Duy Lam
Tên khai sinh: Nguyễn Kim Tuấn
(1932 - 4/2/2021)
Hưởng thọ 89 tuổi
Nhà văn, Họa sĩ
Tiểu sử
Duy Lam là trưởng nam của bà Nguyễn thị Thế, em gái của 2 ông Nhất Linh và Hoàng Đạo và chị của Thạch Lam.
Duy Lam là anh ruột nhà văn Thế Uyên.
Duy Lam là thành viên trẻ tuổi nhất, gia nhập Tự Lực Văn Ðoàn.
TÁC PHẨM
1
Chồng Con Tôi
(tập truyện ngắn, 1960)
2
Gia Đình Tôi
(tập truyện ngắn, 1962)
3
Cái Lưới
(truyện dài, 1964)
4
Nỗi Chết Không Rời
(truyện ngắn, cùng viết với Thế Uyên, 1966)
5
Ngày Nào Còn Đàn Bà
(tập văn vui, 1967)
6
Lột Xác
(truyện dài, 1968)
7
Tuyển Tập Truyện Mới
(tập truyện ngắn, 1995)
8
Thi tập Chân Mây
(thơ, 1996)
9
Em Phải Sống
(tập truyện ngắn, 1996)
10
Where The Cloud Ends
(cùng viết với An Nhiên, 2007
Ngoài ra trong tù ông có 1 bài thơ cảm động mà nhạc sĩ Xuân Điềm đã phổ nhạc,
Xuân Điềm & Duy Lam: Chiếc Kẹo Nhỏ
Anh Xuân Điểm kể về bài tù khúc “Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết”:
“Nhà văn Duy Lam từ Bắc chuyển trại về Nam có tặng bài thơ nội dung nói về cái chết tức tưởi của đại tá Nguyễn Khoa Dóanh là bào đệ của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Nhà văn Duy Lam là người tù canh giữ trạm xá nơi đại tá Nguyễn Khoa Dóanh kiệt sức đang nằm chờ chết. Hôm ấy, đại tá Dóanh thều thào với nhà văn Duy Lam rằng ông thèm ngậm một viên kẹo trước khi lìa đời. Sau khi tìm được kẹo về thì đại tá Dóanh cầm chặt viên kẹo trong tay tỏ vẻ vui mừng nhưng không ngậm được nữa vì giờ chết gần kề. Khi nhà văn Duy Lam vuốt mặt lần cuối cho người bạn tù thì viên kẹo rơi ra khỏi tay và nằm trên ngực áo, Ôi! Thương thay, đến chết mà ước mơ thật nhỏ bé cũng không thành sự thật”. (Xuân Điềm)
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Nắm không buông như níu kéo cuộc đời
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Người bạn tôi vừa từ bỏ cuộc đời
Mới vừa đây trong tiếng rên hấp hối
Anh đã xin “hãy tìm hộ cho anh
Một chiếc kẹo” . . . vì đã thèm chất ngọt
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi phút này
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Phút chia ly tôi vuốt mắt bạn hiền
Chiếc kẹo nhỏ rơi nằm trên ngực áo
Kẹo còn đây mà người đã lìa đời . . .
Thế là thôi trong nỗi vui phút cuối
Anh chết đi chiếc kẹo còn trong tay
Đầy cẩn trọng trong nỗi niềm vô vọng
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi phút này
CODA: Tiễn đưa anh những bạn tù đói rách
Chiếc áo thô tẩm liệm cuối đời tù
Khóc cho anh và cho cả chúng ta
Rồi ngày nao . . . cũng sẽ đến lượt . . . mình
Theo nhà thơ Luân Hoán
Duy Lam là thành viên ban sáng lập và chấp hành hội Bút Việt,
sau đổi tên là Văn Bút Quốc Tế Việt Nam
(Nhất Linh, Ðỗ Ðức Thu, Vũ Hoàng Chương, Ðái
Ðức Tuấn, Hiếu Chân, Nguyễn Thị Vinh...)
Trong hình đính kèm Duy Lam chụp chung với các thành viên Văn Bút Việt Nam mà anh cùng ông Nhất Linh và một số nhà văn, thơ khác đồng sáng lập thập niên 1960 tại Saigon.
Duy Lam tên thật Nguyễn Kim Tuấn ông sinh năm 1932 tại Hà Nội, là con ông Nguyễn Kim Hòa (mất năm 1963, Sàigòn) và bà Nguyễn thị Thế. Mẹ ông là em gái của Nhất Linh, Hoàng Ðạo và là chị Thạch Lam; mất năm 1997 tại Hoa Kỳ.
Duy Lam là thành viên trẻ tuổi nhất, gia nhập Tự Lực Văn Ðoàn.
