh giải phóng dân tộc, có thể nhận thấy một tiếng gọi khẩn thiết kêu gọi tinh thần trách nghiệm của từng cá nhân nghệ sĩ trong mối quan hệ với đời sống xã hội, theo đó, người nghệ sĩ không chỉ phản chiếu cái nhìn về hiện thực của cộng đồng mà còn có trách nghiệm, bằng lao động nghệ thuật, làm phong phú hơn cái nhìn đó bằng những sáng tạo cá nhân. Trong một cái nhìn có tính liên văn bản (intertextualité), có thể thấy kiểu Nhân vật – Người chứng, hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của kiểu nhân vật này và môtíp chuyến đi tìm hài cốt đồng đội (có ý nghĩa như một ẩn dụ) trong tác phẩm của Bảo Ninh cũng từng được báo trước trong những tác phẩm có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong văn học chiến tranh của Nguyễn Minh Châu : Mùa trái cóc ở miền Nam và Cỏ lau. Khoan hãy nói đến những quan hệ kế thừa và ảnh hưởng thì cũng có thể khẳng định sự đồng vọng của một loạt vấn đề lớn của văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến đồng vọng trong sáng tác của những tác giả này : thân phận con người trong chiến tranh (sự mất mát tuổi thanh xuân và sự tan vỡ của tình yêu…), sự sám hối trước những món nợ của chiến tranh, suy tư về nhân tính trong chiến tranh và sau chiến tranh. Mở rộng trường khảo sát, có thể nhận thấy sự tương đồng trong cái nhìn về mặt trái của hiện thực chiến tranh (những thất bại trên chiến trường, hình ảnh kẻ đào ngũ, những cái chết trong chiến tranh…) trong tiểu thuyết của Bảo Ninh và một trong những tác giả đầu tiên của làn sóng đổi mới văn học chiến tranh : Nguyễn Trọng Oánh và tiểu thuyếtĐất trắng.
Như vậy, với những đối chiếu vừa mang tính xã hội học văn học, vừa mang tính liên văn bản, có thể xác lập lại cuộc đối thoại giữa tác phẩm của Bảo Ninh và đời sống văn học đương thời. Cuốn tiểu thuyết của anh nằm trong một dòng chảy chung của văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh. Có những thao thức xuyên suốt sáng tác của những nhà văn viết về chiến tranh thời hậu chiến này. Là những công dân, họ viết về chiến tranh trong một trách nghiệm văn hoá : tìm đến cội nguồn lý giải sức mạnh của con người Việt Nam đi qua cái tàn khốc của chiến tranh và làm nên Chiến thắng. Là những người lính, họ viết về chiến tranh trong một món nợ tinh thần với những người đã khuất : làm sống lại hình ảnh của những “đồng đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”. Là những nghệ sĩ có bản lĩnh trí thức, họ đối diện với thực tại của chiến tranh để phản ánh được những mất mát thật sự đối với một dân tộc : sự tổn thương nhân tính và tình người. Điều này đặc biệt được thể hiện một cách đậm đặc trong hai bản di chúc nghệ thuật cuối cùng của Nguyễn Minh Châu : Mùa trái cóc ở miền Nam và Cỏ lau. Độ lùi thời gian sau chiến tranh và nền văn hóa hậu chiến đặt ra cho tác phẩm của họ những câu hỏi khác với văn học viết về chiến tranh trong chiến tranh.
Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy những khuynh hướng nghệ thuật của những nhà văn đi trước đến một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu thuyết – ký sự như Đất trắng) để theo đuối tiểu thuyết tâm lý. Anh đưa vào những chiều kích hiện thực chưa từng có trong tiểu thuyết của những nhà văn thế hệ trước : yếu tố tình dục, những “hình ảnh đen” về chiến tranh,… Nhưng đồng thời, anh cũng sáng tạo nên một sắc thái anh hùng mới của văn học viết về chiến tranh. Trong Nỗi buồn chiến tranh, những mất mát và đau thương mà con người phải chịu đựng trở thành một chiều kích không thể quy giản. Không lẩn tránh hoặc trừu tượng hoá chiều kích đó, Bảo Ninh cụ thể hoá nó thành những dòng tâm tư khủng khiếp của những ám ảnh theo đuổi cựu chiến binh Kiên suốt quãng đời hậu chiến. Dẫu vậy, trong anh, những đau đớn của cuộc sống hiện tại còn xuất phát từ sự lạc lõng của anh trước “nền hoà bình thản nhiên thời hậu chiến”. Chính sự xung đột ấy khơi dậy trong anh cái thiên mệnh phải làm phục sinh lại quá khứ, như một cuộc đấu tranh chống lại sự lãng quên. Và cũng chính trong cuộc hành trình đau đớn để làm phát lộ những chân lý đầy nhân bản về chiến tranh và con người trong chiến tranh đó, hắt lên một ánh sáng khác vào toàn bộ quá khứ trận mạc của anh. Đối với Kiên, “sống ngược trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu”, “làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa” có ý nghĩa như một “con đường cứu rối của anh”. Cứu rỗi bởi lẽ quãng đời chiến trận dẫu là quãng đời khủng khiếp nhất mà anh đã phải trải qua những cũng là quãng đời đẹp đẽ nhất mà một con người có thể được sống. Trở về với quá khứ chính là trở về với tất cả những gì đẹp đẽ nhất đó, trong một thứ ánh sáng thiêng liêng. Cảm giác đó sau này sẽ được tô đậm trong một truyện ngắn tuyệt đẹp của chính Bảo Ninh về Hà Nội lúc không giờ. Đó là cảm giác của một con người tìm thấy lại được quá khứ của mình trong một giác ngộ thiêng liêng : “(…) thời gian càng nhích sâu vào trời khuya để đến với ngày mai thì chúng tôi càng về gần hơn với Hà Nội những đêm xưa, với Hà Nội trong vắt lúc không giờ. Về gần hơn với bạn bè một lứa bên trời, về gần hơn với tình yêu ban đầu, về gần hơn với tuổi thơ non dại. Sinh ra, lớn lên, rồi làm lụng, rồi chiến đấu và hy sinh cho thành phố này, thế hệ chúng tôi được hưởng phép mầu của nó, trở thành một thế hệ mãi mãi tuổi thanh xuân của một thành phố trẻ trung vĩnh hằng”.
