Khuất Đẩu
Tên thật: Trương Đẩu
(1940 Bình Định - ..... )
Nhà văn
Khuất Đẩu. Đó là một cái tên rất mới trong làng văn chương cả hải ngọai lẫn trong nước. “Mới” không theo cái nghĩa ngày xưa nhà văn Mai Thảo dùng để chỉ “những người viết mới”, tức những cây viết mới nổi nhờ vào vài bài thơ, vài truyện ngắn được đăng trên các báo văn học. Đúng hơn, “người viết mới Khuất Đẩu” chỉ mang một phần trong cái ý nghĩa “mới” mà Mai Thảo đã từng ám chỉ.
Khuất Đẩu không còn trẻ. Ông sinh năm 1940 tại Bình Định. Tên thật là Trương Đẩu. Nhưng lại có cái tên mọi người thường gọi là Trương Thanh Sơn. Khi tác phẩm “Những tháng năm cuồng nộ” của ông xuất hiện trên trang mạng Talawas tháng 3 năm 2010 dưới bút hiệu viết tắt K.Đ, người đọc đã bị “bất ngờ”, cái bất ngờ gây cảm giác “thú vị” cho cả người đọc lẫn người viết. Bất ngờ là vì cái giọng văn già dặn, từng trải, chắc nịch, gọn và khô ấy đã thể hiện thật xuất sắc nội dung những điều ông muốn gởi đến người đọc. Tác phẩm chinh phục người đọc, nhưng không ai biết tác gỉa là ai, như nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã viết “K.Đ, cái bút danh mới toanh và lạ hoắc”. Theo ghi chú về tác phẩm trên Talawas, thì “Những tháng năm cuồng nộ” được sưu tầm bởi Thư Quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hòai Thư, không thấy nói gì thêm về tác giả. Sau đó, một số truyện ngắn ký tên Khuất Đẩu được Talawas giới thiệu, một cách gián tiếp cho biết K.Đ là hai chữ viết tắt của Khuất Đẩu. Gần đây, khi trang T.Vấn & Bạn Hữu đặc biệt giới thiệu nhà văn Khuất Đẩu và tác phẩm qua bài viết của anh Đỗ Xuân Tê và sự góp nhặt của anh Ngộ Không với chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm, chúng tôi nhận được sự liên lạc từ chính nhà văn Khuất Đẩu hiện sinh sống trong nước. Qua bản thảo mới nhất vừa được hiệu đính lại “Những tháng năm cuồng nộ”, chúng tôi ghi nhận tác phẩm này do Khuất Đẩu viết xong năm 2004, hiệu đính lần thứ hai năm 2009 (tức bản do Thư Quán Bản thảo sưu tầm và gởi đến Talawas), và hiệu đính lần cuối năm 2011 (bản này do nhà văn Khuất Đẩu gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu, đã được dùng để thay thế bản năm 2009 trong chuyên mục Tác Giả Tác Phẩm – Khuất Đẩu).
Vừa xuất hiện, cái tên Khuất Đẩu đã tạo được cho mình một vùng ánh sáng khiến nhiều con mắt để ý tới.
Trước hết, là ở đề tài ông lựa chọn. Đó là số phận của người dân quê ở liên khu V, Nam, Ngãi, Bình, Phú qua 9 năm kháng chiến rồi qua thời “hai mươi năm nội chiến” và sau 75. Những gì xẩy ra chung quanh ông trong suốt 70 năm làm người, đã trở thành những mối ám ảnh khôn nguôi. Những mối ám ảnh ấy không phải là chỉ có ông mới phải chịu đựng. Rất nhiều người khác, sống ở trong nước hay nơi xứ người, cũng có cùng những mối ám ảnh mà ngay cả cái chết cũng không giải tỏa được. Sự khác biệt chỉ là ở chỗ, ông đã nói được thay họ một vài trong những điều họ muốn nói. Với khả năng sử dụng chữ nghĩa văn chương tích lũy hơn 60 năm, khi nói ra, chữ nghĩa của ông đã mang đủ sự trưởng thành già dặn cần thiết để chuyên chở tâm tư của ít nhất hai thế hệ người Việt, ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương.
Kế đến là tính cách kẻ sĩ nơi Khuất Đẩu, thể hiện ở chi tiết ông hiện còn sinh sống ở Việt Nam. Cái đảm lược tóat lên từ những trang sách viết dưới giá treo cổ mà ông cay đắng gọi là “sự liều mạng” ấy quả thật đáng được ngưỡng mộ. Vì thế, mỗi trang viết của Khuất Đẩu, đều biểu trưng cho một sự chấp nhận, nếu không muốn nói là dũng cảm. Có lẽ, thái độ ấy có sự nâng đỡ từ những nỗi thống khổ cao nhất mà những nhân vật của ông đã can đảm chịu đựng.
Truyện vừa “Lão Tiền Bối”, tác phẩm viết xong năm 2006 và được hiệu đính lần cuối năm 2011 trước khi gởi đến T.Vấn & Bạn Hữu (chúng tôi đã giới thiệu tác phẩm này trong mục Góc Văn) của Khuất Đẩu là một bằng cớ khác của “sự liều mạng”. Đọc truyện này, người ta liên tưởng ngay đến một nhân vật khác có thật ở ngòai đời và những màn kịch vừa xẩy ra khiến tác phẩm “Lão Tiền Bối” viết từ năm 2006 có vóc dáng một “kịch bản nay mới được dàn dựng”. Tôi nhớ có một nhà văn nào đó ở trong nước đã cho rằng nhà văn là “con chim báo bão“. Cũng chẳng sai bao nhiêu so với “kịch bản Lão Tiền Bối” nói đến ở đây.
Theo lời nhà văn Khuất Đẩu, với truyện vừa Lão Tiền Bối , hợp cùng truyện dài Những Tháng năm cuồng nộ và truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ông đã hòan thành xong bộ Trio về cùng một chủ đề . Qua 3 tác phẩm này (hiện được lưu trữ trên T.Vấn & Bạn Hữu), người cùng thời và các thế hệ mai sau sẽ có cơ hội hiểu và biết thêm nhiều điều về những tháng năm cuồng nộ của một giai đọan lịch sử não lòng.
Ngoài bộ ba truyện dài và truyện vừa nêu trên, còn có Người Tử Tù viết năm 1970, các truyện ngắn và một số thơ không vần, đã được đăng tải trên Thư Quán Bản Thảo, Talawas, Tiền Vệ, Thông Luận và Văn Chương Việt.
Thay mặt người đọc, thay mặt những người đã từng chịu thống khổ trong giai đọan lịch sử ấy, chúng tôi xin cám ơn nhà văn Khuất Đẩu.
T.Vấn
Ngày 7 tháng 9 năm 2011
©T.Vấn 2011
Tác phẩm tiêu biểu
1
2
3
4
Nghĩ Vẩn Vơ Cuối Đời
5
Tâm Mươi Năm Soi Bóng Mình
Các bài khác của Khuất Đẩu:
1
04 Jan 2020 in Góc Văn
09 Nov 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
07 Nov 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
05 Nov 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
01 Nov 2019 in Góc Văn&khuất đẩu: những trang viết ngắn
31 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
28 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
25 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
22 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
20 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
18 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
16 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
13 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
11 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
09 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
07 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
03 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
01 Oct 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
27 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
24 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
2
Khuất Đẩu: NGHĨ VẨN VƠ, CUỐI ĐỜI (bài 6) – Nói láo, nghe láo,
21 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
1.
Tình cờ tôi được một người bạn cho mượn tập truyện nhan đề Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của nhà văn Khuất Đẩu. Tập truyện do nhà Ý Thức xuất bản năm 2009 gồm hai truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, Huyền Trân công chúa, và một số truyện ngắn. Đọc xong tập truyện, tuy muộn màng, nhưng tôi vẫn muốn viết ra đây vài ba cảm nhận chủ quan của mình bởi đây là cuốn sách đáng đọc và có nhiều điều đáng nói trong đó.
2. Ngôi nhà của những hồn ma
Hãy tưởng tượng một ngôi nhà bề thế tại ngôi làng xa xôi, xây mất ba năm mới xong với mười sáu cái cột kiềng kiềng vững chắc, mái “da cái”, cùng xà ngang trính dọc, bị một quả bom xăng của giặc đánh trúng, bốc cháy lam nham lở nhở, nhưng không hoàn toàn sụp đổ, và chủ nhân nó lấy những tấm lá tranh và bùn đất vá víu tạm bợ thành một cái chòi rồi chui rúc sống trong đó với người con dâu suốt chín năm kháng chiến chống Pháp.
Không, bạn không cần tưởng tượng nhiều bởi nhà văn Khuất Đẩu đã mô tả ngôi nhà đó rất kỹ trong thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ của ông in trong tập truyện này. Ngôi nhà là từ đường của dòng họ Phạm, trên bàn thờ trang nghiêm hương khói là 42 cái bài vị của 12 đời. Nó là ngôi nhà của những hồn ma, theo tác giả, và đến đời người thủ từ hiện tại, đời thứ 13, nó như chịu một lời nguyền rủa vô cùng ác độc nào đó, bởi liên tiếp hết người này đến người kia lần lượt qua đời, mà cái chết nào cũng oan khiên, đau đớn. Người em út, cô Chín, treo cổ tự tử trong nhà vì gã chồng cô ham mê cờ bạc; chú Sáu, người em trai đi đò chết chìm; và bà vợ ông một hôm trèo lên cây cau bắt tổ chim cho thằng cháu, cây cau đổ vì gốc nó mục nát, và bà ngã từ trên cao xuống, chết.
Với bối cảnh là không gian một ngôi làng tên An Định, thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi làng nằm trong vùng kiểm soát của phe kháng chiến, Khuất Đẩu đã dẫn dắt người đọc vào một thế giới truyện lạ lùng, bi thiết, xoay quanh cuộc sống tạm bợ, vất vưởng, đói kém của người thủ từ, nói lên thân phận con người trong một thực tại phi lý đến độ kinh hoàng.
Khuất Đẩu mở đầu câu chuyện với cảnh ngôi nhà bị trúng bom xăng của địch, bốc cháy. Tác giả nhân cách hóa ngôi nhà cháy: “Ngôi nhà phập phồng như một trái tim rướm máu. Nó hốt hoảng, kinh ngạc và nếu có thể kêu thét lên được thì nó đã rống lên rồi…” Nhưng nó không bị thiêu rụi sụp đổ thành đống tro tàn vì mười sáu cây cột vẫn đứng vững và cái mái “da cái” lợp bằng đất sét không suy suyển hư hao bao nhiêu. Thế là ông cùng người con dâu hì hụi chắp vá lại ngôi nhà ở tạm, riêng cái cửa ra vào bây giờ như lỗ chó, ra vào phải chui luồn qua y như chó. Cuộc sống dù thảm hại như thế nhưng ông không quên bổn phận người giữ nhà thờ họ, đêm đêm ông vẫn gõ đúng 42 tiếng chuông gọi 42 hồn người chết của 12 đời dòng họ trở về.
Chiến tranh hình như không bò về ngôi làng hẻo lánh đó của ông thủ từ, ngoại trừ lần bị máy bay địch thả bom làm cháy nhà ông, không thấy có một trận giao tranh hay càn quét nào xảy ra. Nhưng nó hiện về ở hình thức khác, tàn khốc không kém, khiến ông khốn đốn trăm bề: Cách mạng. Nói là cách mạng, nhưng trên thực tế, nó là một vụ trả thù, một vụ kích động lòng căm ghét của giai cấp này đối với giai cấp kia, mượn tay quần chúng để tiêu diệt kẻ thù của mình, một thủ đoạn vô cùng dã man thâm độc nhằm dọn lối đi cho con đường quyền lực. Những nhân vật ngày trước đầy quyền uy trong tay, thuộc thành phần cường hào ác bá như chánh tổng, lý trưởng, hương bộ, hương kiểm, ngày nay được thay thế bởi thành phần mới với tên gọi khác, chủ tịch này, chủ tịch nọ, nhưng bản chất hà hiếp, nhũng loạn người dân thì không thay đổi, thậm chí có phần tàn tệ hơn trước, như tác giả viết như sau:
“Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, ai cũng biết vậy nhất là sống trong thời giặc giã, nhưng không ngờ lại khó khăn như thế này. Mà đâu phải trời đất hay Tây đen Tây trắng gì cho cam, chỉ là những người cùng xóm với nhau. Mới đây thôi, khi chưa có phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, thì dù có không ưa nhau mấy, lúc gặp nhau vẫn còn hỏi đi đâu đó, còn nói giả lả vài lời chứ đâu có nghiệt ngã như lúc này. Còn hơn cả quan phủ, quan huyện, y như cai ngục ở dưới chín tầng Diêm vương.”
Những kẻ làm cách mạng chỉ biết làm một việc duy nhất là khơi dậy, kích thích lòng căm thù từ những người dân xưa nay vốn sống hiền hòa bình dị. Họ là những nông dân, tá điền, người làm công, thuộc thành phần nghèo khổ nhất trong tầng lớp thôn làng, bởi thế không ít người mang sẵn máu căm ghét giai cấp có đất có ruộng, và khi lòng thù hận được khơi dậy, họ hò reo vui mừng để lộ ra bản chất thú tính trước cái chết tức tưởi của người hàng xóm:
“Căm thù giống như một dịch bệnh xa lạ từ đâu lan tới. Hệt như bệnh sốt rét, ai cũng run lên vì căm thù mà không hiểu vì sao. Trước thì căm thù thực dân Pháp, phong kiến, tiểu tư sản, giờ căm thù can thiệp Mỹ, địa chủ ác ôn, phú nông ngoan cố. Căm thù đã trở thành thước đo của tiến bộ, của năng lực và dĩ nhiên là của lòng yêu nước. Yêu nước phải căm thù và căm thù là yêu nước! Bọn họ đã nói ra rả suốt ngày đêm như thế.”
Ông thủ từ ngày đêm lo sợ mình bị “nâng cấp” lên thành địa chủ, vì mang danh địa chủ có nghĩa là sẽ bị đấu tố, thậm chí bị xử bắn như chơi. Ở vào thời điểm đó, chẳng có luật pháp gì cả, hay đúng hơn, luật pháp là do đám chủ tịch tùy tiện đặt ra theo chỉ thị từ trên ban xuống hay theo cảm hứng bất chợt của họ. Ông thủ từ không bị đấu tố, có lẽ, vì người con trai ông đi bộ đội chiến đấu ở vùng xa, nhưng họ cho đám thiếu niên đêm đêm đến trước vườn nhà ông rồi đứa cầm thùng thiếc, đứa mõ tre, đứa phèng la thi nhau khủng bố tinh thần ông bằng những câu chửi rủa thô tục nặng nề.
Nhưng ông sống sót cho đến ngày kháng chiến thành công. Chiến tranh, cách mạng không giết được ông, nhưng ông chết vì chính hành vi của mình.
Trong cái ổ chó ông sống với người con dâu, một đêm ông hiếp cô. Nó không phải là cái bản năng thú tính của người đàn ông khiến lương tri mờ mịt trong phút giây hoảng loạn. Nó là cái gì đau đớn, chua xót hơn nhiều:
“Ông ôm hai cái chân dựng ngược áp sát vào ngực. Rồi ông lắc như điên như dại với tất cả căm thù, tất cả tủi hận, tất cả xấu hổ trong suốt những ngày qua. Ông cũng kêu lên, rít lên như những con mụ tố khổ, như bọn trẻ hô đả đảo, có lúc gầm gầm gừ gừ như thằng Khứ hỏi cung…”
Nó là cơn bùng nổ không thể chế ngự được của những khổ nhục ê chề, những đau đớn tột cùng, những uất ức rát bỏng trong suốt chín năm trời đằng đẵng. Tất cả căm thù, tủi hận ông không biết trút vào đâu ngoài cô con dâu đáng thương, tội nghiệp. Nhưng khi nghe hai tiếng kêu “Cha ơi” từ miệng cô thì ông thốt nhiên bừng tỉnh và từ đó ông hiểu số phận của mình. Làm sao ông có thể đối diện với lương tri mình bây giờ? Thêm thằng con trai từ mặt trận trở về, làm sao ông nhìn mặt nó được? Ông không thể đổ thừa cho ai hay cho bất kỳ điều gì được nữa, lại càng không nên xin lỗi, “cái lỗi to như hòn núi Đất thì xin sao được!” Và, trong một đêm tối thanh vắng có hai tiếng “bũm” vang lên từ dòng sông. Tiếng trước nhỏ hơn, đó là chai rượu chỉ còn cái vỏ; tiếng sau to hơn, nhưng nhờ tiếng chuông chùa “đang trôi trên sông đã làm cho cái tiếng ‘bũm’ mờ đi, bớt thô tục.”
Không giống dòng họ Buendía tại ngôi làng Macondo trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez, dòng họ Phạm của ông thủ từ ở làng An Định không bị tuyệt tự. Người con trai của ông sống sót trở về làng sau hai mươi năm tập kết ra Bắc. Nay đã là một người trung niên, anh về chỉ để chứng kiến cảnh tượng hoang tàn đổ nát của ngôi nhà thờ họ. “Chẳng còn gì cả ngoài một đống đất đầy cỏ dại và những cây tảo nhơn, cây thù đâu.” Anh được người làng báo tin rằng cha anh đã chết và vợ anh về ở bên nhà cha mẹ ruột. Anh tức tốc lội sông qua tìm vợ con. Chị vợ biết anh đến, cô lánh mặt, từ trong nhà nói vọng ra: “Nó là dòng dõi họ Phạm đấy. Nhưng tôi không còn là vợ anh!”