Tác phẩm của ông gồm truyện ngắn Chồng Con Tôi, Ngày Nào Còn Ðàn Bà, Nỗi Chết Không Rời, Em Phải Sống. Hồi ký Gia Ðình Tôi. Truyện dài Cái Lưới, Lột Xác.
Ngoài viết văn Duy Lam còn là một họa sĩ tài năng, ông vẽ rất sớm và mới đây có cuộc triển lãm tranh tại tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.
Chúng tôi may mắn gặp nhà văn, họa sĩ Duy Lam trong lần triển lãm này và ông cho phép được hỏi đôi điều có liên quan đến Nhất Linh, cha đẻ của Tự Lực Văn Đoàn cũng là người cậu ruột thân thiết của ông.
Binh bộ Thượng Thơ
Nói về cuốn hổi ký mà mẹ ông, bà Nguyễn Thị Thế, viết về gia đình Nguyễn Tường ông cho biết:
” Ông Nhất Linh là bác tôi vì mẹ tôi là em ruột của ông có viết cuốn Hồi ký của gia đình Nguyễn Tường-Nhất Linh-Hoàng Đạo -Thạch Lam. Tôi đã tái bản đến ba lần. Mẹ tôi viết sau khi ông mất và đó là điều đáng tiếc. Chắc ông rất thú vị vì em gái của mình mà ông rất quý cũng đã viết hồi ký. Cuốn hồi ký được nhắc nhiều nhất trong văn học. Nhắc đi nhắc lại, trích trong văn chương Việt Nam.
Khi quyển hồi ký ra đời vào năm 1968 ở Sài Gòn thì nó đã làm cho tất cả các sách giáo khoa phải thay đổi vì cái gọi là gốc gác của họ Nguyễn Tường là ở Cẩm Phô, Quảng Nam. Trước đó không ai hề hay biết. Trong sách học thì ghi là Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam sinh ở Hải Dương, không nói gì đến gốc gác của họ Nguyễn Tường, là một giòng dõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân: “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi.
Cụ Nguyễn Tường Vân có làm Đại sứ cho vua Gia Long sang nước Trung hoa thời nhà Thanh. Ở nhà tôi có một bức hình chụp cụ Nguyễn Tường Vân do nhà Thanh vẽ tôi có triển lãm trong các ngày lễ văn hóa ở các trường trung học ở Đà Nẵng năm 1971. Bức hình đã lâu đời hết sức nhưng màu vẫn còn đẹp nguyên.”
– Thưa nhà văn Duy Lam, chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra sau khi nhà văn Nguyễn Tường Tam vào Sài Gòn và thu nhận thêm một vài thành viên nữa cho Tự Lực Văn Đoàn, mặc dù lúc ấy sức thu hút của Văn đoàn này không còn mạnh mẽ như trước nữa?
– Về chuyện ông bác tôi thì tôi có giải thích một lần trong báo Người Việt tại sao ông Nhất Linh lại làm cái gọi là Tự Lực Văn Đoàn mà thêm giễu đùa là “nối dài”. Vào năm 1953 ông có làm “chúc thư văn nghệ” và đưa tôi và Nguyễn Thị Vinh và anh Tường Hùng ở Tự Lực Văn Đoàn lớp sau. Những người trong lớp văn học cũng có thể trả lời tại sao ông lại làm Tự Lực Văn Đoàn lớp hai. Lớp hai chứ không phải là thế hệ hai vì Vinh là người cùng thời với ông ấy và là đồng chí của ông nữa. Phía ở Hà Nội vào lúc hoạt động chính trị, ông Trương Bảo Sơn chồng bà là một đồng chí của ông Nhất Linh.
Điên? – Mưu kế chính trị!
– Còn câu hỏi về sự tự vẫn của Nhất Linh tuy đã được bàn rất nhiều trên báo chí nhưng đâu đó vẫn còn những câu hỏi cho rằng Nhất Linh có vấn đề tâm thần dẫn tới cái chết của ông ấy…
– Đến bây giờ mọi người vẫn không chịu tìm hiểu gốc gác các câu chuyện tại sao, động cơ nào đã khiến ông Nhất Linh tự vẫn. Tôi làm việc với ông Nhất Linh nhiều nhất, khi tôi bắt đầu viết truyện theo sự huấn luyện và kèm của ông thì tập “Chồng con tôi” ra đời và do ông chọn. Ông sửa một truyện của tôi đến 4,5 lần nhưng tôi chịu được sự kỷ luật đó. Vì thế tôi mới được coi là người có lối văn Dostoyesky đầu tiên ở trong văn chương Việt Nam, như ông Nguyễn Văn Trung có nói đến chuyện đó.
Lúc viết truyện ngắn tôi còn đương đi học ở Chu Văn An, lớp đệ tứ mới 19 tuổi. Ông Nhất Linh vô Sài Gòn trước năm 1952. Ông ấy gởi cho tôi, bà Vinh và anh Hùng mỗi người một tờ giấy viết tay cho chúng tôi vào Tự Lực Văn Đoàn làm tôi hết sức ngạc nhiên vì tôi chỉ mới là cậu bé 19 tuổi.