Nếu như ký ức chiến tranh trở thành một ám ảnh đeo đẳng nhân vật trong tiểu thuyết của Bảo Ninh thì đối với anh, Nỗi buồn chiến tranh cũng trở thành một tác phẩm ám ảnh toàn bộ sự nghiệp sáng tác của anh, ít nhất cho đến thời điểm hiện tại. Sau Nỗi buồn chiến tranh, anh hầu như chỉ sáng tác những truyện ngắn. Thế giới những truyện ngắn đó giống như những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi sáng thế giới của tiểu thuyết. Một loạt chủ đề truyện ngắn của anh như những mất mát của tuổi trẻ và tình yêu trong chiến tranh (Hà Nội lúc không giờ, Khắc dấu mạn thuyền, Rửa tay gác kiếm…), ký ức về thời thuộc địa và những con người thời thuộc địa (La Mácxâye, Tiếng vĩ cầm của kẻ thù,…), .. giống như một vệt kéo dài vang vọng của những môtíp đã hiển hiện trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh. Có những chủ đề mà đối chiếu với Nỗi buồn chiến tranh, ngưòi đọc có thể tìm thấy một sự soi sáng những ý nghĩa còn ẩn dấu của cuốn tiểu thuyết (Hà Nội lúc không giờ). Có những chủ đề như một sự tiếp nối và mở rộng của Nỗi buồn chiến tranh : khát vọng hoà giải dân tộc sau chiến tranh (Lá thư từ Quý Sửu) hay rộng hơn, những suy tư về toàn bộ lịch sử dân tộc và sư hàn gắn những chia rẽ giữa con ngưòi sau những bão táp lịch sử (Thời tiết của ký ức). Một lối đọc có tính soi sáng lẫn nhau như vậy cho phép phát lộ bản chất đích thực của Nỗi buồn chiến tranh, nó không phải là một đối âm của những tượng đài văn học chiến tranh mà văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tạo dựng qua hai cuộc chiến tranh lớn của lịch sử dân tộc. Nó là một sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử.
Bảo Ninh thuộc về một kiểu người viết đặc biệt của văn học Việt Nam đương đại : những nhà văn từng đi qua chiến tranh với tư cách người lính. Ở Việt Nam, hầu hết những thành tựu chính của văn học viết về chiến tranh đều thuộc về kiểu tác giả này. Một số người trong số họ không còn nữa, một số người vẫn tiếp tục sáng tác (Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Bảo Ninh …). Nhưng, bằng những thành tựu nghệ thuật không thể phủ nhận của văn học viết về chiến tranh từ 1986 đến nay, những nhà văn này đã khẳng định cho một con đường tìm tòi nghệ thuật : nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh, bằng những trải nghiệm và cái nhìn cá nhân, tái hiện lại cái chiều kích đau thương và bộ mặt tàn khốc không thể quy giản của chiến tranh, nói lên tiếng nói cảnh báo về những hiểm hoạ của chiến tranh để lại sau chiến tranh nhưng đồng thời, phục dựng lại hình ảnh của những con người bằng sự chịu đựng và sức mạnh anh hùng đã thực sự làm nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến, tái sinh lại những khát vọng nuôi dưỡng cả một dân tộc trong chiến tranh. Ở điểm đó, có thể khẳng định về sức sống không thể phủ nhận của một con đường nghệ thuật.
Aix en Provence, 12/2004
[1] Nguyễn Trãi, Cáo Bình Ngô. Dịch : Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo
[2] A. Camus, Discours de Suède (Diễn từ ở Thuỵ Điển). Dịch : Nhà văn phục vụ những kẻ chịu đựng lịch sử
[3] Về sự đối chiếu mô hình tiểu thuyết của Bảo Ninh và một số tiểu thuyết gia Âu Châu thế kỷ XX, xin xem Đỗ Đức Hiểu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, in trong sách Thi pháp hiện đại, phần III- Phê bình truyện, NXB Hội nhà văn, HN, 2000
[4] Về khuynh hướng tiếp cận phân tâm học các tác phẩm của Bảo Ninh và một số nhà văn đương đại khác (Nguyền Minh Châu, Dương Hướng, Võ Thị Hảo,…), có thể xem một số bài viết của nhà phê bình Đoàn Cầm Thi công bố trên website www.evan.com.vn : Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại và Về nhân vật Phương, người phụ nữ Hà Nội và chủ đề chiến tranh trong tiểu Nỗi buồn chiến tranh.
[5] Trong một cuộc trả lời phỏng vấn gần đây, khi được hỏi về cuộc sự xung đột giữa nhân vật trong tiểu thuyết và thực tại như “một dạng Hămlét muộn màng”, Bảo Ninh thú nhận : “Nhân vật của tôi có dằn vặt, có nội tâm nhưng chưa phải là trí thức. Họ là bộ đội, họ suy nghĩ như vậy, thế thôi”. Chúng tôi hiểu phương diện “bộ đội” (ở ý nghĩa thiêng liêng nhất của khái niệm) trong những nhân vật của Bảo Ninh, đặc biệt trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ở phương diện đầy mầu sắc anh hùng này.
Nhà văn Bảo Ninh: Văn học Việt Nam rất đáng đọc
HOÀNG KIM ANH
Không giống như nhiều người làm văn nghệ ở nước ta, nhà văn Bảo Ninh là người tương đối kiệm lời. Trong các cuộc trà dư tửu hậu với bạn bè, bao giờ anh cũng đóng vai là người nghe nhiều hơn là tham gia vào diễn đàn “tranh khôn, tranh dại”.
Lắng nghe và thích thú mỗi khi gặp những điều anh cho là rất giống với suy nghĩ của mình. Bạn thân thường gọi anh với cái tên "Thân phận" thay cho cái tên Bảo Ninh đã quen thuộc với độc giả bởi dường như họ thấy ở anh có gì đó rất giống số phận của tác phẩm Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh). Vì lý do nữa là cuốn tiểu thuyết nói về thân phận của con người trong và sau cuộc chiến.