Khuất Đẩu kết thúc truyện với câu nói bỏ lửng của người con dâu. Cái kết đột ngột để lại nỗi thắc mắc nhức nhối trong lòng người đọc: Đứa con thừa tự của dòng họ Phạm là con ông thủ từ, đời thứ 13, hay con của người con trai đi tập kết, đời thứ 14? Nó là câu hỏi không có câu trả lời, song nó như tô đậm thêm tính cách bi thảm tuyệt vọng của thân phận con người trong cơn lũ cuồng nộ, như thể tấn bi kịch đến đó chưa đủ, chưa là đoạn cuối, mà có thể còn kéo dài thêm nữa, kéo dài ra mãi.
3.
Với truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, nhà văn Khuất Đẩu sử dụng bút pháp phân mảnh, phi tuyến tính, phần tự sự đan xen với hồi ức. Nhà văn cố ý chia nhỏ, trình bày câu chuyện theo cách rời rạc, thường không có trình tự thời gian rõ ràng, để phản ánh thực tế phức tạp. Bút pháp này thường thấy ở các tác phẩm văn học Hiện đại và Hậu hiện đại, nó thách thức các cấu trúc kể chuyện truyền thống, buộc người đọc phải tự ghép lại ý nghĩa từ các yếu tố rời rạc. Với kỹ thuật viết đó, Khuất Đẩu đã vẽ lại toàn cảnh cơn lũ cuồng nộ càn quét qua đất nước Việt Nam trong một bối cảnh lịch sử khốc liệt.
Giữa tác phẩm văn học và lịch sử có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vì cả hai đều tìm cách thể hiện, diễn giải và cố gắng thấu hiểu trải nghiệm của con người nói chung. Tác phẩm văn học phản ánh bối cảnh lịch sử, xã hội, chính trị và văn hóa mà từ đó nó được viết ra. Nó có thể nắm bắt được thái độ, giá trị và hệ tư tưởng của thời đại, đóng vai trò là thấu kính để hiểu rõ hơn các quan điểm lịch sử, có thể đưa ra góc nhìn về lịch sử mà sử học truyền thống có thể bỏ qua. Trong khi các nhà sử học hướng đến sự thể hiện thực tế, nhà văn có thể sử dụng bối cảnh lịch sử để khám phá những sự thật phổ quát về bản chất con người hoặc tính đạo đức. Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và lịch sử là cộng sinh và phức tạp. Trong khi lịch sử cung cấp nguồn tài liệu phong phú cho tác phẩm văn học, thì tác phẩm văn học, ngược lại, tăng bổ sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử qua phần tự sự có chiều sâu, qua sự cộng hưởng cảm xúc và trình bày một hay nhiều quan điểm khác với sử học truyền thống.
Những điều biên chép trong sử học không nhất thiết là sự thật, chưa chắc là chân lý. Chính văn hào người Anh thế kỷ XIX Samuel Butler đã thốt câu “Thượng đế không thể thay đổi quá khứ, nhưng sử gia thì có thể.” Napoléon Bonaparte, một người lính, một ông tướng, thì bộc trực hơn, xổ toẹt “Lịch sử là một tập hợp những điều nói láo!” Riêng đối với lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại thì lịch sử đôi khi chẳng qua chỉ là một văn bản tuyên truyền hay tài liệu học tập cho cán bộ đảng viên của đảng cầm quyền. Không tin tôi ư? Bạn hãy giở bộ sách nhan đề Đại Cương Lịch Sử Việt Nam do các “sử gia” Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ biên soạn thì rõ. Bởi thế, tác phẩm văn học còn mang thêm trọng trách rất lớn. Nó tiếp nối lịch sử, vén lên cho thấy sự thật lịch sử bị che giấu dưới bức màn ý thức chính trị, thậm chí ý thức hệ. Nó khơi lại vết thương dân tộc đang dần dà chìm vào quên lãng.
Bạn có thể lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý: Tại sao phải nhắc lại một vết thương đã lành? Tại sao không quên đi quá khứ và hướng về tương lai để tìm nguồn sinh lực mới cho dân tộc?
Tôi hoàn toàn không chia sẻ luận điểm của bạn. Những điều nhà văn Khuất Đẩu miêu thuật trong thiên truyện Người giữ nhà thờ họ của ông là lịch sử, một lịch sử đau buồn của dân tộc, và lịch sử càng đau buồn thì càng nên nói đi nói lại về nó, càng nên ghi nhớ trong tâm trí để không bao giờ cho nó cơ hội tái diễn thêm một lần nữa. Trước Khuất Đẩu, đã có nhiều nhà văn, điển hình như Ngô Ngọc Bội, Võ Văn Trực, và ở chừng mực nào đó, Tô Hoài, nói về cuộc cách mạng đổ máu gây ra cái chết oan uổng cho hàng vạn con người. Lịch sử này bị chính sử cố ý bôi xóa, bóp méo. Chính sử thời quân chủ phong kiến cũng như thời cộng sản bây giờ được viết bởi kẻ thống trị; họ tô vẽ, sửa đổi lịch sử theo ý đồ, mục tiêu của họ, hiếm khi sự thực đen tối được tôn trọng một cách trung thực (ngoại trừ Tư Mã Thiên, và vì thế ông bị tội cung hình). Nhà văn là người dùng tài năng và quả tim mình điền vào chỗ trống, những lỗ hổng khiếm khuyết khổng lồ, do sử quan triều đình hay sử gia ăn lương Nhà nước để lại. Và như thường nghe nói, lịch sử sẽ tái diễn nếu ta lãng quên nó, ngòi bút của nhà văn giúp ta hiểu bài học lịch sử một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Hơn nữa, câu chuyện của nhà văn mang nặng chiều kích cảm xúc, vì đối tượng của văn học luôn là yếu tố con người, nên lịch sử được kể bởi nhà văn là một lịch sử sống, mà qua đó ta có thể hòa nhập vào các nhân vật và cảnh huống họ trải nghiệm.
Khuất Đẩu, qua thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, là một trong những nhà văn như thế.
4. Những truyện ngắn: Hiện thực hay phi thực?
Nếu truyện vừa Người giữ nhà thờ họ là chín phần hiện thực một phần phi thực thì những truyện ngắn khác của Khuất Đẩu gần như chìm đắm trong không gian phi thực, như muốn tháo gỡ mọi ràng buộc của hiện thực, dù là hiện thực văn chương, để bay bổng lên một hiện thực cao hơn, nơi có những điều mà chỉ có thể được truyền tải, giải mã bằng một giấc mơ.
Tính phi thực trong văn chương cho phép người viết phản ánh bản chất đa diện của trải nghiệm con người. Bằng cách xem cái phi thực là một phần của hiện thực, trộn lẫn phi thực vào hiện thực, tác giả gửi gắm được vào tác phẩm của mình những sự thật của cảm xúc sâu thẳm, đồng thời thách thức những nhận thức thông thường và tôn vinh sự phong phú của trí tưởng tượng cùng sự đa dạng văn hóa.
Khuất Đẩu đã làm được như vậy trong những truyện ngắn của ông, những truyện như: Những con đom đóm; Cha chung; Những hạt nút áo; Chiếc mặt nạ; Thư gửi người tình trăm tuổi; Tiểu công chúa; Bóng tháp; vua Tango, Những con đom đóm, v.v., mỗi truyện đều có một mô-típ phi thực làm chủ đạo cho suy nghiệm, ý tưởng và hàm nghĩa, dẫn dắt người đọc truy tìm một ý nghĩa nào đó cho cuộc nhân sinh.
Truyện Vua Tango thuật chuyện một người đàn ông, trước cuộc đổi đời lịch sử, là một tay chơi khét tiếng, một “ông hoàng của các vũ trường”, nhưng khi thất trận và thất thế, anh xung phong đẫn vợ con lên vùng Kinh tế mới kiếm sống. Lên vùng đất hoang vu, anh không làm ruộng làm vườn kiếm kế sinh nhai mà chỉ trồng thuốc lá và pha chế cà phê, bởi anh nghiện nặng hai thứ đó. Anh có vẻ sống ung dung một mình trong căn chòi lụp sụp, vợ con ở nơi khác, dưới thị trấn làm ăn lẻ. Anh tiếp người bạn cũ (người kể chuyện) bằng một tách cà phê đậm đà nguyên vẹn hương vị thuở xa xưa.
Tuy lấy bối cảnh hiện thực làm phông cho câu chuyện, tác giả đã không cho phần tự sự dừng lại ở bên này đường biên mà đẩy nó vào vòng tròn huyễn mộng của phi thực khi cho Vua Tango chết đột ngột trong lúc đang làm cái việc mà anh yêu thích nhất: nhảy một đỉệu Tango, tại bữa tiệc trùng phùng hội ngộ với những người ngày xưa là học trò của anh.
Trong suy nghĩ của riêng tôi, đây là một truyện ngắn mang tính phi lý, nói cách khác, nó là sự xung đột giữa con người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống với một thế giới tàn bạo đến độ đóng băng. Nó là thân phận con người bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Nhưng thay vì khuất phục và cam chịu, nhân vật của Khuất Đẩu đối mặt với sự phi lý bằng cách ngửng đầu lên thách thức nó. A, mày đày đọa thể xác và tâm hồn tao ư? Tao đếch sợ! Tao vẫn cứ làm những điều tao thích, mày làm gì được tao? Cuộc sống thiếu ý nghĩa khách quan không bắt buộc ta phải tuyệt vọng mà thay vào đó, nó mời gọi ta hãy sống trọn vẹn bất chấp chính sự phi lý đó. Cuộc sống vốn đầy dẫy mâu thuẫn và những điều phi lý, mà phi lý nhất là chiến tranh. Theo quan điểm của nhà văn kiêm triết gia Albert Camus thì phản ứng thích hợp đối với sự phi lý là hãy sống cho có mục đích và mãnh liệt, hầu tạo ra ý nghĩa của riêng ta trong một vũ trụ không có ý nghĩa nào.
Nhìn từ khía cạnh phi-triết, cái chết của “Vua Tango” là cái chết lãng mạn, chân phúc, thật đẹp. Một cái chết khác, đẹp và lãng mạn không kém, là cái chết của người đàn bà trong truyện Bóng tháp. Người đàn bà có chồng tử trận trong chiến tranh (vâng, chiến tranh là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong toàn bộ sáng tác của Khuất Đẩu), và một hôm, khi cuộc chiến đã tàn, cô đi bốc mộ xác người chồng, bỏ vào một chiếc thùng xốp và vác nó suốt ba chặng đường dài – một chuyến tàu hỏa, một chuyến xe hơi, và một đoạn đường đi bộ – để đem bộ hài cốt về giao tận tay người bên gia đình chồng trong một làng thôn hẻo lánh. Suốt mười năm cô sống trong mong đợi, đợi ngày hoàn tất nhiệm vụ vô cùng khó khăn đó. Trong thời gian đó, cô gặp người khác, một người từ nước ngoài về và anh ta tha thiết muốn cô chắp nối lại mối lương duyên với anh ta trong tháng ngày còn lại. Câu chuyện sẽ tầm thường biết mấy nếu tác giả cho người đàn bà ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm, hân hoan, đầu óc vẽ ra hình ảnh và ước vọng tương lai sinh sống tại nước ngoài với người chồng mới. Không, rất may, nó không mắc phải nhược điểm ấu trĩ đó. Khuất Đẩu là một cây bút lão luyện, thẩm thấu rất rõ giá trị văn chương, và phần kết câu chuyện là đoạn văn tả cảnh người đàn bà tự trầm xuống dòng sông thật đẹp, đẹp đến não nùng:
“Nàng tìm cách xuống sông. Những hòn đất rơi lõm bõm làm mặt sông nhăn nhúm run rẩy. Khi nước ngập đến cổ, nàng dừng lại. Đợi cho mặt nước lặng yên, nàng ngắm cái bóng tháp đựng đầy trong lòng sông. Ngọn tháp như được lau rửa, thắm đỏ đẹp lạ lùng. Nàng há miệng ra uống vào một ngụm. Cả bầu trời xanh trong vắt, cả ngọn đồi tròn trĩnh và cả ngọn tháp đỏ rực như mới xây, chui tuột vào bụng nàng. Một sức nặng không con số nào đo được kéo nàng xuống sát đáy. Trên cao, một con chim bói cá đâm bổ xuống như một mũi lao, rồi chỉ trong chợp mắt, mang lên một chú cá cuống quýt quẫy cái đuôi óng ánh bạc. Mặt trời lặn xuống thật nhanh như có ai đó thò tay đánh cắp.”
Thiên truyện chấm dứt ngay đó, và không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến người đàn bà tìm cái chết tại dòng sông. Tại sao cô chết trong khi tương lai đời sống tốt đẹp hơn đang chờ đón cô ở chân trời phía trước mặt. Cô không thể sống vì chồng cô không còn tại thế với cô nữa ư? Không đâu. Cô đã sống được mười năm trời sau cái chết đau đớn của chồng mình. Hay là cô mang sẵn trong lòng ý nguyện chết theo chồng một khi đưa được hài cốt anh về nhà? Không thấy tác giả nói gì về điều đó, và tôi cũng chẳng muốn tin như vậy, bởi nó có vẻ “trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình, quốc văn giáo khoa thư” lắm, nó không có chỗ đứng trong một thiên truyện có tính cách tân như truyện Khuất Đẩu.
Cũng như không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến nàng Anna Karenina của Tolstoy gieo mình quyên sinh trước đầu máy chiếc tàu hỏa, người đàn bà của Khuất Đẩu nhìn thấy cái đẹp diễm ảo của cái bóng ngọn tháp khi nước sông ngập đến cổ cô. Cái chết đẹp như ngọn tháp, và có sự tương quan kỳ lạ, thậm chí ma mị, giữa hai sự vật tưởng chừng chẳng liên hệ gì đến nhau đó. Và đó là cái đẹp của văn chương khi được bao phủ bởi lớp sương mù của khí hậu phi thực đầy mộng ảo.
Ở một thiên truyện khác, Những con đóm đóm, người đàn bà lẽ ra phải đi tìm cái chết thì lại hồi tỉnh, hồi tâm và hồi sinh. Cô tìm ra con đường sống cho mình sau những trầm luân của kiếp người khi bị dìm xuống tận đáy bùn đen nhơ nhớp. Cô là gái điếm, một thứ đĩ rạc rài, tiếp khách làng chơi trong những ống bi bên vệ đường ngoài đồng ruộng. Cô có đứa con trai còn bé rất đĩnh ngộ, nhưng chẳng may nó xấu số chết sớm. Cô tin là linh hồn đứa bé biến thành con đom đóm và một đêm nọ trong lúc cô đang tiếp khách trong ống bi thì một con đom đóm bay vào khiến cô thốt nhiên tỉnh ngộ và cô vùng lên chạy như điên dại ra biển. Cô chạy ra biển không phải để tự trầm xuống mặt nước mà để gột rửa bùn nhơ trong tâm hồn cô.
Ta phải hiểu đó là giây phút khải thị. Con đom đóm, theo niềm tin của người đàn bà trong truyện, và hầu hết dân gian, là linh hồn người chết, chính là một biểu tượng ám chỉ ánh sáng hy vọng, một thứ ánh sáng tuy chập chờn yếu ớt nhưng đầy ân phúc bao dung. Nó là hy vọng được cứu chuộc và vẫn được sống như một con người, bởi sống như con người, cho trọn kiếp, là cái gì cực kỳ khó khăn.
Tương tự như thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ở những truyện ngắn, tác giả không sử dụng thủ pháp Hiện thực Huyền ảo, không có những chi tiết miêu thuật thế giới hoang đường, siêu nhiên; nó cũng không phải là giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hoặc vô thức của trường phái Siêu thực, mà chỉ khéo léo trộn lẫn tự sự phi thực vào tự sự hiện thực như một cảnh ngộ tình cờ, khó có thể xảy ra trên đời, nhưng không phải tuyệt đối không thể xảy ra, như những truyện ngắn Tiểu công chúa, Cha chung…
Truyện Tiểu công chúa thuật câu chuyện một lão họa sĩ già vẽ những bức tranh tháp bay. Truyện ngắn này hàm chứa quan điểm của tác giả về nghệ thuật thị giác:
“Chẳng phải là mơ sao mà đồng hồ báo thức lại mềm hẳn ra như sắp chảy, một con dê mà cũng biết kéo vĩ cầm… Đột nhiên tôi thấy mình ngộ ra: vẽ, không phải kỳ khu như một thợ thủ công mà phải biết chơi với sắc màu như đứa bé chơi đùa trên cát…”
Hiển nhiên, trong đoạn văn trên, Khuất Đẩu muốn nhắc tới hai nhà danh họa nửa đầu thế kỷ XX: Salvador Dalí và Marc Chagall, vốn là những họa sĩ tiên phong định hình cho luồng gió mới trong nghệ thuật hội họa Hiện đại Tây phương, và trong lúc đọc, tôi không thể không nhớ đến câu nói rất nổi tiếng của Pablo Picasso: “Tôi mất bốn năm để vẽ như Raphael, nhưng phải mất cả đời để vẽ như một đứa trẻ”.
Sự thú vị khi đọc truyện Khuất Đẩu là những chỗ tinh tế như thế.
5.
Lịch sử hình như đè nặng ngòi bút của nhà văn Khuất Đẩu. Với Huyền Trân Công chúa, truyện vừa thứ hai trong tập truyện, ông bơi ngược dòng lịch sử bảy trăm năm về thời Nhà Trần để dựng lại câu chuyện nàng công chúa nổi tiếng nhất lịch sử Việt Nam: Huyền Trân.
Hình như Khuất Đẩu không hài lòng với những điều biên chép trong chính sử: “Vì sao một vì vua anh minh và nhân hậu như Trần Nhân Tông lại đem con gái yêu của mình gả bán cho Chế Mân? Trần Khắc Chung là ai mà sau khi cứu được công chúa lại cùng nàng tư tình trên biển gần cả năm mới về?” Ông không ngần ngại đưa ra hai nghi vấn như thế, và đây chính là tiền đề cho câu chuyện ông muốn thuật lại.
Phải chăng chữ nghĩa do sử quan Nhà Trần viết, “Anh Tông được tin ấy sai Trần Khắc Chung giả mượn tiếng vào thăm để cứu công chúa. Nhân đó Khắc Chung cùng nàng tư thông trên biển” đã khiến Khuất Đẩu bất bình, và ông thấy cần phải viết thiên truyện này để cho thấy cái nhìn của ông sử quan nào đó chưa hẳn là đúng? Cái từ “tư thông”, nặng như búa tạ, sắc như lưỡi gươm đao phủ, là nỗi nhục oan uổng và oan khiên cho một nàng công chúa đã quên mình hy sinh vì lợi ích quốc gia. Nàng có tội tình gì, nếu không muốn nói là có công rất lớn đối với đất nước Đại Việt, mà phải chịu tiếng xấu nghìn thu như thế?
Khuất Đẩu nhất định không chịu tin lời vu oan giá họa hàm hồ của lão sử quan già nua khệnh khạng trọng nam khinh nữ cổ hủ triều Trần. Trong Lời phi lộ của thiên truyện, ông viết:
“Quê tôi gần thành Đồ Bàn. Cái kinh đô đã từng in dấu chân của Huyền Trân qua bao cuộc biển dâu giờ chỉ còn lại một bờ thành cũ bằng đất và tháp Cánh Tiên. Ngọn tháp đẹp nhất trong các ngọn tháp của xứ Chămpa, vẫn đứng sừng sững cùng với thời gian. Phải chăng vì có bóng dáng của Huyền Trân nên nó vẫn sáng long lanh như một khối ngọc khổng lồ. Ngọn tháp đẹp đến nỗi dù ở xa tận xứ Trầm Hương này, tôi vẫn thấy nó chiếu sáng từng đêm. Đó là cái Đẹp đã cứu rỗi cả một dân tộc.”
Trong mắt nhìn của Khuất Đẩu, công chúa Huyền Trân là biểu tượng cho cái Đẹp cao cả. Nàng là công chúa, cành vàng lá ngọc, nhưng lại thích cưỡi ngựa bắn cung và có lòng nhân hậu thương người, nhất là người dân nghèo khổ trong xã hội. Khi về xứ Chiêm làm vương hậu một quốc gia, tuy không lớn mạnh bằng Đại Việt nhưng hùng cứ một phương một cõi, nàng được thần dân xứ này yêu mến y như thuở còn ở quê nhà. Nàng yêu thương Chế Mân vì thấy ông vua này cũng là bậc anh hùng chứ không phải “thằng Mán thằng Mường” như những kẻ xấu mồm xấu miệng mỉa mai xách mé.
Khuất Đẩu tuyệt đối không có cái nhìn khinh bỉ đối với Chế Mân và dân tộc Chiêm Thành nói chung. Theo ông, đó là một dân tộc hiền hòa, hồn nhiên, chân thật, và có nền văn minh, văn hóa rực rỡ với hàng trăm ngọn tháp tuyệt đẹp được dựng lên khắp nơi trong xứ sở. Vẫn theo ngòi bút của Khuất Đẩu thì Huyền Trân về với Chế Mân được một năm, có thai trong bụng, nhưng chẳng may Chế Mân bất ngờ tử nạn trong một cuộc săn voi, và theo phong tục xứ Chiêm nàng phải chết theo chồng trên giàn hỏa thiêu. Nhưng vì đang có thai nên nàng được tạm hoãn, và nhân dịp đó, Trần Khắc Chung, theo lệnh của triều đình Nhà Trần, giả mượn tiếng viếng tang lễ Chế Mân, lập kế bắt công chúa đem đi.
Đây là đoạn Khuất Đẩu đi chệch ra khỏi chính sử. Trong truyện, công chúa Huyền Trân sau khi thoát khỏi thành Đồ Bàn được Trần Khắc Chung đưa đến một hòn đảo nhỏ ngoài biển Đông, tại đây nàng hạ sinh đứa bé, nhưng đứa bé chết lúc ra đời. Sau đó nàng bị Trần Khắc Chung cưỡng bức. Khuất Đẩu vẽ hình ảnh Trần Khắc Chung là một vị tướng hèn hạ, lỗ mãng, dung tục, tham sắc, và chẳng hề có mối tình lãng mạn nào giữa ông ta và công chúa, chẳng hề có chuyện “tư tình, tư thông, tư thiếc” như chính sử biên chép.
Bị Trần Khắc Chung cưỡng bức, tại sao Huyền Trân không tự kết liễu đời mình, chết theo chồng? Tại sao nàng vẫn về lại Thăng Long, lên núi Yên Tử thăm phụ hoàng Nhân Tông, lúc đó đã là một nhà tu, nhưng nàng không chịu đi tu, mà tiếp tục sống trong hoang lạnh cho đến cuối đời? Khuất Đẩu kết thúc thiên truyện ở đó mà không cho chúng ta câu trả lời.
Nhưng câu trả lời có quan trọng lắm không? Sự thật là không ai biết nàng sống như thế nào sau khi về lại đất Đại Việt. Theo dã sử và thần tích sau này thì nàng lên chùa tu ở núi Trâu Sơn theo di mệnh của vua Nhân Tông. Điều ấy chưa hẳn là chính xác, có thể do người đời sau thêu dệt. Liệu nàng có lấy một người chồng khác hay về phủ Thiên Trường sống ẩn dật, ngày ngày quét dọn ngôi nhà tế tự của dòng tộc họ Trần?
Dù thế nào chăng nữa thì Khuất Đẩu vẫn nhìn thấy một Huyền Trân “đẹp long lanh như tháp Cánh Tiên giữa phế tích Đồ Bàn” như trong lời Kết của thiên truyện.
Trở lại với quyết định của vua Nhân Tông gả Huyền Trân cho vua Chiêm, Khuất Đẩu có ý chê trách vua Nhân Tông, một vì vua “anh minh và nhân hậu, mà lại đem con gái yêu của mình gả bán cho vua nước Chiêm” như ông viết trong Lời phi lộ. Tôi thì nghĩ ngược lại. Theo tôi, vua Nhân Tông đã rất sáng suốt, khôn ngoan và nhân hậu khi đem con gái yêu của mình gả cho Chế Mân!
Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Nguyên và mặc dù đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, đất nước Đại Việt lúc đó đã kiệt quệ lắm rồi, dân tình thống khổ vì chiến tranh, và sách lược đối ngoại tốt nhất là tìm cách hòa hiếu với quốc gia ở phương Nam hầu tránh nạn đao binh không cần thiết. Trong thời gian chín tháng viếng thăm Chiêm Thành, Nhân Tông nhìn thấy tiềm lực của vương quốc này, họ không hèn yếu như nhiều người ở Thăng Long, do mặc cảm tự tôn, từng lạc quan đánh giá một cách sai lạc. Và quả nhiên như thế, sau Nhân Tông, Đại Việt đã khốn đốn nhiều phen với Chế Bồng Nga, một hậu duệ của Chế Mân. Chính vua Duệ Tông bị tử trận tại thành Đồ Bàn khi đem đại quân vào chinh phạt; và thành Thăng Long bị Chế Bồng Nga đem quân ra công phá ba lần.
Hôn nhân, dù là dị chủng, giữa các vương triều thời quân chủ phong kiến vốn là phương sách ngoại giao hữu hiệu, vua Nhân Tông đã không bỏ lỡ cơ hội để bảo đảm hòa bình cho Đại Việt, ít nhất trong một thời gian vài ba mươi năm, hầu dành thời gian tái thiết quốc gia, lấy lại sinh lực dân tộc. Và thêm mối lợi to, nghìn dặm đất hai châu Ô-Rí (một dải đất bao gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị ngày nay) từ nay thuộc về Đại Việt mà không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu. Vua Nhân Tông quả là một nhà lãnh đạo tài giỏi và ngài đã đặt quyền lợi quốc gia lên trên tình cảm gia đình, dòng tộc.
Khuất Đẩu khi viết thiên truyện này không có ý đồ viết lại lịch sử. Ông chỉ muốn làm công việc duy nhất là cố tẩy xóa cái từ “tư thông” tai ác ghi trong chính sử, cho chính ông mà thôi, bởi ông nhìn thấy cái Đẹp của Huyền Trân công chúa. Và cũng bởi thế, truyện hiền lành, cận nhân tình, hướng thiện. Với thiên truyện này, Khuất Đẩu không có những ẩn dụ tinh sắc và tinh tế của Nguyễn Huy Thiệp (do sống cả đời dưới bóng đen che phủ của cái-gọi-là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa nên không thoát được cái vòng kim cô mà Czeslaw Milosz gọi là tâm thức ngục tù); nó cũng thiếu cái tàn nhẫn phi lý đặc trưng của Trần Vũ (do căm ghét giai cấp thống trị nên không ngần ngại giải thiêng, dung tục hóa các thần vị anh hùng). Nhưng Khuất Đẩu có cái nhìn nhân bản, và đó chính là điểm mạnh làm nền tảng cho ngòi bút của ông.
6.
Truyện Khuất Đẩu, dù là truyện ngắn hay truyện vừa, mở ra trong tâm tư người đọc nhiều liên tưởng bát ngát; bên dưới lớp vỏ thô nhám, sần sùi, đôi khi tàn bạo, khốc liệt, là những chua xót, ngậm ngùi cho thân phận con người, những thân phận bị chôn vùi dưới con trốt xoáy của lịch sử và dòng đời. Đọc Khuất Đẩu không phải để tìm kiếm câu trả lời cho những vấn nạn nhân sinh, nhà văn không đưa ra đáp án, lại càng không rao giảng đạo đức, thậm chí một lời an ủi cũng không.
Tác phẩm văn học, khác với một cuốn sách sử học, chính trị học, tâm lý học, xã hội học, v.v. ở chỗ nó khám phá những tình huống, bình thường và phi thường, để có thể đào sâu vào những trải nghiệm phổ quát của con người như tình yêu, sự mất mát, cái chết, ý nghĩa cuộc sống, các mối quan hệ, tính đạo đức cũng như phi đạo đức, những xung đột, niềm vui, nỗi đau khổ và sự phức tạp của cảm xúc. Nó chiêm nghiệm cách thế mỗi cá nhân điều hướng những chủ đề này trong bối cảnh cuộc sống và xã hội của họ, đưa ra những nhân vật và tình huống dễ đồng cảm, và gây được tiếng vang sâu thẳm trong lòng người đọc. Nó va chạm và trăn trở những vấn đề của muôn kiếp trước, của nghìn kiếp sau chứ không phải nhất thời, vì vậy, nó không bao giờ trở nên cũ kỹ, lỗi thời. Trang sách có thể úa vàng rách nát nhưng những con chữ trên mặt sách vẫn nóng hôi hổi như vừa được viết ra với dòng máu sục sôi.
Tôi tin là Khuất Đẩu đã làm được điều đó qua tập truyện Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của ông.
– Trịnh Y Thư
(1/2025)
18 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
16 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
13 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
10 Sep 2019 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
05 Sep 2019 in Góc Văn&khuất đẩu: những trang viết ngắn
30 May 2019 in Góc Văn
28 May 2019 in Góc Văn
18 May 2019 in Góc Văn
17 May 2019 in Góc Văn
15 May 2019 in Ghi Chép
15 Jan 2019 in Góc Văn
02 Jan 2019 in Góc Văn
24 Dec 2018 in Góc Văn
17 Dec 2018 in Góc Văn
26 Oct 2018 in Góc Văn
18 Jun 2018 in Góc Văn
28 Mar 2018 in Ghi Chép
Ngô Thị Kim Cúc: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn,
Ngô Thị Kim Cúc: Khóc cười trên một xứ sở buồn vô hạn,
28 Mar 2018 in Góc Văn
23 Jan 2018 in Ghi Chép
3
Khuất Đẩu: NHÀ VĂN GAI GÓC CỦA XỨ XƯƠNG RỒNG,
3
Khuất Đẩu: NHÀ VĂN GAI GÓC CỦA XỨ XƯƠNG RỒNG,
15 Jan 2018 in Góc Văn
Khuất Đẩu: VĂN DĨ TẢI CÁI GÌ?,
Khuất Đẩu: VĂN DĨ TẢI CÁI GÌ?,
05 Jan 2018 in Góc Văn
Khuất Đẩu: GIÓ BẤC,
Khuất Đẩu: GIÓ BẤC,
01 Jan 2018 in Góc Văn
Khuất Đẩu: ĐÔI KHI NẮNG LÊN,
Khuất Đẩu: ĐÔI KHI NẮNG LÊN,
27 Dec 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: MONG ĐƯỢC MỘT LẦN!,
Khuất Đẩu: MONG ĐƯỢC MỘT LẦN!,
20 Dec 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: MÙI NHỚ (đọc Nguyễn thị Khánh Minh),
Khuất Đẩu: MÙI NHỚ (đọc Nguyễn thị Khánh Minh),
20 Apr 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: ĐỌC ĐỐT LỬA NGHE SƯ ĐÀN CỦA NGUYỄN XUÂN THIỆP,
Khuất Đẩu: ĐỌC ĐỐT LỬA NGHE SƯ ĐÀN CỦA NGUYỄN XUÂN THIỆP,
13 Apr 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Đọc THƠ KHÔNG ĐIÊN Của KIỆT TẤN,
Khuất Đẩu: Đọc THƠ KHÔNG ĐIÊN Của KIỆT TẤN,
06 Apr 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Lục bát phù sa (đọc Lục Bát Điên của Kiệt Tấn),
Khuất Đẩu: Lục bát phù sa (đọc Lục Bát Điên của Kiệt Tấn),
03 Apr 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: VIẾT NHƯ KINH KHA BUỒN,
Khuất Đẩu: VIẾT NHƯ KINH KHA BUỒN,
11 Jan 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Điền trang Thân Trọng,
Khuất Đẩu: Điền trang Thân Trọng,
04 Jan 2017 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Người Tử Tù,
Khuất Đẩu: Người Tử Tù,
16 Jul 2016 in Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu
Khuất Đẩu: NGƯỜI TỬ TÙ,
Khuất Đẩu: NGƯỜI TỬ TÙ,
14 Mar 2016 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC – Xiếc của mẹ(3),
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC – Xiếc của mẹ(3),
05 Feb 2016 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC – Xiếc của con(2),
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC – Xiếc của con(2),
28 Jan 2016 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC -Xiếc của người (1),
Khuất Đẩu : NHỮNG VÒNG TRÒN XIẾC -Xiếc của người (1),
20 Jan 2016 in Góc Văn
Khuất Đẩu : LŨ CHUỘT GIÀ CẮN NHAU CHÍ CHÓE!,
Khuất Đẩu : LŨ CHUỘT GIÀ CẮN NHAU CHÍ CHÓE!,
15 Jan 2016 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : MÀU XANH ĐINH CƯỜNG,
Khuất Đẩu : MÀU XANH ĐINH CƯỜNG,
01 Dec 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: IS tự xưng và CS tự hào,
Khuất Đẩu: IS tự xưng và CS tự hào,
18 Nov 2015 in Góc Văn
4
Khuất Đẩu: MỘNG DỮ,
4
Khuất Đẩu: MỘNG DỮ,
14 Nov 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: CHUỘT ĂN CẮP…THƠ!,
Khuất Đẩu: CHUỘT ĂN CẮP…THƠ!,
01 Nov 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: NHỮNG THÁI TỬ CHUỘT,
Khuất Đẩu: NHỮNG THÁI TỬ CHUỘT,
22 Oct 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: NHỮNG CON CHUỘT GIÀ CHƯA CHỊU CHẾT!,
Khuất Đẩu: NHỮNG CON CHUỘT GIÀ CHƯA CHỊU CHẾT!,
19 Oct 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: CUNG ĐÌNH NHÀ CHUỘT,
Khuất Đẩu: CUNG ĐÌNH NHÀ CHUỘT,
14 Oct 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: MÈO MAO VÀ CÁI TPP,
Khuất Đẩu: MÈO MAO VÀ CÁI TPP,
10 Oct 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu : MÈO MAO ĐỊNH XƯNG BÁ,
Khuất Đẩu : MÈO MAO ĐỊNH XƯNG BÁ,
05 Oct 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: VUA CHUỘT CHÙ VÀ MÈO ĐÔRÊMÔN,
Khuất Đẩu: VUA CHUỘT CHÙ VÀ MÈO ĐÔRÊMÔN,
28 Sep 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: MÈO TOM VÀ VUA CHUỘT CHÙ,
Khuất Đẩu: MÈO TOM VÀ VUA CHUỘT CHÙ,
26 Sep 2015 in Ghi Chép
Khuất Đẩu :QUỐC KHÁNH CHUỘT,
Khuất Đẩu :QUỐC KHÁNH CHUỘT,
05 Sep 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: THẰNG SÀI GÒN,
Khuất Đẩu: THẰNG SÀI GÒN,
23 May 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: LẠI SINH NHẬT BUỒN!,
Khuất Đẩu: LẠI SINH NHẬT BUỒN!,
18 May 2015 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : CÂY DẦU ĐÔI,
Khuất Đẩu : CÂY DẦU ĐÔI,
16 May 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: SAO CÒN NGỒI ĐÓ?,
Khuất Đẩu: SAO CÒN NGỒI ĐÓ?,
04 May 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: RĂNG ĐEN MÃ TẤU,
Khuất Đẩu: RĂNG ĐEN MÃ TẤU,
27 Apr 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: THÁNG TƯ QUỶ ÁM,
Khuất Đẩu: THÁNG TƯ QUỶ ÁM,
17 Apr 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
5
Khuất Đẩu : NẶN VÀ BÓP,
5
Khuất Đẩu : NẶN VÀ BÓP,
07 Apr 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: ĐAO PHỦ THỦ TRẺ CON,
Khuất Đẩu: ĐAO PHỦ THỦ TRẺ CON,
04 Apr 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : MỘT CHÚT TRỜI XANH!,
Khuất Đẩu : MỘT CHÚT TRỜI XANH!,
26 Mar 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : Tử Tế và không Tử Tế,
Khuất Đẩu : Tử Tế và không Tử Tế,
16 Mar 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Đọc tản văn của Khuất Đẩu,
Đọc tản văn của Khuất Đẩu,
12 Mar 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : HUN VỚI HÍT,
Khuất Đẩu : HUN VỚI HÍT,
04 Mar 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : HẬN HOÀNG SA,
Khuất Đẩu : HẬN HOÀNG SA,
02 Mar 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: HẬN BIÊN CƯƠNG,
Khuất Đẩu: HẬN BIÊN CƯƠNG,