Tác phẩm của ông gồm truyện ngắn Chồng Con Tôi, Ngày Nào Còn Ðàn Bà, Nỗi Chết Không Rời, Em Phải Sống. Hồi ký Gia Ðình Tôi. Truyện dài Cái Lưới, Lột Xác.
Ngoài viết văn Duy Lam còn là một họa sĩ tài năng, ông vẽ rất sớm và mới đây có cuộc triển lãm tranh tại tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.
Chúng tôi may mắn gặp nhà văn, họa sĩ Duy Lam trong lần triển lãm này và ông cho phép được hỏi đôi điều có liên quan đến Nhất Linh, cha đẻ của Tự Lực Văn Đoàn cũng là người cậu ruột thân thiết của ông.
Binh bộ Thượng Thơ
Nói về cuốn hổi ký mà mẹ ông, bà Nguyễn Thị Thế, viết về gia đình Nguyễn Tường ông cho biết:
” Ông Nhất Linh là bác tôi vì mẹ tôi là em ruột của ông có viết cuốn Hồi ký của gia đình Nguyễn Tường-Nhất Linh-Hoàng Đạo -Thạch Lam. Tôi đã tái bản đến ba lần. Mẹ tôi viết sau khi ông mất và đó là điều đáng tiếc. Chắc ông rất thú vị vì em gái của mình mà ông rất quý cũng đã viết hồi ký. Cuốn hồi ký được nhắc nhiều nhất trong văn học. Nhắc đi nhắc lại, trích trong văn chương Việt Nam.
Khi quyển hồi ký ra đời vào năm 1968 ở Sài Gòn thì nó đã làm cho tất cả các sách giáo khoa phải thay đổi vì cái gọi là gốc gác của họ Nguyễn Tường là ở Cẩm Phô, Quảng Nam. Trước đó không ai hề hay biết. Trong sách học thì ghi là Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam sinh ở Hải Dương, không nói gì đến gốc gác của họ Nguyễn Tường, là một giòng dõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân: “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi.
Cụ Nguyễn Tường Vân có làm Đại sứ cho vua Gia Long sang nước Trung hoa thời nhà Thanh. Ở nhà tôi có một bức hình chụp cụ Nguyễn Tường Vân do nhà Thanh vẽ tôi có triển lãm trong các ngày lễ văn hóa ở các trường trung học ở Đà Nẵng năm 1971. Bức hình đã lâu đời hết sức nhưng màu vẫn còn đẹp nguyên.”
– Thưa nhà văn Duy Lam, chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra sau khi nhà văn Nguyễn Tường Tam vào Sài Gòn và thu nhận thêm một vài thành viên nữa cho Tự Lực Văn Đoàn, mặc dù lúc ấy sức thu hút của Văn đoàn này không còn mạnh mẽ như trước nữa?
– Về chuyện ông bác tôi thì tôi có giải thích một lần trong báo Người Việt tại sao ông Nhất Linh lại làm cái gọi là Tự Lực Văn Đoàn mà thêm giễu đùa là “nối dài”. Vào năm 1953 ông có làm “chúc thư văn nghệ” và đưa tôi và Nguyễn Thị Vinh và anh Tường Hùng ở Tự Lực Văn Đoàn lớp sau. Những người trong lớp văn học cũng có thể trả lời tại sao ông lại làm Tự Lực Văn Đoàn lớp hai. Lớp hai chứ không phải là thế hệ hai vì Vinh là người cùng thời với ông ấy và là đồng chí của ông nữa. Phía ở Hà Nội vào lúc hoạt động chính trị, ông Trương Bảo Sơn chồng bà là một đồng chí của ông Nhất Linh.
Điên? – Mưu kế chính trị!
– Còn câu hỏi về sự tự vẫn của Nhất Linh tuy đã được bàn rất nhiều trên báo chí nhưng đâu đó vẫn còn những câu hỏi cho rằng Nhất Linh có vấn đề tâm thần dẫn tới cái chết của ông ấy…
– Đến bây giờ mọi người vẫn không chịu tìm hiểu gốc gác các câu chuyện tại sao, động cơ nào đã khiến ông Nhất Linh tự vẫn. Tôi làm việc với ông Nhất Linh nhiều nhất, khi tôi bắt đầu viết truyện theo sự huấn luyện và kèm của ông thì tập “Chồng con tôi” ra đời và do ông chọn. Ông sửa một truyện của tôi đến 4,5 lần nhưng tôi chịu được sự kỷ luật đó. Vì thế tôi mới được coi là người có lối văn Dostoyesky đầu tiên ở trong văn chương Việt Nam, như ông Nguyễn Văn Trung có nói đến chuyện đó.
Lúc viết truyện ngắn tôi còn đương đi học ở Chu Văn An, lớp đệ tứ mới 19 tuổi. Ông Nhất Linh vô Sài Gòn trước năm 1952. Ông ấy gởi cho tôi, bà Vinh và anh Hùng mỗi người một tờ giấy viết tay cho chúng tôi vào Tự Lực Văn Đoàn làm tôi hết sức ngạc nhiên vì tôi chỉ mới là cậu bé 19 tuổi.
Văn hào Nhất Linh – ảnh tặng ông Lê Văn Kiểm
Trong cuốn sách của ông Tú Mỡ có nói đến đoạn đó. Đó chẳng qua là một mưu kế chính trị mà một người như ông phải làm thôi. Đó là lần thứ nhất. Lần thứ hai, lần này thì mẹ tôi có ghi trong cuốn hồi ký là năm 60, ông ở nhà bà ngoại tôi là mẹ ông ở 58 Lý Thái Tổ (mà sau này tôi vô ở cùng) thì cảnh sát đứng rình chung quanh nhà. Như mẹ tôi nói ”anh Tam lấy giấy tờ vất ra cửa sổ”, rồi nói năng lảm nhảm để giả vờ mình bị điên. Thế nhưng cái đó không phải là lần đầu tiên. Ngày trước bác đã giả vờ điên rồi. Cái đó có ghi trong sách nhưng không ai đọc sách cả. Trong cuốn hồi ký của mẹ tôi đã in đến lần thứ ba. Mẹ tôi còn khôi hài “giá bác vất tiền ra thì mẹ đến mẹ nhặt”. Hai lần giả vờ điên thế nhưng người ta cứ bảo ông Nhất Linh tự tử chống Ngô Đình Diệm là vì ông điên. Tôi sợ họ không đọc sách cho kỹ nên họ mới là người điên.
Đứt đôi – Gây dựng lại
– Quay trở lại Tự Lực Văn Đoàn, ông có thể cho biết thêm tâm sự của Nhất Linh về đứa con tinh thần này như thế nào… Ông ấy có tha thiết với nó hay chỉ là một phuơng tiện để hoạt động cách mạng? Nhất là sau khi những cây bút chính rớt lại miền Bắc?
– Cuộc chiến tranh ý thức hệ đã làm đứt đôi Tự Lực Văn Đoàn. Ông Nhất Linh than thở với tôi: “Bây giờ bác vào đây có mỗi mình bác. Xuân Diệu, Tú Mỡ, Thế Lữ… ở ngoài đó đi theo cộng sản”. Mới đây anh Nguyễn Hưng Quốc diễn thuyết ở Người Việt cũng còn nhắc những người đều đi theo cộng sản hết. Ông Tú Mỡ được giải thưởng của Hồ Chí Minh về thơ trào phúng chống Pháp. Ông Thế Lữ là chủ tịch hội kịch nói. Ông Xuân Diệu là công thần của chế độ. Ba người đó là cộng sản bị đảng áp lực đã nhiều lần tố ông Nhất Linh là phản động và phủ nhận Tự Lực Văn Đoàn. Họ phải làm vậy thôi nếu không thì họ không thể nào sống nổi với công sản.
Như thế theo nguyên tắc họ không còn trong Tự Lực Văn Đoàn vì họ tự ý đả kích ông giám đốc của đoàn và tự ý rút ra. Những người Quốc gia ở Việt nam thời đó và những người Việt nam ở hải ngoại bây giờ tự hỏi mình có thể chấp nhận Tự Lực Văn Đoàn có 3 người cộng sản không? Chỉ còn có mỗi ông Nhất Linh, ông Hoàng Đạo mất ở hải ngoại, ông Thạch Lam mất sớm. Ông Khái Hưng thì bị cộng sản giết ở Cửa Gà cùng với anh của ông Nhất Linh là ông Nguyễn Tường Cẩm, chuyện đó là lịch sử rồi. Thế thì mình có chấp nhận Tự Lực Văn Đoàn có ba người cộng sản không?
Ông Nhất Linh nhiều lần nói chuyện với tôi ở nhà Hàng Bè. Vào Sài Gòn thì ông gởi cho chúng tôi “chúc thư văn nghệ” năm 1952. Ông hay than thở với tôi là “Cái công lớn nhất của đời bác là làm Tự Lực Văn Đoàn nhưng bây giờ vì chính trị, anh em tan nát ra cả. Không biết họ có vào được miền Nam không”.
Dĩ nhiên ông ấy có nhiều lần khóc, khó lòng mà không khóc được. Những ngày tết nhất nhớ lại Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa của ông, nhớ lại những người đã chết, ông Tường Cẩm bị cộng sản bắt đi trước mặt tôi và bị giết chết. Vì những nỗi buồn đó mà ông ấy có nói với tôi “vì thế mà bác mới làm Tự Lực Văn Đoàn để đưa những tay bút mới” như một bài thơ có nói “Tự Lực Văn Đoàn rồi phải trồi lên”. Phải phục hưng tinh thần của Tự Lực Văn Đoàn nếu không chúng ta sẽ bị những người cộng sản chiếm đa số.
Vinh quang và bi kịch
– Số phận của gia đình Nguyễn Tường hầu như gắn liền với một giai đoạn lịch sử… Là thành viên trong gia đình này nhà văn có cảm tưởng ra sao khi có nguời so sánh với gia đình Kennedy của Mỹ, cũng vinh quang nhưng đầy bi kịch…
– Gia đình tôi cũng giống như gia đình Kennedy ở bên Mỹ này, những thành viên trong gia đình đều làm chuyện công ích và chính trị. Họ Nguyễn Tường ở trong nước Việt Nam nhỏ bé cũng liên hệ đến chính trị cùng với các đồng chí. Ông Tường Cẩm thì bị cộng sản giết, ông Nhất Linh sau chết cũng vì chính trị. Ông Hoàng Đạo bị lưu vong mà phải chết sớm, cũng là vì chính trị. Cho nên có thể nói cái ảnh hưởng sâu rộng đến gia đình Nguyễn Tường và ảnh hưởng luôn đến Tự Lực Văn Đoàn. Làm đứt đôi Tự Lục Văn Đoàn luôn. Ông Nhất Linh ở vị trí của ông – người sáng lập ra đoàn, phải cố gắng phục hồi tinh thần của Tự Lực Văn Đoàn bằng đủ mọi cách. Đó là tinh thần của ông Nhất Linh, lúc nào cũng tiến tới, lúc nào cũng làm một cái gì mới. Đời không khuất phục được. Chính trị độc tài không khuất phục được. Cộng sản không khuất phục đươc. Thế mới là ông Nhất Linh chứ mà lùi và xóa bỏ đi Tự Lực Văn Đoàn thì chuyện đó là chuyện tự nhiên, không ai nói gì được. Tinh thần ông ấy là như vậy, tôi biết bác tôi. Ông ấy bảo tôi: “ Cháu phải cố gắng”.
– Xin cám ơn nhà văn, họa sĩ Duy Lam.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/interview-with-the-youngest-member-of-tu-luc-van-doan-08242013103530.html
MỘT CÁNH HẠC VỪA BAY XA: NHÀ VĂN DUY LAM
Nguyễn Tường Tâm
Duy Lam là cháu gọi mấy anh em nhà văn Nhất Linh là cậu ruột, đồng thời anh là một trong ba nhà văn được Nhất Linh chọn lựa có thể trở thành thành viên của Tự Lực Văn Đoàn trong tương lai. Một trích đoạn trong chúc thư (văn nghệ) năm 1953, Nhất Linh viết:
“Giao Thừa năm quý tỵ 1953,
Trong hương trầm của đêm 30 Tết và mắt mờ đi vì thương cảm những người cũ đã khuất hoặc mất tích, lại nghĩ tới những nhân tài mới khả dĩ đem lại một nguồn sinh lực rồi rào hơn làm nhà Tự Lực thay đổi luôn và trẻ mãi, tôi có mấy lời cảm xúc này – và cũng là chúc thư luôn thể – với một bài thơ để gửi các anh em cũ (bất cứ ở khu nào) và mấy nhân viên tương lai của Tự Lực Văn Đoàn. Trong bẩy tám nhà văn mới chọn lọc được trong hai năm nay, tôi thấy có ba nhà văn chắc chắn xứng đáng là nhân viên Tự Lực Văn Đoàn và tôi tin anh Đỗ Đức Thu cũng như mấy anh mất tích sau này trở về, cũng như tôi sẽ bỏ phiếu bầu một khi ba nhà văn đó đã có đủ số sáng tác để sự quyết định có căn cứ. Ba người đó là Nguyễn Thị Vinh, Tường Hùng và Duy Lam…
Nhất Linh
2 giờ sáng, mồng 1 Tết năm Quý Tỵ
14-2-1953
(Ký tên)
Nhất Linh tự chép tay 5 bản.
2 bản do Đỗ Đức Thu và Nhất Linh giữ, 3 bản gửi 3 nhân viên tương lai.
Bản số 1
Nhất Linh”
Hết trích
Những tác phẩm của Duy Lam gồm có:
Chồng Con Tôi (tập truyện ngắn, 1960)
Gia Đình Tôi (tập truyện ngắn, 1962)
Cái Lưới (truyện dài, 1964)
Nỗi Chết Không Rời (truyện ngắn, cùng viết với Thế Uyên, 1966)
Ngày Nào Còn Đàn Bà (tập văn vui, 1967)
Lột Xác (truyện dài, 1968)
Tuyển Tập Truyện Mới (tập truyện ngắn, 1995)
Thi tập Chân Mây (thơ, 1996)
Em Phải Sống (tập truyện ngắn, 1996)
Where The Cloud Ends (cùng viết với An Nhiên, 2007)
Nhưng có lẽ tập truyện tạo nên tên tuổi Duy Lam là Gia Đình Tôi. Đây là một tập văn vui đăng trong giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay.