Có thể nói Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết có số phận đặc biệt của văn học Việt Nam trong suốt hơn hai thập niên qua. Xuất bản lần đầu tại Việt Nam nó bị đổi tên là Thân phận của tình yêu (năm 1990) và được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1991). Vậy mà sau đó, tác phẩm vẫn bị một số ý kiến trong hội phản đối vì "có vấn đề" đến nỗi lãnh đạo của hội đã từng phải phân trần, xin "thông cảm". Đến khi tiểu thuyết được dịch và xuất bản ở nước ngoài với cái tên tục của nó, Nỗi buồn chiến tranh, thì tác phẩm này lại trở thành niềm tự hào của hội...
Có lẽ đây là tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Gần đây là bản dịch tiếng Nhật và với bản dịch này, anh được trao giải Nikkei Asia của Nhật Bản - giải thưởng dành cho những người châu Á có cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp cải thiện cuộc sống của người dân khu vực này trên ba lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và văn hóa. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi diễn ra ngay sau khi Bảo Ninh trở về từ Nhật Bản, bắt đầu bằng những ấn tượng của anh về xứ sở hoa anh đào. Anh cho biết:
Do không biết bất kỳ ngoại ngữ nào nên tôi luôn cảm thấy những lần đi ra nước ngoài của mình bị hoài phí rất nhiều. Tiếng rằng đã thấy tận mắt một đất nước mà thật ra chẳng thấy gì. Thường bó hẹp trong quan hệ với nhà xuất bản, dăm câu ba điều với độc giả, một hai chuyến tham quan nhìn trời nhìn đất nước người, rồi về, và quên.
Nhưng chuyến qua Nhật lần này thì tôi chắc chắn mình sẽ nhớ mãi. Bởi có hai sự đặc biệt. Thứ nhất là do được bạn hữu bên đó bố trí cho tham gia một đoàn cứu trợ nạn nhân sóng thần và động đất, nên tôi tới được vùng biển Đông Bắc Nhật Bản. Tôi không thể kể được với bạn, bởi vì không lời nào diễn tả những gì tôi đã thấy. Chỉ có thể nói đại khái thế này: Ai tới đó vào thời gian này đều choáng trước cảnh tượng của thảm họa ngày 11/3 và cũng đều thấy xúc động, kính trọng và khâm phục người Nhật, cả chính phủ, cả chính quyền địa phương và muôn dân đất nước ấy đều đã thật phi thường trong cơn hoạn nạn vừa qua.
Thứ nhì là: Tuần lễ cuối tháng 5/2011, do đang ở Tokyo, nên tôi chỉ biết về "Sự kiện vịnh Bắc bộ" xảy ra trên mặt biển Đại Lãnh ngày 26/5 là từ những người bạn Nhật và sau đó là từ truyền hình Tokyo. Như tôi thấy, thì vụ tàu Bình Minh 02 bị ngang nhiên gây hấn ngay trên sân vườn nhà mình đã tác động rất mạnh vào dư luận Nhật Bản. Đài báo của thủ đô và của cả những vùng rất xa như Sendai - nơi bị sóng thần tấn công - đưa tin rất nhiều và liên tục về vụ tàu Bình Minh 02.
Không biết tiếng Nhật, nhưng nhìn lên màn hình ti vi, thấy bà Nguyễn Phương Nga (người phát ngôn của Bộ Ngoại giao - PV) đang phát biểu, thấy đảo Hoàng Sa với con số 1974, Trường Sa với 1988, rồi thù lù hình cái lưỡi bò gớm ghiếc, rồi ảnh đoạn cáp thăm dò bị cắt và điểm khoanh tròn ngay sát khúc cong của bờ biển Việt Nam với chữ Đại Lãnh, tôi hiểu trên ti vi người ta đang liên tục nói về vấn đề gì, và thái độ cùng quan điểm của họ là thế nào.
Những ngày đó tôi rất lo, thậm chí lo cả cái sự khi về nước sẽ phải ba tiếng rưỡi đồng hồ bay qua đất của ông hàng xóm đáng sợ. Nhưng cũng đầy phấn chấn. Và tự tin. Tự tin thấy Việt Nam không đơn độc. Việt Nam được quý trọng và đồng cảm.
Lắng nghe và thích thú mỗi khi gặp những điều anh cho là rất giống với suy nghĩ của mình. Bạn thân thường gọi anh với cái tên "Thân phận" thay cho cái tên Bảo Ninh đã quen thuộc với độc giả bởi dường như họ thấy ở anh có gì đó rất giống số phận của tác phẩm Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh). Vì lý do nữa là cuốn tiểu thuyết nói về thân phận của con người trong và sau cuộc chiến.
Có thể nói Nỗi buồn chiến tranh là cuốn tiểu thuyết có số phận đặc biệt của văn học Việt Nam trong suốt hơn hai thập niên qua. Xuất bản lần đầu tại Việt Nam nó bị đổi tên là Thân phận của tình yêu (năm 1990) và được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1991). Vậy mà sau đó, tác phẩm vẫn bị một số ý kiến trong hội phản đối vì "có vấn đề" đến nỗi lãnh đạo của hội đã từng phải phân trần, xin "thông cảm". Đến khi tiểu thuyết được dịch và xuất bản ở nước ngoài với cái tên tục của nó, Nỗi buồn chiến tranh, thì tác phẩm này lại trở thành niềm tự hào của hội...
Có lẽ đây là tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Gần đây là bản dịch tiếng Nhật và với bản dịch này, anh được trao giải Nikkei Asia của Nhật Bản - giải thưởng dành cho những người châu Á có cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp cải thiện cuộc sống của người dân khu vực này trên ba lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật và văn hóa. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi diễn ra ngay sau khi Bảo Ninh trở về từ Nhật Bản, bắt đầu bằng những ấn tượng của anh về xứ sở hoa anh đào. Anh cho biết:
Do không biết bất kỳ ngoại ngữ nào nên tôi luôn cảm thấy những lần đi ra nước ngoài của mình bị hoài phí rất nhiều. Tiếng rằng đã thấy tận mắt một đất nước mà thật ra chẳng thấy gì. Thường bó hẹp trong quan hệ với nhà xuất bản, dăm câu ba điều với độc giả, một hai chuyến tham quan nhìn trời nhìn đất nước người, rồi về, và quên.
Nhưng chuyến qua Nhật lần này thì tôi chắc chắn mình sẽ nhớ mãi. Bởi có hai sự đặc biệt. Thứ nhất là do được bạn hữu bên đó bố trí cho tham gia một đoàn cứu trợ nạn nhân sóng thần và động đất, nên tôi tới được vùng biển Đông Bắc Nhật Bản. Tôi không thể kể được với bạn, bởi vì không lời nào diễn tả những gì tôi đã thấy. Chỉ có thể nói đại khái thế này: Ai tới đó vào thời gian này đều choáng trước cảnh tượng của thảm họa ngày 11/3 và cũng đều thấy xúc động, kính trọng và khâm phục người Nhật, cả chính phủ, cả chính quyền địa phương và muôn dân đất nước ấy đều đã thật phi thường trong cơn hoạn nạn vừa qua.
Thứ nhì là: Tuần lễ cuối tháng 5/2011, do đang ở Tokyo, nên tôi chỉ biết về "Sự kiện vịnh Bắc bộ" xảy ra trên mặt biển Đại Lãnh ngày 26/5 là từ những người bạn Nhật và sau đó là từ truyền hình Tokyo. Như tôi thấy, thì vụ tàu Bình Minh 02 bị ngang nhiên gây hấn ngay trên sân vườn nhà mình đã tác động rất mạnh vào dư luận Nhật Bản. Đài báo của thủ đô và của cả những vùng rất xa như Sendai - nơi bị sóng thần tấn công - đưa tin rất nhiều và liên tục về vụ tàu Bình Minh 02.
Không biết tiếng Nhật, nhưng nhìn lên màn hình ti vi, thấy bà Nguyễn Phương Nga (người phát ngôn của Bộ Ngoại giao - PV) đang phát biểu, thấy đảo Hoàng Sa với con số 1974, Trường Sa với 1988, rồi thù lù hình cái lưỡi bò gớm ghiếc, rồi ảnh đoạn cáp thăm dò bị cắt và điểm khoanh tròn ngay sát khúc cong của bờ biển Việt Nam với chữ Đại Lãnh, tôi hiểu trên ti vi người ta đang liên tục nói về vấn đề gì, và thái độ cùng quan điểm của họ là thế nào.
Những ngày đó tôi rất lo, thậm chí lo cả cái sự khi về nước sẽ phải ba tiếng rưỡi đồng hồ bay qua đất của ông hàng xóm đáng sợ. Nhưng cũng đầy phấn chấn. Và tự tin. Tự tin thấy Việt Nam không đơn độc. Việt Nam được quý trọng và đồng cảm.
Bảo Ninh
Tranh: Hoàng Tường
Tranh: Hoàng Tường
Trở lại với câu chuyện về giải thưởng anh vừa được trao. Người được vinh danh có bất ngờ về giải thưởng này?
Cũng có bất ngờ. Tôi nghe thông báo về giải thưởng này vào ngày 12/3, tức là chỉ một ngày sau thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật. Còn cuốn Nỗi buồn chiến tranh thì đã được dịch rất tốt qua tiếng Nhật. Một văn bản tiếng Nhật rất hay, tôi nghe độc giả Nhật đánh giá vậy. Dịch giả là ông Ikawa, một nhà văn cũng là nhà báo, đại diện của tờ Asahi Shimbun tại Sài Gòn trước 1975 và tại Hà Nội thời Đổi mới. Lần đầu, năm 1996, ông dịch cuốn này từ bản tiếng Anh. Nhưng có lẽ với sự nhạy cảm của người châu Á, ông ấy không mấy hài lòng với sự chuyển ngữ của người phương Tây nên gần đây ông ấy đã dịch lại từ nguyên bản tiếng Việt, với sự cộng tác của dịch giả Hoa Higuchi.
Cũng có bất ngờ. Tôi nghe thông báo về giải thưởng này vào ngày 12/3, tức là chỉ một ngày sau thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật. Còn cuốn Nỗi buồn chiến tranh thì đã được dịch rất tốt qua tiếng Nhật. Một văn bản tiếng Nhật rất hay, tôi nghe độc giả Nhật đánh giá vậy. Dịch giả là ông Ikawa, một nhà văn cũng là nhà báo, đại diện của tờ Asahi Shimbun tại Sài Gòn trước 1975 và tại Hà Nội thời Đổi mới. Lần đầu, năm 1996, ông dịch cuốn này từ bản tiếng Anh. Nhưng có lẽ với sự nhạy cảm của người châu Á, ông ấy không mấy hài lòng với sự chuyển ngữ của người phương Tây nên gần đây ông ấy đã dịch lại từ nguyên bản tiếng Việt, với sự cộng tác của dịch giả Hoa Higuchi.
Đây hẳn không phải là lần đầu tiên anh ra nước ngoài với những sự kiện liên quan đến văn học. Mỗi lần đi, anh thấy sao về văn học Việt Nam ở nước ngoài?
Văn học Việt Nam rất đáng đọc, nhưng nhiều năm qua, từ sau khi không còn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, về văn xuôi dường như độc giả nước ngoài chỉ chủ yếu biết các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Dương Thu Hương, Bảo Ninh... chừng chục tác giả tiểu thuyết và truyện ngắn. Tất nhiên, nếu đủ tỉnh táo thì những tác giả này đều biết như vậy là rất không đầy đủ, nhưng thử hỏi rằng ai sẽ là người chọn và giới thiệu những nhà văn Việt Nam khác ra nước ngoài bây giờ?
Tôi nhớ cách đây ba năm, có một nhà xuất bản của Thái Lan sang nước ta, họ tự chọn một số truyện ngắn và đề nghị giới làm văn học nước ta giúp cho việc dịch (vì người ta đọc thì hiểu nhưng dịch lại là chuyện khác) để ra một tuyển tập truyện ngắn Việt Nam tại Thái Lan. Nhưng phía mình, nhiều nhà văn lại không chịu, nói là phải để người Việt Nam chúng tôi tự chọn. Thế là sinh ra bất đồng và kế hoạch bị phá sản.
Trong việc chọn và dịch tác phẩm giới thiệu ra nước ngoài, các nhà văn chúng ta thường rơi vào tình trạng xem xét nhân thân, thứ bậc về độ tuổi, về chiếu trên chiếu dưới trên văn đàn của tác giả chứ lại không nghĩ đến chuyện họ (người nước ngoài - PV) thích gì, cần gì. Ngay cả người dịch cũng bị xem xét về nhân thân, mặc dù người ta chỉ làm công việc dịch thuật chứ có sáng tác đâu. Văn học rất quan trọng. Muốn tìm hiểu một dân tộc một cách kỹ càng thì người ta hay tìm đến văn học, phim ảnh. Vậy mà cả hai mảng ấy ở ta đều chưa thể làm nên chuyện ở nước ngoài.
Văn học Việt Nam rất đáng đọc, nhưng nhiều năm qua, từ sau khi không còn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, về văn xuôi dường như độc giả nước ngoài chỉ chủ yếu biết các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Dương Thu Hương, Bảo Ninh... chừng chục tác giả tiểu thuyết và truyện ngắn. Tất nhiên, nếu đủ tỉnh táo thì những tác giả này đều biết như vậy là rất không đầy đủ, nhưng thử hỏi rằng ai sẽ là người chọn và giới thiệu những nhà văn Việt Nam khác ra nước ngoài bây giờ?
Tôi nhớ cách đây ba năm, có một nhà xuất bản của Thái Lan sang nước ta, họ tự chọn một số truyện ngắn và đề nghị giới làm văn học nước ta giúp cho việc dịch (vì người ta đọc thì hiểu nhưng dịch lại là chuyện khác) để ra một tuyển tập truyện ngắn Việt Nam tại Thái Lan. Nhưng phía mình, nhiều nhà văn lại không chịu, nói là phải để người Việt Nam chúng tôi tự chọn. Thế là sinh ra bất đồng và kế hoạch bị phá sản.
Trong việc chọn và dịch tác phẩm giới thiệu ra nước ngoài, các nhà văn chúng ta thường rơi vào tình trạng xem xét nhân thân, thứ bậc về độ tuổi, về chiếu trên chiếu dưới trên văn đàn của tác giả chứ lại không nghĩ đến chuyện họ (người nước ngoài - PV) thích gì, cần gì. Ngay cả người dịch cũng bị xem xét về nhân thân, mặc dù người ta chỉ làm công việc dịch thuật chứ có sáng tác đâu. Văn học rất quan trọng. Muốn tìm hiểu một dân tộc một cách kỹ càng thì người ta hay tìm đến văn học, phim ảnh. Vậy mà cả hai mảng ấy ở ta đều chưa thể làm nên chuyện ở nước ngoài.
Vậy, theo anh phải làm thế nào? Kinh phí có phải là vấn đề trong việc đưa văn học Việt ra thế giới?
Tôi nghĩ kinh phí không phải là vấn đề. Ta có tiền để làm nhiều việc khác kém quan trọng hơn. Trại sáng tác chẳng hạn, theo tôi không nên mở nhiều vì ít hiệu quả và thường là lãng phí tiền bạc. Sáng tác phụ thuộc vào khả năng và nhiệt tâm và thậm chí nhu cầu của mỗi cá nhân nhà văn. Nếu có mở các trại, là nơi tạo điều kiện ăn ở tốt trong một thời gian dài, xa biệt và tĩnh tâm cho các trại viên, thì nên chủ yếu là trại dịch thuật, đặc biệt là dịch văn học Việt ra tiếng nước ngoài.
Số tiền "đầu tư sáng tác" của Hội Nhà văn Việt Nam dành cho hội viên, nên để ra chí ít là một nửa cho việc này. Dành cho các dịch giả có khả năng dịch được tiểu thuyết Việt, thơ Việt qua tiếng Anh, tiếng Hán, tiếng Nhật v.v... Các dịch giả được "đầu tư chiều sâu" này có thể là người nước ngoài, là người Việt Nam sống ở nước ngoài.
Hơn nữa, trước hết phải nhận thức được sự cần thiết phải có tiếng nói của văn học Việt ở thế giới. Cần cầu thị và đừng thiển cận. Những người Việt ở nước ngoài sẽ là những yếu tố tích cực để truyền bá văn học nước nhà, nếu biết cách kêu gọi và biết tôn trọng, biết quý họ. Không chỉ trong công việc dịch thuật, mà cả trong mọi việc liên quan đến xuất bản ở nước ngoài đều cần đến tài năng, sự am hiểu và sự nhiệt tâm của những người trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài.
Một cuốn tiểu thuyết Việt dù hay và dịch tốt đến mấy, nếu chỉ in ngàn bản ở một nhà xuất bản khu trú trong phạm vi trường đại học, thì chẳng ích gì cho việc giới thiệu và quảng bá văn học Việt. Nó phải được xuất bản tại một nhà xuất bản nổi tiếng và phát hành số lượng lớn trong những hệ thống xuất bản có tính đa quốc gia. Làm được tốt nhất việc đó còn ai bằng các dịch giả, các nhà văn, nhà báo, luật gia, các chủ xuất bản người Việt Nam sống ở nước ngoài?
Số tiền "đầu tư sáng tác" của Hội Nhà văn Việt Nam dành cho hội viên, nên để ra chí ít là một nửa cho việc này. Dành cho các dịch giả có khả năng dịch được tiểu thuyết Việt, thơ Việt qua tiếng Anh, tiếng Hán, tiếng Nhật v.v... Các dịch giả được "đầu tư chiều sâu" này có thể là người nước ngoài, là người Việt Nam sống ở nước ngoài.
Hơn nữa, trước hết phải nhận thức được sự cần thiết phải có tiếng nói của văn học Việt ở thế giới. Cần cầu thị và đừng thiển cận. Những người Việt ở nước ngoài sẽ là những yếu tố tích cực để truyền bá văn học nước nhà, nếu biết cách kêu gọi và biết tôn trọng, biết quý họ. Không chỉ trong công việc dịch thuật, mà cả trong mọi việc liên quan đến xuất bản ở nước ngoài đều cần đến tài năng, sự am hiểu và sự nhiệt tâm của những người trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài.
Một cuốn tiểu thuyết Việt dù hay và dịch tốt đến mấy, nếu chỉ in ngàn bản ở một nhà xuất bản khu trú trong phạm vi trường đại học, thì chẳng ích gì cho việc giới thiệu và quảng bá văn học Việt. Nó phải được xuất bản tại một nhà xuất bản nổi tiếng và phát hành số lượng lớn trong những hệ thống xuất bản có tính đa quốc gia. Làm được tốt nhất việc đó còn ai bằng các dịch giả, các nhà văn, nhà báo, luật gia, các chủ xuất bản người Việt Nam sống ở nước ngoài?
Cụ thể hơn là thế nào, thưa anh?
Không nên phàn nàn nhau, chỉ trích nhau và họp hành quá nhiều, tốn tiền của mà chả giải quyết vấn đề gì. Tôi lấy ví dụ, hãy tập trung vào, dồn đầu tư tiền bạc và thì giờ cho việc dịch một tác giả nào đó thật cẩn thận đi, như Vũ Trọng Phụng chẳng hạn. Tập trung làm một "chiến dịch" giới thiệu Nam Cao sang Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc... đi. Nam Cao là nhà văn hiện đại hàng đầu của đất nước này. Tiểu thuyết Sống mòn của ông rất mới, thuần Việt mà lại "rất Pháp".
Bỏ qua các tranh cãi, bỏ qua ngay cả sự ác cảm, mạnh dạn chọn ra chỉ vài tác giả rõ ràng là rất nổi tiếng hiện nay ở Việt Nam như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà và dồn tâm lực vào dịch, giới thiệu, xuất bản tác phẩm của họ. Dĩ nhiên còn nhiều tác giả nữa, nhưng hoặc để họ tự làm, hoặc để từ từ. Hội Nhà văn, tức là Nhà nước, trước mắt tập trung vào vài tác giả mà chúng ta thấy là nếu dịch thì nhất định sẽ có hiệu quả tốt cho việc giới thiệu văn học Việt đương đại ra thế giới.
Lúc này, tính hiệu quả phải đặt lên hàng đầu. Thậm chí, Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, tuyệt hay, người Việt chúng ta không ai không thừa nhận, nhưng ngay lúc này hãy coi đó là một di sản văn hóa lớn của dân tộc, chưa nên vội dốc lực dịch với hy vọng mau chóng đạt được bản dịch xứng tầm với bản tiếng Việt để có thể xuất bản và phát hành rộng ở nước ngoài.
Vì thứ nhất là Truyện Kiều không trực tiếp mang hơi thở thời đại, thứ hai dịch thơ đâu phải chuyện dễ, không chừng làm thiên hạ hiểu sai tầm tuyệt tác của tác phẩm. Mà cho dù bản dịch có hoàn chỉnh về mặt ngữ nghĩa đi chăng nữa thì cũng sẽ rất ít người trong số đông độc giả không phải nhà nghiên cứu tìm đọc. Thật sự là rất khó quảng bá. Mà văn học Việt thì lại đang rất cần được quảng bá.
Bỏ qua các tranh cãi, bỏ qua ngay cả sự ác cảm, mạnh dạn chọn ra chỉ vài tác giả rõ ràng là rất nổi tiếng hiện nay ở Việt Nam như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà và dồn tâm lực vào dịch, giới thiệu, xuất bản tác phẩm của họ. Dĩ nhiên còn nhiều tác giả nữa, nhưng hoặc để họ tự làm, hoặc để từ từ. Hội Nhà văn, tức là Nhà nước, trước mắt tập trung vào vài tác giả mà chúng ta thấy là nếu dịch thì nhất định sẽ có hiệu quả tốt cho việc giới thiệu văn học Việt đương đại ra thế giới.
Lúc này, tính hiệu quả phải đặt lên hàng đầu. Thậm chí, Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, tuyệt hay, người Việt chúng ta không ai không thừa nhận, nhưng ngay lúc này hãy coi đó là một di sản văn hóa lớn của dân tộc, chưa nên vội dốc lực dịch với hy vọng mau chóng đạt được bản dịch xứng tầm với bản tiếng Việt để có thể xuất bản và phát hành rộng ở nước ngoài.
Vì thứ nhất là Truyện Kiều không trực tiếp mang hơi thở thời đại, thứ hai dịch thơ đâu phải chuyện dễ, không chừng làm thiên hạ hiểu sai tầm tuyệt tác của tác phẩm. Mà cho dù bản dịch có hoàn chỉnh về mặt ngữ nghĩa đi chăng nữa thì cũng sẽ rất ít người trong số đông độc giả không phải nhà nghiên cứu tìm đọc. Thật sự là rất khó quảng bá. Mà văn học Việt thì lại đang rất cần được quảng bá.
Anh nhận xét thế nào về tình hình văn học trong nước?
Tôi "ze rô" ngoại ngữ nên chỉ biết văn học nước ngoài qua các bản dịch. Như vậy là rất hạn chế. Dù vậy, tôi tin là mình không nói liều khi dám quả quyết rằng văn học Việt Nam hiện đại có những tác giả và tác phẩm ngang tầm với văn học thế giới đương đại: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Thiệp... thật đáng tiếc cho độc giả thế giới khi họ không được đọc những nhà văn đó.
Bối cảnh lịch sử hiện nay là cơ hội rất lớn để chúng ta có được những tác phẩm để đời. Và dĩ nhiên những tác phẩm ấy sẽ làm rạng danh văn học Việt trên văn đàn thế giới. Cố nhiên, muốn rạng danh trên thế giới thì trước nhất phải thực sự được yêu chuộng ở Việt Nam. Không thể nổi tiếng, không thể rạng danh nếu coi nổi tiếng và rạng danh là mục đích. Không thể đọ với "Tây, Tàu" nếu coi "Tây, Tàu" là độc giả trước nhất của mình.
Truyền thống văn học Việt Nam là văn học hiện thực. Tất cả các nhà văn muốn viết theo lối Tây lối Tàu, xa lánh những vấn đề của dân tộc mình, ẩn ngòi bút vào cõi "phi hiện thực, phi chính trị" thì không thể nào thành công ở Việt Nam, vì những vấn đề không phải của nước Việt thì người đọc Việt Nam không quan tâm. Chẳng hạn, nếu "anh" tránh viết về những bất công xã hội, những thống khổ ngày hôm nay trong cuộc sống của chúng ta và viết theo kiểu văn chương "giường chiếu" thì mặc dù có người đọc thật đấy, nhưng đừng bao giờ hy vọng trở thành một nhà văn thực sự của đất nước này. Càng không nên có ý định đưa tác phẩm của mình đến với thế giới.
Tại sao không viết về những vấn đề của nông dân và nông thôn hiện nay, như tình trạng cường hào ác bá mới, như sự tụt hậu văn hóa, như vấn đề mất đất vì đô thị hóa chẳng hạn.
Bối cảnh lịch sử hiện nay là cơ hội rất lớn để chúng ta có được những tác phẩm để đời. Và dĩ nhiên những tác phẩm ấy sẽ làm rạng danh văn học Việt trên văn đàn thế giới. Cố nhiên, muốn rạng danh trên thế giới thì trước nhất phải thực sự được yêu chuộng ở Việt Nam. Không thể nổi tiếng, không thể rạng danh nếu coi nổi tiếng và rạng danh là mục đích. Không thể đọ với "Tây, Tàu" nếu coi "Tây, Tàu" là độc giả trước nhất của mình.
Truyền thống văn học Việt Nam là văn học hiện thực. Tất cả các nhà văn muốn viết theo lối Tây lối Tàu, xa lánh những vấn đề của dân tộc mình, ẩn ngòi bút vào cõi "phi hiện thực, phi chính trị" thì không thể nào thành công ở Việt Nam, vì những vấn đề không phải của nước Việt thì người đọc Việt Nam không quan tâm. Chẳng hạn, nếu "anh" tránh viết về những bất công xã hội, những thống khổ ngày hôm nay trong cuộc sống của chúng ta và viết theo kiểu văn chương "giường chiếu" thì mặc dù có người đọc thật đấy, nhưng đừng bao giờ hy vọng trở thành một nhà văn thực sự của đất nước này. Càng không nên có ý định đưa tác phẩm của mình đến với thế giới.
Tại sao không viết về những vấn đề của nông dân và nông thôn hiện nay, như tình trạng cường hào ác bá mới, như sự tụt hậu văn hóa, như vấn đề mất đất vì đô thị hóa chẳng hạn.
Cách đây ba năm, nghe tin Nỗi buồn chiến tranh được người nước ngoài mua bản quyền, chuyển thể làm phim, nhiều người đã rất mừng và mong đợi... vậy mà hóa ra lại là mừng... hụt. Lý do nào khiến cho dự án bị dừng, thưa anh?
Nhiều lý do lắm, bất đồng ngôn ngữ cũng là một lý do. Đọc kịch bản thấy "Mỹ" quá. Biên kịch kiêm đạo diễn muốn biến tác phẩm thành một phim hoàn toàn kiểu Mỹ. Không thống nhất được quan điểm nên thôi.
Có những đoạn miêu tả về cuộc chiến, viết thành lời trong tiểu thuyết thì được nhưng chuyển tải hình ảnh theo ngôn ngữ điện ảnh thì còn phải cân nhắc nhiều. Nhà sản xuất là một doanh nhân người Anh, ông Dominic Scriven, sống và làm việc đã rất nhiều năm ở Sài Gòn, rất yêu và am hiểu văn hóa Việt. Ông ấy đã thành đạt rất nhiều ở Việt Nam, bởi vậy muốn làm được điều gì đó cho ân tình ấy. Ông thuê ê kíp làm phim của Mỹ mà ông tin là họ có khả năng. Nhưng khi tôi không nhất trí, ông đồng ý dừng... Nếu phim được làm thì kể ra tôi cũng sẽ có tiền. Tiếc ơi là tiếc, nhưng không thể kiếm tiền bằng mọi giá...
Có những đoạn miêu tả về cuộc chiến, viết thành lời trong tiểu thuyết thì được nhưng chuyển tải hình ảnh theo ngôn ngữ điện ảnh thì còn phải cân nhắc nhiều. Nhà sản xuất là một doanh nhân người Anh, ông Dominic Scriven, sống và làm việc đã rất nhiều năm ở Sài Gòn, rất yêu và am hiểu văn hóa Việt. Ông ấy đã thành đạt rất nhiều ở Việt Nam, bởi vậy muốn làm được điều gì đó cho ân tình ấy. Ông thuê ê kíp làm phim của Mỹ mà ông tin là họ có khả năng. Nhưng khi tôi không nhất trí, ông đồng ý dừng... Nếu phim được làm thì kể ra tôi cũng sẽ có tiền. Tiếc ơi là tiếc, nhưng không thể kiếm tiền bằng mọi giá...
Có lần anh đã từng nói: "Ngoại ngữ, sách nghiên cứu, phê bình... là những thứ muôn năm tôi không nuốt nổi" và cho đó là hạn chế của mình. Nhưng biết đâu, đó lại chính là lợi thế của anh, bởi sau Bảo Ninh - tiểu thuyết, người yêu văn học còn biết đến một Bảo Ninh - truyện ngắn với những câu chuyện dung dị nhưng khá ám ảnh, đi vào lòng người... Theo anh, điều quan trọng đối với một nhà văn là gì?
Tôi đã nói vậy thật sao? Tôi mà quá khích vậy ư? Ngoại ngữ thì đúng là tôi quá tệ. Mười năm phổ thông học tiếng Nga, điểm số chẳng kém ai, song thuộc loại: Chỉ biết chia động từ mà không cần biết nghĩa của động từ mình đang chia. Cũng khá giống với học văn, thuộc lòng bài thơ mà chẳng ưa gì bài thơ đó. Đọc thuộc lòng một cách buồn ngủ. Làm luận vanh vách theo dàn bài mà chẳng biết mình đang viết cái gì. Nhưng đối với văn học phê bình thì không phải vậy đâu. Theo tôi thì không đọc, không học, không ngẫm nghĩ từ văn học phê bình làm sao viết văn được.
Ba tôi, giáo sư Hoàng Tuệ, là nhà ngôn ngữ học, từ ba tôi mà tôi yêu văn học, và tôi đặc biệt thích đọc những khảo cứu của ông về ngôn ngữ văn học. Người thầy lớn nhất của tôi, người đã dạy cho tôi thành một nhà văn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, mà thầy Hiến thì đương nhiên là một trong những nhà phê bình hàng đầu của văn học Việt đương đại. Cùng ông là các nhà phê bình như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Ngọc Trà, Trần Đình Sử... tác phẩm của các vị ấy là căn bản kiến thức văn học của tôi. Và nhà văn Nguyên Ngọc, mặc dù ông không phải là nhà phê bình.
Hôm rồi, ở Tokyo, tôi có bình luận với các ông giáo sư Nhật rằng, với tư cách là một nhà văn Việt Nam, thì xứng đáng nhất nhận giải thưởng văn hóa, theo tôi, là nhà văn Nguyên Ngọc. Đó, đấy là tôi trả lời cho ý thứ hai trong câu hỏi của bạn. Điều quan trọng nhất đối với một nhà văn, ấy là tầm văn hóa. Tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của nhà văn càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình.
Ba tôi, giáo sư Hoàng Tuệ, là nhà ngôn ngữ học, từ ba tôi mà tôi yêu văn học, và tôi đặc biệt thích đọc những khảo cứu của ông về ngôn ngữ văn học. Người thầy lớn nhất của tôi, người đã dạy cho tôi thành một nhà văn là giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, mà thầy Hiến thì đương nhiên là một trong những nhà phê bình hàng đầu của văn học Việt đương đại. Cùng ông là các nhà phê bình như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Ngọc Trà, Trần Đình Sử... tác phẩm của các vị ấy là căn bản kiến thức văn học của tôi. Và nhà văn Nguyên Ngọc, mặc dù ông không phải là nhà phê bình.
Hôm rồi, ở Tokyo, tôi có bình luận với các ông giáo sư Nhật rằng, với tư cách là một nhà văn Việt Nam, thì xứng đáng nhất nhận giải thưởng văn hóa, theo tôi, là nhà văn Nguyên Ngọc. Đó, đấy là tôi trả lời cho ý thứ hai trong câu hỏi của bạn. Điều quan trọng nhất đối với một nhà văn, ấy là tầm văn hóa. Tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của nhà văn càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình.
Nghe đồn anh đang viết tiếu thuyết? Cuốn ấy nó thế nào, sao lâu thế?
Đồn gì chứ. Đó là ông Nguyễn Việt Chiến viết vậy trên báo. Nói trước bước không qua. Nhưng bạn đã hỏi, tôi xin nói thế này: Bao nhiêu năm qua, tôi chỉ ngày lại ngày viết độc có một cuốn sách mà không xong, thành ra ngày nào cũng viết mà lại như chẳng hề viết cái gì. Cuốn sách quá khó viết đối với tôi, có thể là quá tầm. Cuốn sách có bối cảnh chủ yếu là đời sống thường nhật của người dân miền Nam nước Việt trong giai đoạn 1954-1975.
Trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt, chúng ta đang để bị mất đi, hay nói đúng hơn là đã để bị gián đoạn 20 năm đó. Hay dở, xấu tốt gì thì hai chục năm đó cũng một đoạn đời của dân tộc Việt. Tôi muốn viết về giai đoạn ấy, về xã hội Việt Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa ở một nửa đất nước. Xã hội ấy không chỉ có ông Diệm, ông Nhu và Thiệu - Kỳ mà có cả đồng bào của mình nữa, hay đúng hơn là hoàn toàn đồng bào mình. Hai mươi năm ấy, nhân dân miền Nam Việt Nam sống ra sao? Thực sự những điều gì đã làm cho non sông về một mối?
Theo suy nghĩ của tôi, người dân miền Nam đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc thống nhất đất nước này. Ngay cả sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và đông đảo quân sĩ của ông ấy cũng là một sự đóng góp đáng kể trong việc tránh thương vong thêm cho dân tộc, cho tình yêu thương và hòa hiếu, cho sự đồng lòng... Có thể tôi viết sẽ không được hay, không được như ý vì tôi không được sống trong cái không khí ấy, cái môi trường ấy. Nhưng dứt khoát, giai đoạn lịch sử ấy phải được viết ra. Rồi sẽ có những nhà văn khác viết, còn tôi thì vẫn đang gắng.
Trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt, chúng ta đang để bị mất đi, hay nói đúng hơn là đã để bị gián đoạn 20 năm đó. Hay dở, xấu tốt gì thì hai chục năm đó cũng một đoạn đời của dân tộc Việt. Tôi muốn viết về giai đoạn ấy, về xã hội Việt Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa ở một nửa đất nước. Xã hội ấy không chỉ có ông Diệm, ông Nhu và Thiệu - Kỳ mà có cả đồng bào của mình nữa, hay đúng hơn là hoàn toàn đồng bào mình. Hai mươi năm ấy, nhân dân miền Nam Việt Nam sống ra sao? Thực sự những điều gì đã làm cho non sông về một mối?
Theo suy nghĩ của tôi, người dân miền Nam đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc thống nhất đất nước này. Ngay cả sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và đông đảo quân sĩ của ông ấy cũng là một sự đóng góp đáng kể trong việc tránh thương vong thêm cho dân tộc, cho tình yêu thương và hòa hiếu, cho sự đồng lòng... Có thể tôi viết sẽ không được hay, không được như ý vì tôi không được sống trong cái không khí ấy, cái môi trường ấy. Nhưng dứt khoát, giai đoạn lịch sử ấy phải được viết ra. Rồi sẽ có những nhà văn khác viết, còn tôi thì vẫn đang gắng.
Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!
Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Nguyễn Quang Lập, Phan Nguyên, Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Bảo Ninh, Ngô Thảo (ngồi xoay lưng)
hình chụp hè 1994 tại nhà Giáo sư Văn Tâm
hình chụp hè 1994 tại nhà Giáo sư Văn Tâm
Nhật Bản trao Giải thưởng Văn Hóa cho Bảo Ninh
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.