27 Feb 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: THỢ LÀNG QUÊ,
Khuất Đẩu: THỢ LÀNG QUÊ,
24 Feb 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : CHÀO CỤ DÊ!,
Khuất Đẩu : CHÀO CỤ DÊ!,
13 Feb 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: CỜ ĐEN VÀ CỜ ĐỎ,
Khuất Đẩu: CỜ ĐEN VÀ CỜ ĐỎ,
07 Feb 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: SINH NHẬT BUỒN,
Khuất Đẩu: SINH NHẬT BUỒN,
02 Feb 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: “BÊN MÌNH”,
Khuất Đẩu: “BÊN MÌNH”,
31 Jan 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: NGƯỜI CHỒNG MỘT ĐÊM!,
Khuất Đẩu: NGƯỜI CHỒNG MỘT ĐÊM!,
29 Jan 2015 in Góc Văn
Khuất Đẩu: TRÊN ĐƯỜNG VỀ NHỚ ĐẦY,
Khuất Đẩu: TRÊN ĐƯỜNG VỀ NHỚ ĐẦY,
20 Jan 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
6
Khuất Đẩu: CÁI SÂN ĐẤT,
6
Khuất Đẩu: CÁI SÂN ĐẤT,
01 Jan 2015 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: NHỮNG CON ĐƯỜNG LÀNG,
Khuất Đẩu: NHỮNG CON ĐƯỜNG LÀNG,
20 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : CÁI LẠ LÙNG,
Khuất Đẩu : CÁI LẠ LÙNG,
16 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: PHO TƯỢNG,
Khuất Đẩu: PHO TƯỢNG,
12 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: LẶNG LẼ NƠI NÀY,
Khuất Đẩu: LẶNG LẼ NƠI NÀY,
09 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: BUỒN NHƯ LY RƯỢU CẠN!,
Khuất Đẩu: BUỒN NHƯ LY RƯỢU CẠN!,
04 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : ÁO TRẮNG,
Khuất Đẩu : ÁO TRẮNG,
01 Dec 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : TRÈO QUA CHÍN DỐC!,
Khuất Đẩu : TRÈO QUA CHÍN DỐC!,
21 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: LẠI NÓI VỀ LÚA,
Khuất Đẩu: LẠI NÓI VỀ LÚA,
18 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: BUỒN ĐÊM MƯA,
Khuất Đẩu: BUỒN ĐÊM MƯA,
15 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : TUỔI MƯỜI BẢY,
Khuất Đẩu : TUỔI MƯỜI BẢY,
13 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu: DẺO THƠM MỘT HẠT,
Khuất Đẩu: DẺO THƠM MỘT HẠT,
06 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : NHỚ MÓN ĂN XƯA,
Khuất Đẩu : NHỚ MÓN ĂN XƯA,
03 Nov 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : NẮNG HÀNG CAU,
Khuất Đẩu : NẮNG HÀNG CAU,
31 Oct 2014 in khuất đẩu: những trang viết ngắn
Khuất Đẩu : CHIỀU CHIỀU…,
Khuất Đẩu : CHIỀU CHIỀU…,
16 Jul 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : TRUYỆN CỰC NGẮN! KHÔNG ĐỀ,
Khuất Đẩu : TRUYỆN CỰC NGẮN! KHÔNG ĐỀ,
09 Jul 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu: NHỮNG HỒI ỨC BUỒN,
Khuất Đẩu: NHỮNG HỒI ỨC BUỒN,
26 Jun 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu: “ĐỨA CON HOANG ĐÀNG VIỆT NAM HÃY TRỞ VỀ NHÀ!”,
Khuất Đẩu: “ĐỨA CON HOANG ĐÀNG VIỆT NAM HÃY TRỞ VỀ NHÀ!”,
24 Jun 2014 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : TÔI VỀ ĐỨNG NGẨN NGƠ*,
Khuất Đẩu : TÔI VỀ ĐỨNG NGẨN NGƠ*,
19 Jun 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : TỨ TUYỆT,
Khuất Đẩu : TỨ TUYỆT,
19 May 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : TRÊN ĐỒI CAO,
Khuất Đẩu : TRÊN ĐỒI CAO,
25 Apr 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu: BỖNG DƯNG NHẢY XUỐNG SÔNG!,
Khuất Đẩu: BỖNG DƯNG NHẢY XUỐNG SÔNG!,
24 Apr 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : HẦM!,
Khuất Đẩu : HẦM!,
21 Apr 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : ÔI QUÊ HƯƠNG, XỨ DÂN LÙN!,
Khuất Đẩu : ÔI QUÊ HƯƠNG, XỨ DÂN LÙN!,
04 Apr 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu: NAM MÔ CHIẾC ÁO CÀ SA!,
Khuất Đẩu: NAM MÔ CHIẾC ÁO CÀ SA!,
28 Mar 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : BÀ CHÚA HỜI,
Khuất Đẩu : BÀ CHÚA HỜI,
23 Mar 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Đọc Tro Tàn Rực Rỡ của Nguyễn Ngọc Tư,
Khuất Đẩu : Đọc Tro Tàn Rực Rỡ của Nguyễn Ngọc Tư,
20 Feb 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHÌN LẠI MÌNH, ĐỜI ĐÃ XANH RÊU*,
Khuất Đẩu : NHÌN LẠI MÌNH, ĐỜI ĐÃ XANH RÊU*,
08 Feb 2014 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHỮNG BẦY SÂU,
Khuất Đẩu : NHỮNG BẦY SÂU,
29 Dec 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : LIẾM,
Khuất Đẩu : LIẾM,
23 Dec 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Con mèo,
Khuất Đẩu : Con mèo,
15 Dec 2013 in Vòng Quanh Thế Giới Ảo
Khuất Đẩu : CỬA ĐÃ MỞ!,
Khuất Đẩu : CỬA ĐÃ MỞ!,
07 Dec 2013 in Ghi Chép
8
Khuất Đẩu : NHỮNG TRÁI TIM TRÊN CAO NGUYÊN,
8
Khuất Đẩu : NHỮNG TRÁI TIM TRÊN CAO NGUYÊN,
05 Dec 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu :Thiến!,
Khuất Đẩu :Thiến!,
18 Nov 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : TÔI THỰC SỰ CẢM THẤY XẤU HỔ,
Khuất Đẩu : TÔI THỰC SỰ CẢM THẤY XẤU HỔ,
08 Nov 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : MẸ KHÔNG ANH HÙNG (3)- Trần văn Quy Nhơn,
Khuất Đẩu : MẸ KHÔNG ANH HÙNG (3)- Trần văn Quy Nhơn,
03 Oct 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : MẸ KHÔNG ANH HÙNG (2)- Bùi văn Liên Xô,
Khuất Đẩu : MẸ KHÔNG ANH HÙNG (2)- Bùi văn Liên Xô,
20 Sep 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Đã đến lúc, dù không đúng lúc, ông tôi chết!,
Khuất Đẩu : Đã đến lúc, dù không đúng lúc, ông tôi chết!,
22 Aug 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NGUYỄN HÒA VCV,
Khuất Đẩu : NGUYỄN HÒA VCV,
05 Aug 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : VUA CHUỘT,
Khuất Đẩu : VUA CHUỘT,
03 Jul 2013 in Góc Văn
TV&BH : ĐĨ THÚI của Nguyễn Viện,
TV&BH : ĐĨ THÚI của Nguyễn Viện,
24 May 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu: “TÀU KHỰA CÚT KHỎI BIỂN ĐÔNG”,
Khuất Đẩu: “TÀU KHỰA CÚT KHỎI BIỂN ĐÔNG”,
20 May 2013 in Ghi Chép
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (4),
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (4),
23 Apr 2013 in Góc Văn
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (3),
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (3),
17 Apr 2013 in Ghi Chép
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (2),
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (2),
12 Apr 2013 in Ghi Chép
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (1),
Trương Huyền Trường: TUI IU TIẾNG NƯỚC TUI (1),
10 Apr 2013 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Đọc Kịch Lữ Kiều,
Khuất Đẩu : Đọc Kịch Lữ Kiều,
19 Mar 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Điên như Kiệt Tấn -Bài 3: Em điên xõa tóc,
Khuất Đẩu : Điên như Kiệt Tấn -Bài 3: Em điên xõa tóc,
02 Mar 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Điên như Kiệt Tấn – Bài 2: Năm nay đào lại nở,
Khuất Đẩu : Điên như Kiệt Tấn – Bài 2: Năm nay đào lại nở,
07 Feb 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Vua Tango,
Khuất Đẩu : Vua Tango,
28 Jan 2013 in Góc Văn
9
Khuất Đẩu : TIẾNG SÁO NGƯỜI EM ÚT của Dương Nghiễm Mậu,
9
Khuất Đẩu : TIẾNG SÁO NGƯỜI EM ÚT của Dương Nghiễm Mậu,
18 Jan 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : CHA VÀ CON GÁI,
Khuất Đẩu : CHA VÀ CON GÁI,
09 Jan 2013 in Góc Văn
Khuất Đẩu : TIẾNG SÁO,
Khuất Đẩu : TIẾNG SÁO,
15 Dec 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : NHỮNG ĐÊM TRẮNG,
Khuất Đẩu : NHỮNG ĐÊM TRẮNG,
30 Nov 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : ANNAM STYLE,
Khuất Đẩu : ANNAM STYLE,
29 Oct 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Chỗ đứng của Mạc Ngôn ?,
Khuất Đẩu : Chỗ đứng của Mạc Ngôn ?,
20 Oct 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Nhớ đến Một Người của Đỗ Hồng Ngọc,
Khuất Đẩu : Nhớ đến Một Người của Đỗ Hồng Ngọc,
18 Oct 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Tiếng Chuông dưới đáy sông,
Khuất Đẩu : Tiếng Chuông dưới đáy sông,
04 Oct 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Rụng,
Khuất Đẩu : Rụng,
24 Aug 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Chôn Đứng,
Khuất Đẩu : Chôn Đứng,
15 Aug 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Trại Ông Bồ,
Khuất Đẩu : Trại Ông Bồ,
02 Aug 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Bẫy Chó,
Khuất Đẩu : Bẫy Chó,
24 Jul 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Những thằng Bù Nhìn,
Khuất Đẩu : Những thằng Bù Nhìn,
07 Jun 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Sắc Đỏ,
Khuất Đẩu : Sắc Đỏ,
21 May 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Nguyệt Thực,
Khuất Đẩu : Nguyệt Thực,
10 May 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Lòng không chút nắng,
Khuất Đẩu : Lòng không chút nắng,
30 Apr 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Trong Suốt Như Khí Trời,
Khuất Đẩu : Trong Suốt Như Khí Trời,
23 Apr 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Những bài thơ viết trong tháng Tư,
Khuất Đẩu : Những bài thơ viết trong tháng Tư,
12 Apr 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Người nữ trong nhạc Trịnh Công Sơn,
Khuất Đẩu: Người nữ trong nhạc Trịnh Công Sơn,
01 Apr 2012 in Góc Văn
10
Khuất Đẩu : Dự Cảm Sau Khi Chết Của Trịnh Công Sơn,
10
Khuất Đẩu : Dự Cảm Sau Khi Chết Của Trịnh Công Sơn,
31 Mar 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Tiểu Công Chúa,
Khuất Đẩu : Tiểu Công Chúa,
24 Mar 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Cặp đôi bi tráng,
Khuất Đẩu : Cặp đôi bi tráng,
11 Mar 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Những Nhân Vật Xa Lạ Trong Cánh Đồng Bất Tận,
Khuất Đẩu: Những Nhân Vật Xa Lạ Trong Cánh Đồng Bất Tận,
28 Feb 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Tiếng Cười Đoàn Viên*,
Khuất Đẩu : Tiếng Cười Đoàn Viên*,
17 Feb 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Tuyệt Vọng !,
Khuất Đẩu : Tuyệt Vọng !,
12 Feb 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Trung Thành,
Khuất Đẩu : Trung Thành,
09 Feb 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : NGÀY SINH CỦA QUỶ,
Khuất Đẩu : NGÀY SINH CỦA QUỶ,
02 Feb 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Mùa Xuân Miến Điện,
Khuất Đẩu : Mùa Xuân Miến Điện,
01 Feb 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Những con đom đóm,
Khuất Đẩu : Những con đom đóm,
31 Jan 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Con tem Rồng Trung Quốc hù dọa ai ?,
Khuất Đẩu : Con tem Rồng Trung Quốc hù dọa ai ?,
18 Jan 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Nàng Là ai, Hỡi Thúy Kiều ?,
Khuất Đẩu : Nàng Là ai, Hỡi Thúy Kiều ?,
09 Jan 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : TIÊN DUNG CÔNG CHÚA,
Khuất Đẩu : TIÊN DUNG CÔNG CHÚA,
08 Jan 2012 in Góc Văn
Khuất Đẩu : CẬU UN “EM CHẢ! EM CHẢ!”,
Khuất Đẩu : CẬU UN “EM CHẢ! EM CHẢ!”,
03 Jan 2012 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Cặp đôi hòan hảo,
Khuất Đẩu : Cặp đôi hòan hảo,
28 Dec 2011 in Ghi Chép
Khuất Đẩu : Khóc trong mê muội và sợ hãi,
Khuất Đẩu : Khóc trong mê muội và sợ hãi,
24 Dec 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : MỴ CHÂU ƠI, MỴ CHÂU !,
Khuất Đẩu : MỴ CHÂU ƠI, MỴ CHÂU !,
23 Dec 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Huyền Trân Công Chúa,
Khuất Đẩu : Huyền Trân Công Chúa,
15 Dec 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Mái nhà năm xưa,
Khuất Đẩu : Mái nhà năm xưa,
07 Dec 2011 in Góc Văn
11
Khuất Đẩu : Những đám mây màu lúa chín,
11
Khuất Đẩu : Những đám mây màu lúa chín,
26 Nov 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Không Thấy Núi,
Khuất Đẩu : Không Thấy Núi,
17 Nov 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Để tang cho sách,
Khuất Đẩu : Để tang cho sách,
28 Oct 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Thư gửi người tình trăm tuổi,
Khuất Đẩu : Thư gửi người tình trăm tuổi,
17 Oct 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Bộ Tam,
Khuất Đẩu : Bộ Tam,
05 Oct 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Nem Cầu Gỗ Ninh Hòa,
Khuất Đẩu : Nem Cầu Gỗ Ninh Hòa,
27 Sep 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Ai đã giết A.Q ?,
Khuất Đẩu : Ai đã giết A.Q ?,
24 Sep 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Chào Bẩy Mươi,
Khuất Đẩu : Chào Bẩy Mươi,
18 Sep 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Yêu ở tuổi chín mươi,
Khuất Đẩu : Yêu ở tuổi chín mươi,
13 Sep 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu : Lão Tiền Bối,
Khuất Đẩu : Lão Tiền Bối,
08 Sep 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu: Những tháng năm cuồng nộ,
Khuất Đẩu: Những tháng năm cuồng nộ,
21 Aug 2011 in Góc Văn
Khuất Đẩu: NGƯỜI GIỮ NHÀ THỜ HỌ,
Khuất Đẩu: NGƯỜI GIỮ NHÀ THỜ HỌ,
21 Aug 2011 in Góc Văn
Chết ở tuổi 99 nên sự tiếc thương được mọi người dành cho ông chỉ là: Uổng quá há, còn năm nữa thôi, sao không ráng sống cho đủ trăm? Làm như thể “đủ trăm” thì ông mọc được cánh mà bay lên trời! Dĩ nhiên, vì chưa đủ trăm nên đến tận cuối đời, ông vẫn cứ phải nằm trên chiếc giường mà dù có thay chăn chiếu từng ngày, thì cái mùi của người già, một cái mùi ngai ngái, khăm khẳm vẫn khiến cho những cái mũi trẻ trung của khách đến thăm phải khó chịu. Họ kính cẩn (hay giả vờ kính cẩn) đặt quà lên bàn, run rẩy đưa cả hai bàn tay úm lấy tay ông. Bàn tay ông thì xương xẩu lạnh lẽo. Bàn tay họ thì mum múp ấm áp. Chưa khi nào mà sự tương phản của tuổi trẻ và tuổi già lại rõ rệt đến thế.
Ông chết ngày 15 tháng 8. Lại tiếc! Phải chi ráng thêm bốn ngày nữa thì trọn vẹn làm sao, vì đó là ngày cách mạng thành công! Một ngày mà ông sung sướng, hãnh diện, luôn nhắc tới, luôn nhớ tới. Ông thường nói, mẹ cha chỉ sinh ra mỗi cái xác, chính cách mạng mới sinh ra ông cái phần hồn. Không có cái ngày ấy thì ông cũng u mê tăm tối như bao thế hệ trước mà thôi. Ngày ấy ông hăm sáu tuổi. Từ một anh chân quê, quanh năm bận bịu với cái cày cây cuốc, ông bỗng dưng được mặc đồ đại cán, đi dép cho dù là dép râu, đội mũ nan bọc vải, mang xắc-cốt bằng da bò và cứ thế đi xuống xã chạy lên huyện vun vút như con thoi. Có trời mới biết được ông làm đến chức gì. Ngay như bà tôi, là người có một thời tâm phúc ruột rà với ông, mà cũng chỉ biết ông có mỗi một việc là hết đi lại về. Chuyện nhà cửa ruộng vườn, chuyện con cái ốm đau, chuyện tết nhứt giỗ chạp… ông mặc nhiên trút cái gánh hết sức nặng nề đó lên đôi vai mỏng mảnh của bà.
Công tác, lúc nào cũng công tác, bà nói. Mà có đưa về được đồng xu cắc bạc nào đâu. Toàn là lấy của nhà. Nhưng nhà đâu có của nả gì. Cũng chỉ toàn là mồ hôi, nước mắt của vợ con thôi. Hỏi thì bảo cấm hỏi, làm cách mạng là phải hy sinh. Đến xương máu còn chưa tiếc, huống hồ là bạc tiền.
Vậy đó, bà nói, ông mày làm cách mạng như thể được mời đi ăn giỗ. Chỉ có mỗi một việc là bỏ dép, phủi chân cho sạch bụi lên ngồi xếp bằng trên phản. Trước mặt là cỗ bàn ê hề. Hết chả lụa đến chả giò. Hết tim cật xào lăn đến canh cá ám. Hết bún Song Thần đến bún Bồng Sơn. Mời mọc nhau, mà thực ra là rình rập nhau, lựa riêng miếng nạc cho mình mà đẩy miếng xương cho kẻ khác. Thi nhau nói, thi nhau cười, vẫn không quên thi nhau gắp, thi nhau múc, thi nhau chan, thi nhau húp, thi nhau lua…, xì xoạp đến hả hê. No nê xong lại bày ra bài bạc, đàn hát. Trong khi đám đàn bà con gái dưới bếp thức dậy từ khuya, hết mổ gà lại cắt tiết vịt, hết chiên lại xào, hết đưa những cái tô đầy ụ lên lại đem những cái dĩa nhẵn bóng xuống, hết rượu đến trà, để rồi khi cỗ tàn thì chỉ còn lại trong nồi chút nước có váng mỡ, chan húp đại một chén cơm hay dĩa khoai rồi lại phải mướt mồ hôi mà dọn rửa chén bát, kỳ cọ chảo nồi cho đến tận nửa đêm… Ai là dân, ai là quan? Ai sướng, ai khổ? Cháu biết rồi đó, không cần phải nói!
Thưa rằng, sở dĩ bà có giọng cay đắng phản cách mạng như thế là vì sau chín năm, tức hơn ba ngàn ngày đi đi về về không một chút nào ngơi, ông tôi bỏ bà ở lại trong tay giặc để đi tập kết! Đi một mình thì nói làm chi, đàng này lại được đảng ưu ái cho đem hai bác tôi theo, một người lúc đó lên mười, một người lên tám. Còn ông thì cũng không quên ưu ái tặng thêm cho vợ một cái bụng bầu, để rồi sau đó phải gạt nước mắt mà sinh con trong tù.
Cứ tưởng ông và các con đi mười bốn tháng lại về, không ngờ đến những hơn hai mươi năm. Đó là quãng đời dài cơ cực nhất của bà. Vì là vợ của cán bộ tập kết nên bà bị chính quyền mới hành tới hành lui, kêu lên kêu xuống hạch hỏi đủ điều. Cái ô nhục của một người đàn bà có chồng cán bộ không kể sao cho xiết. Bọn nghĩa quân, bọn dân vệ đứa nào cũng tự cho mình có cái quyền được chọc ghẹo, gạ gẫm, sờ mó, tán tỉnh bất kể là ngày hay đêm. Có đứa đáng tuổi em út cũng lên giọng cớt nhả: Bỏ quách thằng cán bộ già đó đi, về với anh, em Hai ơi!
Ruộng đồng bị bom đạn hai bên thi nhau cày xới, bà phải bồng con lên chui rúc ở chợ súc vật Bình Định. Mùi phân heo gà, mùi nước đái trâu bò nồng nặc trong suốt hai chục năm, khiến cho cái đầu của cha mày trở nên khai ngấy, tối đen, học mãi cũng không đậu nổi cái tú tài, đành phải đi trung sĩ, bà nói một cách chán nản. Đến tuổi lính thì phải đi thôi, không đi mà yên thân với nó à? Nhưng ông mày lại nổi xung lên, cho đó là nỗi nhục! Ở Bắc về, cha tôi kể thêm, câu đầu tiên ông mày hỏi bà là, sao không đưa nó lên núi theo cách mạng?
Nghe hỏi thế, bà hứ một cái cốc, theo làm gì, theo chi ba cái thứ mà ai cũng ghét!
Ông gầm lên, bà dám ăn dám nói như vậy hả? Nó theo ai, bà để nó theo giặc à?
Ừ, bà ngẩng đầu lên, cái đầu giờ đã lốm đốm bạc, thách thức, thì theo giặc đó, sao ha? Còn thằng Hùng và thằng Cường theo ông thì giờ ở đâu, sao không thấy về?
Ông nói lấp mấp, tụi nó đang công tác. Công tác gì, bà hỏi dồn, hòa bình thống nhất rồi thì cũng phải về thăm mẹ chứ.
Rồi như linh cảm bởi cái sợi dây thiêng liêng giữa mẹ và con, bà gào lên, con tôi đâu, con tôi đâu? Trả lại con cho tôi!
Đến lúc này, ông mới rón rén bước lại bên bà, nói nhỏ đủ để bà nghe, hai đứa hy sinh hết rồi!
Hy sinh là sao? Bà khóc nức nở. Ai bắt chúng nó hy sinh? Ông hả? Hay là cái đảng chết tiệt của ông?
Tôi cấm bà nói thế, ông lại gầm lên.
Cấm mà được à, mất con mà không cho tôi nói sao? Tôi sẽ đi ăn xin, sẽ gối đất nằm sương ra tận cái trung ương đảng của ông để đòi lại con.
Để tôi nói cho bà nghe, ông trở nên nhũn nhặn, tụi nó lần lượt hy sinh là hết sức vẻ vang cho gia đình mình đó. Một đứa trên đường Chín Nam Lào, một đứa tại Quy Nhơn trong Tết Mậu Thân, nghe đâu tại kho xăng ông Tề.
Vậy là các con tôi chết cả rồi, bà khóc quều quào, con ơi là con ơi! Con chết bờ chết bụi, chết tức chết tối, chết đói chết khát mà người ta nói là vẻ vang, vẻ vang cái nỗi gì hả trời! Đi, ngay bây giờ đây tôi đi ra Bắc đòi con, ông có dám đi với tôi không?
Ai cho phép bà làm cái việc phản động đó, ông hốt hoảng, tụi CIA xúi giục à, hay là cái thằng con theo giặc trời đánh của bà? Phải chi không có nó thì bà đã được phong tặng bà mẹ anh hùng rồi.
Ối trời ơi, anh hùng cái nỗi gì! Bà lại gào lên, con chết mà mẹ lại anh hùng! Có người mẹ nào lại khốn nạn như vậy?
Cái buổi chiều đoàn viên không có tiếng cười ấy, tưởng chừng sẽ chia cắt hai người mãi mãi, nhưng không hiểu sao họ vẫn cứ sống chung một nhà. Có lẽ ngoài những điều khác biệt như tối và sáng, ông tôi và bà tôi may ra hãy còn có một điểm chung. Đó là, trong suốt hai mươi năm ở miền Bắc, ông không dối đảng để lấy vợ khác, còn bà, tuy chẳng tin gì ở ông nhưng cũng không chịu lấy ai.
Sống chung dưới một mái nhà, nhưng bao nhiêu uất hận đã được tuôn ra như một cái đập vỡ, nên bà chẳng hề mở miệng với ông một lần nào nữa. Ngay lúc lâm chung, ông ú ớ muốn trăng trối điều gì, bà cũng lặng câm như chưa từng biết nói. Bà đi chùa gần như mọi ngày. Ở đó bà lầm rầm cầu xin đức Phật giải oan cho các con. Bà cũng khóc mà xin các con tha tội cho mẹ, vì đã sinh ra các con nhưng lại thua một con gà mái, không dám xù lông ra trước con diều để bảo vệ chúng.
Ông thì ngược lại, ngày nào cũng đến câu lạc bộ hưu trí, đọc báo Nhân dân, đánh cờ và chê bai lớp cán bộ trẻ, nhất là những kẻ a dua, đầu đội nón cối nhưng bụng thì đầy bơ sữa của Mỹ Ngụy. Cha tôi, dù cố tránh mặt ông, nhưng vẫn bị ông càm ràm bực bội. Ông bảo, trong nhà có cái mùi của thằng ngụy nên ăn không thấy ngon, ngủ không yên giấc.
Ngày 19 tháng Tám, ngày 30 tháng Tư, ngày 19 tháng Năm, ngày 2 tháng Chín và bao nhiêu ngày lễ khác nữa, ông sung sướng tự hào được khoác áo đại cán, có dịp đeo huân chương đầy ngực, hãnh diện được ngồi ở hàng ghế của cán bộ lão thành. Huân chương của ông nhiều đến nỗi, nếu đeo hết phải tràn ra cả sau lưng và chen nhau xuống tận rốn, lúc nào cũng được ông chăm chút lau chùi trịnh trọng.
Ông có thể ngồi kể suốt ngày cho con cháu nghe (mà có đứa nào chịu nghe đâu) lịch sử từng cái một, chiến công gì, thành tích ra sao, được trao ngày tháng nào, và ai trao, có bao nhiêu cái được chính tay Bác ký, bao nhiêu lần được gặp Bác, ôi thôi, cả một trời những chuyện có thật và những chuyện tưởng như có thật.
Đã có lần ông muốn viết hồi ký bằng cách kể lại cho tôi ghi. Ông cũng tập tễnh làm thơ ca ngợi đảng và Bác. Thơ ông được in trên nội san của tỉnh ủy và đã có lần được ngâm đọc trên đài phát thanh. Như mọi người cộng sản chân chính, ông không hề biết khiêm nhường là gì, cứ đem cái vinh quang trong thời bình ấy ra kể mãi. Ông cũng không hề xót xa mà ngược lại cảm thấy sung sướng khi ruộng đồng được san lấp để từ đó chạy dài những con đường thẳng tắp, mọc lên những ngân hàng nhà nước, cục thuế, đồn công an to đùng. Ông bảo, như thế mà không tiến bộ à, đúng như Bác nói, giờ to đẹp gấp mười lần xưa.
Vì là người cộng sản, nên ông cũng là một trong những người lạc quan nhất nước. Sợ gì Pôn Pốt, Đặng Tiểu Bình! Ông nói, mặc kệ cái lý thuyết mèo trắng mèo đen ngu xuẩn và cái giấc mộng bá bành đáng ghét của nó, mọi việc đã có đảng lo. Vậy nên, so với bà lúc nào cũng ưu tư rầu rĩ, ông sống rất hồn nhiên, vô tư. Ông như đứa bé còn nằm trong nôi được đảng đút từng muổng sữa, thay từng chiếc tã. Chỉ có mỗi một việc là nằm mút tay rồi ngủ, chẳng cần biết tới những gì xảy ra ở bên ngoài.
Bà thường chua xót nói, ông mày chỉ biết ghét tao và căm thù thằng cha mày chứ biết yêu ai. Nói vậy là bà có hơi thiếu công bằng với ông. Đâu chỉ có ghét và căm thù không thôi, ông yêu nhiều lắm chớ, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu các nước anh em, nhất là nước Lào anh dũng liền núi liền sông.
Có một phóng sự trên truyền hình khiến ông rất xúc động. Phóng sự kể rằng, có hai đứa bé Lào lạc mất cha mẹ đã được tình nguyện quân Việt Nam đem về nuôi. Đến nay hai đứa bé ấy đã thành người già. May mắn làm sao, cả gia đình nhà họ đã được đoàn tụ. Chính cái lúc bốn mái đầu đã bạc chụm lại nhau trong ánh hoàng hôn trên sông Mê Kông khiến ông xuýt xoa kêu lên: tình đoàn kết Việt-Lào đẹp quá, vĩ đại quá! Và có lẽ vì quá đẹp, quá vĩ đại nên những mạch máu già nua trong não của ông không chịu nỗi, vỡ ra, khiến ông lịm dần rồi nằm im một chỗ.
Đúng như ông nói, mọi việc đã có đảng lo. Từ ngày ông bị đột quỵ đến nay đã mười bốn năm. Mười bốn năm ông được đảng đưa từ viện này đến viện nọ, từ Tây y đến Đông y. Đảng lo cho ông từng viên thuốc, ống kim tiêm (qua bảo hiểm y tế), nhiều lần đút cho ông ăn, lau rửa cho ông khi đái ỉa (qua hộ lý). Giờ ông chết, đảng cũng lo hòm xiểng, tẩn liệm, lo cáo phó trên truyền thanh truyền hình, lo cả điếu văn… Và nhờ vậy con cháu mới biết được ông đã kinh qua rất nhiều chức vụ. Từ quân sự đến chính trị, từ văn hóa đến cả khoa học, nhiệm vụ nào ông cũng hoàn thành, khó khăn nào ông cũng vượt qua.
Nói chung, một người có đến bảy mươi năm tuổi đảng như ông, tức là được đảng dạy dỗ trở thành người yêu nước yêu dân mẫu mực (nhưng không yêu vợ con) thì những chức vụ kia, những huân chương nọ là rất xứng đáng. Chỉ có một điều ai cũng lấy làm ngờ nhưng không dám nói ra, ấy là cái chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh X. bỗng dưng như từ trên trời rơi xuống, tỏa ánh hào quang rực rỡ suốt một cõi (gần đủ) trăm năm của ông.
Nếu bảo rằng cái tin ông chết không khiến ai bất ngờ là thiếu kính trọng. Mà bảo rằng ai cũng thấy nhẹ người là thiếu nhân ái mà thừa tàn nhẫn. Còn bảo rằng rất đỗi vui mừng là quá hỗn. Tiếc rằng đó là sự thật.
Còn như khi đọc cái truyện thiếu văn hóa này mà có người mơ mộng: Ước gì cái đảng mà ông tôi và nhiều người đã lỡ tin tưởng ngây ngô, cái đảng đã làm cho triệu người vui nhưng cũng rất, rất nhiều triệu người buồn này, cái đảng đó cũng đã già nua, ngờ nghệch, đã đột quỵ như ông tôi từ bao nhiêu năm nay, thì cũng nên chết quách cho rồi!
Ước như vậy thì cái tựa đề có thể sửa đôi chút mà làm câu kết.
Rằng: Đã đến lúc, dù không đúng lúc, đảng chết.
15/8/2013
Khuất Đẩu
ĐÃ ĐẾN LÚC, DÙ KHÔNG ĐÚNG LÚC,
ÔNG TÔI CHẾT!
Truyện Khuất Đẩu
Ông tôi đã chết!
Chết ở tuổi 99 nên sự tiếc thương được mọi người dành cho ông chỉ là: Uổng quá há, còn năm nữa thôi, sao không ráng sống cho đủ trăm? Làm như thể “đủ trăm” thì ông mọc được cánh mà bay lên trời! Dĩ nhiên, vì chưa đủ trăm nên đến tận cuối đời, ông vẫn cứ phải nằm trên chiếc giường mà dù có thay chăn chiếu từng ngày, thì cái mùi của người già, một cái mùi ngai ngái, khăm khẳm vẫn khiến cho những cái mũi trẻ trung của khách đến thăm phải khó chịu. Họ kính cẩn (hay giả vờ kính cẩn) đặt quà lên bàn, run rẩy đưa cả hai bàn tay úm lấy tay ông. Bàn tay ông thì xương xẩu lạnh lẽo. Bàn tay họ thì mum múp ấm áp. Chưa khi nào mà sự tương phản của tuổi trẻ và tuổi già lại rõ rệt đến thế.
Ông chết ngày 15 tháng 8. Lại tiếc! Phải chi ráng thêm bốn ngày nữa thì trọn vẹn làm sao, vì đó là ngày cách mạng thành công! Một ngày mà ông sung sướng, hãnh diện, luôn nhắc tới, luôn nhớ tới. Ông thường nói, mẹ cha chỉ sinh ra mỗi cái xác, chính cách mạng mới sinh ra ông cái phần hồn. Không có cái ngày ấy thì ông cũng u mê tăm tối như bao thế hệ trước mà thôi. Ngày ấy ông hăm sáu tuổi. Từ một anh chân quê, quanh năm bận bịu với cái cày cây cuốc, ông bỗng dưng được mặc đồ đại cán, đi dép cho dù là dép râu, đội mũ nan bọc vải, mang xắc-cốt bằng da bò và cứ thế đi xuống xã chạy lên huyện vun vút như con thoi. Có trời mới biết được ông làm đến chức gì. Ngay như bà tôi, là người có một thời tâm phúc ruột rà với ông, mà cũng chỉ biết ông có mỗi một việc là hết đi lại về. Chuyện nhà cửa ruộng vườn, chuyện con cái ốm đau, chuyện tết nhứt giỗ chạp… ông mặc nhiên trút cái gánh hết sức nặng nề đó lên đôi vai mỏng mảnh của bà.
Công tác, lúc nào cũng công tác, bà nói. Mà có đưa về được đồng xu cắc bạc nào đâu. Toàn là lấy của nhà. Nhưng nhà đâu có của nả gì. Cũng chỉ toàn là mồ hôi, nước mắt của vợ con thôi. Hỏi thì bảo cấm hỏi, làm cách mạng là phải hy sinh. Đến xương máu còn chưa tiếc, huống hồ là bạc tiền.
Vậy đó, bà nói, ông mày làm cách mạng như thể được mời đi ăn giỗ. Chỉ có mỗi một việc là bỏ dép, phủi chân cho sạch bụi lên ngồi xếp bằng trên phản. Trước mặt là cỗ bàn ê hề. Hết chả lụa đến chả giò. Hết tim cật xào lăn đến canh cá ám. Hết bún Song Thần đến bún Bồng Sơn. Mời mọc nhau, mà thực ra là rình rập nhau, lựa riêng miếng nạc cho mình mà đẩy miếng xương cho kẻ khác. Thi nhau nói, thi nhau cười, vẫn không quên thi nhau gắp, thi nhau múc, thi nhau chan, thi nhau húp, thi nhau lua…, xì xoạp đến hả hê. No nê xong lại bày ra bài bạc, đàn hát. Trong khi đám đàn bà con gái dưới bếp thức dậy từ khuya, hết mổ gà lại cắt tiết vịt, hết chiên lại xào, hết đưa những cái tô đầy ụ lên lại đem những cái dĩa nhẵn bóng xuống, hết rượu đến trà, để rồi khi cỗ tàn thì chỉ còn lại trong nồi chút nước có váng mỡ, chan húp đại một chén cơm hay dĩa khoai rồi lại phải mướt mồ hôi mà dọn rửa chén bát, kỳ cọ chảo nồi cho đến tận nửa đêm… Ai là dân, ai là quan? Ai sướng, ai khổ? Cháu biết rồi đó, không cần phải nói!
Thưa rằng, sở dĩ bà có giọng cay đắng phản cách mạng như thế là vì sau chín năm, tức hơn ba ngàn ngày đi đi về về không một chút nào ngơi, ông tôi bỏ bà ở lại trong tay giặc để đi tập kết! Đi một mình thì nói làm chi, đàng này lại được đảng ưu ái cho đem hai bác tôi theo, một người lúc đó lên mười, một người lên tám. Còn ông thì cũng không quên ưu ái tặng thêm cho vợ một cái bụng bầu, để rồi sau đó phải gạt nước mắt mà sinh con trong tù.
Cứ tưởng ông và các con đi mười bốn tháng lại về, không ngờ đến những hơn hai mươi năm. Đó là quãng đời dài cơ cực nhất của bà. Vì là vợ của cán bộ tập kết nên bà bị chính quyền mới hành tới hành lui, kêu lên kêu xuống hạch hỏi đủ điều. Cái ô nhục của một người đàn bà có chồng cán bộ không kể sao cho xiết. Bọn nghĩa quân, bọn dân vệ đứa nào cũng tự cho mình có cái quyền được chọc ghẹo, gạ gẫm, sờ mó, tán tỉnh bất kể là ngày hay đêm. Có đứa đáng tuổi em út cũng lên giọng cớt nhả: Bỏ quách thằng cán bộ già đó đi, về với anh, em Hai ơi!
Ruộng đồng bị bom đạn hai bên thi nhau cày xới, bà phải bồng con lên chui rúc ở chợ súc vật Bình Định. Mùi phân heo gà, mùi nước đái trâu bò nồng nặc trong suốt hai chục năm, khiến cho cái đầu của cha mày trở nên khai ngấy, tối đen, học mãi cũng không đậu nổi cái tú tài, đành phải đi trung sĩ, bà nói một cách chán nản. Đến tuổi lính thì phải đi thôi, không đi mà yên thân với nó à? Nhưng ông mày lại nổi xung lên, cho đó là nỗi nhục! Ở Bắc về, cha tôi kể thêm, câu đầu tiên ông mày hỏi bà là, sao không đưa nó lên núi theo cách mạng?
Nghe hỏi thế, bà hứ một cái cốc, theo làm gì, theo chi ba cái thứ mà ai cũng ghét!
Ông gầm lên, bà dám ăn dám nói như vậy hả? Nó theo ai, bà để nó theo giặc à?
Ừ, bà ngẩng đầu lên, cái đầu giờ đã lốm đốm bạc, thách thức, thì theo giặc đó, sao ha? Còn thằng Hùng và thằng Cường theo ông thì giờ ở đâu, sao không thấy về?
Ông nói lấp mấp, tụi nó đang công tác. Công tác gì, bà hỏi dồn, hòa bình thống nhất rồi thì cũng phải về thăm mẹ chứ.
Rồi như linh cảm bởi cái sợi dây thiêng liêng giữa mẹ và con, bà gào lên, con tôi đâu, con tôi đâu? Trả lại con cho tôi!
Đến lúc này, ông mới rón rén bước lại bên bà, nói nhỏ đủ để bà nghe, hai đứa hy sinh hết rồi!
Hy sinh là sao? Bà khóc nức nở. Ai bắt chúng nó hy sinh? Ông hả? Hay là cái đảng chết tiệt của ông?
Tôi cấm bà nói thế, ông lại gầm lên.
Cấm mà được à, mất con mà không cho tôi nói sao? Tôi sẽ đi ăn xin, sẽ gối đất nằm sương ra tận cái trung ương đảng của ông để đòi lại con.
Để tôi nói cho bà nghe, ông trở nên nhũn nhặn, tụi nó lần lượt hy sinh là hết sức vẻ vang cho gia đình mình đó. Một đứa trên đường Chín Nam Lào, một đứa tại Quy Nhơn trong Tết Mậu Thân, nghe đâu tại kho xăng ông Tề.
Vậy là các con tôi chết cả rồi, bà khóc quều quào, con ơi là con ơi! Con chết bờ chết bụi, chết tức chết tối, chết đói chết khát mà người ta nói là vẻ vang, vẻ vang cái nỗi gì hả trời! Đi, ngay bây giờ đây tôi đi ra Bắc đòi con, ông có dám đi với tôi không?
Ai cho phép bà làm cái việc phản động đó, ông hốt hoảng, tụi CIA xúi giục à, hay là cái thằng con theo giặc trời đánh của bà? Phải chi không có nó thì bà đã được phong tặng bà mẹ anh hùng rồi.
Ối trời ơi, anh hùng cái nỗi gì! Bà lại gào lên, con chết mà mẹ lại anh hùng! Có người mẹ nào lại khốn nạn như vậy?
Cái buổi chiều đoàn viên không có tiếng cười ấy, tưởng chừng sẽ chia cắt hai người mãi mãi, nhưng không hiểu sao họ vẫn cứ sống chung một nhà. Có lẽ ngoài những điều khác biệt như tối và sáng, ông tôi và bà tôi may ra hãy còn có một điểm chung. Đó là, trong suốt hai mươi năm ở miền Bắc, ông không dối đảng để lấy vợ khác, còn bà, tuy chẳng tin gì ở ông nhưng cũng không chịu lấy ai.
Sống chung dưới một mái nhà, nhưng bao nhiêu uất hận đã được tuôn ra như một cái đập vỡ, nên bà chẳng hề mở miệng với ông một lần nào nữa. Ngay lúc lâm chung, ông ú ớ muốn trăng trối điều gì, bà cũng lặng câm như chưa từng biết nói. Bà đi chùa gần như mọi ngày. Ở đó bà lầm rầm cầu xin đức Phật giải oan cho các con. Bà cũng khóc mà xin các con tha tội cho mẹ, vì đã sinh ra các con nhưng lại thua một con gà mái, không dám xù lông ra trước con diều để bảo vệ chúng.
Ông thì ngược lại, ngày nào cũng đến câu lạc bộ hưu trí, đọc báo Nhân dân, đánh cờ và chê bai lớp cán bộ trẻ, nhất là những kẻ a dua, đầu đội nón cối nhưng bụng thì đầy bơ sữa của Mỹ Ngụy. Cha tôi, dù cố tránh mặt ông, nhưng vẫn bị ông càm ràm bực bội. Ông bảo, trong nhà có cái mùi của thằng ngụy nên ăn không thấy ngon, ngủ không yên giấc.
Ngày 19 tháng Tám, ngày 30 tháng Tư, ngày 19 tháng Năm, ngày 2 tháng Chín và bao nhiêu ngày lễ khác nữa, ông sung sướng tự hào được khoác áo đại cán, có dịp đeo huân chương đầy ngực, hãnh diện được ngồi ở hàng ghế của cán bộ lão thành. Huân chương của ông nhiều đến nỗi, nếu đeo hết phải tràn ra cả sau lưng và chen nhau xuống tận rốn, lúc nào cũng được ông chăm chút lau chùi trịnh trọng.
Ông có thể ngồi kể suốt ngày cho con cháu nghe (mà có đứa nào chịu nghe đâu) lịch sử từng cái một, chiến công gì, thành tích ra sao, được trao ngày tháng nào, và ai trao, có bao nhiêu cái được chính tay Bác ký, bao nhiêu lần được gặp Bác, ôi thôi, cả một trời những chuyện có thật và những chuyện tưởng như có thật.
Đã có lần ông muốn viết hồi ký bằng cách kể lại cho tôi ghi. Ông cũng tập tễnh làm thơ ca ngợi đảng và Bác. Thơ ông được in trên nội san của tỉnh ủy và đã có lần được ngâm đọc trên đài phát thanh. Như mọi người cộng sản chân chính, ông không hề biết khiêm nhường là gì, cứ đem cái vinh quang trong thời bình ấy ra kể mãi. Ông cũng không hề xót xa mà ngược lại cảm thấy sung sướng khi ruộng đồng được san lấp để từ đó chạy dài những con đường thẳng tắp, mọc lên những ngân hàng nhà nước, cục thuế, đồn công an to đùng. Ông bảo, như thế mà không tiến bộ à, đúng như Bác nói, giờ to đẹp gấp mười lần xưa.
Vì là người cộng sản, nên ông cũng là một trong những người lạc quan nhất nước. Sợ gì Pôn Pốt, Đặng Tiểu Bình! Ông nói, mặc kệ cái lý thuyết mèo trắng mèo đen ngu xuẩn và cái giấc mộng bá bành đáng ghét của nó, mọi việc đã có đảng lo. Vậy nên, so với bà lúc nào cũng ưu tư rầu rĩ, ông sống rất hồn nhiên, vô tư. Ông như đứa bé còn nằm trong nôi được đảng đút từng muổng sữa, thay từng chiếc tã. Chỉ có mỗi một việc là nằm mút tay rồi ngủ, chẳng cần biết tới những gì xảy ra ở bên ngoài.
Bà thường chua xót nói, ông mày chỉ biết ghét tao và căm thù thằng cha mày chứ biết yêu ai. Nói vậy là bà có hơi thiếu công bằng với ông. Đâu chỉ có ghét và căm thù không thôi, ông yêu nhiều lắm chớ, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu các nước anh em, nhất là nước Lào anh dũng liền núi liền sông.
Có một phóng sự trên truyền hình khiến ông rất xúc động. Phóng sự kể rằng, có hai đứa bé Lào lạc mất cha mẹ đã được tình nguyện quân Việt Nam đem về nuôi. Đến nay hai đứa bé ấy đã thành người già. May mắn làm sao, cả gia đình nhà họ đã được đoàn tụ. Chính cái lúc bốn mái đầu đã bạc chụm lại nhau trong ánh hoàng hôn trên sông Mê Kông khiến ông xuýt xoa kêu lên: tình đoàn kết Việt-Lào đẹp quá, vĩ đại quá! Và có lẽ vì quá đẹp, quá vĩ đại nên những mạch máu già nua trong não của ông không chịu nỗi, vỡ ra, khiến ông lịm dần rồi nằm im một chỗ.
Đúng như ông nói, mọi việc đã có đảng lo. Từ ngày ông bị đột quỵ đến nay đã mười bốn năm. Mười bốn năm ông được đảng đưa từ viện này đến viện nọ, từ Tây y đến Đông y. Đảng lo cho ông từng viên thuốc, ống kim tiêm (qua bảo hiểm y tế), nhiều lần đút cho ông ăn, lau rửa cho ông khi đái ỉa (qua hộ lý). Giờ ông chết, đảng cũng lo hòm xiểng, tẩn liệm, lo cáo phó trên truyền thanh truyền hình, lo cả điếu văn… Và nhờ vậy con cháu mới biết được ông đã kinh qua rất nhiều chức vụ. Từ quân sự đến chính trị, từ văn hóa đến cả khoa học, nhiệm vụ nào ông cũng hoàn thành, khó khăn nào ông cũng vượt qua.
Nói chung, một người có đến bảy mươi năm tuổi đảng như ông, tức là được đảng dạy dỗ trở thành người yêu nước yêu dân mẫu mực (nhưng không yêu vợ con) thì những chức vụ kia, những huân chương nọ là rất xứng đáng. Chỉ có một điều ai cũng lấy làm ngờ nhưng không dám nói ra, ấy là cái chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh X. bỗng dưng như từ trên trời rơi xuống, tỏa ánh hào quang rực rỡ suốt một cõi (gần đủ) trăm năm của ông.
Nếu bảo rằng cái tin ông chết không khiến ai bất ngờ là thiếu kính trọng. Mà bảo rằng ai cũng thấy nhẹ người là thiếu nhân ái mà thừa tàn nhẫn. Còn bảo rằng rất đỗi vui mừng là quá hỗn. Tiếc rằng đó là sự thật.
Còn như khi đọc cái truyện thiếu văn hóa này mà có người mơ mộng: Ước gì cái đảng mà ông tôi và nhiều người đã lỡ tin tưởng ngây ngô, cái đảng đã làm cho triệu người vui nhưng cũng rất, rất nhiều triệu người buồn này, cái đảng đó cũng đã già nua, ngờ nghệch, đã đột quỵ như ông tôi từ bao nhiêu năm nay, thì cũng nên chết quách cho rồi!
Ước như vậy thì cái tựa đề có thể sửa đôi chút mà làm câu kết.
Rằng: Đã đến lúc, dù không đúng lúc, đảng chết.
15/8/2013
Khuất Đẩu
Tổng số tác phẩm: 59
(truyện ngắn)
(thơ)
(phê bình)
(phê bình)
(thơ)
(phê bình)
(phê bình)
(truyện ngắn)
(tạp văn)
(thơ)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(truyện ngắn)
(tạp văn)
(đối thoại)
(truyện ngắn)
(đối thoại)
(tạp văn)
(thơ)
(đối thoại)
(thơ)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(phê bình)
(tạp văn)
(ký)
(đối thoại)
(tạp văn)
(thơ)
(tạp văn)
(tạp văn)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(ký)
(truyện ngắn)
(tạp văn)
(phê bình)
(tạp văn)
(tạp văn)
(truyện ngắn)
(phê bình)
(phê bình)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(tạp văn)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(phê bình)
(truyện ngắn)
Các địa chỉ khác: http://vanchuongviet.org - http://vannghesongcuulong.org
@2004 - 2020 Thực hiện: Nguyễn Hòa vcv
Trịnh Y Thư:
Khuất Đẩu: Đi tìm bóng mình trong cơn lũ cuồng nộ của lịch sử
1.
Tình cờ tôi được một người bạn cho mượn tập truyện nhan đề Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của nhà văn Khuất Đẩu. Tập truyện do nhà Ý Thức xuất bản năm 2009 gồm hai truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, Huyền Trân công chúa, và một số truyện ngắn. Đọc xong tập truyện, tuy muộn màng, nhưng tôi vẫn muốn viết ra đây vài ba cảm nhận chủ quan của mình bởi đây là cuốn sách đáng đọc và có nhiều điều đáng nói trong đó.
2. Ngôi nhà của những hồn ma
Hãy tưởng tượng một ngôi nhà bề thế tại ngôi làng xa xôi, xây mất ba năm mới xong với mười sáu cái cột kiềng kiềng vững chắc, mái “da cái”, cùng xà ngang trính dọc, bị một quả bom xăng của giặc đánh trúng, bốc cháy lam nham lở nhở, nhưng không hoàn toàn sụp đổ, và chủ nhân nó lấy những tấm lá tranh và bùn đất vá víu tạm bợ thành một cái chòi rồi chui rúc sống trong đó với người con dâu suốt chín năm kháng chiến chống Pháp.
Không, bạn không cần tưởng tượng nhiều bởi nhà văn Khuất Đẩu đã mô tả ngôi nhà đó rất kỹ trong thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ của ông in trong tập truyện này. Ngôi nhà là từ đường của dòng họ Phạm, trên bàn thờ trang nghiêm hương khói là 42 cái bài vị của 12 đời. Nó là ngôi nhà của những hồn ma, theo tác giả, và đến đời người thủ từ hiện tại, đời thứ 13, nó như chịu một lời nguyền rủa vô cùng ác độc nào đó, bởi liên tiếp hết người này đến người kia lần lượt qua đời, mà cái chết nào cũng oan khiên, đau đớn. Người em út, cô Chín, treo cổ tự tử trong nhà vì gã chồng cô ham mê cờ bạc; chú Sáu, người em trai đi đò chết chìm; và bà vợ ông một hôm trèo lên cây cau bắt tổ chim cho thằng cháu, cây cau đổ vì gốc nó mục nát, và bà ngã từ trên cao xuống, chết.
Với bối cảnh là không gian một ngôi làng tên An Định, thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi làng nằm trong vùng kiểm soát của phe kháng chiến, Khuất Đẩu đã dẫn dắt người đọc vào một thế giới truyện lạ lùng, bi thiết, xoay quanh cuộc sống tạm bợ, vất vưởng, đói kém của người thủ từ, nói lên thân phận con người trong một thực tại phi lý đến độ kinh hoàng.
Khuất Đẩu mở đầu câu chuyện với cảnh ngôi nhà bị trúng bom xăng của địch, bốc cháy. Tác giả nhân cách hóa ngôi nhà cháy: “Ngôi nhà phập phồng như một trái tim rướm máu. Nó hốt hoảng, kinh ngạc và nếu có thể kêu thét lên được thì nó đã rống lên rồi…” Nhưng nó không bị thiêu rụi sụp đổ thành đống tro tàn vì mười sáu cây cột vẫn đứng vững và cái mái “da cái” lợp bằng đất sét không suy suyển hư hao bao nhiêu. Thế là ông cùng người con dâu hì hụi chắp vá lại ngôi nhà ở tạm, riêng cái cửa ra vào bây giờ như lỗ chó, ra vào phải chui luồn qua y như chó. Cuộc sống dù thảm hại như thế nhưng ông không quên bổn phận người giữ nhà thờ họ, đêm đêm ông vẫn gõ đúng 42 tiếng chuông gọi 42 hồn người chết của 12 đời dòng họ trở về.
Chiến tranh hình như không bò về ngôi làng hẻo lánh đó của ông thủ từ, ngoại trừ lần bị máy bay địch thả bom làm cháy nhà ông, không thấy có một trận giao tranh hay càn quét nào xảy ra. Nhưng nó hiện về ở hình thức khác, tàn khốc không kém, khiến ông khốn đốn trăm bề: Cách mạng. Nói là cách mạng, nhưng trên thực tế, nó là một vụ trả thù, một vụ kích động lòng căm ghét của giai cấp này đối với giai cấp kia, mượn tay quần chúng để tiêu diệt kẻ thù của mình, một thủ đoạn vô cùng dã man thâm độc nhằm dọn lối đi cho con đường quyền lực. Những nhân vật ngày trước đầy quyền uy trong tay, thuộc thành phần cường hào ác bá như chánh tổng, lý trưởng, hương bộ, hương kiểm, ngày nay được thay thế bởi thành phần mới với tên gọi khác, chủ tịch này, chủ tịch nọ, nhưng bản chất hà hiếp, nhũng loạn người dân thì không thay đổi, thậm chí có phần tàn tệ hơn trước, như tác giả viết như sau:
“Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, ai cũng biết vậy nhất là sống trong thời giặc giã, nhưng không ngờ lại khó khăn như thế này. Mà đâu phải trời đất hay Tây đen Tây trắng gì cho cam, chỉ là những người cùng xóm với nhau. Mới đây thôi, khi chưa có phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, thì dù có không ưa nhau mấy, lúc gặp nhau vẫn còn hỏi đi đâu đó, còn nói giả lả vài lời chứ đâu có nghiệt ngã như lúc này. Còn hơn cả quan phủ, quan huyện, y như cai ngục ở dưới chín tầng Diêm vương.”
Những kẻ làm cách mạng chỉ biết làm một việc duy nhất là khơi dậy, kích thích lòng căm thù từ những người dân xưa nay vốn sống hiền hòa bình dị. Họ là những nông dân, tá điền, người làm công, thuộc thành phần nghèo khổ nhất trong tầng lớp thôn làng, bởi thế không ít người mang sẵn máu căm ghét giai cấp có đất có ruộng, và khi lòng thù hận được khơi dậy, họ hò reo vui mừng để lộ ra bản chất thú tính trước cái chết tức tưởi của người hàng xóm:
“Căm thù giống như một dịch bệnh xa lạ từ đâu lan tới. Hệt như bệnh sốt rét, ai cũng run lên vì căm thù mà không hiểu vì sao. Trước thì căm thù thực dân Pháp, phong kiến, tiểu tư sản, giờ căm thù can thiệp Mỹ, địa chủ ác ôn, phú nông ngoan cố. Căm thù đã trở thành thước đo của tiến bộ, của năng lực và dĩ nhiên là của lòng yêu nước. Yêu nước phải căm thù và căm thù là yêu nước! Bọn họ đã nói ra rả suốt ngày đêm như thế.”
Ông thủ từ ngày đêm lo sợ mình bị “nâng cấp” lên thành địa chủ, vì mang danh địa chủ có nghĩa là sẽ bị đấu tố, thậm chí bị xử bắn như chơi. Ở vào thời điểm đó, chẳng có luật pháp gì cả, hay đúng hơn, luật pháp là do đám chủ tịch tùy tiện đặt ra theo chỉ thị từ trên ban xuống hay theo cảm hứng bất chợt của họ. Ông thủ từ không bị đấu tố, có lẽ, vì người con trai ông đi bộ đội chiến đấu ở vùng xa, nhưng họ cho đám thiếu niên đêm đêm đến trước vườn nhà ông rồi đứa cầm thùng thiếc, đứa mõ tre, đứa phèng la thi nhau khủng bố tinh thần ông bằng những câu chửi rủa thô tục nặng nề.
Nhưng ông sống sót cho đến ngày kháng chiến thành công. Chiến tranh, cách mạng không giết được ông, nhưng ông chết vì chính hành vi của mình.
Trong cái ổ chó ông sống với người con dâu, một đêm ông hiếp cô. Nó không phải là cái bản năng thú tính của người đàn ông khiến lương tri mờ mịt trong phút giây hoảng loạn. Nó là cái gì đau đớn, chua xót hơn nhiều:
“Ông ôm hai cái chân dựng ngược áp sát vào ngực. Rồi ông lắc như điên như dại với tất cả căm thù, tất cả tủi hận, tất cả xấu hổ trong suốt những ngày qua. Ông cũng kêu lên, rít lên như những con mụ tố khổ, như bọn trẻ hô đả đảo, có lúc gầm gầm gừ gừ như thằng Khứ hỏi cung…”
Nó là cơn bùng nổ không thể chế ngự được của những khổ nhục ê chề, những đau đớn tột cùng, những uất ức rát bỏng trong suốt chín năm trời đằng đẵng. Tất cả căm thù, tủi hận ông không biết trút vào đâu ngoài cô con dâu đáng thương, tội nghiệp. Nhưng khi nghe hai tiếng kêu “Cha ơi” từ miệng cô thì ông thốt nhiên bừng tỉnh và từ đó ông hiểu số phận của mình. Làm sao ông có thể đối diện với lương tri mình bây giờ? Thêm thằng con trai từ mặt trận trở về, làm sao ông nhìn mặt nó được? Ông không thể đổ thừa cho ai hay cho bất kỳ điều gì được nữa, lại càng không nên xin lỗi, “cái lỗi to như hòn núi Đất thì xin sao được!” Và, trong một đêm tối thanh vắng có hai tiếng “bũm” vang lên từ dòng sông. Tiếng trước nhỏ hơn, đó là chai rượu chỉ còn cái vỏ; tiếng sau to hơn, nhưng nhờ tiếng chuông chùa “đang trôi trên sông đã làm cho cái tiếng ‘bũm’ mờ đi, bớt thô tục.”
Không giống dòng họ Buendía tại ngôi làng Macondo trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez, dòng họ Phạm của ông thủ từ ở làng An Định không bị tuyệt tự. Người con trai của ông sống sót trở về làng sau hai mươi năm tập kết ra Bắc. Nay đã là một người trung niên, anh về chỉ để chứng kiến cảnh tượng hoang tàn đổ nát của ngôi nhà thờ họ. “Chẳng còn gì cả ngoài một đống đất đầy cỏ dại và những cây tảo nhơn, cây thù đâu.” Anh được người làng báo tin rằng cha anh đã chết và vợ anh về ở bên nhà cha mẹ ruột. Anh tức tốc lội sông qua tìm vợ con. Chị vợ biết anh đến, cô lánh mặt, từ trong nhà nói vọng ra: “Nó là dòng dõi họ Phạm đấy. Nhưng tôi không còn là vợ anh!”
Khuất Đẩu kết thúc truyện với câu nói bỏ lửng của người con dâu. Cái kết đột ngột để lại nỗi thắc mắc nhức nhối trong lòng người đọc: Đứa con thừa tự của dòng họ Phạm là con ông thủ từ, đời thứ 13, hay con của người con trai đi tập kết, đời thứ 14? Nó là câu hỏi không có câu trả lời, song nó như tô đậm thêm tính cách bi thảm tuyệt vọng của thân phận con người trong cơn lũ cuồng nộ, như thể tấn bi kịch đến đó chưa đủ, chưa là đoạn cuối, mà có thể còn kéo dài thêm nữa, kéo dài ra mãi.
3.
Với truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, nhà văn Khuất Đẩu sử dụng bút pháp phân mảnh, phi tuyến tính, phần tự sự đan xen với hồi ức. Nhà văn cố ý chia nhỏ, trình bày câu chuyện theo cách rời rạc, thường không có trình tự thời gian rõ ràng, để phản ánh thực tế phức tạp. Bút pháp này thường thấy ở các tác phẩm văn học Hiện đại và Hậu hiện đại, nó thách thức các cấu trúc kể chuyện truyền thống, buộc người đọc phải tự ghép lại ý nghĩa từ các yếu tố rời rạc. Với kỹ thuật viết đó, Khuất Đẩu đã vẽ lại toàn cảnh cơn lũ cuồng nộ càn quét qua đất nước Việt Nam trong một bối cảnh lịch sử khốc liệt.
Giữa tác phẩm văn học và lịch sử có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vì cả hai đều tìm cách thể hiện, diễn giải và cố gắng thấu hiểu trải nghiệm của con người nói chung. Tác phẩm văn học phản ánh bối cảnh lịch sử, xã hội, chính trị và văn hóa mà từ đó nó được viết ra. Nó có thể nắm bắt được thái độ, giá trị và hệ tư tưởng của thời đại, đóng vai trò là thấu kính để hiểu rõ hơn các quan điểm lịch sử, có thể đưa ra góc nhìn về lịch sử mà sử học truyền thống có thể bỏ qua. Trong khi các nhà sử học hướng đến sự thể hiện thực tế, nhà văn có thể sử dụng bối cảnh lịch sử để khám phá những sự thật phổ quát về bản chất con người hoặc tính đạo đức. Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và lịch sử là cộng sinh và phức tạp. Trong khi lịch sử cung cấp nguồn tài liệu phong phú cho tác phẩm văn học, thì tác phẩm văn học, ngược lại, tăng bổ sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử qua phần tự sự có chiều sâu, qua sự cộng hưởng cảm xúc và trình bày một hay nhiều quan điểm khác với sử học truyền thống.
Những điều biên chép trong sử học không nhất thiết là sự thật, chưa chắc là chân lý. Chính văn hào người Anh thế kỷ XIX Samuel Butler đã thốt câu “Thượng đế không thể thay đổi quá khứ, nhưng sử gia thì có thể.” Napoléon Bonaparte, một người lính, một ông tướng, thì bộc trực hơn, xổ toẹt “Lịch sử là một tập hợp những điều nói láo!” Riêng đối với lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại thì lịch sử đôi khi chẳng qua chỉ là một văn bản tuyên truyền hay tài liệu học tập cho cán bộ đảng viên của đảng cầm quyền. Không tin tôi ư? Bạn hãy giở bộ sách nhan đề Đại Cương Lịch Sử Việt Nam do các “sử gia” Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ biên soạn thì rõ. Bởi thế, tác phẩm văn học còn mang thêm trọng trách rất lớn. Nó tiếp nối lịch sử, vén lên cho thấy sự thật lịch sử bị che giấu dưới bức màn ý thức chính trị, thậm chí ý thức hệ. Nó khơi lại vết thương dân tộc đang dần dà chìm vào quên lãng.
Bạn có thể lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý: Tại sao phải nhắc lại một vết thương đã lành? Tại sao không quên đi quá khứ và hướng về tương lai để tìm nguồn sinh lực mới cho dân tộc?
Tôi hoàn toàn không chia sẻ luận điểm của bạn. Những điều nhà văn Khuất Đẩu miêu thuật trong thiên truyện Người giữ nhà thờ họ của ông là lịch sử, một lịch sử đau buồn của dân tộc, và lịch sử càng đau buồn thì càng nên nói đi nói lại về nó, càng nên ghi nhớ trong tâm trí để không bao giờ cho nó cơ hội tái diễn thêm một lần nữa. Trước Khuất Đẩu, đã có nhiều nhà văn, điển hình như Ngô Ngọc Bội, Võ Văn Trực, và ở chừng mực nào đó, Tô Hoài, nói về cuộc cách mạng đổ máu gây ra cái chết oan uổng cho hàng vạn con người. Lịch sử này bị chính sử cố ý bôi xóa, bóp méo. Chính sử thời quân chủ phong kiến cũng như thời cộng sản bây giờ được viết bởi kẻ thống trị; họ tô vẽ, sửa đổi lịch sử theo ý đồ, mục tiêu của họ, hiếm khi sự thực đen tối được tôn trọng một cách trung thực (ngoại trừ Tư Mã Thiên, và vì thế ông bị tội cung hình). Nhà văn là người dùng tài năng và quả tim mình điền vào chỗ trống, những lỗ hổng khiếm khuyết khổng lồ, do sử quan triều đình hay sử gia ăn lương Nhà nước để lại. Và như thường nghe nói, lịch sử sẽ tái diễn nếu ta lãng quên nó, ngòi bút của nhà văn giúp ta hiểu bài học lịch sử một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Hơn nữa, câu chuyện của nhà văn mang nặng chiều kích cảm xúc, vì đối tượng của văn học luôn là yếu tố con người, nên lịch sử được kể bởi nhà văn là một lịch sử sống, mà qua đó ta có thể hòa nhập vào các nhân vật và cảnh huống họ trải nghiệm.
Khuất Đẩu, qua thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, là một trong những nhà văn như thế.
4. Những truyện ngắn: Hiện thực hay phi thực?
Nếu truyện vừa Người giữ nhà thờ họ là chín phần hiện thực một phần phi thực thì những truyện ngắn khác của Khuất Đẩu gần như chìm đắm trong không gian phi thực, như muốn tháo gỡ mọi ràng buộc của hiện thực, dù là hiện thực văn chương, để bay bổng lên một hiện thực cao hơn, nơi có những điều mà chỉ có thể được truyền tải, giải mã bằng một giấc mơ.
Tính phi thực trong văn chương cho phép người viết phản ánh bản chất đa diện của trải nghiệm con người. Bằng cách xem cái phi thực là một phần của hiện thực, trộn lẫn phi thực vào hiện thực, tác giả gửi gắm được vào tác phẩm của mình những sự thật của cảm xúc sâu thẳm, đồng thời thách thức những nhận thức thông thường và tôn vinh sự phong phú của trí tưởng tượng cùng sự đa dạng văn hóa.
Khuất Đẩu đã làm được như vậy trong những truyện ngắn của ông, những truyện như: Những con đom đóm; Cha chung; Những hạt nút áo; Chiếc mặt nạ; Thư gửi người tình trăm tuổi; Tiểu công chúa; Bóng tháp; vua Tango, Những con đom đóm, v.v., mỗi truyện đều có một mô-típ phi thực làm chủ đạo cho suy nghiệm, ý tưởng và hàm nghĩa, dẫn dắt người đọc truy tìm một ý nghĩa nào đó cho cuộc nhân sinh.
Truyện Vua Tango thuật chuyện một người đàn ông, trước cuộc đổi đời lịch sử, là một tay chơi khét tiếng, một “ông hoàng của các vũ trường”, nhưng khi thất trận và thất thế, anh xung phong đẫn vợ con lên vùng Kinh tế mới kiếm sống. Lên vùng đất hoang vu, anh không làm ruộng làm vườn kiếm kế sinh nhai mà chỉ trồng thuốc lá và pha chế cà phê, bởi anh nghiện nặng hai thứ đó. Anh có vẻ sống ung dung một mình trong căn chòi lụp sụp, vợ con ở nơi khác, dưới thị trấn làm ăn lẻ. Anh tiếp người bạn cũ (người kể chuyện) bằng một tách cà phê đậm đà nguyên vẹn hương vị thuở xa xưa.
Tuy lấy bối cảnh hiện thực làm phông cho câu chuyện, tác giả đã không cho phần tự sự dừng lại ở bên này đường biên mà đẩy nó vào vòng tròn huyễn mộng của phi thực khi cho Vua Tango chết đột ngột trong lúc đang làm cái việc mà anh yêu thích nhất: nhảy một đỉệu Tango, tại bữa tiệc trùng phùng hội ngộ với những người ngày xưa là học trò của anh.
Trong suy nghĩ của riêng tôi, đây là một truyện ngắn mang tính phi lý, nói cách khác, nó là sự xung đột giữa con người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống với một thế giới tàn bạo đến độ đóng băng. Nó là thân phận con người bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Nhưng thay vì khuất phục và cam chịu, nhân vật của Khuất Đẩu đối mặt với sự phi lý bằng cách ngửng đầu lên thách thức nó. A, mày đày đọa thể xác và tâm hồn tao ư? Tao đếch sợ! Tao vẫn cứ làm những điều tao thích, mày làm gì được tao? Cuộc sống thiếu ý nghĩa khách quan không bắt buộc ta phải tuyệt vọng mà thay vào đó, nó mời gọi ta hãy sống trọn vẹn bất chấp chính sự phi lý đó. Cuộc sống vốn đầy dẫy mâu thuẫn và những điều phi lý, mà phi lý nhất là chiến tranh. Theo quan điểm của nhà văn kiêm triết gia Albert Camus thì phản ứng thích hợp đối với sự phi lý là hãy sống cho có mục đích và mãnh liệt, hầu tạo ra ý nghĩa của riêng ta trong một vũ trụ không có ý nghĩa nào.
Nhìn từ khía cạnh phi-triết, cái chết của “Vua Tango” là cái chết lãng mạn, chân phúc, thật đẹp. Một cái chết khác, đẹp và lãng mạn không kém, là cái chết của người đàn bà trong truyện Bóng tháp. Người đàn bà có chồng tử trận trong chiến tranh (vâng, chiến tranh là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong toàn bộ sáng tác của Khuất Đẩu), và một hôm, khi cuộc chiến đã tàn, cô đi bốc mộ xác người chồng, bỏ vào một chiếc thùng xốp và vác nó suốt ba chặng đường dài – một chuyến tàu hỏa, một chuyến xe hơi, và một đoạn đường đi bộ – để đem bộ hài cốt về giao tận tay người bên gia đình chồng trong một làng thôn hẻo lánh. Suốt mười năm cô sống trong mong đợi, đợi ngày hoàn tất nhiệm vụ vô cùng khó khăn đó. Trong thời gian đó, cô gặp người khác, một người từ nước ngoài về và anh ta tha thiết muốn cô chắp nối lại mối lương duyên với anh ta trong tháng ngày còn lại. Câu chuyện sẽ tầm thường biết mấy nếu tác giả cho người đàn bà ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm, hân hoan, đầu óc vẽ ra hình ảnh và ước vọng tương lai sinh sống tại nước ngoài với người chồng mới. Không, rất may, nó không mắc phải nhược điểm ấu trĩ đó. Khuất Đẩu là một cây bút lão luyện, thẩm thấu rất rõ giá trị văn chương, và phần kết câu chuyện là đoạn văn tả cảnh người đàn bà tự trầm xuống dòng sông thật đẹp, đẹp đến não nùng:
“Nàng tìm cách xuống sông. Những hòn đất rơi lõm bõm làm mặt sông nhăn nhúm run rẩy. Khi nước ngập đến cổ, nàng dừng lại. Đợi cho mặt nước lặng yên, nàng ngắm cái bóng tháp đựng đầy trong lòng sông. Ngọn tháp như được lau rửa, thắm đỏ đẹp lạ lùng. Nàng há miệng ra uống vào một ngụm. Cả bầu trời xanh trong vắt, cả ngọn đồi tròn trĩnh và cả ngọn tháp đỏ rực như mới xây, chui tuột vào bụng nàng. Một sức nặng không con số nào đo được kéo nàng xuống sát đáy. Trên cao, một con chim bói cá đâm bổ xuống như một mũi lao, rồi chỉ trong chợp mắt, mang lên một chú cá cuống quýt quẫy cái đuôi óng ánh bạc. Mặt trời lặn xuống thật nhanh như có ai đó thò tay đánh cắp.”
Thiên truyện chấm dứt ngay đó, và không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến người đàn bà tìm cái chết tại dòng sông. Tại sao cô chết trong khi tương lai đời sống tốt đẹp hơn đang chờ đón cô ở chân trời phía trước mặt. Cô không thể sống vì chồng cô không còn tại thế với cô nữa ư? Không đâu. Cô đã sống được mười năm trời sau cái chết đau đớn của chồng mình. Hay là cô mang sẵn trong lòng ý nguyện chết theo chồng một khi đưa được hài cốt anh về nhà? Không thấy tác giả nói gì về điều đó, và tôi cũng chẳng muốn tin như vậy, bởi nó có vẻ “trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình, quốc văn giáo khoa thư” lắm, nó không có chỗ đứng trong một thiên truyện có tính cách tân như truyện Khuất Đẩu.
Cũng như không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến nàng Anna Karenina của Tolstoy gieo mình quyên sinh trước đầu máy chiếc tàu hỏa, người đàn bà của Khuất Đẩu nhìn thấy cái đẹp diễm ảo của cái bóng ngọn tháp khi nước sông ngập đến cổ cô. Cái chết đẹp như ngọn tháp, và có sự tương quan kỳ lạ, thậm chí ma mị, giữa hai sự vật tưởng chừng chẳng liên hệ gì đến nhau đó. Và đó là cái đẹp của văn chương khi được bao phủ bởi lớp sương mù của khí hậu phi thực đầy mộng ảo.
Ở một thiên truyện khác, Những con đóm đóm, người đàn bà lẽ ra phải đi tìm cái chết thì lại hồi tỉnh, hồi tâm và hồi sinh. Cô tìm ra con đường sống cho mình sau những trầm luân của kiếp người khi bị dìm xuống tận đáy bùn đen nhơ nhớp. Cô là gái điếm, một thứ đĩ rạc rài, tiếp khách làng chơi trong những ống bi bên vệ đường ngoài đồng ruộng. Cô có đứa con trai còn bé rất đĩnh ngộ, nhưng chẳng may nó xấu số chết sớm. Cô tin là linh hồn đứa bé biến thành con đom đóm và một đêm nọ trong lúc cô đang tiếp khách trong ống bi thì một con đom đóm bay vào khiến cô thốt nhiên tỉnh ngộ và cô vùng lên chạy như điên dại ra biển. Cô chạy ra biển không phải để tự trầm xuống mặt nước mà để gột rửa bùn nhơ trong tâm hồn cô.
Ta phải hiểu đó là giây phút khải thị. Con đom đóm, theo niềm tin của người đàn bà trong truyện, và hầu hết dân gian, là linh hồn người chết, chính là một biểu tượng ám chỉ ánh sáng hy vọng, một thứ ánh sáng tuy chập chờn yếu ớt nhưng đầy ân phúc bao dung. Nó là hy vọng được cứu chuộc và vẫn được sống như một con người, bởi sống như con người, cho trọn kiếp, là cái gì cực kỳ khó khăn.
Tương tự như thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ở những truyện ngắn, tác giả không sử dụng thủ pháp Hiện thực Huyền ảo, không có những chi tiết miêu thuật thế giới hoang đường, siêu nhiên; nó cũng không phải là giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hoặc vô thức của trường phái Siêu thực, mà chỉ khéo léo trộn lẫn tự sự phi thực vào tự sự hiện thực như một cảnh ngộ tình cờ, khó có thể xảy ra trên đời, nhưng không phải tuyệt đối không thể xảy ra, như những truyện ngắn Tiểu công chúa, Cha chung…
Truyện Tiểu công chúa thuật câu chuyện một lão họa sĩ già vẽ những bức tranh tháp bay. Truyện ngắn này hàm chứa quan điểm của tác giả về nghệ thuật thị giác:
“Chẳng phải là mơ sao mà đồng hồ báo thức lại mềm hẳn ra như sắp chảy, một con dê mà cũng biết kéo vĩ cầm… Đột nhiên tôi thấy mình ngộ ra: vẽ, không phải kỳ khu như một thợ thủ công mà phải biết chơi với sắc màu như đứa bé chơi đùa trên cát…”
Hiển nhiên, trong đoạn văn trên, Khuất Đẩu muốn nhắc tới hai nhà danh họa nửa đầu thế kỷ XX: Salvador Dalí và Marc Chagall, vốn là những họa sĩ tiên phong định hình cho luồng gió mới trong nghệ thuật hội họa Hiện đại Tây phương, và trong lúc đọc, tôi không thể không nhớ đến câu nói rất nổi tiếng của Pablo Picasso: “Tôi mất bốn năm để vẽ như Raphael, nhưng phải mất cả đời để vẽ như một đứa trẻ”.
Sự thú vị khi đọc truyện Khuất Đẩu là những chỗ tinh tế như thế.
5.
Lịch sử hình như đè nặng ngòi bút của nhà văn Khuất Đẩu. Với Huyền Trân Công chúa, truyện vừa thứ hai trong tập truyện, ông bơi ngược dòng lịch sử bảy trăm năm về thời Nhà Trần để dựng lại câu chuyện nàng công chúa nổi tiếng nhất lịch sử Việt Nam: Huyền Trân.
Hình như Khuất Đẩu không hài lòng với những điều biên chép trong chính sử: “Vì sao một vì vua anh minh và nhân hậu như Trần Nhân Tông lại đem con gái yêu của mình gả bán cho Chế Mân? Trần Khắc Chung là ai mà sau khi cứu được công chúa lại cùng nàng tư tình trên biển gần cả năm mới về?” Ông không ngần ngại đưa ra hai nghi vấn như thế, và đây chính là tiền đề cho câu chuyện ông muốn thuật lại.
Phải chăng chữ nghĩa do sử quan Nhà Trần viết, “Anh Tông được tin ấy sai Trần Khắc Chung giả mượn tiếng vào thăm để cứu công chúa. Nhân đó Khắc Chung cùng nàng tư thông trên biển” đã khiến Khuất Đẩu bất bình, và ông thấy cần phải viết thiên truyện này để cho thấy cái nhìn của ông sử quan nào đó chưa hẳn là đúng? Cái từ “tư thông”, nặng như búa tạ, sắc như lưỡi gươm đao phủ, là nỗi nhục oan uổng và oan khiên cho một nàng công chúa đã quên mình hy sinh vì lợi ích quốc gia. Nàng có tội tình gì, nếu không muốn nói là có công rất lớn đối với đất nước Đại Việt, mà phải chịu tiếng xấu nghìn thu như thế?
Khuất Đẩu nhất định không chịu tin lời vu oan giá họa hàm hồ của lão sử quan già nua khệnh khạng trọng nam khinh nữ cổ hủ triều Trần. Trong Lời phi lộ của thiên truyện, ông viết:
“Quê tôi gần thành Đồ Bàn. Cái kinh đô đã từng in dấu chân của Huyền Trân qua bao cuộc biển dâu giờ chỉ còn lại một bờ thành cũ bằng đất và tháp Cánh Tiên. Ngọn tháp đẹp nhất trong các ngọn tháp của xứ Chămpa, vẫn đứng sừng sững cùng với thời gian. Phải chăng vì có bóng dáng của Huyền Trân nên nó vẫn sáng long lanh như một khối ngọc khổng lồ. Ngọn tháp đẹp đến nỗi dù ở xa tận xứ Trầm Hương này, tôi vẫn thấy nó chiếu sáng từng đêm. Đó là cái Đẹp đã cứu rỗi cả một dân tộc.”
Trong mắt nhìn của Khuất Đẩu, công chúa Huyền Trân là biểu tượng cho cái Đẹp cao cả. Nàng là công chúa, cành vàng lá ngọc, nhưng lại thích cưỡi ngựa bắn cung và có lòng nhân hậu thương người, nhất là người dân nghèo khổ trong xã hội. Khi về xứ Chiêm làm vương hậu một quốc gia, tuy không lớn mạnh bằng Đại Việt nhưng hùng cứ một phương một cõi, nàng được thần dân xứ này yêu mến y như thuở còn ở quê nhà. Nàng yêu thương Chế Mân vì thấy ông vua này cũng là bậc anh hùng chứ không phải “thằng Mán thằng Mường” như những kẻ xấu mồm xấu miệng mỉa mai xách mé.
Khuất Đẩu tuyệt đối không có cái nhìn khinh bỉ đối với Chế Mân và dân tộc Chiêm Thành nói chung. Theo ông, đó là một dân tộc hiền hòa, hồn nhiên, chân thật, và có nền văn minh, văn hóa rực rỡ với hàng trăm ngọn tháp tuyệt đẹp được dựng lên khắp nơi trong xứ sở. Vẫn theo ngòi bút của Khuất Đẩu thì Huyền Trân về với Chế Mân được một năm, có thai trong bụng, nhưng chẳng may Chế Mân bất ngờ tử nạn trong một cuộc săn voi, và theo phong tục xứ Chiêm nàng phải chết theo chồng trên giàn hỏa thiêu. Nhưng vì đang có thai nên nàng được tạm hoãn, và nhân dịp đó, Trần Khắc Chung, theo lệnh của triều đình Nhà Trần, giả mượn tiếng viếng tang lễ Chế Mân, lập kế bắt công chúa đem đi.
Đây là đoạn Khuất Đẩu đi chệch ra khỏi chính sử. Trong truyện, công chúa Huyền Trân sau khi thoát khỏi thành Đồ Bàn được Trần Khắc Chung đưa đến một hòn đảo nhỏ ngoài biển Đông, tại đây nàng hạ sinh đứa bé, nhưng đứa bé chết lúc ra đời. Sau đó nàng bị Trần Khắc Chung cưỡng bức. Khuất Đẩu vẽ hình ảnh Trần Khắc Chung là một vị tướng hèn hạ, lỗ mãng, dung tục, tham sắc, và chẳng hề có mối tình lãng mạn nào giữa ông ta và công chúa, chẳng hề có chuyện “tư tình, tư thông, tư thiếc” như chính sử biên chép.
Bị Trần Khắc Chung cưỡng bức, tại sao Huyền Trân không tự kết liễu đời mình, chết theo chồng? Tại sao nàng vẫn về lại Thăng Long, lên núi Yên Tử thăm phụ hoàng Nhân Tông, lúc đó đã là một nhà tu, nhưng nàng không chịu đi tu, mà tiếp tục sống trong hoang lạnh cho đến cuối đời? Khuất Đẩu kết thúc thiên truyện ở đó mà không cho chúng ta câu trả lời.
Nhưng câu trả lời có quan trọng lắm không? Sự thật là không ai biết nàng sống như thế nào sau khi về lại đất Đại Việt. Theo dã sử và thần tích sau này thì nàng lên chùa tu ở núi Trâu Sơn theo di mệnh của vua Nhân Tông. Điều ấy chưa hẳn là chính xác, có thể do người đời sau thêu dệt. Liệu nàng có lấy một người chồng khác hay về phủ Thiên Trường sống ẩn dật, ngày ngày quét dọn ngôi nhà tế tự của dòng tộc họ Trần?
Dù thế nào chăng nữa thì Khuất Đẩu vẫn nhìn thấy một Huyền Trân “đẹp long lanh như tháp Cánh Tiên giữa phế tích Đồ Bàn” như trong lời Kết của thiên truyện.
Trở lại với quyết định của vua Nhân Tông gả Huyền Trân cho vua Chiêm, Khuất Đẩu có ý chê trách vua Nhân Tông, một vì vua “anh minh và nhân hậu, mà lại đem con gái yêu của mình gả bán cho vua nước Chiêm” như ông viết trong Lời phi lộ. Tôi thì nghĩ ngược lại. Theo tôi, vua Nhân Tông đã rất sáng suốt, khôn ngoan và nhân hậu khi đem con gái yêu của mình gả cho Chế Mân!
Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Nguyên và mặc dù đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, đất nước Đại Việt lúc đó đã kiệt quệ lắm rồi, dân tình thống khổ vì chiến tranh, và sách lược đối ngoại tốt nhất là tìm cách hòa hiếu với quốc gia ở phương Nam hầu tránh nạn đao binh không cần thiết. Trong thời gian chín tháng viếng thăm Chiêm Thành, Nhân Tông nhìn thấy tiềm lực của vương quốc này, họ không hèn yếu như nhiều người ở Thăng Long, do mặc cảm tự tôn, từng lạc quan đánh giá một cách sai lạc. Và quả nhiên như thế, sau Nhân Tông, Đại Việt đã khốn đốn nhiều phen với Chế Bồng Nga, một hậu duệ của Chế Mân. Chính vua Duệ Tông bị tử trận tại thành Đồ Bàn khi đem đại quân vào chinh phạt; và thành Thăng Long bị Chế Bồng Nga đem quân ra công phá ba lần.
Hôn nhân, dù là dị chủng, giữa các vương triều thời quân chủ phong kiến vốn là phương sách ngoại giao hữu hiệu, vua Nhân Tông đã không bỏ lỡ cơ hội để bảo đảm hòa bình cho Đại Việt, ít nhất trong một thời gian vài ba mươi năm, hầu dành thời gian tái thiết quốc gia, lấy lại sinh lực dân tộc. Và thêm mối lợi to, nghìn dặm đất hai châu Ô-Rí (một dải đất bao gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị ngày nay) từ nay thuộc về Đại Việt mà không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu. Vua Nhân Tông quả là một nhà lãnh đạo tài giỏi và ngài đã đặt quyền lợi quốc gia lên trên tình cảm gia đình, dòng tộc.
Khuất Đẩu khi viết thiên truyện này không có ý đồ viết lại lịch sử. Ông chỉ muốn làm công việc duy nhất là cố tẩy xóa cái từ “tư thông” tai ác ghi trong chính sử, cho chính ông mà thôi, bởi ông nhìn thấy cái Đẹp của Huyền Trân công chúa. Và cũng bởi thế, truyện hiền lành, cận nhân tình, hướng thiện. Với thiên truyện này, Khuất Đẩu không có những ẩn dụ tinh sắc và tinh tế của Nguyễn Huy Thiệp (do sống cả đời dưới bóng đen che phủ của cái-gọi-là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa nên không thoát được cái vòng kim cô mà Czeslaw Milosz gọi là tâm thức ngục tù); nó cũng thiếu cái tàn nhẫn phi lý đặc trưng của Trần Vũ (do căm ghét giai cấp thống trị nên không ngần ngại giải thiêng, dung tục hóa các thần vị anh hùng). Nhưng Khuất Đẩu có cái nhìn nhân bản, và đó chính là điểm mạnh làm nền tảng cho ngòi bút của ông.
6.
Truyện Khuất Đẩu, dù là truyện ngắn hay truyện vừa, mở ra trong tâm tư người đọc nhiều liên tưởng bát ngát; bên dưới lớp vỏ thô nhám, sần sùi, đôi khi tàn bạo, khốc liệt, là những chua xót, ngậm ngùi cho thân phận con người, những thân phận bị chôn vùi dưới con trốt xoáy của lịch sử và dòng đời. Đọc Khuất Đẩu không phải để tìm kiếm câu trả lời cho những vấn nạn nhân sinh, nhà văn không đưa ra đáp án, lại càng không rao giảng đạo đức, thậm chí một lời an ủi cũng không.
Tác phẩm văn học, khác với một cuốn sách sử học, chính trị học, tâm lý học, xã hội học, v.v. ở chỗ nó khám phá những tình huống, bình thường và phi thường, để có thể đào sâu vào những trải nghiệm phổ quát của con người như tình yêu, sự mất mát, cái chết, ý nghĩa cuộc sống, các mối quan hệ, tính đạo đức cũng như phi đạo đức, những xung đột, niềm vui, nỗi đau khổ và sự phức tạp của cảm xúc. Nó chiêm nghiệm cách thế mỗi cá nhân điều hướng những chủ đề này trong bối cảnh cuộc sống và xã hội của họ, đưa ra những nhân vật và tình huống dễ đồng cảm, và gây được tiếng vang sâu thẳm trong lòng người đọc. Nó va chạm và trăn trở những vấn đề của muôn kiếp trước, của nghìn kiếp sau chứ không phải nhất thời, vì vậy, nó không bao giờ trở nên cũ kỹ, lỗi thời. Trang sách có thể úa vàng rách nát nhưng những con chữ trên mặt sách vẫn nóng hôi hổi như vừa được viết ra với dòng máu sục sôi.
Tôi tin là Khuất Đẩu đã làm được điều đó qua tập truyện Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của ông.
– Trịnh Y Thư
(1/2025)
Khuất Đẩu và phu nhân Huyền Chiêu
Huyền Chiêu & Khuất Đẩu
Hoàng Hưng & Khuất Đẩu
Khuất Đẩu, Phạm Văn Hạng, Bửu Ý, Đinh Cường, Huyền Chiêu,
Ảnh chụp trong một cuộc triển lãm tranh Đinh Cường ở Dalat.
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.