Theo nhà văn Nhật Tiến, một nhà văn trẻ gần gũi với Nhất Linh và cũng là cộng tác viên của Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay của ông Nhất Linh thì Duy Lam là cây bút chủ lực của giai phẩm này. Khi nhận định về 2 số cuối 10 và 11 của Giai Phẩm VHNN được ông Nhất Linh giao cho Duy Lam và Tường Hùng phụ trách, Nhật Tiến viết “Và theo thông lệ, ngòi bút Duy Lam vẫn giữ vai trò chủ lực. Ông có tới 5 bài, 2 bài bình luận : một về Văn, một về Hội Họa, 3 bài còn lại là văn vui.
Nhất Linh với Hội Bút Việt và Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay
Sau thời gian cộng tác với nhà văn Nhất Linh trên Giai phẩm VHNN mà số đầu ra mắt vào ngày 17-6-1958, Duy Lam được Quân đội điều lên làm huấn luyện viên ở trường Chỉ Huy và Tham Mưu tại Đà Lạt. Tại đó, Trung úy Nguyễn Kim Tuấn, tức Duy Lam, gặp Trung tá Hoàng Xuân Lãm. Tháng 2-1963, Trung tá Hoàng Xuân Lãm được thăng cấp Đại tá và được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 23 ở Cao nguyên thì ông Lãm kéo Trung úy Tuấn đi theo làm Chánh văn phòng. Năm 1966 Tướng Lãm đi làm Tư lệnh Sư đoàn 2/BB ở Quảng Ngãi rồi 1966 lên làm Tư lệnh Quân đoàn I mà Bộ Tư lệnh đóng ở Đà Nẵng, Trung úy Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn dần dần được thăng chức Trung tá vẫn được Tướng Lãm kéo theo làm Chánh Văn Phòng cho tới Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 Tướng Lãm bị mất chức vì Bắc Quân tấn công chiếm Cổ Thành Quảng Trị và tạo áp lực nặng nề lên Huế.
Quân Đoàn I & Quân Khu 1 gồm 6 tỉnh thị miền Trung là Quảng Ngãi, Quảng Tín, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị là vùng đất hạ tầng cơ sở của Cộng sản khá nhiều và đồng thời cũng là địa bàn chính của 2 đảng Quốc gia chống Cộng là Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Có thể nói tại nông thôn Vùng 1, người dân nếu không là Việt Quốc hay Đại Việt thì là Việt Cộng và hai bên Quốc Cộng thanh toán nhau quyết liệt.
Gia đình Nguyễn Tường được anh em các cấp trong Việt Nam Quốc Dân Đảng ở mọi địa phương coi như “người nhà”, do đó anh em chúng tôi sinh hoạt với VNQDĐ mà không bao giờ bị hỏi đã tuyên thệ gia nhập đảng chưa, gia nhập hồi nào, ai giới thiệu? Vì vậy trong thời gian ở Đà Nẵng, ngoài nhiệm vụ trong quân đội, Duy Lam dành hết thời gian và tâm trí sinh hoạt, cộng tác và giúp đỡ các Đảng bộ VNQDĐ tại tất cả 6 tỉnh thị để củng cố mặt trận chống Cộng.
Duy Lam cũng chủ trương hợp tác với các tổ chức chống Cộng khác, trong các tổ chức đó có tổ chức kết hợp 6 đảng của GS Nguyễn Ngọc Huy. Một lần GS Huy ra Đà Nẵng, trong cuộc gặp gỡ giữa những người có trách nhiệm tại nhà anh Duy Lam, GS Huy đã gây ấn tượng với tôi khi ông có lối nói chuyện thu hút tất cả người nghe với những câu chuyện đủ mọi loại, một khả năng tôi ít thấy người có được. Khi được chúng tôi tổ chức cho ông nói chuyện với đoàn viên nghiệp đoàn lao động Đà Nẵng, ông chọn đề tài nói về lý thuyết dân chủ rất hàn lâm khiến lúc đầu tôi hơi e-ngại cuộc nói chuyện sẽ khó thành công với thính giả là đoàn viên lao động. Nhưng thật bất ngờ, cuộc nói chuyện của GS Huy thu hút tất cả người tham dự vì họ đã được nghe một đề tài phức tạp qua sự trình bày giản dị mà hấp dẫn. Trong cuộc nói chuyện thân mật tại nhà anh Duy Lam, tôi có hỏi GS Huy hai câu. Trước nhất là con đường học vấn của ông, làm sao vừa tranh đấu bí mật từ thời Pháp thuộc mà ông còn lấy được bằng tiến sĩ? Ông cười nhỏ nhẹ cho biết, “Nhờ ông Diệm đuổi đi năm 1955 nên ông mới có thời giờ sang Pháp tiếp tục học và lấy Tiến sĩ.” Thời điểm đó đang có tin đồn GS Huy có thể được đề cử làm Thủ Tướng cho nên tôi hỏi “Nếu GS được mời làm Thủ Tướng thì GS có nhận lời không?” Ông từ tốn trả lời, “Với một điều kiện, vị Tổng Tham Mưu Trưởng phải là người của tôi.” Thời gian đó cũng từ lâu có tin đồn là Đại tướng Cao Văn Viên đã không muốn làm Tổng Tham Mưu Trưởng, ông muốn về hưu. Chuyện này không ít người trong giới quân đội không nghe nói và cũng biết rõ là với chức Tổng Tham Mưu Trưởng trong lúc chiến tranh sôi động mà ông còn có thời giờ và đầu óc thảnh thơi đi học tại Đại học Văn Khoa Saigon để lấy bằng Cử nhân, trong khi Tổng thống Thiệu lại trực tiếp chỉ huy các Tướng lãnh Tư lệnh Quân đoàn. Anh Duy Lam cho tôi biết chuyến đi đó ra miền Trung của GS Huy chủ yếu gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Cuộc gặp đó có hay không, ở đâu, lúc nào và bàn về chuyện gì thì sau đó tôi không nghe nói và cũng không hỏi lại.
Trên lãnh vực văn nghệ, ngoài việc tiếp tục viết văn, anh còn quan tâm tới việc phát triển sinh hoạt Văn hóa, văn nghệ tại địa phương. Anh là người đã phát hiện ra tài năng của hai họa sĩ Cao Bá Minh và Hoàng Đăng Nhuận. Thời đó Cao Bá Minh rất thân thiết với anh Duy Lam và tôi đã gặp Cao Bá Minh nhiều lần ở nhà anh Duy Lam. Theo lời anh Duy Lam, một hôm Chuẩn Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 không quân ở Đà Nẵng điện thoại mời anh Duy Lam sang xem một bức tranh của một quân nhân không quân. Khi sang xem, anh nhận xét với Tướng Khánh là họa sĩ này có tài và anh muốn gặp. Thế là Tướng Khánh cho gọi Cao Bá Minh tới. Sau cuộc gặp đó, anh Duy Lam tổ chức một cuộc triển làm cho Cao Bá Minh và cuộc triển lãm thành công. Từ sau cuộc triển lãm đó, Cao Bá Minh chính thức trở thành họa sĩ trong giới hội họa. Theo lời Cao Bá Minh, nhờ đó anh cũng được một người bạn của anh Duy Lam là Trung tá Trí, Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn truyền tin ưu đãi hậu hĩnh quá mức so với cấp bực của Cao Bá Minh. Họa sĩ thứ hai là Hoàng Đăng Nhuận. Tôi quen Hoàng Đăng Nhuận, không nhớ do đâu. Nhuận là con ông bà chủ tiệm vàng Kim Chi trên con phố chính của Đà Nẵng, gần nhà anh Duy Lam. Một hôm Nhuận nhờ tôi giới thiệu với anh Duy Lam. Tôi mang cho anh Duy Lam xem một bức tranh của Nhuận, họa phẩm gồm toàn các chấm tròn, một lối sáng tác mà lúc đó lần đầu tiên tôi thấy. Xem xong anh Duy Lam cũng đồng ý làm một triển lãm cho Hoàng Đăng Nhuận. Năm 1986, gặp Hoàng Đăng Nhuận ở một quán café bên sông Hương, Nhuận khoe tôi anh là họa sĩ duy nhất của Huế là hội viên hội họa sĩ Việt Nam. Mới đây tra trên google, được biết Hoàng Đăng Nhuận đã từng có tranh tham dự triển lãm tại Mỹ, Pháp, Hồng Kông, và Singapore. Có tranh tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Singapore. Năm 2010 trong phần giới thiệu cuộc Triển lãm của Ba Họa Sĩ tại Gallery Chiêu Ê, 89 Minh Mạng, Tp Huế, ban tổ chức viết trịnh trọng “Thứ Bảy này, nếu ai yêu mỹ thuật mà lại đang ở Huế thì nên ghé gallery Chiêu Ê. Triển lãm tranh của ba nghệ sỹ Đinh Cường, Hoàng Đăng Nhuận và Phan Ngọc Minh sẽ diễn ra tại đây, kéo dài khoảng một tuần. Hoàng Đăng Nhuận (sinh năm 1942) và Đinh Cường (sinh năm 1939) đều là những họa sĩ hàng đầu của Huế. (http://soi.today/?p=8527).
Sau đó anh Duy Lam thành lập Ủy Ban Phát Huy Văn Hóa Đà Nẵng gồm một số nhân sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức như luật sư Lê Văn Kiềm, luật sư Hồ Công Lộ v…v và người đứng đầu là Bác sĩ Thái Can, để tổ chức một Tuần Lễ Văn Hóa với những diễn giả địa phương như GS Nguyễn Văn Xuân v…v và những diễn giả từ Saigon ra như Phạm Duy v…v Một tuần lễ sinh hoạt văn hóa 7 ngày, mỗi ngày có 2 sinh hoạt trong đó có một cuộc triển lãm hội họa, tất cả đều được đông đảo người tham dự miễn phí được coi là một thành công ngoài dự đoán. Để tổ chức được một tuần lễ văn hóa như vậy rất là khó khăn: Trước tiên là tài chánh chi phí di chuyển, ăn ở cho các diễn giả từ Saigon, thuê mượn và trang trí cơ sở. Tất cả số tiền đó chỉ do một mình anh Duy Lam quyên góp từ các bạn bè của anh. Lại phải là người có uy tín trong giới văn hóa, văn nghệ mới mời được các diễn giả tên tuổi, chuyên nghiệp, cũng lại chính anh Duy Lam mời các văn nghệ sĩ tham dự. Đặc biệt, trong cuộc triển lãm hội họa có nhiều họa sĩ tham dự, có bức tranh Cung Kiếm Mỏi của Hạ Quốc Huy đã từng được giải thưởng khuyến khích của Tổng thống, được một viên chức ngoại giao Hoa Kỳ mua với giá $400,000 đồng (tiền Việt Nam). Bức tranh đó tôi cũng thích. Lúc đó lương một thiếu úy độc thân chưa tới $20 ngàn. Họa sĩ Hạ Quốc Huy không muốn bán. Thấy vậy Duy Lam bàn, “Bán đi chứ! Đâu có họa sĩ nào bán được một bức tranh với giá như thế đâu!” Tưởng cũng nên biết, tại Việt Nam cho tới năm 1975 chỉ mới có hai Tuần lễ sinh hoạt văn hóa do tư nhân tổ chức. Một là Tuần lễ hội chợ có rất nhiều các sinh hoạt do ông Nhất Linh và TLVĐ mời hầu hết giới tinh hoa, trí thức bậc nhất Hà Thành tham gia ban tổ chức tại Hà Nội vào thập niên 1930s. Tuần lễ Văn hóa thứ nhì là tuần lễ này do cá nhân anh Duy Lam, với sự cộng tác của các thân hữu đứng ra tổ chức.
Sau sự thành công vượt dự đoán của Tuần lễ Văn hóa, trong buổi họp tổng kết tại tư gia anh Duy Lam, một lần nữa anh lại đề nghị một đề án mới: Thành lập Viện đại học Quảng Đà. Những buổi họp kế tiếp luân phiên giữa ba tư gia, Duy Lam, BS Thái Can, và LS Hồ Công Lộ đã hình thành Ủy Ban Vận Động Thành Lập Viện Đại Học Cộng Đồng Quảng Đà (UBVĐTLVĐHCĐQĐ) do BS kiêm nhà thơ Thái Can làm Chủ tịch, Tổng thư ký là Duy Lam. Ủy ban nhận định, nhiều địa phương khác có Viện đại học nhưng đó là Viện đại học công hoặc do các tôn giáo tổ chức, Ủy ban muốn lần đầu tiên Quảng Đà có một Viện đại học do người dân địa phương đứng lên yêu cầu. Với hoàn cảnh hạn chế nhân sự tại địa phương, Ủy ban chỉ thỉnh cầu chính quyền mở Viện đại học cộng đồng với chương trình hai năm và liên kết với Viện đại học Huế để sinh viên sau khi tốt nghiệp tại Viện đại học Quảng Đà có thể tiếp tục ra Viện đại học Huế hoàn tất văn bằng kỹ sư hay cử nhân 4 năm. Bây giờ sang Mỹ, những ai từng theo học đại học cộng đồng (community college) đều hiểu vai trò và mục tiêu của Đại học Cộng đồng, chứ nhớ lại, hồi đó tất cả Ủy ban không ai hiểu khác biệt giữa Đại học Cộng đồng 2 năm và đại học thông thường 4 năm. Họ chỉ nghĩ rằng, thiếu nhân sự nên chỉ dậy chương trình 2 năm rồi sau đó sinh viên sẽ ra Huế hay vào Saigon học tiếp. Dù sao thì với sự vận động của Ủy Ban mà chủ yếu là anh Duy Lam, chính phủ trung ương đã cử Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán ra tiếp xúc với dân chúng. Buổi tiếp xúc do UBVĐTLVĐHCