Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Nguyễn Đạt

 















Nguyễn Đạt

Tên thật: Nguyễn Tiến Đạt
(1945 - ......) Vĩnh Yên
Nhà văn . Nhà thơ











Dấu tay sau khi ăn sáng ở nhà chị Nguyệt Hồng 19.IV.2010
(Ấn bản do Trần Thị NgH thực hiện)





*




Học tiểu học ở Hà Nội. Di cư vào Nam năm 54. Đi lính VNCH từ 68 đến 75. Viết truyện ngắn từ năm 71.Từ năm 2000, viết cho nhật báo Người Việt (Mỹ).
Truyện ngắn trước 30/4 đăng trên các báo: Nghệ Thuật, Khởi Hành, Thời Tập, Vấn Đề, Văn, Tập San Văn Chương.









Sau 30/4/75 đã xuất bản








Nơi Giá Băng  
(thơ. nxb Hội nhà văn. 1991)







Kỷ Niệm Dã Quỳ 
 (tập truyện ngắn. nxb Trẻ. 1996)







Cơn Mộng Cẩm Giàng  
(tập truyện ngắn. nxb Trẻ )





















Là tác giả khoảng hơn 100 bài thơ và  hơn 100 truyện ngắn.
Rất nhiều tác phẩm đã đăng báo internet Tiền Vệ (Úc), tuyển tập, tạp chí trong và ngoài nước.







Đơn cử vài truyện / tùy bút 






Trưa Rừng


Tôi không ngờ đẩy cái xe chở nước nặng hết sức. Con dốc, nhìn không ghê gớm bao nhiêu, lúc này nó ghê gớm khủng khiếp. Bà chủ quán nói: “Cám ơn ông”. Tôi không thể thấy gương mặt bà chủ quán khi bà cố tình tránh không để tôi nhìn. Nhưng tất nhiên tôi biết bà là một nhan sắc.
Hai chàng trai thì tôi chỉ mới thấy lần đầu, một chàng phục sức lôi thôi, chàng kia phục sức công tử con nhà giàu. Chàng phục sức công tử con nhà giàu nói: “Ông già còn gân dữ”.
Tôi duỗi đôi chân đau thấp khớp, lúc này đau mỏi gấp một ngàn lần. Ly cà phê sữa đá đặt trên mặt bàn. Tôi nhìn phía sau lưng bà chủ quán, nhớ một khoảng cách của gần hai mươi năm dĩ vãng, lưng em rắn chắc như thân cây ổi… Chàng phục sức công tử con nhà giàu lại nhìn qua tôi, nói: “Uống cà phê sữa đá cho khoẻ, bố già”.
Những trưa rừng cao như chưa bao giờ trông thấy. [1] Rừng thông ngút ngàn, nắng trong suốt cõi mênh mông. Liệu đã có ai đặt chân trên ngọn núi phía rất xa kia? Ông bỏ đi từng ấy năm, tôi nghĩ ông không nên trở lại đây làm gì nữa. Trở lại cùng ảo tưởng? Tất cả những gì ông nghĩ, chỉ là ảo tưởng mà thôi. Cả thằng bé nữa, nó cũng không thuộc về ông để ông nghĩ ngợi, hiểu theo bất cứ nghĩa nào…
Tôi không nên trở lại đây, đúng vậy. Ảo tưởng thì… Không chừng cả người nghĩ rằng mình không ảo tưởng, cũng có thể chỉ là ảo tưởng rằng mình không ảo tưởng. Không chừng ngọn núi phía rất xa kia cũng là ảo tưởng của kẻ phiêu lưu.
“Hồi sáng sớm tôi thấy ba cậu ăn điểm tâm trong tiệm mì bác Xá Xíu”.
“Ông già tớ về Sài Gòn ấy mà. Tớ sẽ xài cái Nokia mô-đen mới nhất, có cả chức năng chụp hình nữa. Ông già sẽ vào mua ở chỗ đại diện chính thức của hãng Nokia Nhật Bản”.
Nói xong, chàng công tử lấy ra trong túi quần cái điện thoại di động nhỏ xíu, mở ngó như cô gái soi gương, “Không có một miếng sóng”.
“Chỗ này núi rừng, không có sóng. Cái mô-đen mới nhất cũng vậy thôi. Mà dùng điện thoại để nói chuyện chứ cần gì chụp hình”.
Chàng công tử cười lớn tiếng, “Ông già tớ đề nghị vậy đấy chứ, không xài thì uổng”.
“Thì cậu là cục cưng mà. Cưng thì phải đi đôi với chiều. Chiều như chiều vong”.
Chàng công tử ngó bạn, cái nhìn tiếc rẻ, “Tớ mà đạt giải học sinh giỏi văn toàn quốc như cậu, ông già tớ ấy à, lấy ngay một cái xế hộp cho tớ”.
“Tuổi bọn mình mà đi xe hơi làm gì?”
“Cậu giỏi văn, nhưng ngố thấy mẹ. Tuổi nào mà không biết hưởng thụ. Cơm dâng tận miệng mà chê, chỉ là thằng ngố”.
“Cái cậu nói không phải là cơm. Mà cậu sao không bao giờ chịu hiểu ai khác, kể cả thằng ngố? Khi cậu chịu tìm hiểu thằng ngố, cậu sẽ thấy nó không ngố đâu”.
Chàng công tử lại cười lớn tiếng, “Tớ hiểu chứ, tớ rất hiểu bạn mình, bạn mình nghèo đành phải an phận, phải học cho giỏi để thoát kiếp nghèo”.
Tôi có cảm tưởng chàng công tử sắp ăn quả đấm của bạn, nhưng chỉ có cái nhìn ngao ngán của chàng trai phục sức lôi thôi.
Tôi cũng ngao ngán hết sức. Cái ông nào mà là cha của chàng công tử, hiển nhiên giàu có và xuẩn ngốc.
“Ông già cậu, tớ nghe nói là nhà văn, đúng không?”.
Chàng trai phục sức lôi thôi lắc đầu, “Ba tôi thỉnh thoảng có dịch sách chứ không phải nhà văn. Nói chung thì ba tôi làm nghề tự do, nghĩa là làm bất cứ công việc gì, khi không có ai đặt dịch sách”.
“À, tớ có thấy ông già cậu một lần, ở hiệu sách. Trông ông già cậu bụi bụi, giống bố già bên kia. Tớ có thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ, trông đều bụi bụi như vậy. Nhà văn, nhà thơ, nhà nghèo đều ở chung một nhà”.
Chàng trai phục sức lôi thôi không nói gì, cái nhìn mênh mông hướng về phía rừng thông ngút ngàn.
Chàng công tử lại cười lớn tiếng, và nói:
“Cả nhà báo nữa, tớ quên mất. Nhà văn, nhà báo song sinh chứ gì. À, hỏi cậu: cái nhà ở cũng như quần áo mặc chứ gì. Thế có phải là y phục xứng kỳ đức không?”
“Đúng mà cũng không đúng. Có thể mấy ông ấy thích phục sức như vậy mà thôi, còn chẳng phải ý nghĩa câu đó phải hiểu như vậy”.
“Cậu nói khó hiểu quá. Nghèo thì ăn mặc xuềnh xoàng, giàu thì áo quần bảnh bao, chẳng phải đúng là y phục xứng kỳ đức à?”
“Tất nhiên là không phải. Cậu cũng không rành nữa: nhà văn, nhà thơ có thể nghèo, nhưng nhà báo không nghèo đâu. Với lại, nhà văn, nhà thơ là nghiệp, họ vẫn có thể có nghề khác trong việc mưu sinh. Nghề và nghiệp không chỉ là từ kép đâu. Nghĩa là cũng có nhiều nhà văn, nhà thơ không nghèo tí nào cả. Mà sao cậu cứ đèo queo cái vụ giàu nghèo vậy?”
Chàng công tử lại cười lớn tiếng, và nói:
“Chứ còn gì khác ở đời này: người giàu và kẻ nghèo. Danh phận và số kiếp, cũng quy ra có vậy mà thôi”.
“Vậy thì, ta hình dung thế này cho có ấn tượng: Người giàu ở thế cúi xuống, bắt tay ban phúc cho kẻ nghèo ở thế ngước lên. Vì thế tôi sẽ mỏi cổ để gặp cậu”.
Chàng công tử vẫn lại cười lớn tiếng, và nói:
“Không dám đâu, vì tớ nể cậu. Dĩ nhiên tớ nể cậu vì cậu học giỏi, và dĩ nhiên cậu sẽ đứng vào hàng ngũ người giàu”.
“Cho tôi thêm vào: người giàu cũng học giỏi!”
Có tiếng bà chủ quán gọi một trong hai chàng trai:
“Hưng ơi, mẹ nhờ một tí này”.
Tôi xin thú nhận, vô cùng hồi hộp.
Chào bà chủ quán, tôi nói:
“Bà nói đúng, tôi không nên trở lại đây làm gì nữa. Ấy tuy nhiên chỉ đúng vào đúng lúc này, lúc tôi đã gặp thằng Hưng. Nghĩa là, ảo tưởng cuối cùng của tôi vừa rớt xuống”.
Ngọn núi phía rất xa kia hiển nhiên có thật, như chàng trai phục sức lôi thôi đang uống cà phê ở quán trên đồi. Tôi muốn gặp hai cha con chàng trai, ngồi uống cà phê hay rượu hay bất cứ gì đấy, trên ngọn đồi này, nhìn ngọn núi phía rất xa kia. Rừng thông ngút ngàn, nắng trong suốt cõi mênh mông, sao quá đẹp như một nỗi buồn không gì có thể an ủi.


11-9-2004

[1]Thơ Nguyễn Đức Sơn.








Tưởng niệm ông Trần Khoát, Vĩnh Long, 2009.








Một chuyện hoang đường có thật


Ngôi nhà cổ, đồ đạc trong nhà cũng vậy, những đồ gỗ đều là thứ danh mộc lên nước bóng ngời. Ngôi nhà ông K. đã bán, chủ mới chưa về ở. Tôi nói: “Cái tủ này kiểu dáng đẹp quá, bây giờ chắc chắn không còn ông thợ mộc nào làm được... cái bàn kia cũng là thứ hiếm có...” Ông K. quơ tay một vòng: “Tôi bán lại tất cả cho người chủ mới... Cậu nói rẻ quá hả? Mà tôi giữ lại làm gì những thứ này nữa, người ta mua hết cho tôi là may. Tôi chỉ cần một cái giường, một cái bàn, một cái ghế... về Sài Gòn mua thiếu gì.” Tôi hình dung căn phòng ông K. trong một chúng cư tại Sài Gòn. Căn phòng đó, cái giường, cái bàn, cái ghế..., hẳn sẽ giống bức hoạ căn phòng của Van Gogh, trong cuốn sách hội hoạ hình như ghi tên bức tranh đó là “Chambre à coucher”. Ông K. sẽ ở trong căn phòng đó để ngủ, để sống, hay để tự vẫn không chừng.

Buổi tối, thị xã lần đầu đặt chân tới, tôi đi một mình ra quán bờ sông không xa ngôi nhà cổ của ông K., uống cà phê. Ngồi xuống chiếc ghế ở quán, tôi đổi ý, nói cô gái chạy bàn mặc váy ngắn ngủn mang ra một chai rượu vang. Thật sự lúc đó là buổi chiều, khi tôi để ý thì đã tối, hoà vào dòng sông sẫm màu. Đèn quán mờ mờ, tiếng nói chuyện xa xôi. Chỉ là cảm giác của tôi, hay đúng một người nào đấy vừa khoắng tay dưới nước, hay một con cá nào đấy quẫy đuôi, vùng vẫy... Có lẽ vì ly rượu vang đã loãng nhạt, đã gần hết chất rượu màu đỏ sậm, chỉ còn nước ở cục đá tan ra. Tiếng hát từ cái máy phát thanh trong quán: Tôi ngu ngơ trồng cây cuối góc phố ôm mộng mơ... cùng lúc lời ca trong đầu tôi: Ngày rời Paris anh đã để quên con tim... Không hiểu tại sao lời ca đó lại dấy lên trong đầu tôi vào lúc này, có con tim để quên ở kinh thành hoa lệ, và người đàn bà Paris với tấm khăn choàng?

Ngày rời Paris..., tôi mở bàn tay úp vòng quanh ly rượu. Tôi mở bàn tay ra, úp bàn tay lại... Khách khứa mỗi lúc mỗi nhốn nháo hơn. Các thứ chung quanh lơ lửng dật dờ trôi dạt, giống tình trạng mất trọng lượng trong không gian. Rồi tất cả những thứ ấy lại lẩn quẩn, lòng vòng giữa những cô gái váy ngắn ngủn ở đâu túa ra thật đông, những chân cẳng da thịt phơi lộ đầy khắp... Hình như tôi đã đứng dậy, lảo đảo tại chỗ, vướng víu những cái ghế ngồi... Hình như sau đó tôi ngã đổ xuống.

Tôi tỉnh thức trên nền đất ẩm ướt. Có tiếng nói: “Chú ấy tới quán lần đầu mà... Chú ấy ngồi im một chỗ chớ có gây chuyện, làm rộn chi đâu...” Tôi không thể biết mình nằm trên nền đất ẩm ướt bao lâu, cuối cùng tôi cũng đứng dậy được, cố định hướng trở về ngôi nhà của người bạn vong niên. Tôi nhận thấy rõ rệt tôi đã tỉnh thức, hai bàn tay tôi xoa vào nhau cho sạch đất cát, đưa hai bàn tay đã sạch đất cát lên phủi rác rến gì đấy dính trên mặt...

Trở về ngôi nhà cổ, không thấy ông K., tôi vội đi ra phía sau. Sáng sớm lúc trở dậy rửa mặt, tôi đã biết có vại nước ở chỗ đó. Tôi vốc nước lên mặt, thấy buốt rát. Vào nhà, ông K. nhìn tôi, kêu lên: “Cậu té ở đâu hả? Máu còn chảy ở sống mũi cậu kìa!”

Dưới mái hiên, những khoảng ánh sáng chia cắt. Ông K. ngồi sững trên chiếc ghế bành, thân thể gầy guộc, ông là bức tượng gỗ cứng queo, một vị tu hành khắc khổ ngồi kiết già, giống hệt bức tượng tôi thấy ở đâu đó, trong một ngôi chùa hay trong một quyển sách. Ông vụt đứng dậy như cái lò xo bị gấp vừa bung ra, đi vào trong, tiếng nói vọng trở lại: “Tôi giăng mùng sẵn, lúc nào buồn ngủ thì vào ngủ nhé, cậu Đăng.” Ông K. không ra ngồi ngoài hiên nữa, đèn sáng trắng trong nhà phụt tắt. Lúc này những khoảng ánh sáng chia cắt ngoài hiên nhập vào nhau, lẫn trong bóng tối nhờ nhờ. Gió sông lùa tới từng đợt, tiếng động ì ầm xa xôi, đom đóm tắt hiện, những đốm sáng thất lạc tứ tán. H, bây giờ chắc là rạng sáng, vừa thức giấc ở Oakland, một nơi phía bắc của một tiểu bang Hoa Kỳ hầu như người Việt Nam nào cũng nghe tên. Ngọc-là-châu-là-khuôn-mặt-hiện, người phụ nữ đơn độc kiêu hãnh bình thản bình tâm chuẩn bị đi làm, ở một chỗ dưới bầu trời dội âm miên viễn những khúc nhạc đồng quê? Những hình bóng thân thuộc, xa lạ, tôi không biết tại sao nỗi nhớ tha thiết điên cuồng, và một nỗi tuyệt vọng dấy lên cùng cơn ngầy ngật của men rượu vang ngọt nồng ngấm say, kéo giấc buồn ngủ. Tôi buồn ngủ, tôi buồn nôn.

Định trở lại Sài Gòn, ông K. níu giữ tôi ở lại với ông trong ngôi nhà cũ, “Mai về cùng tôi luôn thể. Trên đường về bọn mình sẽ ghé Nha Mân. Phụ nữ Nha Mân đẹp nổi tiếng, mọi người đã từ khuya thừa nhận như vậy đấy. Tôi sẽ giới thiệu với cậu người phụ nữ mới của đời tôi, người đẹp Nha Mân...” Ông bật cười rộ, nói thêm: “Tôi đổi đời mà, đổi toàn bộ cuộc đời, từ nơi ăn chốn ở tới người chăm sóc trái tim cô đơn... Tôi-không-còn-cô-độc.” Tôi lại nhớ lời ca Ngày-rời-Paris-anh-đã-để-quên-con-tim... chẳng quan hệ gì tới cuộc đời tôi.

Cả ngày hôm sau, ngày thứ hai tôi ở lại thị xã, ông K. chẳng ra khỏi ngôi nhà cổ. Có lẽ ông K. cố nán lại đây để hít thở tới đáy tim phổi không khí ông đã sống bao nhiêu năm tháng với người vợ và đứa con bây giờ ở một phương xa, tận cùng hơi thở với nơi chốn ông sắp từ giã vĩnh viễn. Buổi chiều tôi lại một mình đi ra quán nước bờ sông. Hai, ba cô gái trong quán ùa tới, nói với vẻ nghiêm trọng: “Chú đừng ngồi ở đây nữa. Thằng cha bữa tối qua hành hung chú nói tối nay mà còn gặp chú là sẽ thanh toán chú đó. Thằng chả làm thiệt đó, biểu sẽ xin chú tí huyết, tụi con nói hoài cũng hổng được...” “Thằng cha” nào đó tôi không hề biết, đã hành hung tôi như thế nào, vì sao hành hung tôi cũng không biết. Nhưng như vậy tất nhiên tôi không thể ngồi ở quán này nữa. Tôi tiếp tục đi, ngơ ngác tìm một chỗ ngồi ở một quán nào cũng được, và sẽ uống một ly cà phê chẳng hạn. Rượu vang, cơn say ngấm ngầm đã làm tôi ngán sợ. Tôi chợt nhận ra một điều gì đấy chính tôi không rõ, đã khiến tôi tự động tìm một quán không ồn ào, không có những chiếc váy ngắn ngủn của các cô gái chạy bàn...

Khi tôi trở lại ngôi nhà cổ, cửa nẻo đã đóng chặt ở phía trong, đèn tắt tối om. Tôi gọi, không nghe tiếng ông K. trả lời. Tôi gõ cửa, rồi đập mạnh nắm tay, rồi chân đi giày đá vào cánh cửa gỗ, những thớ gỗ đặc cứng, câm nín vô vọng. Tôi đành ra ngoài thị xã, tìm một nhà trọ ngủ qua đêm.

Tôi không còn cách nào khác để đoán biết vụ việc gì xảy ra với ông K. trong ngôi nhà cổ, ngoài việc phải tin rằng ông đã chết trong đó. Thoáng ý nghĩ ông K. tự vẫn, nhưng tôi không thể tin điều ấy xảy ra được, một người vừa nói chuyện vui vẻ bình thường, nói chuyện tương lai, đột ngột tự kết liễu đời mình. Ông còn hẹn sẽ giới thiệu với tôi người đẹp Nha Mân của ông nữa. Hay ông K. bị đột tử, bị nhồi máu cơ tim chẳng hạn? Điều này cũng rất mong manh, ông K. gầy ốm nhưng tôi thấy rõ ông có sức khỏe, không từng bị bệnh tim mạch gì hết.

Suốt đêm tôi không thể ngủ, có lúc bực bội vì cả hai chúng tôi đều không dùng điện thoại di động, trong ngôi nhà ấy cũng không có điện thoại bàn. Mờ sáng tôi vội vàng trở lại, lấy thanh sắt nạy bung cánh cửa sổ của ngôi nhà. Hình dáng mờ mờ của ông K. dần rõ nét, lơ lửng giữa khoảng không gian phía tay trái, gần bên cái bàn tôi đã thốt lời khen đẹp hiếm có lúc trưa hôm qua, khi vừa yên vị trong ngôi nhà cổ ông K. đã bán, chủ mới chưa tới ở.


V.2010








Chút ít sự thật của...


H nói: “Thỉnh thoảng ông Sơn Núi có gọi điện thoại…”. Tôi hỏi ông Sơn núi về H, nhưng gợi ý nói về H là ông: “Gớm quá, đồng bóng gớm quá!”. Tôi hỏi H: “Thế ông Sơn Núi điện thoại nói gì với em?”. “Thì hỏi thăm này nọ… Nhưng lâu nay không thấy gọi nữa… Lần cuối, ông ấy toàn nói bậy bạ, em cúp máy không nghe”. Tôi nói với H, như vậy người ta gọi là quấy rối tình dục...

Nhà sư Chăm có ý định trọng đại và nghiêm chỉnh, ông ta tự nhận xét, một công trình nghiên cứu về nhà thơ không tiền khoáng hậu: Sơn Núi. Dĩ nhiên Sơn Núi là hỗn danh nhà thơ đặt cho mình. Tôi tự nhiên mến nhà sư Chăm, muốn cung cấp cho ông ta vài điều tôi biết về ông Sơn Núi, hóa ra nhà sư Chăm biết cả rồi, ví dụ như…

Cuối năm, ông Sơn Núi về Sài Gòn liên tục. Đi và về, lên và xuống, bằng chiếc xe gắn máy trông như một cục đồ chơi gồ ghề thô kệch của con nít, ông Sơn Núi đặt tên cho nó là Monkey. Tôi thấy cái tên ông Sơn Núi đặt cho chiếc xe, đặt cho chính ông thích hợp hơn: Ông giống con khỉ già thông thái tinh ranh.

Ông, trước mắt nhìn của công chúng: Một người đàn ông trọng tuổi, làm ăn sinh sống ở vùng núi, làm rẫy chẳng hạn. Đặc biệt, ông làm rẫy thường ghé các chùa chiền, ở đó như một ác tăng chuyên việc truy hỏi để phụng hiến mục đích cao cả là khu trừ những kẻ tà đạo ẩn náu trong hình dạng của bậc tu hành chân chính.

Đặc biệt khi ghé chùa Già Lam, ông phải gặp bằng được thượng tọa Tuệ Sỹ để khẳng định nghi vấn hành trạng của nữ họa sĩ D.TH. thuộc trường phái thấy sao vẽ vậy, sau khi phát biểu một cách khinh miệt thích đáng về trường phái hội họa này, ông nói thì thầm vừa đủ cho mọi người nghe, tất nhiên bao gồm thượng tọa Tuệ Sỹ: “Nương này là kẻ tà đạo, đang âm mưu lôi kéo thầy Tuệ Sỹ về phía đạo giáo Tin Lành của nương”. Hẳn ông Sơn Núi không hài lòng khi thầy Tuệ Sỹ chỉ lắc đầu và cười, bảo: “Bậy nào, ông căn cứ vào đâu mà nói vậy?”. Ông Sơn Núi chẳng căn cứ vào đâu hết, ngoại trừ việc nữ họa sĩ D.TH. theo gia đình mà theo đạo Tin Lành. Nên ông Sơn Núi, khi bước xuống những bậc cấp cuối hành lang để rời chùa Già Lam, nói một cách chán nản, dĩ nhiên là nói với tôi, kẻ đồng hành: “Mấy đệ tử của Tuệ Sỹ, như H, D.TH., không khá được”. Tôi chẳng nói gì, nghĩ: Nếu biết mối quan hệ giữa H và tôi, hẳn ông Sơn Núi còn tăng gia chửi rủa H.

Ông Sơn Núi hay rủ tôi ghé nhà một người bạn trẻ tuổi, Nguyễn Thiên Chương. Rất đáng mến, Nguyễn Thiên Chương trầm tư, sâu sắc, đãng tử, viết rất đẹp thứ chữ mà một triệu người ở xứ sở văn hóa gầy còm Việt Nam này gọi là “thư pháp”, nhưng Nguyễn Thiên Chương không thấy đó là cái quái gì. Nguyễn Thiên Chương ra kiểu dáng cho thợ làm ngôi nhà ở khá đẹp, một biệt thử nhỏ, đơn giản, khác lạ hẳn những nhà chung quanh. Tôi nhìn những bậc thang gỗ dẫn lên căn gác thấp gần mái, hình dung căn gác dễ cảm, cùng lúc nhớ lời ông Sơn Núi nói về người bạn trẻ : “Ông Sơn Núi bảo rất thích Chương, một người Quảng Nam duy nhứt không ưa tranh luận, bàn cãi tào lao”. Người bạn trẻ giọng nhẹ nhàng: “Anh ấy thích căn gác nhà em thôi”.

Đêm mưa, ở lại nhà Nguyễn Thiên Chương, ông Sơn Núi và tôi ngủ trên sàn nhà. Không nghe ông ngỏ lời lên ngủ trên gác, còn tôi rất sợ tiếng mưa trên mái tôn. Ông Sơn Núi dậy rất sớm, lúc hai giờ sáng, đánh thức tôi bằng câu hỏi: “Này, ông là bạn lão B.X.H. hả?”. “Ừ, bạn học cũ thời trung học. Mà sao ông biết?”. “Biết chứ! Lão ấy lấy con mu[1] vợ cũ của ông tướng râu kẽm. Hồi con mu này còn nhỏ, tôi dạy kèm Anh ngữ ở nhà con mu tại Nha Trang”. “Đúng, bạn tôi đã từng lấy cô ta, nhưng nay họ lại bỏ nhau rồi”. Ông Sơn Núi lại nhắc câu hỏi về người bạn học cũ của tôi, rằng lão ấy ra sao. Tôi nói: “B.X.H. rất đẹp trai. Vẻ đẹp của Marlon Brando cộng với Kennedy”. Ông Sơn Núi cười thích thú một chặp: “Cộng với cặc lõ nữa chứ!”.

Ở nhà Nguyễn Thiên Chương về nhà Hồ Hữu Thủ, họa sĩ có ngôi nhà lớn rộng, nhiều phòng ốc, dành riêng một phòng cho ông Sơn Núi mỗi khi ông từ Phương Bối Am xuống Sài Gòn. Nhà sư Chăm tìm gặp ông Sơn Núi ở đây, hẳn để chuẩn bị đầy đủ cho công trình nghiên cứu về nhà thơ không tiền khoáng hậu. Ông ta rủ ông Sơn Núi và tôi tới thăm ngôi chùa của ông ta ở vùng thác Trị An, nghĩa là cứ đi về phía thị trấn Trảng Bom.

Đường đi về phía thị trấn Trảng Bom, ông Sơn Núi và tôi rất quen thuộc, nằm trên quốc lộ 1 A. Nhà sư Chăm chở ông Sơn Núi trên chiếc xe gắn máy hiệu Honda, không tiếp tục đi trên quốc lộ rộng rãi bằng phẳng, ông ta rẽ vào một con đường, đi sâu mãi, xe tôi phải chạy theo phía sau. Nhà sư Chăm phóng xe nhanh, cứ băng băng hết con đường lạ hoắc này tới con đường lạ hoắc khác, đường rất xấu, xe hiệu Simson bánh nhỏ, hình dáng giống xe scooter của tôi chạy theo khó khăn, bánh xe trệu trạo trên những con đường lồi lõm đất trũng gò, hoặc mặt nhựa thì loang lổ. Ông Sơn Núi thỉnh thoảng quay lại ngó chừng tôi chạy phía sau.

Đến vùng đất rộng trống, đường ray tàu lửa nổi lên giữa cây cỏ dại, rác rưởi lẫn lộn. Giữa khoảng trống trải, tôi nhìn trọn chuyến tàu chạy qua. Ông Sơn Núi nói: “Ngó những chuyến tàu đi, bao giờ cũng cảm động”. Tôi nhìn ông Sơn Núi và nghĩ, thôi cũng được, cái việc cứ tìm mà đi những đường xa xôi trắc trở của nhà sư Chăm, cuối cùng được thấy trọn vẹn chuyến tàu, cũng là an ủi. Chúng tôi lại ra quốc lộ 1 A. Nhà sư Chăm ít nói, thỉnh thoảng nói lại nói hơi nhiều, nụ cười tự tin, hơi kiêu ngạo mà hồn nhiên.

Sau một hồi chạy trên quốc lộ 1 A về phía thị trấn Trảng Bom, còn cách thị trấn Trảng Bom khoảng mười cây số, ông ta quẹo xe sang phía tay trái, chạy vào con đường chẳng biết dẫn tới đâu. Ông Sơn Núi hỏi nhà sư Chăm: “Ông đưa bọn tôi đi vào con đường thủ tiêu đấy hả?”. Nhà sư Chăm cười lớn tiếng. Tôi không thể nhìn thấy ông ta cười, chỉ nghe tiếng cười mà thôi, vẫn tự tin, hơi kiêu ngạo, và ma quái nữa.

Nhà sư Chăm phóng xe thật nhanh, tôi chạy phía sau cố bám theo, con đường dài ngút giữa những rừng cây cỏ dại, lũng vực. Nhà cửa lác đác thoáng hiện, bặt vắng. Tôi nghĩ, hẳn nơi đến còn xa nữa, nhà sư Chăm phải tiếp tục phóng xe thật nhanh để kịp tới lúc trời còn sáng. Nơi tới đó ông Sơn Núi nói là một “Ngôi chùa tuyệt đẹp của ông thầy chùa người Chăm”, như thể ông đã từng tới đó, nhà sư Chăm nói ra tôi mới biết là ông Sơn Núi chưa tới đó lần nào.

Con đường vẫn chạy miết về phía chân trời, bóng chiều sẫm xuống. Một con dốc cao đột ngột. Tôi cố theo sát nhà sư Chăm và ông Sơn Núi. Xuống dốc, con dốc chúi hút chiếc xe Simson bánh nhỏ, giống xe scooter của tôi lao vùn vụt, băng qua những tảng đất sét trơn láng từ đâu rải đầy ở cuối dốc, mưa lúc nào đó nơi này. Chiếc xe vượt khỏi sự kiểm soát của tôi, cứ thế lao xuống mỗi lúc một nhanh, nhưng vẫn cách khoảng xa chiếc xe của nhà sư Chăm chở ông Sơn Núi. Cầm chắc té xe giữa con lộ, tôi vội lái sang một phía, tất nhiên phía trái ven đường. Chiếc xe và tôi đâm sầm vào rào cản bằng xi-măng cốt sắt ngăn chặn phía trên một vực sâu. Chóa đèn xe vỡ nát. Vai, ngực tôi đau điếng. Tôi không kêu nổi một tiếng để báo hiệu cho nhà sư Chăm dừng xe. Tôi ngồi bất động, nhìn chiếc xe chở hai người mất dạng trên con đường đang tối dần.

Chỉ còn một nước trở lui, may là chiếc xe còn nổ máy để chạy, tôi quay xe lại, chạy tới con dốc, ngay dưới chân dốc có một lều quán giải khát. Tôi rất đau mệt, khát nước và thèm hút thuốc lá, và cầu âu nhà sư Chăm , ông Sơn Núi quay lại tìm tôi.

Người đàn bà mang tới các thứ tôi gọi, nụ cười hiền hòa trong ánh sáng mờ nhạt của chiếc đèn máng dài: “Anh cứ ngồi nghỉ ở đây, thế nào các bạn cũng trở lại kiếm mà”. Tôi cười gượng gạo, vì tôi tuyệt vọng về chuyện các bạn trở lại kiếm. Lúc nãy, tôi ngồi bất động ít gì cũng nửa tiếng đồng hồ.

Có lẽ tôi đã ngồi tại lều quán lâu gấp đôi lúc nãy. Người đàn bà nói: “Tệ thật đấy, bạn bè đi chung mà lại bỏ mặc giữa đường… thế người ta bị lao xe xuống vực thì sao?... ở đây tôi đã thấy xảy ra nhiều vụ xe lao xuống vực”.

Vài ngày sau, ông Sơn Núi lại có mặt ở Sài Gòn. Ông lại tới chùa Già Lam, nói chuyện nữ họa sĩ D.TH. âm mưu lôi kéo thầy Tuệ Sỹ vào đạo Tin Lành. Ông lại tới H, nói chuyện ăn chay trường vì lẽ công bằng của trời đất. Ông về nhà Hồ Hữu Thủ nói về dự định viết thơ lên những chiếc bình, những chiếc ấm, chén trà, nói chung là viết những bài thơ không tiền khoáng hậu lên đồ gốm. Và ở đâu, nếu cao hứng, hay vì mối thiện cảm với dân tộc Chiêm Thành hờn vong quốc, ông cũng nói về ngôi chùa tuyệt đẹp của ông thầy chùa người Chăm mà ông đã có dịp tới thăm từ lâu, hình như từ mùa hè năm…, cùng đi với một nữ tu người Tây Tạng.


Sài Gòn, 23-6-2004
[1]ông Sơn Núi gọi "con mụ" là "con mu".










Nhắc, nhớ vân vân...


Đọc lại một bài đã viết, nhan đề bài viết từ chiếc lư đồng mắt cua của nhà văn tiền chiến Nguyễn Tuân. Liền sau, lại đọc vẩn vơ một cuốn sách đã đọc không vẩn vơ, rồi nổi hứng viết lại bài của chính mình đã viết. Thoạt đầu chả hiểu tại sao nổi hứng như vậy. Sau đó biết ngay, nổi hứng như vậy, vì ưa trích vào bài viết lại đoạn viết này, ở cuốn sách đọc lại một cách vẩn vơ: Nguyễn Tuân, ngày xưa, đã bao nhiêu lần đòi giết cố nhân mà có giết được đâu? Mãi đến già, sau mấy chục năm theo Đảng và bao nhiêu lần “cải tạo tư tưởng”, ông vẫn cứ là ông. Cái chàng Nguyễn tài hoa và kiêu bạc thuở nào vẫn cứ lấp ló đâu đó sau từng trang viết của ông. (Nguyễn Hưng Quốc, Thơ Con Cóc và những vấn đề khác).

Mấy ngày người dân cả nước được nghỉ lễ: ngày giỗ tổ Hùng Vương (mùng 8 tháng 3 Âm lịch), ngày Quốc tế lao động 1-5, và dĩ nhiên, ngày kỷ niệm 32 năm “giải phóng” của nhà nước cộng sản. Dịp này bạn bè chúng tôi nhàn đàm về Sài Gòn sau “giải phóng”. Nhiều điều để nói, mà điều này chúng tôi bảo rất nên nói tới: tên gọi của thành phố chúng ta. Mà hình như đã nhiều người nói tới rồi: tên khai sinh của thành phố đã được gần 300 tuổi, tính tới 30-4-1975, đã bị nhà nước áp đặt tên gọi khác, là thành phố mang tên “bác”! Tuy nhiên, hiển nhiên người dân ngày càng chỉ cần biết và chỉ gọi tên khai sinh của thành phố. Sài Gòn ngày càng xác định tên mình là Sài Gòn. Và nhiều lắm, ý chí quyết tâm lắm, nhà nước cũng chỉ được xem cái tên mình áp đặt là tên gọi hành chánh, tên gọi trên giấy tờ nhà nước cấp phát cho dân. Có bạn nói: nhà nước này thật tức cười, mang tên “Việt Nam đẹp nhất có tên...” để đặt cho “thành phố mông muội” “thành phố tàn dư của Mỹ Ngụy”. Nếu “bác” mà biết, chắc “bác” không thể nằm yên trong lăng tẩm mà các con cháu “bác” đã đặt định, xây dựng cho mình.

Chúng tôi đang nhàn đàm như vậy, điện thoại di động của tôi reo. “Anh ơi, chiều hôm qua em kiểm soát kho đồ cổ của em, tìm thấy chiếc lư đồng mắt cua. Em để dành tặng anh đấy.” Điện thoại của người em bà con bên vợ tôi, anh ta buôn bán đồ cổ ở đường Lê Công Kiều. Đường Lê Công Kiều là con đường nhỏ, chạy dài suốt phía ngang hông Bệnh Viện Sài Gòn. Gần như hầu hết các nhà phố ở đường Lê Công kiều buôn bán đồ cổ, bao gồm đồ cổ thứ thiệt và đồ giả cổ, đồ cổ dỏm. Và phần lớn sở hữu chủ của các gian hàng buôn bán đồ cổ như vậy, là những người miền Bắc “có máu mặt”, vào Sài Gòn sau “giải phóng”. Gian hàng buôn bán đồ cổ của người em bà con bên vợ tôi rất khiêm nhường bên cạnh những gian hàng của những người miền Bắc ấy. Mà người Sài Gòn có một gian hàng như vậy sau khi “Sài Gòn giải phóng” cũng là đỡ lắm rồi, cũng là người Sài Gòn “có máu mặt”.

Tôi mừng rỡ vì món quà tặng của người thân, buôn bán đồ cổ. Chiếc lư đồng mắt cua có lẽ chỉ có giá trị với những người như tôi, những người biết nó gắn liền với một tác phẩm của một nhà văn tài danh thời tiền chiến: Chiếc lư đồng mắt cua của Nguyễn Tuân. Chính Nguyễn Tuân cũng chỉ quý chiếc lư đồng mắt cua, vì nó là “người làm chứng đứng đắn” cho một quãng thời gian phóng túng hình hài của ông ở nhà hát ả đào của ông Thông Phu - qua lời một người bạn của Nguyễn Tuân - là một nhà nho rất hay, biết rất nhiều điều bí ẩn kỳ quái trong suốt một khoảng giao thời. Nhà văn quý chiếc lư đồng mắt cua lại cũng không chỉ vì nó là “người làm chứng đứng đắn” cho một quãng thời gian phóng túng hình hài của ông, mà còn ở chỗ, ông Thông Phu cho biết nó từng có một lịch sử bí mật, y như chuyện “Gương vỡ lại lành” trong tích cũ.

Chiếc lư đồng mắt cua không phải là một cuốn phóng sự về nhà hát ả đào, cũng không phải là cuốn nhật ký, mà là một tác phẩm tuỳ bút về tâm trạng tác giả (Nguyễn Tuân) trong những ngày sống ở nhà hát ả đào của ông Thông Phu, một ông “Trước khi đứng làm chủ nhà hát ông Thông Phu là một người có danh phận lương thiện của một xã hội trưởng giả trung lưu đương thời của chúng ta. Ông cũng là một người viên chức chính ngạch nhà nước, ở một cái tỉnh nhỏ Trung Kỳ, cách đây hai chục năm, khi mà người ta làm việc ở toà Sứ, với một cái chức thông ngôn có chất máu giang hồ tài tử ấy ở trong huyết quản đã là một người thiếu lương tâm nhà nghề đối với phận sự nơi buồng giấy.” (Nguyễn Tuân, Chiếc lư đồng mắt cua).

Chiếc lư đồng mắt cua mà ông Thông Phu tặng Nguyễn Tuân, như lời ông viết trong tác phẩm cùng tên, cũng giống như “Để nhớ lại một chuyến đi, Nguyễn (Nguyễn Tuân) đặt tên con gái là Hương Cảng” (Tuỳ bút Mơ Hương Cảng, của Vũ Khắc Khoan.)

Nhà văn, kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, định cư ở Hoa Kỳ, đã mất, trong tuỳ bút Mơ Hương Cảng, đã viết về Nguyễn Tuân: “...Nguyễn có một cuộc sống ồ ạt, một cá tính rất sắc cạnh và tất nhiên rất quyến rũ. Không những thế Nguyễn lại viết. Nghĩa là lấy ngay cái ồ ạt của cuộc sống bừa bãi của mình làm đối tượng cho sự suy nghĩ để rồi, từng chữ, từng câu... giải rộng và dài những cơn tâm sự lên trên giấy trắng. Cũng vì thế mà ảnh hưởng của Nguyễn đã in hằn lên nhiều người chung quanh. Ở đây, thỉnh thoảng những người quen Nguyễn thường vẫn gặp lại, ngùi ngùi nhận ra đây đó một vài cử chỉ, một vài lối nói, nét cười, cách viết của một con người không những đã sống để viết, nhưng lại luôn luôn rất băn khoăn về cuộc sống và ý nghĩa của việt cầm bút...”

Chiếc lư đồng mắt cua mà người em bà con bên vợ tôi vừa tặng tôi, theo nhận xét của anh ta, được chế tác vào khoảng thời gian các vị vua đầu nhà Nguyễn, dùng để đốt trầm. Hiện nay, một số rất ít các “mệ” ở xứ Thần Kinh (Huế) còn lưu giữ. Tôi đọc lại tác phẩm tuỳ bút Chiếc lư đồng mắt cua của Nguyễn Tuân, qua những dòng chữ mô tả chiếc lư đồng mắt cua của ông Thông Phu tặng nhà văn, rất giống chiếc lư đồng mắt cua tôi đang có: “...một chiếc lư đồng. Đồng mắt cua. Nhỏ thôi. Đường kính rộng nhất nơi thân lư cũng chỉ bằng cái đường kính mặt tẩu Vân Nam da đá... chiếc lư đồng mắt cua nhỏ bé ấy giá có đem phát mại đi, gặp những người ưa chuộng thì hời giá lắm cũng chỉ được vài đồng bạc là cùng.” Nhà văn Nguyễn Tuân trân quý giữ nó, như đã nói ở trên, lúc ấy nhà văn để chiếc lư đồng mắt cua trên bàn viết, đựng kim găm và dùng luôn làm vật chặn giấy cho gió khỏi lật ngửa những trang chữ ướt. Tôi dùng chiếc lư đồng mắt cua vừa được tặng mấy hôm nay, đựng tàn thuốc lá cho gió khỏi thổi tàn bay rải ra ngoài. Chiếc lư nhỏ đựng tàn thuốc lá rất tiện, tôi xách nó theo bên mình mỗi khi di chuyển chỗ ngồi hút thuốc, nó có hai quai xách cũng bằng đồng mắt cua, như quai xách của chiếc ấm tích pha trà.

Ngắm nghía chiếc lư đồng mắt cua, tôi chợt tiếc đã không hỏi Nguyễn Tuân, rằng nhà văn còn giữ chiếc lư đồng mắt cua do ông Thông Phu tặng thuở xưa? Vài tháng sau 30-4-1975, tôi gặp nhà văn Nguyễn Tuân trong một bữa uống rượu ở quán cà phê Tùng, Đà Lạt. Lần đó, ông Tùng, chủ quán, đã mất vài năm nay, trân trọng mời nhà văn Nguyễn Tuân uống rượu. Ông Tùng mang chai rượu Courvoisier mà ông cố giữ lại sau “giải phóng”, dành để mời nhà văn tài danh mà ông nghe tiếng, quý trọng từ lâu. Đó cũng là dịp may của tôi, được gặp tác giả Vang Bóng Một Thời, Chùa Đàn, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua... Tôi không thể nhớ rõ sau ba mươi hai năm, tôi đã nói, hỏi được chuyện gì nhà văn tài danh độc đáo ấy, nhưng nhớ mãi câu ông hỏi tôi, thật lạ lùng để hôm nay nhớ lại: “Cậu có bà con họ hàng gì với ông Vũ Khắc Khoan hay không? Nom cậu khá giống ông ấy.”

Tôi tiếc vì nhớ lần duy nhất gặp nhà văn Nguyễn Tuân, tôi chưa từng hỏi về chiếc lư đồng mắt cua của ông. Nếu ông còn giữ được lúc còn sống, thì cũng không lấy gì làm chắc chắn rằng sau khi ông mất, đã nhiều năm, nó không có cuộc phiêu lưu nào. Biết đâu nó chính là hiện thân chiếc lư đồng mắt cua tôi đang giữ. Dù sao, ít nhất, nó cũng được ra đời cùng anh em nó, chiếc lư đồng mắt cua của nhà văn vang bóng một thời.








Thuở Vi Diệu ngắn ngủi


Ngay sau Sài Gòn Giải Phóng (giải phóng cái gì?) tôi lấy vợ, cô Lệ, em cô Hạnh, bạn gái vớ vẩn của tôi. Trước lúc “được giải phóng”, là những ngày Sài Gòn hoảng loạn, sôi sục chuyện ở, đi. Nhà thơ Tô Thùy Yên, trong quân đội là thiếu tá trưởng phòng văn nghệ, cục tâm lý chiến, “sếp” của tôi. Ông nói ngang tàng, phẫn nộ: “Việt cộng mà nó chiếm được Sài Gòn, tôi thà đi công trường chớ không tháo chạy như lũ hèn hạ.” Tôi, thành thật như một nhà thơ: “Tôi cũng ở lại, nhưng tôi không sống ở Sài Gòn. Tôi đi vào rừng.” Tôi đi vào rừng thật, lên Đơn Dương, vào rừng Tutr’a. Tôi từng biết vùng rừng này, quen một người bỏ Đà Lạt vào sống tại buôn Thượng. Buổi chiều, trên thềm tối của căn nhà người quen ấy, tôi ấp úng, nói cà lăm, trả lời mấy ông giải phóng về lý lịch nhân thân. Ngay sáng hôm sau, tôi trở lại Sài Gòn. Chính thời gian này, đã cho phép tôi ghi vào tiểu sử in ở bìa gấp của một tập truyện ngắn làm nhiều nghề mưu sinh, kể sơ thì có nghề phụ hồ, nhổ hàng trăm cây cọc sắt, hàng rào của một trại lính cũ, chạy dọc dài con đường Cường Để thơ mộng tới bờ sông Sài Gòn. Con đường chẳng thể ghi dấu những buổi đi dạo với Hạnh. Tôi còn nhớ như mới hôm nào, tiếng cười rúc rích chuột kêu của cô nữ sinh Gia Long bên vai anh chàng vận đồ nhà binh, quân nhu phát sao mặc vậy. Hạnh du học tự túc bên Nhật, trước Sài Gòn Giải Phóng vài năm.

Chính Hạnh ngạc nhiên khi biết tin tôi thành hôn với Lệ. Hòa thì bực giận. Hòa là em Lệ.

Trước ngày đám cưới, người mẹ của ba cô gái nói với cô dâu: “Sao con lại lấy cái thằng lăng nhăng ấy?” Bà biết tôi từng là bạn trai của Hạnh, sau đó hay gặp Hòa. Rồi lấy Lệ.

Từ Paris, Hạnh lúc đó ở Paris, gửi quà về gia đình khốn khổ ở Sài Gòn Giải Phóng. Tôi nhận được cái đồng hồ đeo tay loại rẻ tiền, vỏ xi vàng như hàng mã, và một lá thư có những lời khuyên nhủ đáng giá: em phải sống thực tế, không thể mơ mộng như trước nữa, vân vân... Tôi không viết trong thư phúc đáp, mơ mộng mẹ gì được nữa, mấy ông Việt cộng giải phóng hết mẹ cả rồi. Tôi viết: dù tôi lấy em hay lấy con của Hạnh, cô cựu nữ sinh Gia Long cũng đừng ra giọng bà chị, bà mẹ.

Lệ ra trường sư phạm vào năm Sài Gòn Giải Phóng, dạy học ở Thủ Thiêm, được cấp nhà trong cư xá công nhân viên. Giáo viên của nhà nước cách mạng, năm nào cũng học tập bồi dưỡng chính trị. Cô giáo Lệ học tập trung ở Thủ Đức. Đợt bồi dưỡng chính trị năm 1983, tôi không biết làm gì cho hết một ngày trống rỗng thất nghiệp, đi xe đạp từ Thủ Thiêm lên Thủ Đức, định cùng về khi cô giáo Lệ hết giờ học. Hóa ra Lệ gửi xe đạp ở nhà người quen tại Thủ Thiêm, lên xe gắn máy Honda người bạn trai chở đi học, và tất nhiên sẽ chở về. Người bạn trai này là đồng nghiệp buôn bán “chợ trời” với người mẹ của Lệ.

Tôi chẳng nhớ lúc ấy tâm trạng mình ra sao, đạp xe trên những con đường thị trấn. Tới nhà ga, quẹo vào. Quẹo xe, liền nhớ một câu thơ Viên Linh: À xe ta quẹo lối này. Vào nhà ga, tức thời nhớ hai câu thơ Bùi Giáng: Môi cười ở cuối sân ga / Phố là cố quận nay là tiễn nhau. Thi ca thần diệu thật, tôi chẳng còn nhớ gì cô giáo và anh chàng chợ trời. Tôi nghe tiếng hét, ông Bùi Giáng kêu tên tôi: Dã quỳ đại ca! Ông Bùi Giáng xách bị tới nhà ga Thủ Đức. Ông Bùi Giáng lúc nào cũng mang theo cái bị, nó là cái bao tải bẩn thỉu, tôi chưa từng hỏi ông đựng những gì trong đó, ông cũng chưa từng tiết lộ mình đựng những gì trong đó. Có một lần tôi biết trong cái bao tải có chó con, không biết là mấy con, nghe tiếng chúng kêu, rên ầm ỹ. Tôi hỏi ông, có mấy con trong cái bao, ông nói quên chưa đếm, cũng may sau đó ông không trút ra để đếm.

Lần này ông Bùi Giáng tiết lộ: “Có một bao thuốc lá Điện Biên trong bị đây, đại ca cùng trẫm gạ bán lại cho hàng thuốc lá nào đó, lấy tiền uống rượu.”

Ông Bùi Giáng đi bộ, vai mang cái bị. Tôi cũng đi bộ, tay dắt cái xe đạp, nó cũ kỹ xộc xệch, không chở đôi được. Chúng tôi đi mời chào gạ bán bao thuốc lá Điện Biên cùng khắp dọc đường từ Thủ Đức về Bình Triệu chẳng ai mua. Ông Bùi Giáng bảo: “Đại ca chớ buồn, mà phải vui. Không ai mua thuốc lá Điện Biên, vì đây là thuốc lá Việt cộng, dân chúng tẩy chay thuốc lá Việt cộng.” Ông Bùi Giáng cùng ngồi xuống với tôi, trên lề đường, phía ngoài nhà ga Bình Triệu, chắc hẳn đôi chân ông cũng rã mỏi như đôi chân tôi. Ấy tuy nhiên, sau lưng hai người là một nhà ga, cuối sân ga có nụ cười.


*

Sau đó tôi chỉ liên hệ với Lệ, làm thủ tục ly dị. Sau đó nữa, tôi gặp Vi Diệu, trong một hiệu sách quốc doanh gọi là Hiệu Sách Nhân Dân. Tôi vào đó để mua bộ sách Lê-nin toàn tập, gồm mấy chục cuốn, giấy trắng mịn mỏng như giấy sách Kinh Thánh, những người mua giấy cân kí trả giá rất cao, gấp nhiều chục lần giá mua từ hiệu sách nhân dân. Với tiền bán bộ sách này, tôi có thể chi tiêu rộng rãi cả tháng, nên tôi cố mua cho bằng được. Những người phụ trách bán sách ở các hiệu sách nhân dân tại Sài Gòn đều biết vụ việc đó, nên họ chỉ bán cho những ai có giấy giới thiệu của ngành văn hóa thông tin. Cái giấy quý giá này, thỉnh thoảng tôi mới xoay xở được.

Tôi vào Hiệu Sách Nhân Dân ở con phố gần nhà, nhà của cha mẹ, tôi về lại đây sau khi chia tay Lệ, xem còn bộ sách Lê-nin toàn tập nào không. Nếu còn, tôi sẽ đi xoay xở giấy giới thiệu. Cô gái đứng sau quầy thu hút tôi ngay lập tức. Cô hơi cúi đầu xuống, đọc sách gì đấy, tóc thả hai bên khuôn mặt thanh tú trong trẻo. Dáng người thanh mảnh càng thêm vẻ rét mướt cao nguyên, cô gái thu mình thêm cho sự tập trung đọc sách. Thay vì hỏi về bộ sách Lê-nin toàn tập, tôi hỏi cô đang đọc cuốn sách gì. Cô gái mỉm cười, nâng cuốn sách cho tôi thấy bìa sách: Ngàn Thu Rớt Hột. Tôi bắt chuyện dễ dàng, nói về Bùi Giáng, cả về thơ lẫn về người. Tất nhiên sau đó tôi biết tên cô gái, Nguyễn Thị Xuân Diệu. “Chắc ba hay má cô thích thơ Xuân Diệu?” Cô gái lại mỉm cười, nói: “Có lẽ ba tôi chỉ thích cái tên đó, đặt tên cho tôi, trùng tên nhà thơ Xuân Diệu mà thôi.” “Còn cô có thích thơ Xuân Diệu?” Cô gái cười thành tiếng nhỏ, răng thật đẹp, có một chiếc răng khểnh, “Có lẽ tôi thích thơ Xuân Diệu nhiều hơn vì cái tên chứ không phải vì thơ Xuân Diệu.”

Tôi nhìn xuống mặt quầy, một bàn tay cô gái úp trên trang sách, những đường gân xanh hiện rõ. Tôi hỏi cô đọc thơ Bùi Giáng nhiều không, cô nói: “Tôi đọc thơ Bùi Giáng từ hồi học ở Đại học Vạn Hạnh. Hồi đó vẫn thường thấy ông Bùi Giáng với cái bị.” Tôi kể chuyện ông Bùi Giáng gạ bán bao thuốc lá Điện Biên để lấy tiền uống rượu, cô gái hỏi: “Thế anh cũng không có tiền à?” “Thỉnh thoảng cũng có. Chẳng hạn khi nào có giấy giới thiệu mua Lê-nin toàn tập.” Cô gái nhìn tôi, cái nhìn lo lắng, “Bây giờ anh có giấy giới thiệu không?” Tôi lắc đầu, nói: “Khó là cái giấy giới thiệu.” Cô gái nghĩ ngợi một chút, nói: “Thế anh có tiền lấy bộ sách này không?” “Chẳng lẽ lại không có!” Cô gái bán cho tôi bộ sách Lê-nin toàn tậpkhông cần giấy giới thiệu.

Tôi lại gặp ông Bùi Giáng, dĩ nhiên lại gặp cả cái bị, ở khu vực Viện Hóa Đạo cũ, một vài ngày sau khi tôi có tiền rủng rỉnh vì Lê-nin toàn tập. Ông vận chiếc áo khoác rất đẹp, ông nói của Công Thế Cường ở Mỹ về tặng. Tôi biết Công Thế Cường, một chàng rất đẹp trai, làm ở ngành ngoại giao thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nghĩa là một chàng bảnh bao trăm phần trăm, chiếc áo khoác chàng tặng nhà thơ đẹp như xứ sở Hoa Kỳ.

Ông Bùi Giáng nhìn tôi, ánh mắt sáng lên một vẻ điên dại, “Chớ nhà ngươi tưởng ta vận áo đẹp khơi khơi như vầy hả? Đi với ta, tới gặp một trang quốc sắc.”

Ông dẫn tôi tới con phố nhỏ hẹp, đường Trần Văn Văn cũ, dừng lại trước một căn nhà nhỏ, cửa sắt đang đóng. Ông đặt cái bị xuống, mở cửa sắt, tiếng kêu rít vang lên, ông đứng giữa chỗ trống, ngang tàng như một hiệp sĩ thời Trung Cổ.

Cô gái đẹp, tôi cho rằng chỉ có khuyết điểm là vẻ mũm mĩm, và một vẻ tươi thắm quá tràn đầy, ông Bùi Giáng giới thiệu cô gái là Người Đẹp Hồng Ngự. Tôi liền nhớ tới (Nguyễn Thị) Xuân Diệu, quyết định sẽ dẫn ông Bùi Giáng tới, ngay sau khi rời nhà người đẹp Hồng Ngự.

(Nguyễn Thị) Xuân Diệu bối rối khi gặp nhà thơ Bùi Giáng bằng xương bằng thịt. Ông Bùi Giáng hỏi chuyện giọng oang oang, cô gái trả lời lí nhí trong cổ họng. nhà thơ xé bao thuốc lá, lấy miếng giấy bạc bên trong, viết hai dòng thơ tặng: Gọi là Vi Diệu cô nương / Mùa Xuân hương sắc xin nhường cả hai.

Những ngày sau đó tôi tới thường xuyên, gần như ngày nào cũng tới Hiệu Sách Nhân Dân, không phải để rình mua bộ sách Lê-nin toàn tập, mà chỉ để gặp Vi Diệu, bởi từ lúc này, như thơ ông Bùi Giáng viết tặng cô (Nguyễn Thị) Xuân Diệu, cô là Vi Diệu của đời tôi. Cô luôn đứng sau quầy, tôi đứng trước quầy, một khoảng cách quá thân mật cho hai người đối diện thì thầm. Ấy tuy nhiên, dù đã thân thiết, dù tôi rất muốn nắm bàn tay gầy guộc nổi gân xanh của Vi Diệu, vẫn chưa một lần tôi chạm tới. Có một lần, chợt nhìn thấy một bàn chân của Vi Diệu phía dưới quầy, tôi thầm cảm ơn cái quầy hổng, không che kín sát đất, bàn chân ấy đặt trên chiếc hài, tôi rút chân tôi ra khỏi giày, đặt bàn chân ấy lên chân Vi Diệu. Cô vội rút chân ra khỏi chân tôi, im lặng một lúc, hỏi tôi: “Anh có đọc truyện Mối Tình Chân của Nhất Linh rồi chứ?”

Một ngày sau đó không lâu, tôi không muốn nhớ: Vi Diệu cho tôi biết, cô đã đính hôn. Anh Phan Đình Mỹ Kim, và tôi được ai đấy cho biết, anh Kim sắp đi Mỹ, diện HO, bởi là con của ông tướng Lam Sơn - Phan Đình Thứ. Tôi chưa hề biết, gặp anh Kim, nhưng người cha của anh thì không riêng tôi, một triệu người lính Việt Nam Cộng Hòa biết ông. Nhiều người bảo ông có đeo trước ngực cái bùa hay cái răng nanh của heo rừng gì đó, mũi tên hòn đạn của đối phương thấy là phải né. Cái ông thượng sĩ cắc ké, có vợ đẹp, vợ được ông tướng Lam Sơn chiếu cố. Ông thượng sĩ nổi khùng, xách súng tìm ông tướng, liền nhận lãnh viên đạn của ông tướng bắn chết tươi, ông thượng sĩ không kịp giương khẩu súng phẫn nộ của kẻ mọc sừng. Tôi từng thương xót bụi tre vàng sọc xanh rất đẹp, trong khuôn viên tư dinh của tướng Lam Sơn. Ông mỗi ngày mỗi ra lệnh cho lính di chuyển bụi tre hết chỗ này tới chỗ kia, tới khi bụi tre quá mỏi chân tức mình mà chết. Mới đây, nghĩa là sau khi Vi Diệu cùng chồng sang định cư ở Mỹ trên mười mấy năm trời rồi, tôi lại biết thêm về ông tướng nổi danh tai tiếng. Hóa ra một người tôi quen thân từ mười mấy năm trời, nghĩa là từ thuở Vi Diệu ngắn ngủi của tôi, một ông kỹ sư vi tính từ Hà Nội vào, ông ta là anh em con cô cậu với tướng Lam Sơn. Ông ta bảo, vì sao đó thì ông ta không biết, người anh con cô của ông ta, viên chính ủy cao cấp Việt cộng, lại trở thành viên tướng của quân đội quốc gia, thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng ông ta biết rõ, vì sau Giải Phóng “ông anh tôi có nhờ cậu, là bố tôi, can thiệp giúp, nói với mấy ông cán bộ cao cấp ở miền Nam đừng cho truy tìm bắt tội, họ hiểu lầm đấy thôi, ông anh tôi không hề chỉ điểm cho ngụy quân ngụy quyền bắt giữ một người cán bộ cách mạng nào sất!”

Trước ngày thành hôn với con ông tướng Lam Sơn, Vi Diệu nói trả lại những gì tôi đã viết gửi cô, chỉ giữ lại miếng giấy bạc trong bao thuốc lá của ông Bùi Giáng. Tất nhiên tôi chẳng cầm lại những thứ ấy làm quái gì, tôi nói Vi Diệu muốn liệng đi đâu thì liệng. Vi Diệu nói: “Tôi không thể liệng đi được. Anh không chịu nhận lại, muốn tôi đốt thành tro rồi uống phải không?”

Tôi nói tất nhiên tôi không hề muốn như vậy, tôi chẳng muốn cái gì cả. Muốn như vậy cũng chẳng được, mà có được cũng chẳng để làm gì.

Bây giờ Vi Diệu ở Hoa Kỳ, rất có thể cô đọc báo mạng Tiền Vệ, nghĩa là cô có thể đọc những gì tôi viết ở đây. Anh Phan Đình Mỹ Kim cũng có thể đọc. Nếu thấy chi tiết nào làm anh Kim khó chịu, Vi Diệu hãy nói giùm tôi: Đây là văn truyện của một anh chàng tên là Nguyễn Đạt, muôn đời ở Việt Nam, bạn của cái ông nhà thơ điên Bùi Giáng ấy mà! Mấy ông ấy điên khùng lắm, có gì mà phải chú ý, để tâm...







Quán nửa khuya 


Hóa ra người đàn ông cao gầy mang kính trắng bước sang đường là người bạn cũ, tôi đang đợi anh tại quán cóc của Kỳ, ở một góc phố vùng Tân Định. Người bạn cũ chẳng giống như tôi hình dung, chúng tôi không gặp nhau đã trên ba mươi năm. Chậm rãi chào hỏi, bắt tay nhau. Tôi không nhớ ngày trước anh có vồn vã khi lâu ngày gặp bạn, bây giờ thì chậm rãi, hơi uể oải, giống sự lãnh đạm. Anh nói cũng chậm rãi, nhỏ giọng. Và anh nói chỉ là trả lời những gì tôi thăm hỏi. Buổi gặp lại của hai người bạn sau mấy chục năm xa cách không đến nỗi nhạt nhẽo, nhưng không đằm thắm.

Sau buổi gặp, cảm tình của tôi đối với anh tăng gấp đôi, dĩ nhiên không chính xác cân đong đo đếm như vậy. Cái nhìn của tôi về anh thay đổi, chuyển vị hẳn người bạn cũ, trong mường tượng của tôi chỉ là một anh chàng đẹp trai và dễ mến mà thôi. Anh hiểu biết, có thể gọi là trí thức, dĩ nhiên trí thức không nhất thiết là người có học thức cao rộng. Bạn học cũ, tôi biết rõ anh học tới đâu trước khi di tản sang Mỹ. Từ đó tới nay đã trên ba mươi năm, anh có thể đã là người học thức cao rộng, dĩ nhiên điều đó chẳng quan trọng. 

Nhưng nếu anh không có gì thay đổi, vẫn là người bạn cũ như tôi mường tượng... Dĩ nhiên người bạn cũ cộng thêm trên ba mươi năm cuộc sống bên Mỹ, tôi không thể mường tượng cho ra được. Dù sao tôi vẫn mường tượng, hơn nữa, tôi thường được nghe tin tức về anh. Tôi đã mường tượng, nghĩa là anh chàng đẹp trai bạn tôi có cuộc đời ái tình hôn nhân gay cấn... Tôi chẳng quan tâm những chuyện ái tình hôn nhân của ai để làm gì, nhưng anh là người bạn cũ vừa đẹp trai vừa dễ mến. Tin tức chủ yếu về anh cũng lại là chuyện đó. Tôi thấy chuyện đó có phần ngộ nghĩnh, đã trở thành một chi tiết trong một truyện ngắn của tôi, đăng tải trên báo mạng Tiền Vệ. Nhân vật chính trong truyện ngắn đó là ông Sơn Núi, một nhà thơ.

Đêm mưa, ở lại nhà Nguyễn Thiên Chương, ông Sơn Núi và tôi ngủ trên sàn nhà. Không nghe ông Sơn Núi ngỏ lời lên ngủ trên gác, còn tôi rất sợ tiếng mưa trên mái tôn, nó là một cuộc tra tấn, khủng bố khủng khiếp. Ông Sơn Núi dậy rất sớm, lúc hai giờ sáng, đánh thức tôi bằng câu hỏi: “Này, ông là bạn lão B.X.H. hả?” “Ừ, bạn học cũ thời trung học đệ nhất cấp. Mà sao ông biết?” “Biết chứ! Lão ấy lấy con mu (ông Sơn Núi gọi mụ là mu) vợ cũ của ông Tướng Râu Kẽm. Hồi con mu này còn nhỏ, tôi dạy kèm Anh ngữ ở nhà con mu tại Nha Trang.” “Đúng, bạn tôi đã từng lấy cô ta, nhưng nay họ lại bỏ nhau rồi.”(Sau đó họ lại Châu-Về-Hiệp-Phố, như tôi vừa biết khi gặp lại bạn cũ.) Ông Sơn Núi lại nhắc câu hỏi về người bạn học cũ của tôi, rằng lão ấy ra sao. Tôi nói: “B.X.H. rất đẹp trai. Vẻ đẹp của Marlon Brando cộng với Kennedy.” Ông Sơn Núi cười thích thú một chập: “Cộng với c. lõ nữa chứ!”

Lúc viết ra chi tiết này, tôi nhớ lại như chuyện mới hôm qua: hai cậu học trò ngồi cạnh nhau cùng các bạn học, tập trung tại sân trường để nghe ông Tướng Râu Kẽm nói chuyện về binh chủng không quân của quân đội Sài Gòn. B.X.H. chăm chú nhìn ngó ông tướng, vẻ rất ngưỡng mộ, nói nhỏ với tôi: “Sau này tớ mong được vào không quân, chỉ xách cặp táp -nghĩa là làm tà lọt- cho ông Tướng Râu Kẽm là khoái rồi...” Sau này ở bên Mỹ, anh kết hôn với ‘con mu’ -lúc này đã ly dị ông Tướng Râu Kẽm- từng học tiếng Anh thầy Sơn Núi dạy kèm tại tư gia. Tôi thấy có phần ngộ nghĩnh lúc nghe tin đó, dĩ nhiên có phần ngộ nghĩnh không hẳn là ngộ nghĩnh. Có phần ngộ nghĩnh, nghĩa là trong đó có sự tréo ngoe, có cái gì đó giống như cú lộn mèo. Tôi ghi lại nguyên văn lời ông Sơn Núi nghĩa là tôi đồng tình với lối nói của vị gia sư về người học trò . Thú thật tôi không thiện cảm với người đàn bà của anh. Những gì tôi biết, thì người đàn bà này là một con buôn với cái vốn liếng có sẵn. Về Sài Gòn lần này cùng bà ta, anh cho biết, chỉ là về cùng một chuyến, mở quán phở tại Sài Gòn là chuyện của bà ta. Nhiều người ở Sài Gòn đã biết tin bà ta sẽ mở quán hàng phở, như số đông Việt kiều đã về Sài Gòn mở công ty, làm ăn này nọ.

Anh không nói gì về chuyện này, hiển nhiên không phải chuyện của anh, như anh đã xác định. Anh gửi Kỳ và tôi thiệp mời dự buổi khai trương quán phở, do Kỳ nói với anh rằng có đọc tin trên báo mạng về cái vụ mở quán. Tôi nghĩ anh ở trong tình trạng chẳng-đặng-đừng, vì lịch sự, khi đưa thiệp mời cho Kỳ và tôi. 


*

Buổi đầu tiên gặp lại người bạn cũ, như tôi đã nói, B.X.H. chỉ trả lời những gì tôi thăm hỏi. Có thể anh không chủ ý kiệm lời, có thể anh đã trở nên người trầm lặng. Anh còn nói gì được khi tôi hào hứng quá, hỏi anh hết chuyện này tới chuyện khác. Thật ra, anh tự ý cho tôi biết tin tức về những bạn học cũ hiện nay làm gì, ở đâu, vân vân. Thay vì nói X và Y ở cùng một thành phố, anh nói: “X và Y ở cùng một tỉnh.” Cái từ Tỉnh nghe rất Sài Gòn, Việt Nam. Tôi không nhớ được nhiều bạn học cũ mà anh nhắc. Tôi xa họ sau khi tôi rời trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, chuyển sang học trường Chu Văn An. Anh thì học tiếp ở trường Hồ Ngọc Cẩn hai năm nữa, và nghỉ học sau khi thi rớt tú-tài-phần-một.

Tôi ngạc nhiên khi anh tới nhà tìm tôi. “Biết bạn ở đây thì mấy lần về trước tôi đã ghé nhà bạn rồi. Về Sài Gòn lần nào tôi cũng đi qua con phố này... Bạn biết cái ‘quán nửa khuya’ ở đường Minh Phụng đấy chứ ?...” Tôi không hề biết cái quán nào ngoài cái quán cóc của Kỳ ở vùng Tân Định, và vài cái quán ở khu vực nhà thờ mang tên Jeanne d’Arc, gần Ngã Sáu vùng Chợ Lớn. Ngày ngày tháng tháng, tôi ngồi cả buổi ở một trong vài cái quán đó, ngó tới ngó lui ngôi trường Chu Văn An, sau bao biến thiên vẫn mang tên trường Chu Văn An, nhưng không phải là trường trung học Chu Văn An như thuở trước, nghĩa là ngôi trường ghi dấu ấn sâu đậm nhất trong quãng đời đi học của tôi. Đấy là một thời diễm ảo đã mất, dĩ nhiên như vậy. Và dĩ nhiên như vậy tôi còn một-chút-gì-để-nhớ... Và tìm-lại-thời-gian-đã-mất từ ngôi trường vẫn sờ sờ trước mắt, trong một buổi sáng ngồi quán cóc ở khu vực nhà thờ nữ thánh huyền thoại của Pháp quốc...

Quán nửa khuya đèn mờ như sương khói...

Đèn mờ dễ chịu cho cơn ngái ngủ, cho tiếng hát sương khói hòa trộn không gian. Những chùm hoa bằng lăng sáng rõ màu tím dịu dưới ánh đèn đường. Ba cô tiếp viên, bộ đồ bà ba hòa dịu đường nét thân thể nẩy lửa... Hóa ra B.X.H., từ chốn thiên đường xa tít mù như ảo vọng, trở về thành phố cũ ở quê nhà, dẫn bạn cũ tới một nơi tuyệt vời như không có thật. “Quán mở cửa suốt đêm đấy, bạn có thức khuya được không?... Thích uống bia thì uống bia, rượu Tây cũng có. Bia rượu ở đây có đủ thứ hết...” Bây giờ là dịp để tôi nói rằng tôi đang thoải mái dễ chịu nhường nào. Tôi nói đây là chỗ tuyệt vời có thật, chỗ lý tưởng cho một người đã hàng chục năm mất ngủ. “Từ mười mấy năm nay, tôi không thể ngủ được giấc ngủ bình thường như mọi người, không thể ngủ dù một giấc ngắn chừng một tiếng đồng hồ. Nhưng sức khỏe của tôi vẫn bình thường, rất bình thường là đằng khác. Duy có điều, là tôi luôn ở trong tình trạng ngái ngủ. Tôi thấy lời Trang Tử có phần thích hợp với tình trạng của tôi: Im lìm thức, ơ hờ ngủ...” Anh nói: “Tôi hiểu, đúng như vậy. Ông cậu của tôi, ông cậu là luật sư ấy, chắc bạn còn nhớ, bị mất ngủ suốt hai mươi năm, vẫn sống thọ tới tám mươi tuổi đấy.”

Một cô đi lướt ngang, một cô khác đứng tần ngần nơi bàn chúng tôi, tỏa đậm mùi nước hoa. Ở một bàn trong góc tối, hơi khuất ánh đèn mờ, một ông khách gầy guộc, mang kính trắng, ngó xuống ly nước, có lẽ là ly cà phê đá, mấy ngón tay ông ta gõ nhịp trên mặt bàn. “Quán này đàng hoàng, không phải quán bia ôm, cà phê ôm đâu...Ở Sài Gòn có cả quán thịt chó ôm, bạn biết không?...” “Ờ, tôi cũng chẳng ưa ôm ấp gì trong quán xá. Vào quán này để nghe nhạc xưa, nhất là được nghe nhạc boléro chẳng hạn, thật gợi cảm cho những nỗi mênh mông u hoài...” Anh gật đầu, những sợi tóc mềm ngắn nằm im nhẹ trên vầng trán phẳng rộng. Một lúc anh cúi đầu xuống: anh không còn giống tài tử điện ảnh Mỹ Marlon Brando cộng với tổng thống Hoa Kỳ hào hoa Kennedy nữa, tôi ngỡ mình đang ngồi chung bàn trong ‘quán nửa khuya’ ở đường Minh Phụng, với nhà văn Ái-nhĩ-lan James Joyce...

Con đường mang tên em, đèn khuya mắt đỏ còn đầy dấu xưa...

Bài hát nhắc tôi những ngày ở Huế mùa-hè-đỏ-lửa, bên đồng đội, những gã lính Đại Đội Hắc Báo bặm trợn mang vẻ tư lự u hoài trong một quán cà phê bên dòng sông Hương nửa đêm về sáng... “Hồi đó bạn có mối tình nào với một em nào của xứ Thần Kinh thơ mộng?... Ừ, tôi cũng ớn các em gái xứ Thần Kinh lắm, dính vào các em là tiêu đời... Ấy nhưng mà, bạn, một chàng biệt kích báo đen, thì cũng chả đến nỗi phải sợ các em đâu...”

Chuyện trò trong ‘quán nửa khuya’, tôi không ngờ B.X.H. quan tâm tới văn chương nghệ thuật, rất am hiểu, cảm nhận tinh tế nữa là đằng khác. Anh đọc hầu hết các tác giả văn xuôi văn vần Việt Nam đương đại cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài, dĩ nhiên như vậy là đã đọc ít nhiều thơ truyện của tôi. Nên tôi hồi hộp hỏi anh đã đọc truyện nào của tôi trên báo mạng Tiền Vệ, nói mơ hồ về cái truyện trong đó tôi có nhắc tới anh (dĩ nhiên tôi không nói tới ‘con mu’ gì hết.) “Truyện ấy hả? Tôi cũng đã đọc rồi... Nhân vật Sơn Núi có phải là nhà thơ Nguyễn Đức Sơn không?...” Nghe anh nói vậy, tôi yên lòng. Nghĩa là anh không quan tâm cái vụ ‘con mu’ gì hết, anh còn khen: “Bạn viết lạ lắm, khác hẳn những tác giả trước cũng như sau... Người đọc bạn sẽ hình dung bạn là còn rất trẻ. Giả dụ tôi không biết bạn, tôi cũng sẽ hình dung bạn như vậy. Và đọc bạn viết, thấy giống như đọc truyện của một nhà văn nước ngoài nào đó, bằng tiếng Việt...” 

*

Ông khách gầy guộc mang kính trắng bây giờ ngồi ngả người vào cô gái, hình như là cô lúc nãy đứng tần ngần ở chỗ bàn chúng tôi, mái tóc thả dài của cô bây giờ kéo hết sang bên ông khách. Điện thoại di động trong túi quần tôi reo. Tiếng nói của Kỳ: “Anh còn thức đấy chứ hả?... À mà anh bị chứng mất ngủ, đâu có ngủ nghê con cóc khô gì... Này anh, em đang say ngất ngư đây, anh B.X.H. mang ra quán bờ kè Tân Định một cặp Rémy Martin, mà chỉ có ba người thôi... Em có nói để kêu anh ra nhưng anh B.X.H. có vẻ không ưng. Hình như anh ấy giận anh cái gì đấy... Hình như về chuyện thơ văn gì đấy mà... Anh ấy bảo... anh ấy chê anh viết cái gì đấy, anh ấy bảo là anh bày đặt viết lách tào lao... Viết không ra cái đếch gì, không đáng xách dép cho những người bạn thân của anh ấy ở bên Mỹ, những nhà văn danh tiếng lẫy lừng như... như Nguyễn Đình Toàn, Du Tử Lê, Ngọc Hoài Phương gì gì đó nữa... em không nhớ hết nổi. Anh ấy vào trong toa-lét nãy giờ chưa ra... Dám có em nào đang níu kéo anh B.X.H. ở trong đó... Thôi nhé. Minh Bò con ông giáo sư âm nhạc Trần... xỉn gục tại chỗ từ lúc nãy. Em cũng say quá chừng rồi. Thôi anh ráng ngủ đi. Anh cứ nhắm mắt lại, đếm chậm chậm từ một tới mười tới một trăm tới một ngàn...”

Hóa ra tôi vào ‘quán nửa khuya’ có một mình. ‘Quán nửa khuya’ có mình tôi và ông khách gầy guộc mang kính trắng, và ba cô gái vận đồ bà ba nữa chứ. Tôi vẫy tay gọi cô gái đang ngồi cạnh cô gái gục đầu ngủ, tóc lòa xòa trên mặt bàn, bảo mang ra một chai rượu vang đỏ. “Có rượu vang Pháp, vang Tây Ban Nha, vang Chi-lê, vang Ác-hen-ti-na, anh hai uống thứ nào?” Tôi nói thứ nào cũng được, miễn là rượu vang. Giọng cô gái ngoan ngoãn, ngọt ngào: “Dạ!”

Lúc này, bài hát tôi ưa nghe trong những năm chinh chiến, càng ưa hơn từ thời gian tôi bị chứng mất ngủ, vang lên trong đêm khuya khoắt: Màn đêm dần tàn, tôi đến sân ga đưa tiễn người trai đi về ngàn...

Thật ra, bài hát nào tôi cũng ưa nghe, miễn là giai điệu boléro. Cũng chẳng cần đúng giai điệu boléro, miễn là từa tựa như vậy, cũng đủ dịu dàng êm ái dỗ giấc ngủ ơ hờ. /. 


Sài Gòn, tháng 11.2009







Một nơi mất tích


(Nhân vật xưng) tôi, hắn có thể trở lại căn nhà này vài ba lần hay vài ba chục lần nữa, ai mà biết được. Dù sao thì ngay lần này, lần mà tôi hiện diện ở đây, căn nhà đã không còn nữa. Tuy nhiên việc hình dung ra nó, căn nhà ấy, chẳng có gì khó khăn. Bởi vì căn nhà xoàng xĩnh tới nỗi chẳng có gì để hình dung, chẳng có gì hết. Một mái trú dột nát, bốn bề tường vách loang lổ, có một lỗ hổng, lũ chuột ra vào tìm kiếm thức ăn, chúng cư ngụ, hẳn thế, chúng sinh sản nữa, ở đâu đó trong bức tường.

Vài cái rương gỗ, một cái giường sắt nhà binh, vài quyển sách, một khung hình không có hình. Trên mặt một cái rương, tôi đặt bức thư đã xé mép phong bì, chặn trên bức thư bằng một cục đá cuội khá lớn. Bức thư ở đó chẳng nhắc nhở tôi gì hết, không chừng chỉ có cục đá cuội gây chú ý, bức thư chị Hợp mang tới giùm Hạnh. Tôi từng quen biết Hạnh, chị Hợp từng quen biết Hạnh.

Tôi quen cả hai người cùng lúc, chị Hợp và Thành, người chồng của chị. Một bạn học cũ chơi thân với Thành từ thuở nào, ngưỡng mộ Thành. Theo lời bạn học cũ nói về Thành, tôi cho rằng Thành còn tự ngưỡng mộ mình hơn cả sự ngưỡng mộ của bạn. Suốt thời trẻ, anh ta chỉ vận quần lót, đi lại, ngắm nhìn mình trong gương ở phòng khách mỗi ngày ít nhất nửa buổi.

Chị Hợp tới lúc tôi vừa thức dậy, không phải chị tới sớm, mà là tôi thức dậy quá muộn. Chị ngồi trên mép giường sắt nhà binh, trong nhà không có cái ghế nào, không có thứ gì để ngồi, ngoài cái giường tôi vừa ngủ dậy. Tôi đoán chị Hợp đã có con lớn tuổi, có thể đã lập gia đình rồi là đằng khác, sao chị ngồi rụt rè, ở mép giường? Tôi lấy nước mời chị uống, và tôi ngồi trên mặt rương gỗ, bên cạnh bức thư của Hạnh có một cục đá cuội khá lớn chặn giữ. Tôi hút thuốc và định nói gì đó chưa biết, chị Hợp nhìn chỗ bức thư có chặn trên đó một cục đá cuội khá lớn, “Anh đã gặp Hạnh rồi chứ?” Tôi lắc đầu. Tôi không tìm tới chỗ Hạnh ở làm gì, nơi mà Hạnh viết trong thư là đã rời khỏi. Chị Hợp không hỏi thêm lời nào, chị nhìn vu vơ các chỗ trong căn nhà. Cái nhìn lướt qua, trở lại, vẫn cái nhìn vu vơ, lướt qua lỗ hổng của lũ chuột. Tôi nói khi chị không nhìn vu vơ nữa, chị nhìn tôi, cái nhìn có sự ngạc nhiên trộn lẫn nỗi buồn nào đó, cái nhìn làm tôi hối hận về sự ơ hờ của tôi đối với bức thư chị mang tới tuần lễ trước, “Tôi tưởng chị biết Hạnh đã rời khỏi đây?”

Chị Hợp cúi đầu, hai tay giữa hai chân duỗi thẳng, mái tóc chị hơi dài, dợn sóng chảy xuôi xuống hai bên khuôn mặt. Chị Hợp ngồi như thế một hồi lâu, chị ngước khuôn mặt, và tôi có cảm giác vừa đi qua con phố sau cơn mưa bốc lên mùi gỗ ẩm. Tôi đã đi qua con phố như vậy bao giờ chưa? Con phố ở đâu đó, hình như ông Jean-Paul Sartre đã đi qua. Có phải vì cái tựa quyển sách tôi vừa nhớ ra, tôi nhớ tới Thành, buồn nôn?

Anh ta dẫn cô cháu họ tới ở tạm trong căn nhà này, “chờ dượng thu xếp chỗ ở mới”, với xấp hình khoả thân mà anh ta tự hào về tay nghề nhiếp ảnh của mình, “những bức ảnh khoả thân cỡ quốc tế, chụp cô gái có thân thể đẹp tuyệt vời như thần Vệ Nữ”. Chị Hợp chắc không hề biết những tác phẩm nghệ thuật của người chồng, những tấm hình khoả thân với đủ tư thế khiêu dâm của người cháu gái, chị Hợp là dì ruột.

Chị Hợp, vừa cúi xuống lại, bất chợt ngước khuôn mặt, con phố sau cơn mưa bốc lên mùi gỗ ẩm, chị nhìn tôi, cái nhìn ngạc nhiên trộn lẫn nỗi buồn nào đó lạ lùng, cái nhìn chuyển nhanh sang vu vơ như làn khói thuốc lá tôi thở. Tôi thề rằng tôi không tự chủ được gì hết, tôi vụt đứng lên, đi tới chỗ giường sắt nhà binh, và chị ngã xuống, sém chút nữa va đầu vào vách tường. Tôi ôm choàng thân thể chị Hợp, chị giấu mặt trong tóc, tôi hôn vào tóc vào tai, tôi muốn ngấu nghiến chị như con thú đau đớn tuyệt vọng. Rồi tôi im sững. Chị Hợp khóc không tiếng.

(Nhân vật xưng) tôi không thể hiểu vì sao Thành biết chuyện này, sau hai tiếng đồng hồ chị Hợp rời căn nhà tôi ở. Anh ta là một nghệ sĩ nhiếp ảnh to khoẻ, nhưng không phải vì thế mà tôi bàng hoàng. Tôi hãi hùng trộn lẫn lo sợ trộn lẫn hối tiếc, hoàn toàn vì chị Hợp. Thành gằn tiếng: “Cậu đê tiện lắm. Thế là hai kẻ đê tiện đã lộ mặt, đứa gian phu, đứa dâm phụ.” “Không phải như vậy, anh hiểu lầm rồi.” Thành cười nhạt, “Tôi không hiểu lầm.Từ lâu tôi đã biết tình ý của hai người. Và cậu còn đủ tự trọng để không chối cãi chuyện vừa rồi chứ? A ha, quần nhau đã đời trên giường lò xo sắt nhà binh! Cả hai người cao đạo, bây giờ lòi cái đuôi chim chuột.” Hình như tôi sắp đưa thẳng tay ra, bóp cổ tên tổ sư chim chuột chính hiệu. Hình như anh ta lùi lại một chút, giáng thẳng nắm đấm vào mặt tôi. Hình như máu mũi, máu miệng tôi phun ra, nhanh như bước chân anh ta rời khỏi căn nhà tôi ở.

Sài Gòn, 2/10/2005




















Sổ Tay









Vĩnh Biệt Thanh Tâm Tuyền


Trưa 23-3-2006, nhận tin báo từ Mỹ của anh Đinh Cường: Thanh Tâm Tuyền đã từ trần… Một cái gì đó vỡ nát trong tôi. Điện thoại cho Trần Thị Ngh., anh Nguyễn Tiến Văn (định cư Canada, về ở lâu tại Sài Gòn)…, tất cả đều đã biết tin Thanh Tâm Tuyền mất.

Mỗi nhà văn là một kẻ sống sót, Thanh Tâm Tuyền ra đi, mãi mãi để lại những lời thì thầm giữa cơn cuồng nộ của lịch sử. Quý trọng Thanh Tâm Tuyển, tôi càng quý trọng anh, một nhà văn dám thừa nhận sự thất bại. Tôi đã rất yêu mến anh, lưu giữ những ngày Sài Gòn, cà phê chiều vỉa hè dưới bóng mát tàn cây me đường Gia Long, câu chuyện văn nghệ không làm màu, tước bỏ mọi ảo tưởng, nhà văn không có gì ngoài cây bút bé mọn chỉ có thể viết nên nhịp thở anh một trái tim em một trái tim / chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác…

Những ngày Sài Gòn, câu chuyện văn nghệ giữa cái bàn cái ghế, ông lính già trông nom cái ăn cái uống trong cơ quan Trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Ông lính già thân thiết ấy hỏi anh Tâm: “Chắc cái lưng đại uý hơi gù gù vì ngày xưa…”, ông đại uý cười rất vui rất thật, cắt ngang: “Anh lại nghe người ta bảo rằng tôi cứ là hay đi vòng vòng bờ hồ Hoàn Kiếm, nên cái lưng tôi nó gù gù chứ gì. Sự thật là hồi nhỏ, ở Hà Nội, tôi phải đi gánh từng gánh nước ở phông-ten về nhà dùng, nên làm sao cái lưng nó chả gù gù.” Lúc đó tôi là binh nhì ở Cục Tâm Lý Chiến, có lần quá bực ông “sếp văn nghệ”, thổ lộ với anh Tâm rằng tôi định xin đi học lại nốt giai đoạn 2 ở trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Anh Tâm bảo: “Cậu chớ để cái tự ái nó hại mình. Chịu đựng được ông sếp nhiều trái tính trái nết đó cậu mới khá.” Nghĩa là, do lời khuyên của anh Tâm, tôi không động đậy gì nữa ở cái phòng làm việc suốt mấy năm trời, mà cũng không thấy ngột ngạt nữa. Cũng vì anh Tâm quan tâm đặc biệt tới việc viết lách của tôi, nên tôi hăng hái viết truyện ngắn, thứ mà bây giờ nhìn lại, tôi thấy tôi phù hợp với nó hơn phù hợp với thơ.

Lúc anh Tâm đi “cải tạo” tập trung, anh bảo tôi mang con Lu về nuôi: “Tôi đi học tập cải tạo, cậu mang nó về mà nuôi, ở nhà tôi chắc chả ai trông nom nó bằng cậu được. Khi nào nó đẻ, cậu giữ lại cho tôi một con.” Lu có đẻ mấy con, dưới gầm đi-văng, không hiểu sao, mấy ngày sau chẳng thấy con nào nữa, Lu thì kêu rít thảm thiết. Lúc anh Tâm “học tập cải tạo” ở miền Bắc về, con Lu bị bọn trộm đánh cắp.

Anh Tâm “học tập cải tạo” được về nhà vào đúng ngày 30 Tết, tôi là người thứ hai tới thăm anh. Người thứ nhất tới thăm anh, một chàng viết lách có cặp kè với công an sao đó, không rõ vì sao anh Tâm biết, anh nói với chàng này rằng anh quá mệt, xin được miễn tiếp. Cái lần anh cũng quá mệt như vậy, tôi cũng phải ngạc nhiên. Anh tới nhà anh Tô Thuỳ Yên, dắt chiếc xe đạp vào sâu cái khoảng hẹp giữa hai bức vách. Rồi anh lại trở vào cái khoảng hẹp đó để loay hoay dắt cái xe đạp ra, đi về. Chàng nhạc sĩ “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” đang ngồi ở bàn uống cà phê giữa sân nhà anh Tô Thùy Yên, anh ta vụt đứng dậy, nói với theo, giọng trọ trẹ tiếng Huế: “Tôi tệ hại chi mô mà anh không ưng gặp mặt?”

Anh Tâm đã từ trần, tôi thấy tôi bơ vơ quá. Mười mấy năm nay không gặp anh, nhưng vẫn biết anh có mặt, có hít thở dưới bầu trời, một bầu trời dù quá mênh mông, anh một phương, tôi một phương. Tôi đau tiếc lần anh về Sài Gòn, tôi biết muộn, không gặp đươc anh. Lần đó tôi tiếc nhưng hy vọng lần sau thế nào mà chẳng gặp.

Tôi còn lần nào để gặp anh Tâm, để tin chắc rằng, vẫn còn sờ sờ đây, người không bao giờ bôi vẽ, trá hình với cây bút.


Sài Gòn, 24-3-2006






Ca-phê Đà lạt xưa


Hiện diện tại Khu Hoà Bình, trung tâm thành phố Đà Lạt, trên sáu mươi năm, là quán cà-phê Tùng — chúng tôi gọi là “Cà-phê Đà Lạt xưa” — những ẩm khách cà-phê từ thập niên 1950 tới nay ở thành phố cao nguyên không thể không nhớ. Qua chừng ấy năm, quán cà-phê Tùng, căn nhà một lầu hai mái ấm áp khiêm nhường, cứ như vậy mà tồn tại giữa những nhà hộp bê-tông mặc sức lên cao tầng. Nhìn vào cái biển quán, ở “auvent” của căn nhà một lầu, CAFÉ Tùng, đã là một sức mời gọi lặng lẽ mà quyết liệt một nhà văn trầm tư thắm thiết với hương vị cuộc sống: Nguyễn Tuân. Chính nơi đây, tác giả Vang Bóng Một Thời uống tách cà-phê đầu tiên khi đặt chân tới Đà Lạt sau ngày biến cố lịch sử Ba Mươi Tháng Tư 1975. Ông Tùng kể lại: “Tôi không nhớ ông Nguyễn Tuân có uống cà-phê hay không. Tôi đã để dành một chai Courvoisier để mời nhà văn mà tôi từng mong gặp... Ông Nguyễn Tuân bảo, vào cái quán này như vào để nghe một tiết tấu của điệu Blues buồn, tiếng đàn cello trổi lên trong cái không gian lặng thầm của quán...”

Chúng tôi vào quán cà-phê Tùng từ những năm 1960, phong cách, kiểu dáng của quán thuở ấy tới bây giờ, lúc nào cũng vẫn như vậy. Vẫn những bàn ghế trang trọng đơn giản giữ mãi một vẻ không cũ không mới, trên nền nhạc hoà âm trầm. Chiếm khoảng lớn trên bức tường, hoạ phẩm Người đàn ghi-ta của Vị Ý: một mình một bóng vươn dài để gãy gục, đầu người, đầu phím đàn chúc xuống bục gỗ thô tháp màu nâu khô. Ở một bức tường phía trong, hoạ phẩm của Cù Nguyễn: Thiếu nữ mơ màng một hạnh phúc nào... Nghĩa là chúng ta phiêu bạt bất cứ nơi đâu, khi trở lại vẫn là yên ả chốn cũ, quán cà-phê Tùng luôn đón tiếp chúng ta như vậy.





Ông Tùng đã mất vài năm nay, trở thành người thiên cổ, như nhà văn Nguyễn Tuân còn lại ở quán cà-phê Tùng câu chuyện về ly rượu mạnh, như hoạ sĩ Vị Ý còn lại trên bức tường quán Người đàn ghi-ta mãi hoài cơn đam mê khắc khoải. Người con của ông Tùng, Trần Đình Thông, đảm đương quán cà-phê Tùng tiếp nối ông Tùng. Chúng tôi nghĩ tới những tên tuổi danh xưng như định mệnh: Tùng, Thông ở nơi chốn ngàn thông... Người tiếp nối giữ một lòng kiên trinh với ý vị gia truyền của một quán cà-phê lập nên từ thuở Đà Lạt còn nhiều thơ mộng nguyên sơ, sương còn nhiều mù sa dày đặc, ngựa con theo mẹ đi thong thả trên đường phố cùng khách nhàn du...

Ẩm khách trẻ tuổi vào những quán cà-phê có nhạc rock nhạc pop, họ không vào quán cà-phê Tùng. Chúng tôi vừa nghe lại trong quán cà-phê Tùng một bản nhạc rất xưa, nhạc nền trong một cuốn phim của điện ảnh Pháp từ những năm 1960: L’Eau Vive. Và chợt nhớ thi sĩ Bùi Giáng, một ngày đã xa mù mịt, thi sĩ cùng chúng tôi nhìn bầu trời Đà Lạt âm u qua cửa kính quán cà-phê Tùng như những ngày này. Trung Niên Thi Sĩ (Bùi Giáng) viết hai dòng thơ trên miếng giấy bạc trong bao thuốc lá:

Quán ngồi mỏi. Nắng chưa lên.

Chợt vui tràn. Thấy còn nguyên sơ đầu.











Thánh Ca chiều hủy diệt


Nhận tin dữ lúc 19 giờ, tôi tới liền nhà Nguyễn Tôn Nhan ở đường Bùi Đình Túy, quận Bình Thạnh. Bằng hữu thân quen biết tin đã đứng đầy trước nhà; vợ con ông đang ở bệnh viện An Bình để nhận xác ông. Thi thể ông được đưa vào đây để làm thủ tục chứng tử, khâu vá khuôn mặt vỡ nát. Gần 12 giờ khuya, gia đình đưa thi thể ông về nhà.

Tôi ngó sững khuôn mặt Nhan trong áo quan, xám xịt, im vắng bằn bặt. Cách đây hai ngày, cùng ngồi uống bia với nhau ở quán Đất Phương Nam, vùng Tân Định - Sài Gòn, sao tôi không nghe, không nhìn cho thật kỹ, nuốt vào mình vẻ mặt, giọng nói, điệu cười của Nhan, người bạn thân thiết từ thuở thanh niên? Sao cái hung hãn của những bánh xe cứ tiếp diễn bất tận trên đường? Đáng phẫn nộ về tình trạng bán khai, tàn bạo trong giao thông của đất nước Việt Nam, hiểm hoạ diễn ra hằng ngày trên từng cây số, đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng, nhiều hơn gấp bội thời chiến tranh ác liệt thuở trước.

Nhan và tôi thân thiết với nhau từ lúc tập thơ mỏng mảnh Thánh Ca của Nhan ra đời, năm 1967, lúc Nhan 19 tuổi. Thi tập Thánh Ca chỉ gồm 15 bài thơ, số lượng in lại ít ỏi, không nhiều người biết đến. Nhưng Thánh Ca, tôi không cho rằng mình chủ quan, là một trong vài thi tập đáng chú ý nhất không riêng thuở đó, mà tới tận bây giờ. Một thi tập độc đáo, của một nhà thơ đích thực. Một thời gian không lâu, sau khi thi tập Thánh Ca ra đời, Nhan và các bạn của Nhan chẳng ai lưu giữ được cuốn nào. Rất may sau này, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường sưu tập và giới thiệu trên báo mạng Tiền Vệ gần đủ số bài thơ trong Thánh Ca. Nguyễn Đăng Thường viết trong lời giới thiệu:

“Một chiều năm xưa bát phố Sài Gòn tôi ghé vào nhà sách Khai Trí trước khi tiệm đóng cửa và ngạc nhiên phát hiện một cuốn thơ mỏng với nhan đề Thánh ca, thi tập đầu tay của Nguyễn Tôn Nhan. Đọc thử vài câu tôi thấy chúng khá táo bạo, thậm chí có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần, nên tôi vội vã mua ngay. Đây là một trong hai thi tập mỏng dính tôi đã mang theo mình khi... bước chân ra đi. Tập kia là Ngày sanh của Rắn của Phạm Công Thiện.

Cái ngạc nhiên thích thú lúc ấy tất nhiên đến từ ngôn ngữ, vần điệu, hình ảnh, vừa giản dị, tươi mát, hồn nhiên — như thể tác giả đã ứng khẩu thành thi — vừa tân kỳ, siêu thực. Nhiều câu thơ được lặp đi lặp lại nhưng không gây nhàm chán. Thiên nhiên vẫn được nhân cách hoá nhưng không để phụ hoạ cho tình cảm con người, mà gần như ngược lại. Trời, sao, mây, nắng, mưa, chim... đều có cá tính và hầu như chống chọi thi nhân: trời ngập đầu trong nước xanh - sao đi lang thang - mây cắn nát cả hồn - nắng nằm trên nóc nhà ga - mưa dửng dưng - chim có kinh... Thi nhân chỉ ‘nhận định tình thế’, không than van kể lể về số phận hay tình yêu, chàng (thi nhân) và nàng như những kẻ hoàn toàn xa lạ nhau...”

Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê hay men rượu mà cả hai đã uống.

Từ lúc thân thiết nhau, chúng tôi thường xuyên gửi thơ đăng ở báo Khởi Hành và Thời Tập, từ những năm của nửa cuối thập kỷ 1960 tới khi xảy ra biến cố 30-4-1975. Khi điểm lại các tác giả thơ thời kỳ đó, nhà thơ Viên Linh, chủ trương hai tờ báo kể trên ở Sài Gòn, sau này tục bản Khởi Hành ở Mỹ, đã ghi nhận Nguyễn Tôn Nhan là một trong vài nhà thơ đáng kể nhất. Cũng từ thời gian này, Nhan miệt mài nghiên cứu Hán học, và sau 30-4, Nhan biên soạn nhiều công trình về triết học, văn học cổ điển Trung quốc, trong đó có: Từ điển văn học cổ điển Trung quốc; Nho giáo Trung quốc; Hoài Nam Tử... Lúc này Nhan lại ưa thích làm thơ lục bát ba câu, như một loại “hài cú Việt”, Nguyễn Đăng Thường gọi như vậy. Thư Ấn Quán của nhà văn Trần Hoài Thư ở Mỹ từng in thi tập “Lục bát ba câu” của Nhan. Trong dịp sang Mỹ thăm bằng hữu, năm 2008, Nhan ra mắt độc giả hải ngoại tác phẩm biên soạn Nho giáo Trung quốc, buổi ra mắt do nhà thơ Viên Linh tổ chức. Thư Ấn Quán cũng tái bản thi tập Lục bát ba câu của Nhan trong dịp này.

“Xác khô mà máu còn tươi” (trong Lục bát ba câu của Nguyễn Tôn Nhan), người bạn cố tri thâm giao của tôi, thân thể còm nhom vì chứng bệnh đái-tháo-đường lâu ngày, vẫn say sưa với thơ, với nghiên cứu Hán học. Nhan đã dịch nhiều bài thơ Đường chưa ai dịch, và chuẩn bị biên soạn cuốn Từ điển Đường thi. Thế-rồi-một-buổi-chiều, chiều 28 Tết, trước thềm mùa xuân Tân Mão - 2011, một ngày trước ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 63, thân thể Nhan đột ngột thành thi thể, và bây giờ chỉ còn là một nhúm tro than. Hũ đựng nhúm tro than đó, gia đình Nhan đặt ở một chỗ trên cao, để thờ, trong ngôi nhà của Nhan, có “Thích Ca tượng nọ rụng đầu Giê Su” (Thơ Nguyễn Tôn Nhan - Thánh Ca).

Tôi ghi lại dưới đây, bài thơ “Chiều chiều” trong thi tập Thánh Ca, thay nén nhang thắp chiêu niệm nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan:

Sáng hôm nay mặt trời xanh
Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ
Lá trong vườn từng lưỡi dao găm
Nàng giữ trên tay bông tuyết đỏ
Chim không bay đến mái hồn tôi
Nơi cô đơn rêu ngàn năm đã phủ
Nơi vinh diệu của những kẻ u buồn
Nơi sáng hôm nay của tôi của nàng
Của hai kẻ đem phơi hồn ủ rũ
Chiều tôi trở về trên đồi cây
Dưới cành khô có bóng nàng treo cổ.


Bài liên quan:
[TƯỞNG NIỆM NGUYỄN TÔN NHAN (1948-2011)] ...
Chân dung phác thảo, chì than trên giấy...

[TƯỞNG NIỆM NGUYỄN TÔN NHAN (1948-2011)] ... Cành nhánh lạnh căm khuya lập đông. / Trăng sao trầm tích cốc men nồng. / Chân trời đã gãy trong nghiên mực, / Góc bể còn chờ nét bút lông!...

[TƯỞNG NIỆM NGUYỄN TÔN NHAN (1948-2011)] ... Thế là Nguyễn Tôn Nhan đã mất. Một tai nạn giao thông tối 28 Tết (31.1.2011) đã cướp đi một người bạn, người anh lớn... Tính tình anh hí lộng, coi nhẹ mọi chuyện đời, từ tên tuổi, tiền bạc, khen chê thị phi, cho đến cả sức khoẻ của mình (cách nay ít lâu, hai anh Cung Tích Biền và Nguyễn Lương Vỵ phải ép buộc mới đưa anh đi khám bệnh được). Nếu có điều gì trên đời này khiến anh quan tâm, thì chắc đó là thơ, như nhiều lần anh vẫn nói... (...)

[TƯỞNG NIỆM NGUYỄN TÔN NHAN (1948-2011)] ... “Xuân ban đầu” là bài thơ cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, viết vào tháng Giêng năm 2011... bài thơ xuân nào run lẩy bẩy / bến tầm dương say vấy hồn trinh / em ơi khờ dại một mình / và xa dội một tiếng kình gõ mau // bài thơ xuân quên mất nhau / khờ em đâu nhớ những màu tơ xưa / ồ thơ đưa đẩy đã bưa / sóng xô đời đã kịp vừa biệt tăm...








Ký Sự





Tháng tư tàn độc


Từ vài ba năm trước, tới cuối tháng tư 1975, tôi là người lính Tâm Lý Chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Tháng tư để tôi nhớ thêm vài ba năm trước đó, thời gian dẫn tới tháng tư, tháng tư ám ảnh; tháng tư mà nhà báo Pháp Olivier Todd gọi là Cruel avril - Tháng tư tàn độc (Nhan đề quyển sách của Olivier Todd, viết về sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn; quyển sách quan trọng, xác thực và sâu sắc về cả hai phía: Quốc gia và Việt cộng. Stephen Becker chuyển sang Anh ngữ, Cruel April - The Fall of Saigon).





Tôi là người lính dưới quyền vị thiếu tá trưởng Phòng Văn Nghệ - Cục Tâm Lý Chiến, nhà thơ Tô Thuỳ Yên. Ông giao tôi công việc sáng tác “hò - vè - ca dao” của ngành tâm lý chiến; tôi nhận công việc này từ lúc tôi thuộc quân số của Phòng Văn Nghệ.

Về Cục Tâm Lý Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, tôi được đặc ân làm “lính kiểng”. Cục trưởng Cục Tâm Lý Chiến - đại tá Hoàng Ngọc Tiêu, tức nhà thơ Cao Tiêu, đi cùng nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, người thân của tôi, nhận lãnh tôi từ Trại Thần Kinh Tâm Lý trong Tổng Y Viện Cộng Hoà, cho tôi được nhập quân số ở đơn vị của đại tá. Lẽ ra tôi được giải ngũ với chứng bệnh thần kinh (tôi được/bị cho là như vậy, theo giám định y khoa của Phòng 7 – Tổng Tham Mưu); nhưng gặp thời điểm tình hình chiến sự căng thẳng, Bộ Quốc Phòng hạn chế tối đa việc giải ngũ.

Lúc mới về Cục Tâm Lý Chiến để làm lính kiểng, tất nhiên hiểu ngầm như vậy, tôi thuộc quân số Phòng Báo Chí; phòng này đa phần cấp bậc là sĩ quan, làm công việc phóng viên báo chí quân đội: Chiến sĩ Cộng Hoà; Tiền Phong. Lúc đó tôi là binh nhì, nghĩa là lính trơn; cấp bậc không-cấp-bậc này dành cho tôi, lẽ ra được giải ngũ, hoặc làm lao công chiến trường. Bởi tôi xuất thân Khoá 2/69 Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức; sau khi mãn khoá, tôi mau chóng có “thành tích” năm lần bảy lượt đào ngũ khỏi các đơn vị: Sư đoàn 5 Bộ Binh; Sư đoàn 1 Hoả Tuyến; Đại Đội Hắc Báo; Biệt đội đặc biệt kỹ thuật (thuộc Phòng 7 - Tổng Tham Mưu)... Nói chung, tôi đào ngũ vì không thích nghi được với đời sống trong quân đội; hoàn toàn không phản chiến gì cả, cũng chẳng lý tưởng gì hết, và cũng không đau bịnh thần kinh như đã được/bị chứng nhận. Chỉ là vì lúc nào tôi cũng ưa đi lang thang phiêu bạt ở các vùng cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh - Đơn Dương - Đà Lạt, miền cố quận của tôi; và làm thơ viết văn khi thích làm thơ viết văn. Nghĩa là tôi cũng chẳng ôm ấp giấc mộng trở thành nhà văn nhà thơ nổi danh gì hết.

Ở Phòng Báo Chí, tôi chỉ có mỗi một việc, là đi tới đi lui; trong giờ hành chánh thì uống cà-phê tại câu lạc bộ của doanh trại Cục Tâm Lý Chiến; hết giờ thì ra ngồi quán Chùa - La Pagode uống bia. Trong lúc đi lui đi tới, tôi thường cầm chổi lông gà, phủi bụi trên mặt bàn mặt ghế của các vị sĩ quan, cho đỡ nỗi buồn lính kiểng. Đại uý Lê Cự Phách, tức nhà thơ Du Tử Lê, một lần thấy vậy, giằng cây chổi lông gà khỏi tay tôi, nói: “Đạt đừng làm vậy. Ít nhất Đạt khỏi quét cái bàn của tôi.” Và đại uý nhà thơ chở tôi ra ngồi quán cà phê Hân thân thuộc của ông, nói chuyện với nhau rất là văn nghệ. Tôi biết đại uý nhà thơ có mối thiện cảm với tôi; tôi đoán ông nghĩ rằng anh chàng binh nhì này cũng lại là một anh chàng văn nghệ; anh chàng binh nhì này khác với mọi anh binh nhì thuần tuý binh nhì. Nhưng tôi cũng biết, các vị khác của Phòng Báo Chí thì không nghĩ như vậy; từ trưởng phòng - trung tá nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh, tới phó phòng - thiếu tá nhà thơ Hà Huyền Chi; nhị vị này rất oai phong và rạch ròi nhà binh: anh chàng binh nhì tối ngày cà phê bia bọt; lãnh lương lính mà chẳng làm phận sự gì hết?! Tôi biết làm gì ở Phòng Báo Chí, ngoài công việc phóng viên của các vị? Mà tôi thì mặc nhiên được miễn công việc trọng đại này!

Chẳng bao lâu sau, tôi xin trung tá trưởng Khối Kỹ thuật - hoạ sĩ Tạ Tỵ, cho tôi được đổi sang Phòng văn Nghệ, vì ở đây có vị thiếu tá trưởng phòng là nhà thơ Tô Thuỳ Yên. Tôi được thiếu tá giao công việc sáng tác hò - vè - ca dao ở Phòng Văn Nghệ, như đã nói trên.

Công việc điều hoà đều đặn chảy xuôi năm tháng, giữa tin tức chiến sự khắp nơi ngày càng ác liệt. Tôi ở đây, với phận sự sáng tác hò-vè-ca-dao-tâm-lý-chiến suốt mấy năm; từ cấp bậc không-cấp-bậc là binh nhì, nhích lên được cấp bậc binh nhất. Sáng tác hò - vè - ca dao, tuỳ theo các chiến dịch, để đưa lên băng-rôn treo ở các đường phố Sài Gòn; đối với một anh chàng biết làm thơ, dù làm thơ dở chăng nữa, là việc quá dễ; những câu hò - vè - ca dao đại khái như: Anh ơi hăng hái tòng quân / Tài trai chớ để muôn phần phôi pha... Tới lúc trung tá hoạ sĩ Tạ Tỵ, trưởng Khối Kỹ Thuật (bao gồm các phòng báo chí - văn nghệ - ấn hoạ - và đài phát thanh quân đội), đưa sáng kiến xuất bản một tuyển tập thơ quân đội thật đồ sộ. Trung tá lấy tên cho tuyển tập thơ là Đầu Gió (đầu sóng, ngọn gió) và giao Phòng Văn Nghệ thực hiện. Thiếu tá nhà thơ Tô Thuỳ Yên tất nhiên giao tôi việc thực hiện tuyển tập thơ này. Ông hạp ý; và có lẽ tin tưởng khả năng văn nghệ của anh chàng binh nhì, hơn tin ở thượng sĩ nhà thơ Phạm Lê Phan, vốn là người phụ trách tổ sáng tác hò - vè - ca dao. Phòng Văn Nghệ có 3 tổ sáng tác: Tổ sáng tác nhạc chiến dịch, do hạ sĩ Huỳnh Hữu Kim Sang, tức nhạc sĩ Anh Việt Thu phụ trách; tổ sáng tác cổ nhạc (phục vụ chiến dịch) do thượng sĩ Võ Văn Chơn, một cây đàn lục huyền cầm điêu luyện, lớp sau nghệ sĩ Sáu Tửng, phụ trách; và tổ sáng tác hò - vè - ca dao. Trung sĩ Trần Thiện Thanh (Nhật Trường) thuộc tổ sáng tác nhạc, nhưng từ lâu thiếu tá trưởng phòng cho phép nhạc sĩ kiêm ca sĩ bay bướm đệ nhất hạng này sung vào Đại Đội Ứng Chiến, do Biệt Khu Thủ Đô trách nhiệm điều động.

Thu gom hầu hết thơ có sắc màu quân đội ở các tờ báo - tập thơ của Miền Nam tự do đã xuất bản, nhiều lắm cũng chưa được nửa số trang của tuyển tập; mà ý định của trưởng Khối Kỹ Thuật, là tuyển tập thơ Đầu Gió phải dày bốn năm trăm trang. Tôi trình thiếu tá nhà thơ Tô Thuỳ Yên, là sẽ chọn tất cả thơ hay của các tác giả Miền Nam tự do, đưa vào tuyển tập thơ Đầu Gió. Nên tuyển tập thơ quân đội “đồ sộ”, do anh chàng binh nhì thực hiện, có cả thơ Quách Tấn; thơ Vũ Hoàng Chương; thơ Nguyễn Đức Sơn... Sau khi tuyển tập thơ Đầu Gió phát hành, một tờ báo, tôi không nhớ tên, đăng bài viết của nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, chửi bới loạn xạ “bọn thực hiện tuyển tập thơ Đầu Gió.”

Vào thời điểm vài tháng trước tháng tư 1975, tôi ngưng sáng tác hò - vè - ca dao; chuyển sang viết những mẩu chuyện tưởng tượng xảy ra dưới chế độ cộng sản; để in truyền đơn, rải xuống các tỉnh thành của Miền Nam tự do. Lúc đó, Ban Mê Thuột đã sắp thất thủ; nhạc sĩ Anh Việt Thu qua đời vì bệnh thận, có lẽ do ông uống rượu quá nhiều. Tôi cùng vài đồng ngũ, vài người bạn và gia đình của nhạc sĩ, đưa quan tài ông về quê, ở Trung Lương - Tiền Giang. Qua sông, đạn Việt cộng bay xéo phía trên đầu; thân phụ nhạc sĩ vội kéo tuột lá cờ Việt Nam Cộng Hoà phủ trên quan tài nhạc sĩ, liệng xuống nước. Thân phụ nhạc sĩ phải hành động như vậy, trước con mắt theo dõi của quân du kích Việt cộng ở miền tây Nam bộ.

Những tin tức nơi này nơi kia thất thủ; tới Biên Hoà sắp mất; Long Khánh đã rơi vào tay Việt cộng... Trong Phòng Văn Nghệ, anh em bàn tán chuyện di tản... Thiếu tá nhà thơ Tô Thuỳ Yên chỉ nói một lần, một câu này: “Việt cộng chiếm Miền Nam, tôi thà đi công trường nông trường; tôi không trốn chạy...” Tôi cũng chỉ nói ra một ý định, sẽ lên rừng Tutr’a ở Đơn Dương, gần Đà Lạt, sống với bà con dân tộc thiểu số.

Ngày 30 tháng tư 1975, sau khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt cộng, hầu như các doanh trại của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hoàn toàn trống vắng; các ông Vixi không phải lo súng ống canh giữ “ngụy quân”. Riêng doanh trại Cục Tâm Lý Chiến (ở số 2 bis đường Hồng Thập Tự, bây giờ là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) Việt cộng cầm súng án ngữ ngoài cổng, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”! Chỉ còn một số ít đồng ngũ và tôi ở trong doanh trại. Không phải chúng tôi cố thủ gì đâu. Chúng tôi bị kẹt ở đây, bởi có vài anh em trong Phòng Ấn Hoạ, ứng chiến tại chân cầu Thị Nghè gần doanh trại, đã nổ súng khi Việt cộng vượt qua cầu.

Chúng tôi bị cầm chân vài ngày trong doanh trại; mang rượu, thịt hộp ra nhậu đỡ sầu; tất nhiên có mời mấy chàng Vixi mặt mũi non choẹt, nhợt nhạt; chắc là những học sinh phải đi bộ đội, vượt Trường Sơn đầy nguy cơ sốt rét ngã nước, vào “giải phóng Miền Nam bị tạm chiếm”. Tôi lấy chai whisky nhãn đỏ, chai rượu uống chung với Anh Việt Thu còn lại gần nửa, mời một chàng Vixi cùng uống; không có soda, tôi lấy nước mưa, còn gần đầy cái lu vẫn để hứng nước mưa dưới mái ngang bên căn phòng. Anh ta cỡ tuổi tôi; khuôn mặt phong sương tư lự, có vẻ chứa đựng gì đó; không ngây ngô như các chàng Vixi kia. Anh ta hỏi tôi: “Anh là lính tâm-lý-chiến hả? Tâm-lý-chiến các anh làm việc gì?” Tôi lấy tuyển tập thơ Đầu Gió, trong ngăn bàn của thiếu tá nhà thơ Tô Thuỳ Yên; bảo anh ta “đọc đi, chúng tôi làm thơ chứ làm gì nữa.” Anh ta mở đọc, tôi nhìn thấy trúng bài thơ có những dòng:Đêm Tây nguyên trời không muốn sáng / Có tôi canh xác đợi giặc về / Có trăng soi mắt cho người chết / Có cú kêu buồn đậm cuối quê...

Đọc xong bài thơ này, anh ta gập cuốn sách lại, nhìn tôi đăm đăm. Chẳng nghe anh ta nói gì, tôi hỏi: “Anh thấy sao? Thơ tâm-lý-chiến Miền Nam có hay không?” Anh ta nói nhỏ: “Chỉ thấy buồn thôi, chả có thể gọi là tâm-lý-chiến gì sất!” Rồi anh ta đưa tôi một xấp giấy mỏng, đánh máy một loạt thơ Giang Nam, thơ Huy Cận: “Chúng tôi có thơ của chúng tôi để phát cho ngụy quân. Tôi giữ đọc chứ có phân phát được đâu. Tôi là bộ đội chiến đấu thôi.”

Tôi đọc một bài thơ ngắn của Huy Cận, trong xấp giấy đó: Anh lính miền Nam anh nghĩ gì / Mỗi khi đêm về, mặt trời tắt / Mặt trời tắt, lòng anh chưa tắt / Ngày mai đừng để chúng lôi đi. Tôi không hỏi, nhưng có lẽ thấy thơ này là hay, nên anh ta mới cất trong túi áo để thỉnh thoảng lấy ra đọc. Nghĩa là, thơ hay, phải tuyên truyền cho chính nghĩa (của) chính thể - chính quyền, chắc chắn anh ta đã nghĩ thế, như đinh đóng cột.

Tôi chẳng màng giữ thơ Huy Cận như vậy. Chỉ là hồi ức tháng tư tàn độc, những gì muốn quên mà không quên được; kể cả mấy câu vần vè tuyên truyền phỉnh gạt của một nhà thơ lớn (và của hầu hết các nhà thơ ở Miền Bắc - Xã Hội Chủ Nghĩa) tay đã nhúng chàm.









Phỏng vấn




Trần Nhuệ Tâm / Nguyễn Đạt
Nhà thơ nói về thơ tình: Nguyễn Đạt



Thời thanh niên ông đã yêu bài thơ tình nào? Nếu ngay lúc này, trở lại tuổi mười tám và người yêu của ông muốn nghe ông đọc một bài thơ tình, trong những bài thơ tình ông biết (sau thời kỳ tiền chiến) ông chọn bài nào?

NĐ: Chín mươi chín rưỡi phần trăm nhà thơ Việt Nam đều có làm thơ tình. Thời “tiền chiến”, Xuân Diệu, và thời sau này, Nguyên Sa, được chú ý và được xem là nhà thơ tình yêu. Tôi yêu thích nhiều bài thơ tình của Xuân Diệu, còn những bài thơ tình của Nguyên Sa thì tôi thấy đó chỉ là sản phẩm của của lò bánh kẹo. Trong thời kỳ văn nghệ gần gũi với tôi, Trần Dạ Từ có nhiều bài thơ tình tôi yêu thích. Cùng thời kỳ văn nghệ với tôi, Du Tử Lê được chú ý và được xem là nhà thơ tình yêu. Cần phải tuyên dương: Thơ Du Tử Lê đã đạt tới mẫu mực của thứ thi ca ngàn năm nhược tiểu, những bài thơ tình của loài bò sát vùng nhầy nhụa sình lầy. Những bài thơ tình yêu của Thanh Tâm Tuyền, ít nhất có 2 bài tôi phải thuộc từng lời: Lệ Đá Xanh và Dạ Khúc, hai bài thơ tình mà lúc nào tôi cũng yêu thích nhất. Và 2 dòng thơ của Vũ Hoàng Chương là câu thơ tình bất diệt: Em ơi lửa tắt bình khô rượu / Đời vắng em rồi say với ai?
Cũng phải nói thêm rằng, về đề tài hấp dẫn và sống động muôn thuở là Tình Yêu, thì thơ là loại xe (chuyên chở) thô sơ, chậm chạp hơn văn nhiều lắm.

Giả sử một ngày mai ông đối diện với ba sự kiện — Thứ nhất: Người yêu muôn thuở bước ra từ giấc mơ. Thứ hai: Cuộc cách mạng nhân văn. Thứ ba: Người ngoài hành tinh mời ông đi du lịch một chuyến. Trong ba sự kiện, chỉ được phép chọn một. Ông chọn sự kiện nào để làm bài thơ lớn của đời ông? Tại sao?

NĐ: 3 sự kiện: Người yêu muôn thuở bước ra từ giấc mơ – Cuộc cách mạng nhân văn – Người ngoài hành tinh mời đi du lịch vũ trụ, cả 3 đều là hoang tưởng, và tôi thấy hoang tưởng nhất, là Người yêu muôn thuở bước ra từ giấc mơ, nên tôi chọn sự kiện này “để làm bài thơ lớn của đời mình”. Chỉ có cách đó, mới chấm dứt cuộc săn đuổi đơn độc của “trái tim”, và kết thúc “cuộc hành trình tìm kiếm thi ca” của đời mình.

Ông có tin một bài thơ tình biết phản bội không? Ông có từng rơi vào trường hợp bị một bài thơ tình đưa vào cảnh trớ trêu, thậm chí vì một bài thơ tình nào đó mà ông bị em đá đít không? Ông có nghĩ hiện nay mọi người đang có nhu cầu đọc thơ tình thuần khiết không?

NĐ: Một bài thơ tình biết phản bội không? Tôi không biết. Tôi chưa từng bị rơi vào trường hợp trớ trêu nào do một bài thơ tình; chưa từng bị em nào đá đít do một bài thơ tình mình viết (và đọc thơ tình của người khác viết). Mọi người (nói chính xác: đại đa số) vẫn và mãi mãi có nhu cầu đọc thơ tình thuần khiết, vì mãi mãi tình yêu thuần khiết là một giấc mơ, không bao giờ trở thành (và cũng không nên trở thành) hiện thực.

Một quan niệm chung cho rằng cái đẹp tình yêu và những bài thơ viết về tình yêu là bất biến. Ông có cho rằng trong 10.001 năm nữa thơ tình chẳng cần thay đổi? Rằng mặc kệ các thời đại, không cần phải đưa chất liệu mới vào thơ tình? Ngày mai ông có tin rằng con ông sẽ đọc cho người yêu nghe thơ tình của ông hoặc bài thơ tình mà ông đã thích?

NĐ: Tôi hoàn toàn không cùng ý kiến, và cực lực phản đối quan niệm chung, cho rằng cái đẹp tình yêu và những bài thơ viết về tình yêu là bất biến. Mỗi thời, quan niệm về tình yêu mỗi khác, mỗi thời, chất liệu của thơ tình mỗi khác, mà chất liệu thì vô tận. Cho nên, tôi không chờ đợi và hy vọng gì, rằng các chàng các nàng của mai sau sẽ đọc những bài thơ tình tôi đã viết, hoặc những bài thơ tình tôi đã yêu thích.

Cũng là ánh mắt, ngôn ngữ, cử chỉ, hoa hồng, trong không gian tràn ngập cảm xúc hoa hồng... một bài thơ tình điên điên cất lên. Ông có nghĩ là thiếu văn hoá, là đáng bị em cho là đồ yêu quái rồi "bái bai"…? Hay ông cho đó là liệu pháp cảm xúc chống lại bệnh não hoá biểu tượng tình yêu? Ông có làm thơ tình khùng, hay từng đọc tặng người yêu mình bài thơ khùng của ai khác không? Ông có thể bộc bạch cảm xúc nghệ thuật không kềm giữ của ông với bạn đọc không?

NĐ: Một bài “thơ tình điên điên”, hay “bị xem là điên điên”? Tôi cho rằng , đấy là một bài thơ tình của tác giả X; Y; Z mà thôi, chỉ cần thiết, rằng bài thơ ấy không giả tạo. Nietzsche bảo tình yêu là một cơn điên ngắn mà! Tôi chưa làm bài thơ tình yêu nào bị (hay được) xem là bài thơ tình “điên điên”, nhưng tôi thích đọc mấy dòng thơ này, của Nguyễn Đức Sơn, cho các em nghe: Nàng không đẹp, không xấu, không quan trọng / Nàng đẻ / Đẻ xong nàng ra nhìn đám tang…, và nhiều nữa, cũng của Nguyễn Đức Sơn: Chiếc giường tre ngoe nguẩy dáng em nằm / Ru kẽo kẹt suốt một thời con gái / Anh tự hỏi bao giờ em xuống đái?

Trên đỉnh cảm xúc lãng mạn của một đôi tình nhân trẻ. Nếu được phép nghe lén (trừ lúc lên giường) ông cho rằng sẽ nghe được gì?

NĐ: Làm sao nghe lén được những gì mà đôi tình nhân trẻ nói với nhau “trên đỉnh cảm xúc lãng mạn”? Cứ giả định là nghe lén được, thì tôi tin rằng chàng sẽ nói như tôi đã nói thuở đó, và nàng sẽ nghe và nói như nàng của tôi thuở đó. Thuở đó tôi nói với nàng của tôi lúc đó, trên ghế đá công viên: “Em thơ mộng quá, anh muốn làm chuyện ấy với em lắm, muốn làm chuyện ấy ngay bây giờ!”, và nàng: “Ôi không được đâu! Ở chỗ này không thể được!”

Nếu một chàng trai 18 tuổi nào đó, như mọi chàng trẻ tuổi trên đời, bỗng một hôm bị cái đẹp tính dục quyến rũ không cưỡng được. Anh ta muốn làm bài thơ “hai trong một” tình yêu và tính dục. Bỏ qua lời khuyên “anh hãy giấu trong cõi riêng”. Ông sẽ nói gì với chàng trai ấy?

NĐ: Một bài thơ tình “hai trong một”: Tình yêu&Tình dục? Đấy là bài thơ tình mà tôi sẽ yêu thích nhất, mà tôi mong đợi. Tôi đã viết 2 bài thơ tình, vì một người đàn bà không bước ra ngoài giấc mơ của mình, người đàn bà mãi mãi trong giấc mơ của tôi. Tôi phải cưu mang giấc mơ ấy, như tôi phải cưu mang con sâu gặm nhấm chiếc răng của tôi: Quán huyễn hoặc / Sân khấu đích thực / Tôi đóng vai người tình / Nhai nuốt nàng // Chao ôi / Con sâu gặm nhấm tôi // Nhổ răng đau / Chiều chủ nhật / Tôi chôn mối tình chung huyệt con sâu.Cơn đau ấy của tôi, hoàn toàn là nhục cảm. Và: Buổi chiều ấy nên mưa / Váy chị xòe như một cây dù…, người đàn bà ấy mặc váy, chứ không phải quần tây, để xòe rộng ra, để thấy được bên trong váy, chiếc quần lót màu gì. Hiển nhiên tôi thấy Trái Tim &Con Cu hợp nhất với nhau. Chỉ có sự hợp nhất ấy là tình yêu đích thực, bài thơ tình đích thực. Tôi nghe một người nghệ sĩ nói: Đi tới cái giường, phải qua một con đường quá dài gọi là Tình Yêu. Tôi xem đây là tuyên ngôn vẻ vang của con vật đực, của các đệ tử Dục Lạc Kinh. Người ta phải thừa nhận, khi anh nhớ em, là anh đồng thời nhớ tới thân thể em, nhưng không phải chỉ vì vậy, chỉ có vậy. Tất cả những gì trong nỗi nhớ ấy, ngoài thân thể em, có lẽ thuộc về “trái tim”. Còn như, chỉ nhớ vú nhớ mông, chúng ta chả cần một người yêu, chả muốn làm thơ tình. Cứ vào một khách sạn, muốn chủng loại gà nào cũng có, cẩn thận tránh H5N1 thì đòi một chiếc bong bóng bảo hiểm.

Xin cảm ơn sự cộng tác của ông.










Lý Đợi: Nguyễn Đạt: 60 năm chưa về nẻo hiếm




Lời giới thiệu:

Nguyễn Đạt sinh năm 1945, tại Thổ Tang (Vĩnh Yên). Di cư vào Nam năm 1954. Hiện sống tại Sài Gòn. Là tác giả của khoảng 100 bài thơ & 100 truyện ngắn. Ngoài thi tập cá nhân Nơi giá băng [Nxb Hội nhà văn, 1991], và 2 văn tập Kỷ niệm dã quỳ [Nxb Trẻ, 1996], Cơn mộng Cẩm Giang [Nxb Trẻ, 1997], tác phẩm của ông còn nằm trong nhiều tuyển tập, tạp chí trong và ngoài nước.


Bổn tính ham thích những nơi thâm u nẻo hiểm; thích truy vấn văn chương trên con đường vừa thênh thang, quang đãng, vừa nhiều thử thách.

Gần đây, ông đặc biệt chú tâm vào truyện ngắn, và gần như chỉ công bố trên trang website Tiền Vệ. 60 tuổi, vẫn còn viết sung và vẫn còn đặt để nhiều chất mới, khác, vào tác phẩm; quả là chuyện lạ. Lạ hơn nữa, khi các nhà văn Việt Nam thường rơi vào định mệnh và quỹ đạo của tác phẩm đầu tiên. Đọc tác phẩm của Nguyễn Đạt trên các tạp chí tại Sài Gòn trước 1975, và bây giờ, rõ ràng, chúng ta nhìn thấy một Nguyễn Đạt khác, nhiều trăn trở, bén nhạy; bút pháp uyển chuyển, vi tế và nhiều sức hút hơn.

Vì thế, tìm mọi cách để tác giả này tiết lộ bí quyết của riêng mình, cũng là sự thách thức và quyến rũ với nhiều người có quan sát đến văn nghiệp của ông. Tuy nhiên, với tư cách người thực hiện bài phỏng vấn này, tôi gọi đây là "cuộc khám phá không thành", vì dường như ông cảm thấy vẫn chưa đến lúc để dừng lại, 60 năm chưa phải cuộc đời, nên muốn đi tiếp và chưa muốn nói gì nhiều về những điều mình đã, đang và sẽ làm. Đặc biệt là chuyện đời tư, vốn gắn với một vài biến cố của đất nước.

Bài phỏng vấn kết thúc bằng một ý để mở: Xin hẹn vào dịp sau.


_____________


Lúc 5 tuổi ông ở đâu? Làng quê lúc đó với ông có ý nghĩa gì?


À ra, anh đang tìm hiểu thời thơ ấu, và ngôi làng tuổi thơ của tôi đây.
Tôi chẳng được như Chagall hoài niệm về ngôi làng Nga khi ông ở Pháp. Tôi ở nơi sinh tới 9 tuổi, quê tôi chỉ có ông Nguyễn Thái Học không thành công (thì thành nhân), làng Thổ Tang (thủ phủ của Vĩnh Tường, có ông tri phủ Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương, qua một bài thơ mà người ta truyền tụng là của nữ sĩ). Tôi không nhớ được nhiều về quê tôi, 9 tuổi tôi đã rời quê, theo gia đình di cư vào miền Nam. Nửa thế kỷ sau (năm vừa qua, tôi 59 tuổi) ra Hà Nội, ghé thăm bản quán chỉ trong 2 ngày, biết làng quê mình vốn giàu đẹp, nổi tiếng lâu đời là nơi kinh doanh sầm uất. Từ xưa, làng Thổ Tang - huyện Vĩnh Tường đã như phố thị của một thị trấn lớn bây giờ. Lúc nhỏ ở quê, tôi đã biết mình có người cha và người chú được xem là hai người giỏi tiếng Pháp nhất làng. Cha tôi theo một ông kỹ sư người Pháp, cưỡi ngựa trắng đi tìm vàng dọc biên giới Việt-Lào, chú tôi ở Hà Nội đọc sách, theo dõi (và tham gia chút đỉnh) chính trị, viết văn, và mơ màng cùng “nàng tiên nâu”. Sau, cha tôi đồng hoá quân đội, làm thông ngôn (cứu được nhiều ông Việt Minh khỏi bị Pháp bắt giữ!). Di cư, tuổi nhỏ của tôi tiếp tục ở Đa Thọ (Đơn Dương, Đà Lạt). Đa Thọ là một ga xép giữa rừng thông, tôi đi xe lửa hàng ngày lên xuống Đà Lạt - Đa Thọ. Điểm tâm hàng ngày kiểu Tây: bánh mì quết mứt cà chua (hoặc phô-mai, bơ), cà phê sữa nóng. Vào quán cà phê Tùng (tượng trưng của Đà Lạt), uống cà phê đen, tập hút thuốc lá.


Vậy là ông nói lẹm sang tuổi 15-16 [tuổi dậy thì] mà tôi muốn hỏi rồi?


Anh cho rằng 16 tuổi mới là tuổi dậy thì, vì các cụ tiên sinh của chúng ta đã xác định “nữ thập tam, nam thập lục”? Từ năm cuối bậc tiểu học, tôi đã bị ám bởi bờ ngực (và tôi hình dung đôi vú) rất núi lửa của cô giáo ở Đa Thọ. Cho tới bây giờ, nhớ tới Đa Thọ, tôi không quên bờ ngực của cô giáo lớp nhất. Hình ảnh tôi nhớ nhất ở Đa Thọ: mỗi khi có món đồ gì từ Sài Gòn hay bất cứ từ đâu gửi cho mẹ tôi, chỉ cần ghi Của Cô Ba Đa Thọ. Bỏ món đồ ấy bên bụi dã quỳ hay bất cứ đâu trước rừng thông Đa Thọ, mẹ tôi ra lấy về. Ở đây không ai bị mất cắp gì hết. Còn tuổi dậy thì của tôi, tức là năm 16 tuổi, như anh (và các cụ tiên sinh) nói, thì phải thú thật là... hết nói! Lúc ấy, tuy đã về Sài Gòn, học trường trung học Chu Văn An, tháng nào tôi cũng lên Đà Lạt một lần, vì nhớ “người tình” ở xóm Bà Thái (xóm gà móng đỏ!). Tôi ưa thích thú vui đó, nhưng chả ám ảnh gì hết. Thường vì thiếu thốn tạo nên ám ảnh, mà tôi thì có thiếu thốn những “người tình không quá một giờ” đâu! Bên cạnh “những ngày diễm ảo” ở Đà Lạt, tại Sài Gòn tôi học quyền Anh với võ sư người Việt gốc Hoa, Leng-kê-cheng (Lương Kế Chính). Tôi không thể thượng đài vì đôi mắt ngang phẳng với vầng trán, bị trúng đòn chắc chắn bể con ngươi. Nên tôi nhập băng nhóm đi đánh lộn (đánh đấm tay đôi, như trong phim cao bồi Mỹ). Ở trường Chu Văn An khoảng thời gian những năm đầu thập niên 60, băng nhóm Chu Bá Sương khá nổi tiếng, có tôi trong băng đó.


Còn lúc ông thành niên?


Tuổi thành niên, tôi học bậc trung học đệ nhị cấp, ban Văn Chương, tại trường Chu Văn An, một trường công lập danh tiếng của Sài Gòn. Học sinh Chu văn An, ra đời đều là người nổi tiếng về văn nghệ, chiến sĩ tử thủ của quân đội Sài Gòn, và những tay anh chị. Thời gian học ở đây, tôi có những trận đụng độ băng nhóm, bắt đầu làm thơ từ khi đọc tạp chíSáng Tạo, rất thích thơ Thanh Tâm Tuyền, nên ngay những bài thơ đầu, tôi đã làm thơ tự do. Ông Nguyên Sa là thầy dạy tôi môn triết Tây (lớp đệ nhất C), biết tôi làm thơ, hỏi tôi nghĩ sao về thơ của ông và thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn biết tôi so sánh thơ của 2 nhà thơ này ra sao. Tôi nói tôi không thể so sánh giữa thơ và bánh kẹo. Nhưng ông không thể ác cảm với tôi cho được, vì tôi đã kêu gọi bạn học cùng lớp không bạo động, dù thế nào cũng phải tôn sư trọng đạo, do vậy ông thoát chết trong ngày lật đổ chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm. Người ta có bằng chứng ông là mật vụ ngành giáo dục của chế độ. Tôi thuộc loại học sinh giỏi, đóng góp tích cực cho tờ báo xuân của trường, lên bậc đại học cũng vậy. Tôi học ban Triết Tây, làm báo Đối Thoại của trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn, mê triết gia Nietzsche, nhưng mê đi chơi hoang đàng không kém, nên suốt 3 năm ghi danh học tại đây, tôi chỉ thi có 1 lần, được 1 chứng chỉ dự bị triết. Sau vụ “tổng tiến công và nổi dậy” của Việt Cộng tết Mậu Thân (1968), tôi nhập ngũ khóa 2/69 trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức, theo lệnh gọi nhập ngũ (lúc này tôi 24 tuổi). Ra trường, nhận sự vụ lệnh về sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi chỉ làm sĩ quan chỉ huy trung đội có 1 tháng (trại quân ở Long Nguyên, Bến Cát, Bình Dương). Rồi đào ngũ, vì quá nhớ “những ngày diễm ảo”, tôi lên Đà Lạt, sống bụi đời.


Như vậy, ông vào lính năm 24 tuổi. Sau lính, ông làm gì?


Sớm đào ngũ, sau đó tôi trải qua nhiều thứ lính trong thời chiến. Phải kể tên các thứ binh chủng đó, rất dữ dội, tôi thích vậy, tôi vốn thích Hemingway, và phim ảnh về người hùng miền Viễn Tây Hoa Kỳ, bắn chậm thì chết! Sau khi đào ngũ sư đoàn 5 Bộ Binh, tôi bị bắt lính trở lại (khi về Sài Gòn), đưa ra Huế, sư đoàn 1 Hỏa Tuyến, tôi lập tức tình nguyện vào Đại Đội Hắc Báo, lực lượng đặc biệt hỗ trợ cho sư đoàn Hỏa Tuyến. Sém chết nhiều lần, mùa hè đỏ lửa…, dại gì chết sớm, tôi lại đào ngũ. Lại bị bắt lính khi trở về Sài Gòn, lần này, do nghĩ tôi là gã lì lợm, tôi được Biệt đội đặc biệt kỹ thuật (thuộc phòng 7, Tổng Tham mưu) chiếu cố. Biệt đội đặc biệt kỹ thuật được Mỹ huấn luyện ở Cambodia (Cam-pu-chia), hoạt động ở những vùng xôi đậu để bắt sóng truyền tin của Việt Cộng. Chính thời gian làm lính Biệt đội đặc biệt kỹ thuật, mấy ông cố vấn Mỹ quan sát tôi, cho rằng tôi có dấu hiệu bệnh tâm thần. Họ đề nghị đơn vị đưa tôi vào Trại Thần kinh Tâm lý trong Tổng Y viện Cộng Hoà. Tôi có viết trong nhiều truyện ngắn về trại tâm thần này, do đó nhiều người đoán biết tôi từng là bệnh nhân tâm thần. Tôi bị giữ (để chữa trị) trong trại gần 2 năm, bị chạy điện mỗi ngày, tôi hóa khật khùng, trông đích thị là một gã điên.


Rồi sau đó nữa?


Sau do thế của chú tôi, một nhà văn được xem là lý thuyết gia chống Cộng số 1 của miền Nam (tự do), tôi được đưa về làm việc tại Cục Tâm lý chiến, chuyên “sáng tác” hò-vè-ca dao (tâm lý chiến), và những mẩu chuyện tưởng tượng về Việt Cộng: Vi Xi ngậm cọng đu đủ lặn dưới nước, Vi Xi rút móng tay sơn son sơn bạc của phụ nữ… Lúc này tôi có 2 thượng cấp chỉ đạo công việc: trung tá (họa sĩ) Tạ Tỵ, thiếu tá (thi sĩ) Tô Thùy Yên, và tuy lúc này tôi không cấp bậc gì hết, nhưng nói chung ở thứ lính này, sĩ quan hay binh lính đều được tôn trọng do nghề nghiệp chuyên môn. Ông Viên Linh [nhà văn] cũng chỉ là lính không lon, nhưng được trọng nể hơn rất nhiều ông sĩ quan. Ở đơn vị tác chiến, lính và sĩ quan rất khác biệt, đơn giản vì trình độ học vấn. Có bằng tú tài 1 trở lên mới được vào trường đào tạo sĩ quan. Một người bạn tôi, con nhà gia thế, họa sĩ, trong quân đội là đại úy Biệt Động quân. Anh nghe người lính nào hát nhạc lính “sến” cỡ: với lòng nàng anh là hoàng tử ư ư…, là anh lấy roi quất vào người “hoàng tử” ấy liền. Tôi nói, nếu hắn không hát những bài hát “sến” như vậy, hắn đâu phải là lính của anh. Chàng sĩ quan Biệt Động quân cười mà nói: Đã đành số phận kẻ ngu đần (thơ Đỗ Quý Toàn).


Bước vào cái mốc của 30-4-1975, ông ở trong hoàn cảnh như thế nào?


Sau 30-4-1975 tôi vừa đúng 30 tuổi, và hết còn là lính bất cứ binh chủng nào. Lên rừng Tu t’ra (Đơn Dương, Đà Lạt) với ý định sống cùng người Thượng không xong, đi nhặt trái thông khô cho những lò than ở Đà Lạt cũng không xong, tôi về Sài Gòn làm công nhân xưởng đóng tàu ở Nhà Bè (tôi khai có nghề đóng quan tài), và lấy vợ. Tám năm sau tôi thoát cái còng số 8. Lại can tội không giác ngộ, đeo một cái còng số 8 khác, cho tới hôm nay (và có lẽ tới ngày xuống lỗ). Sự thật, hôn nhân đối với tôi không phải nhà tù, mà là một bản hợp đồng. Khi một trong hai người vi phạm điều khoản nào đó, hợp đồng rất dễ bị hủy. Về phụ nữ nói chung, tôi thích có những quan hệ rõ ràng, chóng vánh, dứt khoát. Nên tôi ưa thích những người tình một vài giờ chứ không phải những người tình trăm năm (của Trịnh Công Sơn). Tôi biết có những phụ nữ đáng nhớ lắm, nhưng con đường tình với họ dài dặc lê thê, ớn quá.
Nhiều năm sau 30-4-1975, tôi sống khó khăn, phải làm đủ thứ công việc để tồn tại qua ngày. Rồi cũng có cơ hội sống bằng ngòi bút (bàn phím máy vi tính), đó là việc làm hiện nay: viết báo để sống mà viết văn (và làm thơ).


Sao ông không nói về con đường vào nghiệp văn của mình nhỉ?


Năm 16 - 17 tuổi, tôi học lớp đệ nhị (ban C - Văn Chương), trường Chu Văn An. Tôi chú ý tới một ông thầy dạy môn tiếng Pháp (không phải lớp tôi), ông [thi sĩ] Nguyễn Đăng Thường. Trông ông trẻ đẹp như thi sĩ Arthur Rimbaud, phục sức rất à la mode, rất hợp với dáng vẻ của ông. Nên khi đọc một truyện ngắn của Nguyễn Đăng Thường (sau này ông cho biết là truyện ngắn đầu tay) trên tạp chí Trình Bày, tôi mê quá và khởi sự viết truyện ngắn từ đây. Trong một tháng tôi viết được 3 truyện ngắn, chưa dám gửi báo nào, sau đó biết có chỗ để gửi thì tìm không ra bản thảo của cả 3 truyện ấy, tôi đã để chúng thất lạc. Thầy dạy tôi môn tiếng Pháp lớp đệ nhị C là ông Đặng Tương, có lẽ cùng promotion với ông Nguyễn Đăng Thường. Lúc nào cuốn La Nausée của Sartre cũng nằm trong tay ông. Ông như người bị u uất gì đấy, không dạy học theo chương trình, thường nói triết học hiện sinh với học trò chưa học triết. Một hôm ông tặng tôi cuốn La Nausée mua mới, ông nói: “Em (thay vì con, như tiếng xưng hô giữa thầy trò trước 30-4-1975) nên đọc cuốn này. Em sẽ rất thích nó”. Một tuần lễ sau, ông tự vẫn tại một căn phòng ở building Cửu Long (đường Hai bà Trưng), ông trọ tại đó. Xấp bài thi lục cá nguyệt của lớp đệ nhị C còn để nguyên, ông chưa chấm. Lúc nhân viên ở tòa cao ốc cho thuê phòng này phát hiện, hình như ông đã chết hai, ba ngày rồi. Hình ảnh ông thầy Đặng Tương cứ ám tôi mãi. Tôi nghĩ, điều ấy đã ít nhiều ảnh hưởng tới đời tôi, trong đó tất nhiên có chuyện viết.
Khi Joseph Huỳnh Văn, thi sĩ, người bạn tri âm tri kỷ của tôi chủ trương một tập san văn chương, anh thúc giục tôi viết truyện ngắn, chuyên về truyện ngắn cho tập san, tôi bắt đầu chuyên chú viết truyện ngắn, viết cho mỗi số (cách nhau từ 1 tới 2 tháng). Truyện ngắn "Đại Hồ Cầm" xuất hiện ở đây. Báo ra được 1 ngày, ông Thanh Tâm Tuyền đọc ngay truyện ngắn của tôi. Từ Trường Cao đẳng Quốc phòng, ông gọi điện thoại đến chỗ tôi (Cục Tâm lý chiến) nhiều lần trong ngày (vì tôi đi đâu đó ngoài trại), nhắn tôi hết giờ làm việc ra cà phê vỉa hè đường Gia Long. Tôi nghĩ có chuyện gì. Ông cười rất vui: “Có chuyện gì đâu, đọc cái truyện "Đại Hồ Cầm" của cậu tôi thích quá, mới nhắn cậu ra đây”. Và thêm một câu nữa của ông Thanh Tâm Tuyền, người tôi quý trọng nhất trong văn nghệ (và cả trong cuộc sống): “Tôi cũng muốn viết một loạt truyện ngắn như thế này”. Cái câu thêm này đã thêm sức cho tôi trong công việc viết văn.


Mong anh nói thêm về quãng thời gian ở nhà thương điên?


Xã hội nào cũng có những chuẩn mực của nó. Ai xa rời chuẩn mực xã hội, ít hoặc nhiều, có thể bị xem là hơi khùng hoặc rất điên. Và có hai loại để gọi là điên, nên Tổng Y viện Cộng Hòa (của quân đội trước 30-4-1975) chia hai trại thần kinh: Thần kinh Tâm lý và Thần kinh Giải phẫu. Thứ điên do cơ thể có trục trặc gì đó tạo ra, điều trị ở trại Thần kinh Giải phẫu. Họ đưa tôi vào trại kia, như tên gọi, điên do tâm lý (bị cú ‘sốc’ nào đó, bị ám ảnh gì đó…). Tôi bảo đảm, ở tất cả những nhà thương điên lớn nhỏ khắp Việt Nam, chưa có khả năng chữa trị bệnh tâm thần. Vậy phải trả lời (thêm): Tôi từng ở nhà thương điên, còn tôi có điên không là chuyện khác. Điều này thì anh có thể nhận xét. Anh có biết danh ngôn phương Tây này: Il y a toujours un peu de folie dans l’amour. Chắc chắn tôi đã điên nặng, vì tình yêu (rõ ràng, cụ thể, chóng vánh).


Ừ cái lý lẽ về nhà thương điên của ông cũng đúng… Rời nhà thương điên để sống cuộc sống bình thường đâu dễ, vậy mà làm được, lại viết được vài trăm tác phẩm nữa, cũng lạ!


Đến ngày này (12/8/2005), tôi viết cả thảy khoảng 100 truyện ngắn & 100 bài thơ, đều đã in trong 2 tập truyện ngắn & 1 tập thơ; và các báo, kể cả báo in & báo mạng internet. Điểm chung trong tất cả những gì tôi viết, cả thơ & truyện ngắn, là cách viết, cách nhìn… còn cách viết-cách nhìn như thế nào, thì mời đọc. Có lẽ câu trả lời làm anh ngỡ ngàng chăng?


Hoà với không khí tiếp thị và quảng bá tác phẩm theo nhiều hình thức như hiện nay. Nếu bị buộc nói về công việc sáng tác và thưởng thức các tác phẩm của mình, ông sẽ nói sao?


Nếu có một mệnh lệnh của kẻ có uy quyền ngang với thần chết, buộc tôi nói rằng tôi đã làm tác giả & độc giả của chính mình ra sao, thì tôi xin thưa: Trước đây tôi viết phải có cảm hứng, khi viết, một tay tôi cầm cây viết, một tay tôi cầm cục tẩy. Viết xong, bằng mọi giá, tôi tìm tư thế thoải mái nhất để tự thưởng thức mình. Sau đó, tôi có sẵn tự tin và niềm sung sướng để tìm người chia xẻ. Bây giờ, tôi viết, vẫn cầm cục tẩy, nhưng để tẩy chỗ nào mà trước đây tôi đã dùng nó để thay thế vào chỗ tôi đã tẩy. Sau đó, tôi đọc với con mắt của một nhà phê bình tưởng tượng nào đó sẽ soi mói vào để chê bai. Tôi đưa cho một người bạn tôi tin cậy đọc, và hỏi họ thấy tôi viết ra sao.


Nghĩa là ông đặt một con người khác vào tác phẩm của mình? Rất khác với cách của các nhà văn khác?


Tôi làm thơ & tôi viết truyện ngắn là một. Thú thật, bây giờ tôi mới đưa thơ tôi đến gần văn của tôi. Và nói riêng về truyện ngắn, có khi tôi lại làm ngược, nghĩa là đưa truyện ngắn về gần với thơ, tất nhiên là thứ thơ đã đến gần văn của tôi như bây giờ.
Vì thế, anh có là thần chết cũng không buộc được tôi so sánh mình với bất cứ tác giả nào khác. Còn tự nói về mình? Nếu anh thật sự muốn nghe tôi tự nói về mình, tôi sẽ nhờ anh nói giùm vậy.


Ông cũng không nhìn lại suốt chặng đường văn học của mình không?


Tôi không thích nhìn lại những gì tôi đã đăng báo, in sách. Tôi đã xong việc với nó rồi. Tôi chỉ bận tâm với cái tôi sắp viết, nghĩa là bận tâm làm sao để không lặp lại cái chỉ đáng giá viết ra 1 lần, khai thác (đào sâu & nhìn xa) 1 lần đã là quá đủ.


Thế nếu phải hỏi ông về văn học Sài gòn trước và sau 1975?


Trước 30-4-1975, Sài Gòn hiển nhiên có một nền văn học, tôi chui ra từ đó. Tôi viết gì thì viết, tới sau 30-4-1975, tôi chỉ có thể viết như xưa trên sách báo in của người Sài Gòn ở hải ngoại, và dĩ nhiên trên báo mạng Internet. Văn nghệ & tự do là cặp song sinh đặc biệt cùng một cuống rốn. Không có đủ tự do, thì đừng nói gì nhiều.


Rồi cả những tác giả khẳng định tên tuổi mình sau 1975?


Bạn văn nghệ của tôi hiện nay toàn là người viết sau năm 1975. Tất nhiên tôi chỉ thích chơi với bạn văn nghệ tôi cho là ra hồn, đáng giá, hoặc đáng chờ đợi. Số người này cũng không đến nỗi quá ít. Về văn, tác giả (chắc là viết sau năm 1975) tôi ưa hơn cả, là một nhà văn nữ ở miền Bắc, nay lại sống ở nước ngoài, Phạm Thị Hoài. Về thơ, Nguyễn Quốc Chánh. Chả cần phải tôi nói ra anh mới biết, Phạm Thị Hoài mà tôi chưa từng gặp mặt, qua những gì tác giả đã viết: một con người thông minh, thẳng thắn, trung thực, cóc sợ cái quái gì… Tôi cũng sung sướng không kém khi có người bạn nhỏ tuổi hơn tôi đúng 1 giáp, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh. Chánh có thể đái ra quần khi nghe tiếng gõ cửa lúc nửa đêm, nhưng Chánh vẫn là anh chàng cóc sợ cái gì hết, khi viết… Vậy thì còn cần nói gì thêm, khi chúng ta đã có một nhà văn và một nhà thơ đặc chất phản kháng, giữa thời đại của sự tha hóa con người lên tới cao độ ở xứ sở chúng ta?


Rồi cả chuyện so sánh nền văn học với các nền văn học thế giới?


Văn học Việt Nam & văn học thế giới ư? Tại sao phải thử đặt cái này vào trong cái kia làm chi cho buồn bực, khi mình biết cái lũy tre xanh của làng xã mình có đốn chặt hàng trăm lần cũng khó mà tiêu hủy được.


Chẳng lẽ ông không quan tâm bất kỳ điều gì?


Xứ sở ta, sau 1975, tôi không thấy có một biến chuyển tích cực nào, mà ngược lại, vô số biến chuyển tiêu cực. Vấn nạn lớn nhất hiện nay của xứ sở ta, là làm sao để có chút ánh sáng cuối đường hầm dài dằng dặc như dãy núi Trường Sơn kia, đưa văn minh vào đời sống của dân Việt.
Nói riêng về hiện trạng giáo dục Việt Nam chẳng hạn. Chỉ có được một chút hi vọng ở chỗ những người có trách nhiệm về giáo dục đang loay hoay để làm sao thay đổi cái hiện trạng giáo dục não nề, ấu trĩ và bỉ ổi này.


Vậy thì đi sâu vào tác phẩm một tí, ông bắt đầu với một truyện ngắn như thế nào?


Tôi bắt đầu 1 truyện ngắn bằng 1 nhan đề truyện. Hoặc có cái nhan đề, rồi ngồi trước bàn phím máy vi tính, hoặc cứ ngồi trước, cố nghĩ ra cái nhan đề.


Một tác phẩm thành công, được ông hình dung?


Một tác phẩm thành công, mà cụ thể như bài thơ chẳng hạn. Nó sẽ mang người đọc (nhưng mang mình trước đã) ra khỏi tình trạng tinh thần hiện tại. Bài thơ có thể làm mình hưng phấn như chưa từng hưng phấn, có thể làm mình muốn chết một cách hân hoan. Cả yêu đời & chán đời đều mãnh liệt. Nó như buổi trưa mà nhà văn Cioran nói: chỉ những kẻ cực kỳ yêu đời & cực kỳ chán đời mới yêu thích thời khắc ấy.
Một truyện ngắn thành công thức tỉnh cái đang ngủ, cái u mê, cái lãng quên trong ta. Nó có thể chẳng giống truyện ngắn như ta biết, nó là bất kỳ cái gì nhà văn có thể viết, nhưng nó khiến người đọc thích thú hơn bất kỳ truyện ngắn nào được xác định là truyện ngắn. Vậy là thành công rồi.


Ông đã có được nó chưa?


Tôi luôn nghĩ mình có ít nhất một cơ hội để nói rằng mình có một tác phẩm thành công; cơ hội đó đang ở trong tác phẩm mà tôi sẽ viết. Tại sao ư? Tại vì tôi chưa viết được tác phẩm đó, một tác phẩm đang chờ đợi tôi ở chỗ nào đó, rất gần hoặc ở mãi xa kia, mà tôi cũng chưa biết.


Có khi nào tự hỏi, mình viết văn vì lý do gì?


Viết văn vì lý do gì? Câu hỏi hơi bị kỳ quặc. Tôi viết văn vì không thể không viết. Cần nói thêm tôi sẽ chỉ có thể nói, rất thành thật: Tôi tin ở khả năng viết văn của mình.


Quan điểm này được ông gìn giữ từ khi mới bắt đầu cầm bút tới giờ?


Từ lúc 20 tuổi tới bây giờ, tất nhiên quan niệm về đời sống, về nghiệp văn có nhiều dịch chuyển; dịch chuyển chứ không biến chuyển. Nhưng may mắn, tôi nghĩ vậy, càng nhiều tuổi, những gì đấy trong quan niệm của tôi, về đời sống & nghiệp văn, đều tăng tiến, từ dịu dàng tới mãnh liệt. Bây giờ say mê cái gì, tôi luôn tự nhủ: (say mê tới) chết bỏ.


Với ông, đồng tiền có ý nghĩa gì?


Một xã hội thì đương nhiên sức khơi gợi và quán chiếu của đồng tiền có một ảnh hưởng nhất định, nhưng một cá nhân, là tôi, đồng tiền chả có ảnh hưởng gì, dù một chút xíu. Tôi sẵn sàng xin tiền ăn cơm, nếu tôi đói bụng mà chẳng có xu trong túi.


Nhiều người nói Nguyễn Đạt già mà vẫn còn sung. Mà sung thì rất nguy hiểm cho sức khoẻ. Ông nghĩ gì về sự nguy hiểm này?


Đúng ra thì tôi viết là sung nhất, những các khác sung thường thôi. Nhà viết phê bình, tiểu luận, khảo luận đáng nể Nguyễn Hưng Quốc từng email cho tôi, rằng ông khâm phục sự viết liên tu bất tận, đặc biệt là những cái gọi là truyện ngắn của tôi gửi báo mạng Tiền Vệ… Tai sao ư? Tôi tiết lộ nhé: tôi gặp một phụ nữ mà đại triết gia Nietzsche bảo (rằng) có những phụ nữ giúp ta (cực kỳ) hưng phấn trong sáng tạo… Người đó là người tôi đã viết (về) rất nhiều lần, nghĩa là trong rất nhiều truyện ngắn của tôi (ở Tiền Vệ).
Còn quan niệm của tôi về 60 năm cuộc đời? Anh có từng nghe ca từ nhạc (sến) này, ở Sài Gòn (và miền Nam tự do, trước 30-4-1975): Anh ơi có bao nhiêu / 60 năm cuộc đời… Tôi rất vui khi ai xem tướng cũng nói tôi có tuổi thọ cao. Và tôi rất ghét khi ai khen tôi đẹp lão. Tôi thích người Pháp, họ ghét tiếng già, lão, gọi các lão niên là homme agé. Tuổi đời chẳng ăn chung gì hết, đó là tuổi biểu kiến. Tuổi thực sự là tuổi của tâm hồn. Tâm hồn trẻ ắt nhiên có sức sống như tuổi trẻ. Râu tôi bạc từ năm 40 tuổi, lúc đó nhà thơ Bùi Giáng viết trên giấy bạc trong bao thuốc lá mấy câu thơ tặng tôi, có câu: Râu ria bạc trắng tâm hồn xanh um.


Trước khi kết thúc bài phỏng vấn này, ông nghĩ gì về anh trai mình, nhà văn-dịch giả Nguyễn Nhật Duật?


Anh muốn biết về anh trai tôi, Nguyễn Nhật Duật như một nhà văn, một dịch giả ư! Ngoài tiếc thương của người em, tôi tiếc thương anh tôi là một cây bút viết tiểu luận, khảo luận văn học - triết học đáng trân trọng. Gọi Nguyễn Nhật Duật là nhà văn thì hơi hụt. Tôi được đọc một truyện ngắn, có lẽ là truyện ngắn duy nhất của Nguyễn Nhật Duật, thấy bớt nể anh mình, một cây bút tiểu luận, khảo luận thì đáng nể hơn.


Cuối cùng, ông nghĩ gì khi trả lời bài phỏng vấn này?


Nếu có duyên thì hẹn anh một dịp khác, tôi nghĩ còn hơi sớm để trả lời tất cả và chi tiết các câu hỏi của anh, rất là nhiều. Lần này chỉ tập dượt và tóm gọn thôi.


Xin chúc ông sức khoẻ. Và cảm ơn vì sự nhiệt tình trả lời email trong hơn một tháng, từ ngày 04-8 đến 24-9-2005.


La Hán Phòng, 25-9-2005.
Vì một vài lý do khách quan, mà sau gần 4 tháng, bài phỏng vấn này mới được gởi đến Tiền Vệ.










Một truyện ngắn thành công thức tỉnh cái đang ngủ, cái u mê, cái lãng quên trong ta. Nó có thể chẳng giống truyện ngắn như ta biết, nó là bất kỳ cái gì nhà văn có thể viết, nhưng nó khiến người đọc thích thú hơn bất kỳ truyện ngắn nào được xác định là truyện ngắn.















Tham Khảo thêm về tác giả Nguyễn Đạt







Nguyễn Đạt trên Tiền Vệ

tác phẩm 


... Đường xa đường xa. Xa tới mãi / Tới cõi sơn cùng thủy tận kia / Người đi nào khác người xưa ấy / Lẫn trong mây chẳng hẹn ngày về... | ... Khi bóng tối của đêm bắt đầu bao phủ / Ánh sáng cuối của ngày tắt rồi / Tôi sẽ biết mọi người sẽ biết / Cái chết nín thinh. Kho báu mở lời...

Người ở đồn Kim Thạch (truyện / tuỳ bút) 
... Sau cái chết do sự bất cẩn của trung tá Tốn, với sự xác nhận của chính nạn nhân, Sơn vẫn bị thuyên chuyển ra một đơn vị nghĩa quân vùng Ban Mê Thuột, nơi chiến tranh đang diễn ra khốc liệt. Sơn bị thương, phải cắt đi một cánh tay, khúc cắt sát bờ vai, cắt đứt giấc mơ võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp của Sơn. Rất có thể chính cánh tay cụt hết ấy đã sớm đưa Sơn tới cái chết thảm hại vào năm 2012 tại Đinh Văn - Lâm Hà, gần Đà Lạt, vốn là vùng kinh-tế-mới nhà nước cộng sản lập nên... (...)

Vĩnh biệt Người Ngồi Đội Mũ (truyện / tuỳ bút) 
[TƯỞNG NIỆM DƯƠNG NGHIỄM MẬU (1936-2016)] ... Lần gặp Dương Nghiễm Mậu gần nhất cách đây một năm, thấy ông vẫn khoẻ mạnh, vẫn tươi trẻ ở một người trọng tuổi. Thật ngỡ ngàng nghe tin ông mất, dù tuổi thọ của ông cũng không là mỏng. Có lòng tham yêu mến tôi cũng chẳng ngại, để được thấy nhà văn Dương Nghiễm Mậu còn ở trên đời, nên ông mất đi tôi rất tiếc thương. Cầu mong linh hồn ông an vui chốn vĩnh hằng... (...)

Một chuyện buồn (truyện / tuỳ bút) 
... Sau câu chuyện, anh ta bảo đấy là một chuyện buồn. Tôi bảo anh ta chớ buồn làm chi, và nhắc lại nhận xét của anh ta: tình yêu thơ của cô ấy gần giống với một dục vọng. “Chẳng phải chỉ gần giống với một dục vọng, mà đích thực là một dục vọng. Nhà tiên tri Muhammad bảo rằng: Thượng đế trao cho nhân loại mười phần dục vọng, nam giới chỉ có một phần, nữ giới có chín phần!”... (...)

Kẻ lạ (thơ) 
Hơn nửa thế kỷ trôi qua / Ao Bà Om Trà Vinh một thuở / Hai cục đá cho hai người / Kẻ ngồi không ngó gì ngoài mỗi đơn côi...

Chiều khởi từ độ không, tới thế giới này, trong con ốc sên / Gã tàn tật trong cái nhìn nhãn hiệu nền văn minh / Ra đi, mang nặng ký ức những điêu tàn lấp lú / Trận gió cuồng mông muội tràn trề / Thời khắc bôi xoá. // Gã ra đi / Bầu trời ấy dửng dưng, mây phiêu dạt, vắng tích sử...

... Điệu cười của hắn có ý nói... / Kiểu nói của hắn tượng trưng cho... / Quần áo hắn vận chứng tỏ rằng... / Giày vớ hắn mang cho ta biết... / Nàng mỉm nụ bày tỏ: / Điệu cười Kiểu nói Quần áo Giày vớ / Âm thanh Thịt xương Bàn chưn...

Cần thiết như bài thơ tinh trong như ánh trăng trau chuốt lá cây như đêm hoài vọng trẻ thơ dỗ dành vùng nhăn nhúm mệt mỏi cần thiết như bài thơ giản dị như lời ví dụ thuở ban sơ như sớm mai nhớ buổi chiều tắt hẹn hò ánh sáng trong mơ...

Tiếng sóng (thơ) 
Bước xuống sau những vòng xe lăn / Phố ven biển / Bước lên đôi bước bậc thềm / Quán Uno đợi hẹn. // Cơn say dịu dàng / Sóng xa gần. Biển mênh mông / Cơn say mong manh. Chiều tối đậm / Màu đêm tối mấy cũng đành...

... Có thể hắn ngủ lại sau một đêm trắng / Đêm trắng trừ những con quạ rất đen / Lúc này chúng đầy chật hostel / Mọi người đều nghe tiếng reo của điện thoại / Lúc hắn quơ tay chống cự bầy chim...

Bằng hữu. Nơi chốn. Hiền nhân. (truyện / tuỳ bút) 
Trang Tử, trong Nam Hoa Kinh, nói về bằng hữu: Bạn với nhau phải vì nhau những chỗ không vì nhau... Tôi quý trọng bạn, muốn gọi tình bạn là đạo bằng hữu. Tình yêu đôi lứa - hôn phối – và bằng hữu là những lãnh địa, thế giới khác nhau. Chẳng có tình yêu đôi lứa, chẳng kết hôn, cũng không sao hết. Tôi ái ngại những kẻ không quý trọng không tha thiết bằng hữu, những người không có bạn... (...)

Quá nhiều (thơ) 
Yêu quá nhiều / Quá nhiều lần chết / Gấp bội những lần chết hụt / Của hắn thời chiến tranh / Lẩn trốn trong những dòng thơ / Những chữ trên trang báo trang sách / Cùng bóng ma hiện hình / Phải chính hắn đó?...

... Dù sao dù sao dù sao dù sao / Mặt đất bầu trời sẽ quá gần nhau / Tay nắm tay bình thường là vậy / Dù bước chân xuân có chậm thế nào...

Đừng hỏi tại sao / Những cây bàng là những linh hồn / Khi Yên Thao đã tựa đầu / Quán nhỏ phố không màu / Một cây bàng ở đó / Ai biết tại sao...

[TƯỞNG NIỆM ĐINH CƯỜNG (1939-2016)] ... Có thể nào tôi trở lại Dran / Nơi vết thương dồn tụ những nấm mộ / Đã tới đây không biết bao lần / Tôi không thể trở lại thêm lần nào nữa / Ôi người bạn căn cốt hiền nhân / Ôi Đinh Cường...

Khúc hát ngắn ngủi & bất tuyệt / Khoảnh khắc của tất cả quá khứ / Tất cả hiện tại / Tất cả tương lai / Thời gian của ảo ảnh của Oscar Wilde / Nào ai biết. // Hắn biết duy nhất đây là khúc hát / Nhỏ bằng một mẩu xương chân...

... Sớm mai ấy / Hai người tựa đầu một thân cây / Phố nhỏ lá bàng rơi rụng / Ken chặt giữa lời. // Sớm mai ấy hắn rơi cùng lá...

Vĩnh biệt Dương Kiền (ký sự / tường thuật) 
[TƯỞNG NIỆM DƯƠNG KIỀN (1939-2015)] ... Đấy là gương mặt một thi sĩ mà tôi có thể tưởng tượng. Đấy là lần duy nhất tôi gặp ông ở quán cà-phê Hồng trên đường Pasteur, đối diện Viện Pasteur - Sài Gòn. Ông ngồi trầm lặng, bàn tay nắm chặt ly cà-phê đá; tôi nhớ hoạ phẩm Portrait de Poète Sabartés của Picasso, tôi gọi ông là thi sĩ từ lúc đó... (...)

... James Dean & hắn đều là vận động viên / Những vận động viên nhạy cảm / của Antonin Artaud / Khán giả đừng ai hỏi gì / Khi chúng tôi điên trên sàn diễn...

Một lần tôi đi qua cây cầu / Cầu rất dài tôi qua rất lâu / Không sớm mai cũng chẳng phải chiều / Tối xuống đèn lên dòng sông rất sâu...

Người đàn bà miền thượng (truyện / tuỳ bút) 
... Chị ấy có một vẻ đẹp thô sơ mà ấm áp, một vẻ man dại của người thiểu số, chả biết là dân tộc K’ho hay Kôhô. Chị ấy như có luồng từ trường hút tôi đi theo khắp đồi trà. Chị ấy thong thả đi như vậy, thỉnh thoảng dừng giây lát, xốc cái gùi sau lưng cho thăng bằng; trong gùi là bó củi. Tôi đi theo chị ấy, đi theo sức hút của từ trường... (...)

... Nơi Hiệp và tôi đã đi qua / Nơi Hiệp và tôi đã ngồi lại / Buổi chiều, quán cà-phê ở Di Linh, cửa sổ rộng mưa mù / Buổi chiều vĩnh viễn trong ký ức, ắt hẳn sẽ dần mòn / trước lúc xuống đáy mồ ở Oakland hay ở Sài Gòn...

Đôi mắt (thơ) 
Hai dấu chấm rất nhỏ. Như sự lẻ loi / Hai dấu chấm rất đen. Sự kết tinh / của đêm cũng không hơn chừng ấy / Hai dấu chấm ban sơ chỉ để nhìn tôi. // Hai dấu chấm rất nhỏ / Những vì sao trên trời / Rung động nhẹ nhàng ngưng đọng / Giữa cảm nhận bồi hồi...

Đẫm hồn muôn xưa / Mưa cổ điển / Từ thuở Vương Duy mưa ở Vị Thành. // Cơn mưa bất chợt / Tôi xuống phố / Đêm tràn ngập hết rồi / Mưa vội thêm nhanh...

Cơn gió u u (thơ) 
Vì đâu cơn gió u u / Cơn say ngầy ngật / Không nghe tiếng ly vỡ / Để nhận ra tinh thể cát. // Một tên tuổi / Một tiếng cười / Và nhiều hơn nữa / Cho một ngày dài cho cơn say...

Tặng vật (thơ) 
Tặng em quả thông khô / Tuổi thơ anh chạy nhảy khắp đồi Dran / Vô vàn trái nụ / Có thống khổ có hân hoan / Kết lớp mấy tầng. // Tặng em tinh thể thảo mộc / Quả thông khô quả thông khô / Crystalisation stendhalienne / Không phải muối / Hành trình của cát...

Em không hề biết / Cát có mỏi mòn chừng ấy năm / Khi em mười lăm tuổi / Chiến tranh vừa dứt. // Em làm thơ / Nhật ký của trống vắng / Của bơ vơ / Của hạt cát / Của ngôn ngữ bao la sa mạc...

Quyển sách (thơ) 
... Đêm qua tôi không mơ / Tuy nhiên thấy mình hấp hối / Bên quyển sách rất dày. / Tuy nhiên tuy nhiên / Dù sao giếng sâu / Nơi tôi đã ra đời / Nơi để tôi chết / Có quyển sách mang tên cát...

... Hắn đi quành con đường khác rất dài. / Con đường khác xa mịt mù trí nhớ / Ôi em / Sao lối lãng quên kia / Hồi chuông vẫn gióng lên hối hả mỗi ngày...

Linh-mục-X (truyện / tuỳ bút) 
... Nhớ tới cha xứ Don Camillo mà anh bảo là mình-nuôi-giữ-mãi-mãi-hình-ảnh của ông thánh ấy, tôi tin chắc anh không thể quên sự đối đầu gay cấn giữa Don Camillo và tay thị trưởng cộng sản ở một địa phương nước Ý, thế kỷ XX... (...)

... Ave Maria / Ước nguyện tàn hơi / Hắn ngước nhìn bầu trời xa lạ / Trắng trong đen đúa hết rồi. // Và thời khắc của loài chuột cống / Nước sình hôi / Tràn lên tràn lên mãi / Phút giây ngập úng bầu trời...

Kín cửa (truyện / tuỳ bút) 
Từ thâm tâm tôi xem Nhữ là người bạn thân thiết, tuy nhiên lâu nay chúng tôi không có dịp gặp nhau. Một bạn cho biết, lâu nay Nhữ rơi vào tình trạng của một người bệnh trầm cảm, suốt ngày anh ngồi trong bóng tối của quán Kín Cửa. Quán cà-phê này không tên, người bạn gọi tên quán như vậy... (...)

Căn nhà ở chân đồi (truyện / tuỳ bút) 
... Nhà thơ không nói bất cứ điều gì về căn nhà gỗ ván thông. Tôi cho rằng sự im lặng của nhà thơ có nghĩa là nhà thơ không hề biết căn nhà gỗ ván thông này. Căn-nhà-gỗ-phần-mộ-thanh-xuân hẳn là một căn nhà gỗ ván thông khác, nay còn hay mất không ai biết được... (...)

Hoa dã quỳ & bài đếm số (truyện / tuỳ bút) 
... Bài đếm số đã hình thành lúc tôi thức hay khi tôi mơ? Một hai ba bốn thôi dừng. Năm sáu bảy tám vô chừng tràn lan. Nắng trưa rộ bóng cây dàn. Nhớ ông Giáng chợt chuyển sang ông Tuyền. Một bên tỉnh một bên điên. Năm sáu bảy tám dấn lên chín mười... (...)

Bạn & con mèo của Đăng (truyện / tuỳ bút) 
... “Con mèo của ông mất tiêu rồi phải hôn. Dzô hỏi cái nhà có cửa sơn xanh đỏ trong hẻm coi. Hôm qua tui thấy nguyên bộ lông con mèo trong thùng rác nhà đó. Người chi mà tàn nhẫn... Cũng bởi con mèo to mập, người ưa món thịt tiểu hổ ham lắm.” Người đổ rác nói... (...)

... Giả dụ đấng God: này cha đẻ Hamlet / Ta chẳng là gì. Ta chỉ ôm mộng toàn thế giới / như con mơ tác phẩm của mình. / William Shakespeare trả lời ngay lúc ấy: / Everything & Nothing...

Chiếc lá (thơ) 
Giữa quyển sách cũ của hắn / Một ngày Sài Gòn / Chiếc lá lìa cành / Ai đặt bày ở đó? / Sau một buổi chiều / Trước lúc đi xa // Hắn còn lại gì / Quyển sách cũ / Chiếc lá ép giữa hai trang / Chiếc lá vàng / Đã sậm / Nhiều chỗ ố hoen...

Ngựa buồn (truyện / tuỳ bút) 
... Những ngày tháng sống bên chuồng ngựa, đã nhiều đêm nghe cái tiếng mũi sụt sịt của ngựa. Con ngựa ấy cảm thương gì mà sụt sịt hoài, và con ngựa ấy có đau bịnh thấp khớp không mà gõ móng xuống sàn thâu đêm. Hay con ngựa ấy bồn chồn vì cái ảo vọng của một cuộc lữ hành, con ngựa kéo xe khá gầy còm... (...)

... Văn nghệ chẳng để làm gì / Hiển nhiên sự thật / Hắn la to điều ấy / Mọi người gần xa đều rõ / Không ai chờ nghe / Có thể vì chối tai / Thôi bất khả rồi / Hắn quá cô đơn / Còn mỗi con đường văn nghệ để tiếp tục...

Ma núi Tutr’a (truyện / tuỳ bút) 
... Hoàng hôn chập choạng. Đóm đóm chập chờn. Chúng ở đâu nhiều thế, điểm xuyết khắp màn đêm, dán lên trái núi ở phía xa chừng nửa cây số. Chúng giống những tia lấp lánh của hàng triệu giọt mưa, được luồng ánh sáng huyễn hoặc từ nơi nào chiếu tới. Một loài hoang dã khổng lồ, dị hình dị dạng, giương đôi cánh trắng nhởn ôm trái núi... (...)

Tử thi (truyện / tuỳ bút) 
Buổi chiều cuối tháng chạp 2014, sao tôi không thể quên những hoàng hôn cách đây bốn mươi năm trước. Những tháng ngày ủ ê sau biến cố đau thương 30 tháng tư, 1975. Những hoàng hôn mưa lê thê níu chân người ê ẩm, nơi một quán cóc ở trung tâm Sài Gòn. Hoàng thi sĩ và tôi chẳng biết tới lúc nào là lúc đứng dậy ra về... (...)

Người chăn vịt chạy đồng (truyện / tuỳ bút) 
... Anh Bảo cười như tiếng khà sau hớp rượu, nói chậm và rõ: “Trước khi rời Liên Nghĩa, anh Thi với tôi có một bữa rượu. Anh ấy bảo phải gặp lại đàn vịt. Đêm nào anh ấy cũng mơ thấy chúng trở về, không thiếu con nào, kêu đòi sum họp...” (...)

Từ lâu rừng Than Uyên / Rất hiển nhiên / Gặp lò lửa thiêu gặp lũ sâu mọt / Hoá kiếp đổi đời nội thất / Tôi biết tìm rừng nơi đâu / Tìm em nơi đâu?...

Nằm ngủ ở vùng trời giá băng / Nằm ngủ trong rừng thông rừng thông / Những kẻ cô đơn cất tiếng hát // Đêm tối đêm tối cây rối hàng / Đốm lửa điếu thuốc soi trên mặt / Nằm ngủ dưng không giọt lệ tràn...

... Tôi lại đùa mũ sắt / Quay trên đầu ngón tay / Chiếc trực thăng sà xuống / Rạp những đầu cỏ may // Tôi lại đùa mũ sắt / Mây đầy núi đoạ đày / Bao mộng đời chết tiệt / Rừng trút lá tơi bời...

Áo trắng phi trường (truyện / tuỳ bút) 
... Hoá ra anh ta có tới, đứng chỗ nào đó ở nhà ga, ngắm nhìn chị H trong chiếc áo dài trắng anh ta rất ưa thích. Anh ta viết dòng thơ cùng bức hoạ gửi theo thư, chị H nhận được sau đó hai ngày, khi chị vừa về tới nhà tại Mỹ: Em đi. Áo trắng buốt hồn tôi... (...)

Chiếc ghế của Jimmy (truyện / tuỳ bút) 
Hai chiếc ghế ám ảnh suốt đời tôi: chiếc ghế tre của mẹ tôi; chiếc ghế sắt của chàng diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ chết sớm. Chiếc ghế tre vẫn xuất hiện cùng mẹ tôi, mỗi lần bà từ cõi khác về thăm tôi. Chiếc ghế sắt... hiển nhiên là chiếc ghế của chàng thanh niên tài hoa mệnh yểu... (...)

Chiếc ghế (truyện / tuỳ bút) 
... Một lần anh ấy ngủ lại ở nhà tôi; nửa đêm tôi chợt thức giấc, thấy anh ấy đang đi trên bờ tay vịn cầu thang, từ lầu xuống. Tôi không lên tiếng gọi, sợ anh ấy tỉnh thức mà té ngã. Anh ấy bị mộng du. Chính anh ấy tự mang chiếc ghế cho mẹ ngồi mà không biết... (...)

Hình bóng một thời (truyện / tuỳ bút) 
Năm học 1962-1963, cách nay trên nửa thế kỷ... Hắn không thể quên hai người thầy rất trẻ, hơn hắn năm - sáu tuổi, về dạy môn Pháp ngữ tại trường trung học Chu Văn An. Thầy Đặng Tương dạy lớp đệ nhị C; thầy Nguyễn Đăng Thường dạy lớp nào đó, ban A hay B hắn không nhớ rõ... (...)

Bướm vàng (truyện / tuỳ bút) 
... Hắn ngó bức hoạ nơi góc phòng. Đấy là bức hoạ bướm vàng. Đấy là bức hoạ hình xác bướm. Đấy là gì nữa? Hắn chợt thấy bức hoạ bướm vàng là cái mặt nạ, che kín sự thật hắn không bao giờ hiểu được... (...)

Kẻ hư cấu (truyện / tuỳ bút) 
... Chúng tôi đặt tên anh ta là Kẻ-hư-cấu; những chuyện anh ta kể không khác sản phẩm tưởng tượng của nhà văn. Anh ta bảo anh ta không viết văn làm thơ gì hết, chỉ rong chơi mà thôi. Anh ta kể câu chuyện trong thời gian anh ta bặt bóng vừa qua. “Giữa cánh đồng trống ở Cát Lái, hẳn là biệt thự cổ xưa của những người Bồ-đào-nha từng sống nơi này...” (...)

Một điệu buồn (truyện / tuỳ bút) 
“... Buổi sáng ấy tôi cùng người yêu tới Khổ tu viện Xi-tô ở Cát Lái, ngoại ô Sài Gòn. Ngay sau khi chúng tôi ôm hôn nhau bên một nhà thờ trong khuôn viên Khổ tu viện, ông Trùm nhà thờ ở đâu xuất hiện, mắng nhiếc, tát tai tôi nữa. Khuya, nhà thờ ấy hiện trong giấc mơ. Tôi vẽ lại theo ký ức giấc mơ: một nhà thờ cổ xưa, cũ và buồn kỳ lạ.” (...)

Xương Rồng Đen (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi đoán Xương Rồng Đen chờ thanh toán ai đó tại quán này. Từng nghe Điền Khắc Kim nói về Xương Rồng Đen: lưỡi dao bấm nhanh như cắt, trúng ngay đích điểm. Xin-tí-huyết của ai đó. Cho ai đó một bài học nhớ đời... Để lãnh một số tiền, dĩ nhiên không ít. Một số tiền xứng đáng với tên tuổi Xương Rồng Đen... (...)

Màu của đá (thơ) 
Màu của đá hay máu của đá / Dưng không chợt thấy đá lên hình / Gió núi tràn ngàn năm buốt giá / Hiện nguyên màu máu đá băng trinh...

Chuột núi ở Dran (truyện / tuỳ bút) 
... Nàng nằm xuống. Bất động bên tôi. Những con chuột núi và cơn đói khát. Chúng hung hãn rúc rỉa khắp khuôn mặt thanh tân. Nàng vẫn bất động. Tôi thấu hiểu tâm tư nàng. Vì tình yêu sẵn lòng đón nhận cái chết. Tựa vị nữ thánh tử vì đạo. Tôi bất động trước mọi thứ đang diễn ra. Nàng đã chết. Những con chuột núi no căng nằm sõng soài. Chúng cũng đã chết... (...)

Khách lạ (truyện / tuỳ bút) 
... Anh ra cửa hang. Đi hái những lá trà tươi nhất của núi Kỳ Vân. Sẽ pha ấm trà. Uống cùng người em gái vị nữ tu quá cố. Trở lại. Anh đứng sững trước thân thể thiếu nữ bất động trên nền hang. Ánh sáng mờ nhạt của chiều. Những mảnh vỡ của đá... (...)

... Dốc ngược đầu xuống / Thức hay ngủ / Bặt thinh hay động đậy / Đêm cũng trắng hay không màu...

Giấc mơ (truyện / tuỳ bút) 
Anh không nhớ được từ lúc nào anh quen biết chị. Chị đã nghỉ hưu, mỗi sáng vẫn dạy thêm một hai giờ tại nhà. Xong, có thể một mình hoặc cùng bạn, uống cà-phê ở một quán sân vườn. Anh không nhớ được từ lúc nào. Từ lúc nào chị hiển hiện, nhẹ bỗng áng mây. Les merveilleux nuages. Áng mây nhẹ bỗng, dàn trôi trong tâm tưởng... (...)

Cũng chỉ một lần (truyện / tuỳ bút) 
... Sáng mai là sáng hôm sau, sáng hôm sau nữa... Hoá ra, độc nhất một lần anh gặp cô em người bạn. Cô qua đời buổi tối hôm đó ở nhà bà ngoại. Người ta nói cô bị trúng gió. Cơn gió đen. Cơn gió độc nhất buổi tối hôm đó... | ... khẩu hiệu tự do / vừa dài vừa to / tôi, ôi thừa biết / hết chiến tranh đến hoà bình / chữ nghĩa lội ruộng băng sình / có ai thấy cái gì đâu... (...)

... Người đàn bà sinh tại nơi này / Đúng ba mươi chín tuổi / Người đàn ông tóc đã bạc / Ít hay nhiều / Cũng chẳng có gì để nói / Gió lùa mãi đồi thông sớm chiều...

... Trở lại đây nắng hiển hiện màu / vàng đất vàng cam / Nghe người ta nói cô em đã mất / Bão dông lúc đó vừa tan...

... Hắn trở về. Chừng ấy năm xa / Ghế đá. Ave Maria / Ngồi lặng cúi đầu. Mái tóc trắng / Sợi sợi cùng đổ xuống nhạt nhoà // Mái tóc trắng. Chiều dàn mây trắng / Mây trắng bao giờ hơn bây giờ / Con gà đứng trên đỉnh tháp nhọn / Hắn ngồi ghế đá hông nhà thờ...

Cây đủng đỉnh ở B’Lao (truyện / tuỳ bút) 
Không biết tại sao cây đó có tên đủng đỉnh. Ông Ron không biết; tác giả bức vẽ cái cây đó không biết. Cái cây đó, nhìn từ chòi vọng cảnh, không biết nó mọc chỗ nào dưới thung lũng. Cái cây đó cao vút, vượt trên đồi núi chập chùng, đủ loài cây thấp dưới. Cái cây đó thẳng tắp, tầng lá đều đặn từ lưng chừng thân cây tới đỉnh ngọn... (...)

Tôi là huyễn / Không cần thiết viết hoa tên tôi / Huyễn chẳng phải tên tôi / Chẳng là gì cả // Ấy tuy nhiên / Huyễn đích thực tên tôi / Ai đấy đã nói / Hắn là hư cấu kết tinh con người...

Người ta bảo nỗi nhớ nhung là / Trái tim có vấn đề / Mưa chiều tái tê / Em ơi đừng khóc đừng khóc // Có thể có cái để gọi tên là / Điêu khắc gỗ / Hắn toan vào rừng kiếm khúc cây / Điêu khắc nỗi nhớ / Điêu khắc giọt mưa khua động tim...

Bình hoa lá xanh / Xanh lá cây / Màu của vĩnh hằng / Pierre Emmanuel bảo vậy // Mưa chiều hẹn dông bão đâu đây / Dông bão sắp tới / Trong gian bếp sắp đặt tỏ bày / Nàng nghe rất rõ bụi tre bảo vậy...

Ga xép Đa Thọ / Khoảng thời gian loãng ấy / Không có mặt nàng / Lối xưa chưa hề thấy // Ga xép Đa Thọ / Khoảng thời gian loãng ấy / Chuyến tàu đến và đi / Ngày và đêm hai lần tay vẫy...

... Chúng tôi không mơ ngủ / Chúng tôi tỉnh thức / Con bướm trắng rất nhỏ từ khe nứt mặt bàn / Rất nhỏ như mảnh giấy vụn / Hoảng hốt bay lên...

... Hai mươi năm. Một bức tường / Dày đặc câm nín bưng bít / Hai mươi năm. Tâm tưởng hắn cưu mang / Cái thai tên gọi Thương Nhớ / Từ lâu hóa thạch Phú Sĩ sơn...

... Chúng tôi ngồi chung quanh cái bàn bày mứt kẹo ngày tết; chai rượu lần hồi vơi cạn, câu chuyện đầu xuân lần hồi kết thành bức tranh ảm đạm của một tương lai không xa, về vận mệnh của đất nước hình chữ S ốm o gầy guộc. Chúng tôi cảm nhận rõ rệt: căn nhà chật hẹp không mảy may làm vị giáo sư bận tâm, bức bối; mà ông chỉ ngột ngạt trong cái bầu khí chính trị đang trùm phủ đất nước này.... (...)

Tháng chạp cuối năm / Tháng cuối mấy mươi năm / Chiếc gương soi mặt mờ cũ / Tôi tự hoạ thay lời // Tự hoạ có thể giống tôi / Có thể không giống tôi / Chiếc gương soi đồng loã / Giấu mặt tôi trong bất cứ ai...

Rừng (thơ) 
Có thể rừng thông trên đỉnh đèo Phước Tượng / xuôi về phương nam / Có thể rừng thông Dran xuôi về dĩ vãng / Nơi đâu lá kim cũng buốt nhọn / Nơi đâu rừng cũng trùng trùng...

Độc hành (thơ) 
Đi trên phố rất xưa / Về phía nhà thờ / Rất cổ / Một tháp đèn năm ngọn // Mãi mãi năm ngọn / Thây kệ gỉ sắt hoen / Thây kệ những gì rơi đổ...

... Có thể kể lại câu chuyện hồi đêm / Hắn không thể phân thân / Mọi người nào ai có thể / Riêng mặt hồ sương giấu niềm bí mật / Đã loãng tan giây phút bình minh...

Kẻ hợm mình (truyện / tuỳ bút) 
... Đăng thường nhắc câu nói mà anh bảo là của Trang Tử: Bạn bè phải vì nhau những chỗ không vì nhau. Chẳng biết có đúng là lời Trang Tử, nhưng tôi thấy ý tưởng về bằng hữu như thế thật hay. Tôi thấy Đăng cũng có nhiều ý tưởng tôi cho là hay. Nhớ một lần anh nói: Ai cũng có một niềm tự hào về bản thân, kể cả kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày tự hào, vì đã khơi dậy được lòng trắc ẩn vốn dễ chai lỳ của nhiều người khác... (...)

... Trong tay của gã. Chiếc khăn rằn / Đồng bọn của gã / hét la / giành nhau siết cổ vị linh mục / Vị linh mục im lặng ngó / Vị linh mục hiện thân Hồng y Carrafa. // Bọn chúng. Đồng-chí-đồng-bọn-giải-phóng-quân / tấn công trại phong Bến Sắn / một ngày trước Tháng Tư Bảy Lăm...

Dã quỳ (thơ) 
... Dã quỳ. Dã quỳ. Mưa tới / Thác đổ rất tràn dốc núi / Cơn đau dẫu ngướu tim rồi / Vẫn níu vầng dương chẳng mỏi...

Nhã (thơ) 
Nhã. Hoa tuyệt vọng / Một chín chín sáu / Hắn bước ra vô cùng yên tâm / Màu trời sẽ đẹp nhỏ máu hoàng hôn. // Không là công chúa xứ Hàn / Ja Myung tiếng khóc tự cứu / Hắn ôm đoá hoa giữa ngực / Một chín chín sáu...

... Ấy vậy mà sao núi buồn như núi / Núi B’Lao dẫu khác núi Kỳ Vân / Tôi nào hơn đứa trẻ lủi thủi / Níu mây chẳng chạm được đôi phần...

... Thuở ấy quá xa mà tôi không quên / Ngày hai bữa cơm gạo trắng nối những đêm đen / Đêm không thể ngủ hai mắt mở trừng / Tường vách trắng vữa màu vôi cũ...

Một đêm tháng giêng / Isabelle huyễn tượng / My hư ảo / Giáo đường mất tích / Tất cả đều hiển hiện / Khu rừng thông nối liền thị trấn Dran / Chúng tôi có thể điên khùng / Chúng tôi có thể ngây ngất / Chúng tôi có thể chết...

Một sớm mai (thơ) 
Sớm mai ùa tràn mái ngói / Đàn chân chim mới tinh / Nỗi buồn biến vào tiền kiếp / Hồn sơ sinh. // Tiếng cười tiếng cười tiếng cười / Vỡ tan tim / Không thể còn chút gì / Hết thảy tâm thất tâm nhĩ...

Mặt trời thấp xuống sau núi biếc / Trên sân ga tàu dừng lại bình yên / Người hành khách trẻ tuổi trầm tiếng hát / Cây chen chân đứng chật bìa rừng. // Chuyến tàu đi qua đây một lần / Chuyến tàu đi qua đây hai lần / Chuyến tàu đi qua đây rất nhiều lần / Một kẻ nào xô người tình xuống vực thẳm / Xong...

Than Uyên (thơ) 
Bạn nơi xa / ba mươi năm sau còn nhớ tôi treo / đôi vú tan biến trên mặt phẳng đứng / Gió Than Uyên nổi từ Đơn Dương / tràn tới Canada tràn tới Bắc cực / Ấy tuy nhiên cớ sao gió lem luốc / Phải chăng băng tuyết ít nhiều?...

Một thời ảo tưởng / đưa tôi vào miền rất lạ / Tôi giữ gìn tôi từng bước tới lui / Ngủ bằng trí nhớ một khu vườn kỳ hoa dị thảo / Loài bướm suốt ngày mải mê / trang điểm thân mình / Loài bồ câu không ngớt tự ngắm nhìn / trong ô gương tổ ấm...

Đi là đi tới cao nguyên / Đi là đi tới mù sương / Đi qua mờ mịt ngang lối / Đi qua hiu hắt nắng lên // Đi qua cỏ cây phơ phất / Đi qua ngàn vạn bông lau / Đi qua quá nhiều rụng rớt / Quá nhiều ai hiểu cơn đau...

Cảm xúc nhà thờ (truyện / tuỳ bút) 
... Cô em họ của tôi vui mừng đón người thân, mở cổng tu viện mời chúng tôi vào. Tôi đề nghị ngồi ngoài vườn cây, để Đăng ngắm được toàn cảnh tu viện. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi, tôi nhận ra điều gì đấy thật khác lạ. Người nữ tu, cô em họ của tôi, không như bình thường tôi thấy. Im sững đột ngột, như có hai bức tượng vừa được đặt trên ghế đá ngoài vườn, tới lúc cả ba cùng rời chỗ. Đăng về nhà nghỉ hay khách sạn nào đấy, im lìm, với những tờ giấy vẽ để trắng... (...)

Buổi sáng X (truyện / tuỳ bút) 
... Anh ta đọc thư, bàng hoàng; nhưng anh ta không vội vã cuống cuồng như lần đưa ông đi cấp cứu ở bệnh viện, anh ta uể oải mệt nhọc đi tới nhà ông. Căn nhà khuất sâu con ngõ một khu phố yên tĩnh; cửa ra vào, cửa sổ đóng kín. Cửa ra vào gài phía trong, anh ta không lên tiếng gọi, tìm cách mở cửa. Anh ta đứng trước thân thể ông, lơ lửng trong không gian căn nhà thiếu ánh sáng như bầu trời một ngày u ám... (...)

... Đừng nhớ chi tất cả / Từng vì sao đã mỏi / Đừng nhớ chi tất cả / Trong rừng thông lẫn lối // Và nhớ lãng quên tôi / Cho chiếc lá thông rơi... | ... Có phải em cất tiếng hát / Màu trời xanh quá thắm thiết / Quán cà-phê không một người / Phố Dran hết thảy lên đồi // Đỉnh đồi buốt sớm mai lạ / Buốt tim tôi hơn lá cỏ...

[CHÙM 3 BÀI THƠ] ... Mưa rơi trên góc phố chiều / Xế trưa tôi về góc phố / Cơn mưa từ đó về theo / Mưa nghiêng hắt hiu thánh giá / Nghiêng qua thành cổ ít nhiều... | ... Thôi tôi cứ đi cứ đi tới / Mưa rơi ướt sũng mấy nẻo đường / Dã quỳ ngây dại hồn tôi mãi / Mưa cứ tuôn thêm thắm sắc vàng... | Tôi trở lại khu rừng dù bất chợt / Kiếm tìm chi chưa rõ kiếm tìm chi / Chiều vĩnh viễn có lớp mù xám nhạt / Có giọt sương xuống vội để tan đi...

Gác Trịnh (sổ tay) 
... Anh Phạm Tấn Hầu tới; không ngồi xuống ghế để uống cà phê, anh chỉ tay lên phía trên, nói: “Lên Gác Trịnh chứ!” Hóa ra, ngay phía trên căn nhà bày bán cà phê vỉa hè tôi đang ngồi uống, là căn nhà mà Trịnh Công Sơn từng sống và viết những ca khúc đầu tiên của ông... (...)

Y đã về đây. Hoang vu xanh / Nguyên sơ cùng đá tảng hiện hình / Đá lạnh. Nghìn tay em ủ rét / Thác gầm đâu đó chẳng bận lòng. // Đá điêu linh không chờ thoát kiếp / Em ngập ngừng gom lá sân sau / Em ngập ngừng lùa lá sân trước / Lá rơi lá biết lá về đâu...

Sớm mai phơi cửa núi / Hoa đỏ trên cây gầy / Những nhành xương trơ trụi / Vỡ núi đêm lên trời... | ... Đêm ồ trăng sáng quá / Cây sững chịu thôi miên / Lòng thương cảm thốt nhiên / Lệ rơi trên bóng lá...

Minh định đôi điều (đối thoại) 
[ĐỌC VĂN] ... Tôi có đôi điều cần thiết minh định ở đây, về truyện ngắn “Nhà văn X” và “Tới nơi viết văn” của tôi, đã đăng trên Tiền Vệ...

Sương tinh mơ giữ mộng bên hồ / Có thể Đơn Dương có thể B’Lao / Có thể bất cứ nơi nào / Sương dày chừng ấy không thể vỡ. // Rởn mình thoáng nắng vạt áo / Phút giây mặt trời rớt xuống mồ / Mờ sáng mà sao chiều tối. Hồn hoa / Hồ dĩ vãng thốt nhiên bày tỏ...

Nhà văn X (truyện / tuỳ bút) 
... Nhà thơ ngồi chung bàn đột ngột hỏi tôi: “Bạn có đọc cái truyện..., truyện ngắn mới nhất của nhà văn X?” Hóa ra anh-chàng-thù-hận-cả-nhân-loại này còn có chỗ dễ cảm; anh quan tâm tới nhà văn tôi ưa thích hơn cả; nhất là truyện ngắn về hai con ong của nhà văn này. Đọc truyện của nhà văn X, tôi thấy mình gần gũi hơn với Jean-René Huguenin mà tôi ưa thích từ thuở thanh niên, để càng lúc càng thân thuộc với Những con ong của vô hình... (...)

Một đêm trăng (truyện / tuỳ bút) 
Ánh trăng tràn mọi nẻo, khắp những nơi có thể hình dung. Nhưng trong căn phòng của tôi, nói chính xác căn-phòng-dành-cho-tôi-trong-căn-nhà-người-cô-của-tôi không có ánh trăng. Ánh sáng trong căn phòng dành cho tôi là ánh sáng đèn huỳnh quang 40 watts, trắng bệch, vô duyên, trơ tráo. Ánh trăng hiển hiện trước mắt tôi dừng lại ở biên giới có những chắn song đứng thưa thớt trong khung cửa sổ, vậy mà chúng ngăn lại được, không để ánh trăng huyền diệu hoà nhập thứ ánh sáng tôi thù ghét... (...)

Hoà âm 2013 (thơ) 
Hết thảy im lặng / Giọt sương trên mặt chiếc lá sẫm / Im lặng hết thảy côn trùng / Trong sự im lặng ấy, nghe được tiếng dịch chuyển vội vã cuống quýt / của một con sâu, lo sợ không kịp giờ đo hết vùng đêm...

Chiều không vui không buồn / Hắn đợi nàng / Nàng bay lên tầng cao của cao ốc / lục tìm ở đấy những gì để tham khảo để nghiên cứu để trích dịch / cho cuộc tồn tại cho mưu toan cứu vãn nhọc nhằn / loại nhọc nhằn bám trụ và sinh sôi đầy mặt đất...

Tới nơi viết văn (truyện / tuỳ bút) 
... Ánh đèn pin trên tay gã bảo vệ quét qua lại trên đường. Tôi thấy những cặp tình nhân còn ngồi chỗ cũ, lúc tôi tới khách sạn tìm cô gái tội nghiệp. Họ vẫn ngồi quay lưng lại, gió biển vẫn thổi mạnh chừng ấy. Trong tiếng gió, tôi nghe rất rõ tiếng của chính tôi, nói với cô gái lúc ngồi trên xe đò: tôi tới nơi này để viết văn... (...)

Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi (ký sự / tường thuật) 
[10 NĂM TIỀN VỆ] ... Kỷ niệm đặc biệt với Hoàng Ngọc-Tuấn, tôi rất trân trọng, lưu giữ mãi ở bìa sau một quyển truyện của tôi: những dòng anh viết về 22 Truyện ngắn Nguyễn Đạt, hầu hết là những truyện ngắn đã đăng ở Tiền Vệ... (...)

Có thể thong thả có thể chạy / Căn nhà tìm kiếm rất đơn sơ / Tôi tới đây và sẽ ở lại / Ồ nhành dương xỉ tự bao giờ...

Giáng Tuyết (thơ) 
Nơi đâu nơi đâu / Hàn Giáng Tuyết / Les yeux / Les yeux / Immense et bleu / Thẳm vời mấy biển trời cách biệt...

Căn nhà mộng mị (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi cũng tin anh gọi căn nhà anh đang trú ngụ là căn nhà mộng mị (anh nói chủ nhân căn nhà bảo vậy), không phải chỉ cũng được, mà là quá được. Chủ nhân căn nhà mà anh không biết là người thuê trọ hay không thuê trọ, có ổ khóa để đóng cửa mở cửa hẳn hòi, không phải căn nhà bỏ hoang gì hết... (...)

Ai hỏi mãi hoài tôi và B’Lao / Linh hồn từ thuở ấy khi nào / Em chưa ra đời lá đã buốt / Lũng rừng mấy thuở đã xôn xao. // Ai tới lui một điệu vòng tròn / Chiếc lá kim đêm nhớ Sài Gòn...

... Tôi ngồi rất lâu / Thiếu phụ nói rất nhiều / về những con voi thuở ấy / Những con voi đôi mắt rất buồn / Không thể hiểu sao buồn như vậy...

Có thể từ biệt giữa đêm nay / Phố B’Lao sẽ tràn lan giá rét / Đóng băng từng chiếc lá trải bày / Có thể nhiều hơn nào ai biết. // Có thể từ biệt trong dửng dưng / Vô tâm hơn một nỗi lạnh lùng / Phố B’Lao có một lần tha thiết / Một lần xao xuyến hay chưa từng?...

Tôi gặp người tôi gặp từ đâu / Dừng lại lâu dừng lại rất lâu / Và ở lại / Ngàn năm mờ mịt sương B’Lao. // Tôi gặp người hay tôi không gặp / Không và có gặp tôi hay người / Ngờ tiền kiếp tôi đâu đó / Ngày ngày qua dài một nỗi hoài...

Chuyến tàu đêm ấy / Dự báo đi qua những ga bỏ hoang / Thấy gì không ai nói / Không ai nói một lời nào / Kể cả nói mớ trong giấc ngủ...

... Đi qua phố xá đi qua công viên / Đi qua ngã ba ngã tư / đèn tín hiệu liên tiếp chuyển vàng sang đỏ / Nơi nào hiển hiện nhiệm màu / Nơi nào cây lá không xanh xao...

Trong suốt trăng. Ngồi giữa sắc xanh / Phố xa dài xa mãi bất tận / Lối cũ thu dần về gần quanh. // Rợi khắp hai tay dài ánh trăng / Vườn mướt xanh từng lớp lớp rung / Chờn vờn nét áo ngây làn gió / Dưới hai nếp tóc chảy dòng im...

Quán cà phê nhìn sang lối ngõ / Nhìn sang trạm biến điện / Nhìn sang nhớ thương / Một và hai và ba / Từng ấy linh hồn / Từng ấy cô liêu có thể...

Có thể năm mười bảy tuổi / Tôi gặp chính tôi / Ảo tưởng thiên tài / Dự định như Rimbaud đi buôn lậu súng / Đi châu Phi không thể / Tôi đái khắp bờ vách căn nhà tôi ở. // Năm hai mươi tuổi / Nhiều hơn nhiều hơn nữa / Kẻ song trùng không một kẻ nào / Cô độc làm tôi ứa nhựa...

Tinh mơ thị trấn mù sương / Quán chợ mở cửa đèn phố chưa tắt / Phiêu dạt nghỉ chân uống cà-phê / Đã tới đây. Em hay ảo tượng?...

... Ngày hay đêm Sài Gòn sẽ không quan trọng / Có thể tiếng đàn khuya có thể lọn tóc / bay ngang vầng trán bay ngang môi bay ngang cằm / Lọn tóc sẽ ngưng đọng ở chiếc cằm ấy / Có thể duy nhất điều ấy là quan trọng...

Hắn dưng không buồn bã / Sáng hay trưa hay chiều / Người buồn tìm chốn thoái lui / Hắn sẽ không ngủ không thức / không nguôi / Người buồn không thể. // Hắn hay tôi hay người thi sĩ ấy...

Dưới tán cây này ở một nơi này / Quán trên cao buốt giá / Đứng lên về thôi / Chờ đợi hay không chờ đợi / ngày cũng tàn vào tối...

... Chúng tôi có thể nhận ra đêm tối điêu linh / Chúng tôi là hai là ba là bốn / hoặc một con đom đóm sẽ thất tán / Bertolt Brecht hay bất cứ ai đã mất đi / Trong rừng đêm vừa thức dậy. Cùng chúng tôi để sống...

Hai con ong (thơ) 
... Hai con ong là hai con tin / Bặt tiếng. Không lộ diện / Duy một nghệ sĩ thuở kia ngó thấy / Những con ong của vô hình. // Chúng tôi là hai con ong / Là hai con ong là hai con ong / Tới cạn mật khô xác / Không còn chút gì nữa khác...

... Trên đường thầm những bước chân lạnh nhạt / Đêm chùng xuống lớp mơ màng / Duy chúng ta đã nắm lấy tay nhau / là có thật...

... Mưa đèo B’lao mưa dưới kia / Vẫn rì rào / Có thể điệu nhạc trong đầu / Có thể từ lối xưa có thể. // Hiện lên giữa núi đồi vùng cao / Nàng đẫm ướt mưa B’lao / Hiện lên hiện lên không thể chờ đợi / Hiện lên hiện lên đúng lúc tôi tới...

... Đây đích thị là một truyện ngắn mới của bạn tôi. Không biết bạn tôi đã đưa đăng truyện ngắn này ở đâu, trên báo viết hay báo mạng, trong nước hay ở nước ngoài. Thiếu phụ tuyệt vời đó có lẽ là nhân vật hư cấu, là sản phẩm từ trí tưởng tượng của nhà văn. Hơn-một-lần bạn tôi cho biết, đấy là chuyện tình bí-mật-bị-bật-mí của thiếu phụ ở Thị Trấn Sương Mù... (...)

Ở B’lao tha thẩn / Đất trời mở cửa mỗi ngày / Dưng không mộng cũ hiện hình / Từ thẳm xa mấy biển. // Ở B’lao mấy ngày / Tha thẩn vào núi / Hoa đỏ trên cây gầy / Những nhánh cành trơ trụi...

Nhịp một nhịp một / Nhịp một mà thôi / Có thể nhịp ba người thi sĩ ấy / Tình yêu-Tự do-Mãi mãi. // Nhịp một nhịp một / Chim vào khu vườn / Có thể lối xưa đã cũ / Có thể thanh tân. // Có thể có thể / Nhịp một mà thôi...

Một buổi rừng lên cao lên cao / Những đợt heo may nắng trưa trong suốt / Một buổi rừng xuống thấp lưng đèo / Nàng khép mắt mi cho sâu dòng chiều / cho quán ảo huyền cho đêm tưởng tượng / cho nụ hôn không bất chợt ngưng ngang...

... Tôi nghe vang vọng / Tiếng pháo ran hay mộng mị / Elle est très contente / Et moi aussi. // Thơ để nhớ thơ để quên / Ấy tuy nhiên / Bài thơ rất có thể hoàn thành / Đúng lúc tôi tắt thở...

Ngôi nhà trên đối thông (truyện / tuỳ bút) 
... Tách cà phê của anh ta vẫn ở trên mặt bàn đối diện; có thể anh ta đã trả tiền, để trước khi rời quán anh ta qua bàn tôi chào hỏi làm quen. Anh ta làm quen bằng câu hỏi: “Bạn đã bao giờ có ý định tự vẫn?” Anh ta hỏi tự nhiên, tôi cũng trả lời tự nhiên như vậy: “Một nghìn lẻ một lần rồi.” ... (...)

... Quán ban mai một lần gặp gỡ / Quán ban mai một lần giã từ / Giây phút môi hôn có bàn ghế chứng kiến / Cùng dòng sông và hoa nắng dưới kia...

... Con heo có thể biến thành thực phẩm thơm phức của con người / Có thể cư ngụ trong thân thể nhân loại / Có thể làm thơ như nhà thơ – / vẽ tranh như hoạ sĩ – / viết văn ngụy tạo đời mình / Có thể có thể có thể...

... Tôi nằm không ngủ nằm không ngủ / Mạch nước xôn xao động đậy mình / Sàn gác lơi dần từng thớ gỗ / Hoa tràn tím sẫm đặc bao lơn...

Ở ngôi quán một đền đài phế tích / Hai bức tranh một bức tường / Con mắt người chứng có thể ở giữa / Và hoa cỏ lan tràn...

... Mặt đất dày thêm lớp lớp rong rêu / Mặt đất ngàn đời hoang liêu / Có thuốc độc. Có thuốc giải độc? / Hắn viết bài thơ tình mãi mãi rong rêu...

B’lao xanh (thơ) 
Xe dừng nghỉ ở B’lao một buổi trưa / Buổi trưa nào đó không quan trọng / Một buổi trưa xanh một buổi trưa vàng / Một buổi trưa xám xịt cũng cần để thở...

Trăng thanh (thơ) 
Ai gọi tên tôi trong lều cỏ ngái / Có dê cừu kêu xa vắng bên sông / Tôi nào ngủ đâu sao tôi mơ thấy / Tiếng cầu cứu ai kia vời vợi cô đơn // Dòng sông cuồn cuộn nghìn con nước / Mê mải cơn đau tấp nập bờ / Tôi nào ngủ đâu sao tôi tức ngực / Khi trăng chìm sâu đáy nước mờ...

Tôi băng tới miền bi thảm cùng cực / Khuôn mặt ai vinh hiển như nàng / Mưa đầu mùa những giọt vào thấu ruột / Xe lên Đơn Dương than thở nhọc nhằn // Nàng ngó sang tôi nỗi kiêu hãnh cùng khắp... | Bên dòng suối lặng chiều an nghỉ / Nàng là ai thả tóc ngắn dài / Trời sẫm có vườn cây chứng kiến / Nàng ngồi hờ hững lãng quên ngày / Đèn thắp xuôi theo tường đá xếp...

Đêm trắng (thơ) 
Không phải đêm trắng ở bầu trời / Đêm trắng trong đầu tôi / Trong mắt mũi tai. Khắp tứ chi. Khắp cả / Đêm trắng lan truyền tới tận xa xôi / Khi người thiếu phụ ba mươi sáu tuổi / Thức giấc lúc một hai hoặc ba giờ sáng...

Đấy là một bụi tre. Bụi tre vàng sọc xanh / Đấy là một bụi chuối. Bụi chuối tối sậm // Un grand sommeil noir / Tombe sur ma vie/ Thức giấc sau cơn mê dài đen đúa / Dư âm điệu Blues buồn / Người thi sĩ ấy đã vĩnh viễn ra đi / Câu chuyện đau đớn có thể kể có thể im lặng...

Thanh ca (thơ) 
Thanh của sớm xanh đẹp tiếng nói / Đượm cà phê đắng tới đen ngày / Mưa thốt nhiên mưa không bối rối / Thanh đi trong mưa tê cóng đường dài // Thanh của trưa xanh đẹp mắt biếc / Ảo hư cơn nắng quá mênh mông / Nơi đây gió vẫn lùa hiu hắt / Ở quanh ngoài ở cả sâu trong...

Tháng tư tàn độc (ký sự / tường thuật) 
... Tôi chẳng màng giữ thơ Huy Cận như vậy. Chỉ là hồi ức tháng tư tàn độc, những gì muốn quên mà không quên được; kể cả mấy câu vần vè tuyên truyền phỉnh gạt của một nhà thơ lớn (và của hầu hết các nhà thơ ở Miền Bắc - Xã Hội Chủ Nghĩa) tay đã nhúng chàm... (...)

Con đường trên cao để xuống dốc / Dưới dốc một con đường / Hoa lá sân vườn phủ kín em / Đứa trẻ đi lạc, tôi có biết? // Con đường trên cao để tiếc thương / Khu vườn sớm tinh sương...

... Cuộc sống của Nguyễn Đức Sơn trên trái đồi nằm cuối dãy núi Đại Lào hẳn nhiên là cuộc sống của người làm rừng làm rẫy, bám vào cỏ cây nương rẫy mà sống. Chúng tôi từng chứng kiến, Nguyễn Đức Sơn đẩy chiếc xe đạp cọc cạch, thồ đống củi cao hơn thân mình, từ đồi rừng ra chợ cách xa gần mười cây số để bán... (...)

Ra đi khắp nơi / Từ gần gũi tới xa xôi / Một nơi chốn nào yên tĩnh an ủi / Núi thì cao chất ngất khổ đau / Rừng thì trũng xuống hối lỗi... | ... Bao giờ cũng tới / Đêm rách vỡ / Hạt lúa mầm mọc lên cây / Cánh đồng không mơ hồ nữa... | Chiều mây dàn trời / Trải hết đời tôi và dâng lên nhẹ bổng vào mây...

Tiễn Lộc Thành ở B’lao (truyện / tuỳ bút) 
... Một cơn gió đậm ùa tới, cành lá va chạm nhau, rào rào như trời đổ mưa. Chỉ thêm một chút xíu mềm lòng nữa, tôi đã buột miệng, đọc cho nhà sư nghe bài thơ “Mưa Ở Lộc Thành” còn ở trong đầu... (...)

... Nơi của hắn căn nhà gỗ cửa kính / Khuôn mặt ai cứ mù mờ sương / Hắn chạm khắc giấc mơ vô định / Giá băng lưu giữ buổi tân niên // Thấp thoáng mơ hồ nơi hắn đó / Phản hồi cơn mộng tháng ngày qua? / Không không không không. Không gì hết / Chỉ không thôi chật cả căn nhà...

[TƯỞNG NIỆM NGUYỄN TÔN NHAN (1948-2011)] ... Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị Phạm Công Thiện... (...)

Thiếu phụ cầm tinh con mèo (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi từng nuôi một con mèo, duyên dáng mỹ miều như mọi con mèo, đột nhiên nó đi đâu mất biệt. Một đêm tôi chợt thức giấc trước đôi mắt mở rộng nhìn tôi, hai vòng tròn rực sáng, những cọng râu trắng của con mèo đen ấy găm vào bóng tối. Tôi sởn gai ốc: trong hai vòng tròn rực sáng không phải là lửa, mà là vàng lạnh của kim loại, im ắng hun hút, đang phán xét tôi. Tôi đưa tay muốn chạm vào con vật đã trở về, nó vụt vùng dậy nhảy biến mất dạng... (...)

Tuỳ bút ở Đà Lạt (truyện / tuỳ bút) 
... Đà Lạt vẫn vậy, dù đã nhiều người cho rằng Đà Lạt quá thay đổi để không còn là Đà Lạt. Thây kệ, những ngôi nhà vẫn thiếp ngủ, những lũng đồi vẫn mơ màng, những tối chưa khuya mà con đường đóng băng trong tịch mịch. Ồ, một buổi chiều mới đây, cụm sương mù như một cụm mây nở rộng trắng xoá một vùng, từ từ rơi xuống ngoài cửa kính quán cà phê Tùng. Ngã ba rộng rinh trước quán đón nhận cụm sương hiếm hoi lạ lùng, cho tôi sẵn lòng đón nhận Đà Lạt của một ngàn năm trước... (...)

Ấy tuy nhiên (truyện / tuỳ bút) 
... Ông chủ báo nhận được truyện ngắn ấy qua bưu điện, lúc tôi đang uống nước trà với ông tại toà soạn. Đọc tới đâu, ông chủ báo gật đầu tới đó, vẻ hết sức thú vị. Đọc khoảng phân nửa cái truyện ngắn, ông nói: “Rất độc đáo. Tác giả này, có thể nói là uống-chung-một-ly-nước với tác giả tôi đã đọc.” Ông lấy cục đá cuội đặt trên chỗ vừa đọc, đi vào phía trong, có lẽ ông vào toa-lét. Trở ra, ông cầm mấy trang truyện lên đọc tiếp. Ông bỗng ngồi im sững, rồi buột tiếng nói như tiếng kêu... (...)

... Hà Nội hôm nay siêu hiện đại / Tuy nhiên có một cái gì / Nói ra thì kỳ / Không kể trai và gái / - Cho anh quá giang xe a còng / - Đéo chở giai! / Siêu hiện đại - khách sạn ngàn sao / Em tâm sự lúc mới thấy anh/ Đã khuynh hướng anh nhanh hơn ánh chớp. / Tuy nhiên Hà Nội cực kỳ / Không ở chỗ tôi vừa mới nói...

Đại ca (truyện / tuỳ bút) 
... Cuối cùng tôi cũng gặp Ba Lai, ở thị trấn Liên Nghĩa, cách thành phố Đà Lạt vài chục cây số. Tôi uống cà phê trong một quán nước bình dân, trong quán chỉ có một ông già ngồi trầm ngâm uống rượu đế. Cách đó vài chục bước chân, đám đông đứng vây quanh một người nằm sóng soài trên mặt đường, dưới cơn mưa lất phất. Tôi hơi ngạc nhiên trước ông già ngồi trầm ngâm uống rượu, trong khi mọi người xúm quanh chỗ ấy... (...)

Nhân vật trên cao (truyện / tuỳ bút) 
Anh thuận tay lùa mấy sợi tóc trước trán cho gọn trở lại trên mái đầu vốn gọn gàng, từ tốn nói: “Tôi gọi nơi này là Thung Lũng Trầm Tư, một người bạn của tôi lại gọi là Trong Vườn Kỷ Niệm. Cái truyện ngắn người bạn ấy viết về nơi này có nhan đề như vậy.” Tôi biết người bạn của anh, anh chàng tên là Đăng, cái truyện ngắn của Đăng thì tôi không biết, nhưng Trong Vườn Kỷ Niệm là nhan đề một truyện ngắn của Nguyễn Nghiệp Nhượng... (...)

Nhà văn (truyện / tuỳ bút) 
... Chấn khổ sở nghe câu chuyện của Đăng, anh có cảm giác loay hoay, lùng bùng trong đầu, hỏi Đăng: “Bạn không nói đùa đấy chứ? Mình khó tin chuyện này lắm, chuyện động trời đấy! Người như bạn lại không phải là nhà văn?” Đăng nói hết sức nghiêm chỉnh: “Người như tôi hay như ai cũng có thể rất giống một nhà văn. Thú thật với anh, tôi thích được là nhà văn lắm, nhưng khốn nỗi chỉ có mỗi lòng mong mỏi được là nhà văn...” ... (...)

Nay Sương ở Tà Nung (truyện / tuỳ bút) 
... Anh vừa dứt lời, Nay Sương đứng ngay dậy, đi qua phía anh. Vòng tay ôm lấy anh, Nay Sương thì thầm: “Gọi em là em... và hôn em đi... đừng hỏi em gì cả.” Anh vòng tay quanh thân thể đầy đặn đầm ấm của Nay Sương, hơi kiễng chân lên để hôn vì Nay Sương cao lớn, lại đi giày cao gót nữa... (...)

Nói với chùm hoa giấy (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi đành phải nhét thêm danh tiếng Gertrude Stein vào cái đầu cao quý của hắn: A rose is a rose is a rose... Thơ lỗ đít cũng là thơ cũng là thơ cũng là thơ... Và ấy tuy nhiên, tôi nói thêm với hắn (đẹp như một chùm hoa giấy): phải hiểu rằng, con người ta không có cái đầu thì cũng không có cái lỗ đít, và ngược lại... (...)

Thị trấn đìu hiu (truyện / tuỳ bút) 
... Có một sức hút nào đấy nơi thị trấn, không hiểu sao anh tới đây lần nào cũng vào buổi trưa, sức hút của nắng, ít khi trong dịu, thường gắt bỏng, nhìn hoa mắt? Sức hút của tiếng động bải hoải, điên rồ, của những đám mù khói bụi mệt mỏi? Anh ngờ rằng, những gì đấy, những gì anh không biết, thoáng hiện như bóng ma, như ảo ảnh, ảo tượng; những gì đấy thân quen mà lạ lẫm, gần kề lại xa hút? Anh ngờ rằng... (...)

... Khi tôi trở lại ngôi nhà cổ, cửa nẻo đã đóng chặt ở phía trong, đèn tắt tối om. Tôi gọi, không nghe tiếng ông K. trả lời. Tôi gõ cửa, rồi đập mạnh nắm tay, rồi chân đi giày đá vào cánh cửa gỗ, những thớ gỗ đặc cứng, câm nín vô vọng. Tôi đành ra ngoài thị xã, tìm một nhà trọ ngủ qua đêm. Tôi không còn cách nào khác để đoán biết vụ việc gì xảy ra với ông K. trong ngôi nhà cổ, ngoài việc phải tin rằng ông đã chết trong đó... (...)

... Như câu chuyện người ta vẫn kể / Rất u ám trong tim / Hắn sẽ ngước nhìn bầu khí quyển thuỷ tinh / Trời quang mây tạnh hay xám xịt hay mưa gió giông bão / Chiếc lá cuối cùng của một mùa vẫn nối nhánh cành // Hắn rời khỏi chiếc ghế sợi dây thừng / Sẵn sàng chờ đợi chiếc lá cuối cùng rớt xuống / Bởi hắn đã quyết định không ngày này thì ngày khác // Đấy là câu chuyện của hắn / Như người ta vẫn thấy hắn sống vẫn thấy hắn viết / Vẫn cơn mộng du thường trực mỗi ngày...

... Ngọc là châu là khuôn mặt nàng / Ký ức mù trong bão cát trong vĩnh viễn / Đồng hoa ven trời cuối biển / Vivaldi vô vọng âm // Ngọc là châu là vật báu hư huyễn / Vô vọng tìm kiếm ở nơi nào / Đồng hoa màu cam màu tím / Tôi băng qua đồng cát tôi băng qua huyệt sâu....

Những cuộc giã từ (truyện / tuỳ bút) 
... Suốt đời anh chạy theo ảo ảnh, hình như anh chỉ còn lẽ sống đó, dù đó là những ảo ảnh. Bây giờ anh trở lại Đơn Dương, tìm gặp Hạnh, không phải là một cuộc nghỉ ngơi. Anh chưa bao giờ chiến đấu, tranh giành lấy một thứ gì trong cuộc sống để mà mệt mỏi. Anh chỉ tìm một chỗ để sống, khô rắn cụ thể như vậy. Anh đang thấy mình không còn một-chỗ-dưới-mặt-trời... (...)

Mùa xuân x (truyện / tuỳ bút) 
... Trời còn mấy độ xuân / Đất bao nhiêu miền lạ... Bây giờ ông Tâm ở cõi âm, như người ta vẫn nói, cái cõi mà anh chẳng biết có hay không. Nghĩa là có thể có cõi âm, có thể không có cõi âm mà chỉ là chốn của cát bụi. Và nghĩa là, anh giả định rằng có cõi âm, cõi âm đó có thể có nhiều miền lạ hơn ở cõi trần. Cũng có thể cõi âm chẳng có gì hết, trong khi người thi sĩ ấy phải từ biệt cõi trần, một cõi trần với bao nhiêu miền lạ mà thi sĩ ngờ rằng mình chưa từng biết. Anh thì thầm, ở một miền lạ nào đấy, hẳn là có mùa xuân x... (...)

Căn nhà trọ của ông Đỗ (truyện / tuỳ bút) 
... Khi hắn trở lại căn nhà trọ sau ít ngày hắn có việc ở thị trấn Đơn Dương, ông Đỗ đã hoá kiếp thành tro bụi. Cái chết đột ngột. Ông Đỗ bị bệnh tim từ hồi nào, chính ông không biết. Hắn quá ngạc nhiên, đau xót về kiếp người, buồn bã về kiếp sống của ông Đỗ, người bạn vong niên của hắn, nhà-thơ-ngậm-ngùi-đi-vào-biên-khảo của Trung Niên Thi Sĩ... (...)

Cha, con, và... (truyện / tuỳ bút) 
Có thể anh đã nói với H một nước Mỹ của tự do, tôn trọng con người, quyển sách dày ngàn trang, anh có thể tìm đọc một trang nào trong đó có hương vị cảnh sắc của tịch liêu thơ mộng như anh từng mong đợi. Nỗi tịch liêu đó, có thể rất hiu hắt mà không hề héo hắt, ở một đất nước mà nhiều kẻ có máu văn nghệ hắt hiu của xứ sở ta luôn tỏ vẻ ghê sợ thốt lên rằng nước Mỹ siêu công nghiệp đó làm con người ngạt thở.... (...)

Và chợt nhớ thi sĩ Bùi Giáng, một ngày đã xa mù mịt, thi sĩ cùng chúng tôi nhìn bầu trời Đà Lạt âm u qua cửa kính quán cà-phê Tùng như những ngày này. Trung Niên Thi Sĩ (Bùi Giáng) viết hai dòng thơ trên miếng giấy bạc trong bao thuốc lá: Quán ngồi mỏi. Nắng chưa lên. / Chợt vui tràn. Thấy còn nguyên sơ đầu... (...)

Những cây xương rồng (truyện / tuỳ bút) 
... “Em thích xương rồng kinh khủng. Em có hỏi anh hai lấy dìa nhà được không, anh hai biểu đừng lấy. Lấy xương rồng dìa, khuya những hồn ma tới đòi, anh hai nói thế đó!” Cứ như vậy, những buổi chiều thứ hai, thứ tư, thứ sáu, tôi đi dạo cùng cô bé Mỹ Liên trên những con đường của thành phố những người đã chết... (...)

Vài ngày Nha Trang (ký sự / tường thuật) 
... Rồi thầy nhớ lại tất cả, ở chùa Hải Đức, cũng gọi là Phật học viện Nha Trang: “Hồi đó ở đây vui lắm, nhiều buổi chuyện trò văn nghệ hào hứng lắm. Nhà thơ Quách Tấn, nhà văn Võ Hồng lui tới đây luôn. Phạm Công Thiện cũng từng ở đây một thời gian dài.” ... (...)

Cô gái Cà Mau (ký sự / tường thuật) 
... Cô gái ấy vận cái áo thun in hàng chữ PINK ISN’T JUST A COLOUR, IT’S THE ATTITUDE. Một cô gái xinh xắn và lạ lùng, vẻ không buồn không vui, hao hao giống cô ca sĩ Francoise Hardy tôi rất ưa cả sắc lẫn tài ca từ thuở tôi còn trẻ... (...)

Biên bản (thơ) 
Tôi rất ưa nhà triết học nọ, ưa tới mức dù tự ưa mình tới mấy cũng nhận ra chính mình là kẻ thù (lớn nhất) của chính mình, y chang điều thứ nhất trong mười bốn điều Phật dạy...

Khúc dĩ vãng (truyện / tuỳ bút) 
... Những buổi sáng những buổi chiều, ngày ngày tiếp nối bất tận những ủ ê những chông chênh những bất định... Hoàng thi sĩ càng ngồi quán cóc càng tiều tụy, tiều tụy đến nỗi tôi không dám hỏi lát nữa anh về đâu, ăn cơm ở đâu... (...)

... Từ thư Người Hỷ Xả, từ ngọn nến hiu hắt Di Linh gửi tới ánh điện muôn màu Paris, thơ từ những dòng này, kế bên cuốn sách giáo lý dành cho những người dân tộc Koho, mà thân thể họ là những thây ma rã rục lần hồi. Sưng phù lên hoặc khô quắt lại...

Thơ ngắn (thơ) 
Chương trình chiều tà để từ biệt / Buổi hoà nhạc cuối cùng / Tiễn Thanh Tâm Tuyền... Con đường khởi sự từ đêm tối / Bụi cây sẫm bóng của mình / Dàn nhạc ngái ngủ không cần nữa thức dậy...

Các ngài cảnh sát (truyện / tuỳ bút) 
... Có tiếng gõ cửa. Hắn rời bàn phím máy vi tính. Ông công an khu vực ngó lên cái bảng số nhà mới, sực nức mùi plastique. Hắn hỏi ông công an khu vực “bao nhiêu vậy anh?” ... (...)

Bertolt Brecht biểu tôi giữ mãi niềm lạnh lẽo rừng, Joseph Huỳnh Văn cũng nói vậy, xác định danh tánh rừng Liên Chiểu, tại Quảng Nam của nước Việt Nam... | Sương tinh mơ ấp ủ mộng bên hồ / Sương mỏng mảnh những hình dung lỡ dở / Cũng rởn mình như thoáng nắng vạt áo / Vì phút giây mặt trời rớt xuống mồ...

Đêm. Những đêm chưa điểm danh. Đường tàu vào sâu bức tường vô hình. Những cụm bóng tối trắng. Còi hụ. // Còi hụ liên hồi. Tấm mạng của đêm chưa gỡ, lưu giữ gương mặt bi kịch của dịch chuyển của nơi chốn của kẻ đồng hành không ai khác là hắn...

Ngày bụi (truyện / tuỳ bút) 
Ai chờ đợi một đóa quỳ nở với mùa xuân? Vậy mà một ngày... anh mở cửa sổ, bầu trời trống rỗng. Anh mở cửa sổ lần nữa, vì anh đã đóng cửa sổ trở lại, sau khi mở lần đầu vào lúc 7 giờ, anh muốn tìm, hoặc mình đã lầm lẫn chăng, xem còn chút hứa hẹn nào... (...)

Mãi mãi Đà Lạt (truyện / tuỳ bút) 
Chúng tôi chui vào căn nhà gỗ, uống rượu vang sản xuất tại Đà Lạt. Chúng tôi hỏi nhau, nếu Đà Lạt không có Phạm Công Thiện, Lê Trung Trang, Nguyễn Mùi đã từng sống ở đây, nếu không còn những đãng tử, những chàng gan dạ, liều lĩnh, những nhà văn nhà thơ họa sĩ đích thực sống ở đây, nếu không có họ, Đà Lạt sẽ ra sao nhỉ? ... (...)

Buổi sáng Thị Ngạn Am (truyện / tuỳ bút) 
Căn phòng đầu tiên, phía tay trái, khi vừa hết những bậc cấp dẫn lên tầng trên của một dãy phòng ốc trong chùa Già Lam, đấy là am của thượng tọa Tuệ Sỹ, được đặt tên là Thị Ngạn Am... (...)

Thuở Vi Diệu ngắn ngủi (truyện / tuỳ bút) 
... Ông Bùi Giáng nhìn tôi, ánh mắt sáng lên một vẻ điên dại, “Chớ nhà ngươi tưởng ta vận áo đẹp khơi khơi như vầy hả? Đi với ta, tới gặp một trang quốc sắc.” ... (...)

Một chùm mê hoặc / Mây tối dàn trời / Tôi thọc tay vào đêm dài / Những vì sao / Những con mắt kinh hãi...

Một cụm mây (truyện / tuỳ bút) 
... Một cụm mây trôi dạt bất cứ nơi nào, lơ lửng trên mọi sự. Một cụm mây đến từ đâu, đi về đâu nào ai biết. Thấy một cụm mây ở đó, trong khoảnh khắc đó, chỉ vậy mà thôi... (...)

Kẻ mộng du (truyện / tuỳ bút) 
Một sợi dây thòng lọng treo từ trên thả xuống, lơ lửng, đôi lúc đong đưa trước mắt. Nghĩa là anh ta nằm ngửa mặt trông lên. Và nghĩa là, anh ta tưởng tượng sợi dây thòng lọng treo từ trên thả xuống, lơ lửng đong đưa trong căn phòng một cuốn phim ám ảnh... (...)

Một ngày nọ, dĩ nhiên khi ấy ông Bùi Giáng còn sống, đón tôi xuống xe ở Sài Gòn. Ổng nói: trẫm gọi mi là dã quỳ đại ca. / Điều ấy không phải vô cớ, bởi vì... / Chuyến xe lên cao nguyên, chạy qua Di Linh, chạy qua Lang Hanh, chạy tới Dran. / Xe từ đó chạy hoài, chỉ có hai hành khách: tôi và nàng. / Xe xuống hết đèo, đi lên thinh không, tôi thề sự thật là như vậy...

Nhắc, nhớ vân vân... (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi tiếc vì nhớ lần duy nhất gặp nhà văn Nguyễn Tuân, tôi chưa từng hỏi về chiếc lư đồng mắt cua của ông. Nếu ông còn giữ được lúc còn sống, thì cũng không lấy gì làm chắc chắn rằng sau khi ông mất, đã nhiều năm, nó không có cuộc phiêu lưu nào... (...)

Hắn là ai hay hắn là tôi / Chiều đang tàn đang tàn đang tàn rồi / Hắn là tôi hay hắn là ai / Là ai bước ra từ bóng tối / Bóng tối hiện hình từ bóng ai / Đi về phía tôi đi về phía tôi / Hắn là bóng tối hay bóng ai / Hắn là bóng ai hay bóng tối...

Một giả định đã có thể (truyện / tuỳ bút) 
Trên căn gác gỗ trong hẻm sâu ở một khu phố vô danh của thành phố lớn nhất đất nước hình chữ S, có cả thảy 3 người, tính cả tôi trong đó. Nhưng tôi hiển nhiên không là gì cả, tôi có mặt ở đó, thế thôi... (...)

Nỗi hoài (truyện / tuỳ bút) 
Buổi chiều, một trong những buổi chiều cuối năm, quán cà phê nhìn ra dòng sông hẹp, một nhánh của sông Sài Gòn. Hắn từ bên này của dòng sông, qua cầu Tân Thuận, quán cà phê tầm tầm, luôn vắng khách lúc hắn vào. Hắn nhìn ra dòng sông, tất nhiên là như vậy, trước mặt hắn chỉ có dòng sông... (...)

Đôi giày của gã lạc lõng (truyện / tuỳ bút) 
Hắn ưa gã nhất. Gã lạc lõng nhất trong những kẻ lạc lõng. Gã để y nguyên quần áo, đôi giày đi đường, nằm trên đống cỏ khô rải đầy trên sàn nhà kho, cái nhà kho không chứa gì hết trong ngôi nhà bỏ hoang. Cô nàng xinh tươi, tình nguyện làm bông hoa cho đẹp đời những gã lạc lõng trong cuộc hành trình vô định... (...)

Vào lúc 3 giờ (truyện / tuỳ bút) 
7 giờ, có lẽ như vậy. Buổi sáng trời trong, buổi sáng xám đục, buổi sáng… Anh ta thức dậy, luôn luôn thức dậy sau một đêm anh ta có thể đã ngủ ngon giấc, có thể không. Anh ta rửa mặt, đánh răng, anh ta làm các thứ nói chung là vệ sinh cá nhân. Xong, anh ta khóa cửa căn nhà nhỏ, ra đường... (...)

Mỗi nhà văn là một kẻ sống sót, Thanh Tâm Tuyền ra đi, mãi mãi để lại những lời thì thầm giữa cơn cuồng nộ của lịch sử... (...)

Phước huệ trắng (truyện / tuỳ bút) 
Bây giờ hay bao giờ cũng vậy, anh thường tới ngôi chùa cổ ở vùng ngoại ô Sài Gòn, uống trà, chuyện trò với thầy trụ trì. Có những lần anh ngủ lại ở chùa, vì uống trà hay không phải vì uống trà, anh thức trắng đêm. Khuya, tiếng chim ăn trái trong vườn chùa rộng rinh, tịch mịch... (...)

Một truyện ngắn thành công thức tỉnh cái đang ngủ, cái u mê, cái lãng quên trong ta. Nó có thể chẳng giống truyện ngắn như ta biết, nó là bất kỳ cái gì nhà văn có thể viết, nhưng nó khiến người đọc thích thú hơn bất kỳ truyện ngắn nào được xác định là truyện ngắn. [Nguyễn Đạt] (...)

Hãy cho tôi nói bằng chính tôi / Về tổ quốc tôi trong tim óc (thơ theo cách 1 bài thơ đã có). Bắt đầu từ đây là tổ quốc & tôi. Em có vú vê mông miếc em cứ việc lúc lắc / Tôi có tổ quốc tổ cò tôi cứ việc tôn thờ (thơ của 1 nhà thơ nọ)...

Cô gái tỉnh lẻ (truyện / tuỳ bút) 
... Khi hôn một phụ nữ, có 3/4 là tình yêu, 1/4 còn lại thuộc về tình dục. Còn ở chuyện kia, thì cái tỷ lệ tình yêu tình dục ngược lại. Nhưng không có 1/4, anh không thể làm được cái 3/4 kia... (...)

Đêm trắng (truyện / tuỳ bút) 
Đêm trắng. Ông nhà thơ kiêu ngạo & háo thắng TTY đã vì có chuyện không vui với nhà phê bình văn học nọ, chửi đổng: “Idiot! ở Saint-Pétersbourg mới có đêm trắng, chớ Sài Gòn làm quái gì có đêm trắng, mà cũng cố đặt tên cho nhà xuất bản là Đêm Trắng!” ... (...)

Trăng & sao (truyện / tuỳ bút) 
Đêm Đại Ninh (xanh sốt rét), tôi ước định bất thành, H ngủ cùng đoàn thân bằng quyến thuộc (nên chẳng thế nào mà rời cho được, kể cả lúc đi ngủ)... (...)

Một nơi mất tích (truyện / tuỳ bút) 
(Nhân vật xưng) tôi, hắn có thể trở lại căn nhà này vài ba lần hay vài ba chục lần nữa, ai mà biết được. Dù sao thì ngay lần này, lần mà tôi hiện diện ở đây, căn nhà đã không còn nữa... (...)

Chấm xuống dòng (truyện / tuỳ bút) 
... Dĩ nhiên là tôi đưa hết cho Hạnh những gì tôi đã viết, kể cả những gì tôi định viết. Những gì tôi định viết đó, tôi nói miên man trên bãi cỏ bờ hồ Xuân Hương... (...)

Nhân vật (truyện / tuỳ bút) 
... Quá ưa ông Albert Camus, tôi muốn giống ông để nói rằng những người sáng suốt không thể yêu ai. Rồi tự an ủi, ưa ông ấy là một chuyện, yêu người phụ nữ nào đó là chuyện khác, nghĩa là cứ yêu một ngàn người phụ nữ nào đó mà vẫn cứ là người sáng suốt... (...)

... Chỉ có mùa hè, và một lần này, loạt tranh mới của Hưng Trinh, đã như hẹn nhau cùng lúc cho tôi một cảm nhận về cái bừng sáng, về cái giống như siêu thoát... (...)

Tiền đồn s(x)ương trắng (truyện / tuỳ bút) 
Thời gian tôi ở Đại Đội Hắc Báo tăng cường cho Sư Đoàn Hỏa Tuyến dài chừng..., tôi chẳng nhớ được, nhưng đấy là chuyện về sau. Chuyện tôi nhớ lại lúc này, là chuyện có liên quan tới anh D., viên thiếu úy... (...)

Liên minh X,Y,Z (truyện / tuỳ bút) 
Cánh đồng trống vắng không còn cả hang hốc, dù chỉ đủ cho loài chuột có lông mượt nhẵn. Hai người, ít nhất một người buồn bã thấu tim phổi, nhìn theo hai người trên chiếc xe đạp, con đường đất đỏ, sỏi vụn và nắng khô khốc. “Ai vậy?”. “Không ai hết!”... (...)

Một cuộc chia tay (truyện / tuỳ bút) 
Một thứ hương lạ, loại nước hoa nào không biết. Tôi có nhiều ngày tháng sống dưới chân thang dẫn lên lầu vũ trường, cộng với nhiều ngày tháng thử nước hoa thật giả trong tiệm mỹ phẩm, vậy mà cũng không biết được... (...)

X trắng (truyện / tuỳ bút) 
... Những gì sau đó không là gì khác, không có gì khác. Một màn trắng xóa hiện ra, che chắn tất cả. Tất cả... (...)

Nơi trước sinh phần (truyện / tuỳ bút) 
Hắn cúi lượm hòn đá nhỏ xíu mà hết sức khó nhọc, như ông T. nâng điếu thuốc lá ngang tầm chiếc cằm, mãi như vậy, ít nhất một thời gian đủ để suy nghĩ hay mơ mộng một giấc mơ chừng 2 tiếng đồng hồ. Nhưng ông T. chẳng khó nhọc một chút nào... (...)

Một truyện ngắn (truyện / tuỳ bút) 
... Tôi đưa truyện ngắn "Một Truyện Ngắn" này cho người bạn là nhà phê bình văn học xem. Anh nói: “Ờ, đây là truyện ngắn... (...)

... Rồi tôi đi vào đám đông, mọi người nhìn tôi thân thiện, nhiều người giới thiệu tôi vô hội văn nghệ, dành cho tôi chiếc ghế êm và đẹp nhất so với các hội viên. Mộng mùa xuân tới đây là dứt...

Tôi luôn luôn có giấc mơ kỳ lạ. Tất cả bọn họ thất học, tuy nhiên lại bội thực chữ. Tranh thủ, khẩn trương, họ luồn lách xe qua mọi ngả, vượt cả đèn đỏ ở mọi ngã ba ngã tư, tông vào bất cứ ai chạy ngược phía họ, trên con phố đã được hiến pháp ghi rõ đường hai chiều...

Chiều rớt xuống một vực đen. Tàu dừng ở ga nào cũng vậy. Tôi đeo một cục màu gì? Ông thầy bói nào cũng đoán màu đen. Tôi không cần học nghề thầy bói, vì tôi yêu...

Ngày xám (thơ) 
Ngày nào cũng xám xịt như ngày này. Tất cả những bức tường đều làm bằng kính, tất cả những bức tường ấy đều mơ hồ trong một ngày xám xịt như ngày này...

Tự sự (thơ) 
Tôi bơi, hóa ra ngược dòng, gặp vô số cọc ngầm, tôi vỡ đôi. Một nửa tôi là cơn lốc điên cuồng, nó quay, quay tít mù, muốn bứt cái trục hiện tại. Một nửa tôi còn lại, chia làm mười, chúng phiêu lưu tán loạn các miền...

Gió. Gió nổi khắp đồng cát. Căn nhà gỗ giữa đồng cát, vách ván rung rinh. Bãi minh mông sa mạc. Gió hay cát tôi không biết. Tù nhân tôi, gió hay cát cũng cầm bằng chết tới nơi...

Những con bọ (truyện / tuỳ bút) 
Thật kinh khủng, những con bọ phá rối giấc ngủ, anh buộc phải triệt hạ chúng bằng bình xịt diệt côn trùng. Anh xịt thuốc ướt hết căn phòng. Thật kinh khủng, chúng chết hết, nhưng anh hiểu ngay tức thì, hiểu trước cả khi anh phát hiện ra chúng, một con bọ khác, một con bọ cực kỳ to lớn so với mọi loài sâu bọ... (...)

Thơ tình còn được yêu thích không? Các nhà thơ hôm nay nghĩ gì về thơ tình? Họ có còn làm thơ tình không? Trần Nhuệ Tâm đã phỏng vấn một số nhà thơ, và những bài phỏng vấn sẽ được đăng liên tục trên Tiền Vệ. Mời bạn đọc theo dõi. (...)

Nàng (thơ) 
Ánh lửa xoè từ một que diêm. Khuôn mặt hiện / Tất cả, không riêng ai. Tất cả nghe rõ tiếng em cười / Xong / Tan thành khói, không dư âm / Phố khuya, tình bỏ mẹ, lại thắp lửa đèn...

Tôi viết (truyện / tuỳ bút) 
Tôi đã thề, tất nhiên thề với chính tôi, đừng nhắc xa nhắc gần tới cố nhân. H và tôi, như lời thầy coi chỉ tay nói, đều có chung dòng máu Hoạn Thư... (...)

Mada gouil (truyện / tuỳ bút) 
Tôi tới Mada gouil luôn luôn là buổi trưa. Nếu có thể sẽ đến sớm hơn buổi trưa, tôi vào một quán cà phê ở Định Quán hay ở đâu đó, để tới Mada gouil vào đúng buổi trưa. Nhiều bạn bè hỏi tôi, Mada gouil là cái quái gì vậy?... (...)

Em trai (truyện / tuỳ bút) 
... Thây kệ những điều nhảm nhí. Chúng xảy ra từ thuở khai sinh nền văn minh nhân loại. Chúng xảy ra một cách nhảm nhí, như em đã biết, và em đã xử sự một cách đáng nể. Việc của em là: Viết. Viết với tất cả những gì đang thôi thúc trong chính mình. Viết trong thế giới này vì một thế giới khác... (...)

Meursault ở xứ đoạ đày (truyện / tuỳ bút) 
Có thể từ thời xa xưa, một vị tiên tri Cách Mạng về một mùa xuân đại thắng... Nhà thơ, trong quân đội ông mang cấp bậc thiếu tá, và tôi lúc này em chỉ yêu anh binh nhì. "Cậu không có ý định lấy vợ là đúng… Cậu là oiseau rare...". Tôi không có ý định gì hết, kể cả ý định tiếp tục đào ngũ... (...)

Giờ lành (truyện / tuỳ bút) 
Joseph Huỳnh Văn không hề ngạo mạn khi tôn trọng mọi nhân cách ngang bằng nhau. Tôi hỏi anh: “Sao không cho thằng ăn cắp đó một cú direct?” Anh lắc đầu... (...)

1 gồm 3 (truyện / tuỳ bút) 
Hắn, tôi từng gặp ở đâu đó, một tỉnh lẻ thuộc miền Trung. Tôi gặp lại hắn ở Sài Gòn, cư ngụ cùng khu phố nghèo, đù mẹ kiếp nghèo, tuy nhiên cái quán nửa khuya đầu hẻm 24/24 giờ mở cửa, ngồi uống một ly cà phê đen cũng được nghe nhạc vàng mệt nghỉ, tới chán không thôi... (...)

Một tình huống khó xử (truyện / tuỳ bút) 
H không phải là một tình huống khó xử của tôi. H tự nhìn nhận mình là người phụ nữ lụy tình, và tôi thấy H đúng như vậy, u mê một lão già có 40 năm kinh nghiệm mồi chài phụ nữ. Tôi nói: “Anh sẽ chữa bịnh cho em”... (...)

Đại Ninh xanh sốt rét (truyện / tuỳ bút) 
Có nhiều niên biểu thời gian của quá khứ, ở nơi này nơi khác. Có nhiều lúc ở một nơi, nhiều nơi ở một lúc. Nhật ký của tôi bên chân cầu: Rừng thông Đại Ninh xanh sốt rét / Co ro cùng tôi bên chân cầu / Nước thác thượng nguồn nào ai biết / Tan cùng vỡ vụn dưới lòng sâu… (...)

Trưa rừng (truyện / tuỳ bút) 
Rừng thông ngút ngàn, nắng trong suốt cõi mênh mông. Liệu đã có ai đặt chân trên ngọn núi phía rất xa kia?... (...)

Nghệ Thuật (truyện / tuỳ bút) 
Chị Nhã, tên chị gần như vậy, cùng tên với nhân vật nữ luôn xuất hiện trong những gì gọi là truyện ngắn của tôi trước đây, cũng cần nói rõ, những truyện ngắn thời tiền I-novel. Chị Nhã hỏi: “Thế ở vùng núi Kỳ Vân anh làm gì?”. Tôi chẳng làm gì hết. Tôi trả lời chị: “Tôi ngồi ngó núi Kỳ Vân”... (...)

Hai người bạn Việt kiều (truyện / tuỳ bút) 
Cô Thúy hiền lành chân chất, dĩ nhiên. Năm 1977, cô Chín rủ cô Thúy cùng vượt biên. Chuyện may rủi không liên can gì tới chuyện sau đó cô Thúy kết hôn với tôi, kẻ ngàn đời xin nhận quê nhà là quê hương... (...)

Một chỗ và vài người (truyện / tuỳ bút) 
Em tên chi? Dạ, Phượng Liên. Ồ, hay quá, Phượng Liên! Sao vậy anh? Không sao hết, chỉ rất hay mà thôi. Cái túi của anh… để em xách cho. Thôi để tôi xách, nó nặng lắm, một cái máy đánh chữ khổng lồ trong đó, rất nặng. Em xách được mà... (...)

Bãi biển (truyện / tuỳ bút) 
Lần nào cũng vậy: biển sáng rực chói chang, gió lạnh ngắt. Lần này có hai người, đang đi lên núi, tới nửa trái núi gặp một cái dốc thì biển biến mất. Trên núi có trại lính, ở trạm canh gác có anh lính gác, anh ta nhường cái ghế cho cô gái... (...)

Trích đoạn trên đường mòn (truyện / tuỳ bút) 
... H đi nhiều, đi tiêu sái và tiêu xài. Tôi cũng đi nhiều, để chỉ biết mỗi con đường mòn, đi cùng hoài niệm ở thinh không, H là một phần hoài niệm đó. (...)

Biên bản của mister G. B. (truyện / tuỳ bút) 
Tôi quý trọng mister G. B. không giống như tôi quý trọng William Shakespeare. Tôi quý trọng ông khá giống tôi quý trọng ông già Bertrand Russell, dù mister G. B. không phải triết gia gì cả, ông là một “huyền thoại bóng đá Anh quốc”, như người ta nói... (...)

Một nỗi thảng thốt (truyện / tuỳ bút) 
Tôi đứng giữa nắng chói rát buổi sáng muộn, những tia nắng nhọn hoắt xuyên vào khắp thân thể. Tôi biết mình đang chịu đựng nhiều gấp một ngàn lần cái giá buốt của khuya qua. Tôi biết cơn thảng thốt này sẽ đi theo suốt cuộc đời viết văn của mình... (...)

Ông ấy tên Đăng (truyện / tuỳ bút) 
Tôi không thể biết được người đàn ông thấy gì phía ngoài, ở khối đen rách vỡ, chắc phải như vậy, những tiếng động bất chợt bao gồm những hiểm họa, có lẽ như vậy, như một mớ tối tăm rối loạn chỉ hiểu được bằng cảm xúc đau đớn, giá buốt... (...)

Chút ít sự thật của… (truyện / tuỳ bút) 
H nói: “Thỉnh thoảng ông Sơn Núi có gọi điện thoại…”. Tôi hỏi ông Sơn núi về H, nhưng gợi ý nói về H là ông: “Gớm quá, đồng bóng gớm quá!”. Tôi hỏi H: “Thế ông Sơn Núi điện thoại nói gì với em?”. “Thì hỏi thăm này nọ… Nhưng lâu nay không thấy gọi nữa… Lần cuối, ông ấy toàn nói bậy bạ, em cúp máy không nghe”. Tôi nói với H, như vậy người ta gọi là quấy rối tình dục… (...)

Viết lại từ bãi cát (truyện / tuỳ bút) 
Người ta cho rằng hắn có một thời hoàng kim, ví dụ K. Hắn có liên quan tới màu vàng thật đấy, ví dụ màu vàng của một loài hoa dại: Dã quỳ. Màu vàng của hoa, lại là một loài hoa dại, không mảy may dính líu với những gì gọi là hoàng kim... (...)

Và, sau… (truyện / tuỳ bút) 
Cô gái giống một nữ tu, vòng ruy-băng trên tóc, lạ lùng thầm lặng trong một quán ăn bình dân ở con phố nhìn ra bến cảng. Trước mặt cô gái là một dĩa cơm, bên cạnh dĩa cơm là một ly đá và một chai xá xị, và bên cạnh mấy thứ này là một cuốn sách bìa cứng, người ta có thể nghĩ đấy một cuốn kinh sách... (...)

Chiếc ống vố (truyện / tuỳ bút) 
Anh ta rõ ràng bụi bặm, nhưng anh ta rõ ràng không dơ. Đám râu trắng đục ở quanh miệng: Râu mép được chặn lại, rõ ràng anh ta không thể để việc ăn uống lưu dấu ở đó... (...)

Tôi xuống chỗ này (truyện / tuỳ bút) 
Anh đi xe đò, bây giờ xe đò rất nhiều, đều là các thứ xe khá, cả về động cơ lẫn kiểu dáng, anh không chú ý chuyện đó. Từ thuở nào tới bây giờ anh không chú ý chuyện đó... (...)

Nghệ Thuật (thơ) 
Chín rưỡi (chín và một nửa) trên mười số khách tới đó không làm gì cả. Một nửa (của đàn ông) là đàn bà, một nửa đó cũng không làm gì cả. Phụ nữ không những được coi là phái yếu mà còn được gọi là phái đẹp...

Cà phê ABC (truyện / tuỳ bút) 
Bọn chúng tôi vài người, cũng là đông trong cái thời mà người ta gọi là thời băng hoại, chiều chiều tụ tập cà phê vỉa hè, nói đủ thứ chuyện trên đời, đấy là nói chung như vậy... (...)

Một chín chín trên bốn một (truyện / tuỳ bút) 
“Quán đẹp thế này mà lại vắng khách nhỉ,” người đàn ông nghe người đàn bà nói vậy. Người đàn ông tới trước, uống thật chậm ly chanh rum... (...)

Thái độ một hai người (truyện / tuỳ bút) 
Tôi vốn có mỹ cảm với nhan đề các truyện ngắn “Mưa Tạnh”, “Ngày Trở Về Của Nàng”, “Một Chỗ Cho Người Tàn Tật”... (...)











Nguyễn Đạt trên vanchuongviet

Tổng số tác phẩm: 23




(truyện ngắn)


(thơ)


(thơ)


(thơ)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(thơ)


(ký)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(thơ)


(truyện ngắn)


(thơ)


(truyện ngắn)


(tạp văn)


(thơ)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(truyện ngắn)


(thơ)


(thơ)











Nguyễn Đạt trên Da Màu
Bài đã đăng của nguyễn đạt



từ đây…
25.04.2016





nàng
23.03.2016














thoáng nàng
01.10.2015

mã phố
24.09.2015





cần thiết
12.08.2015

hoa cát du
30.07.2015

hương đêm
28.07.2015

bài cát du ii
17.07.2015

cát du
10.07.2015










kẻ bị ám
16.04.2015














mấy bài thơ
16.12.2014






















Nguyễn Đạt
ảnh: Phan Nguyên








Nguyễn Đạt & Phan Nguyên
Sài Gòn 2017










Trở về 



MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.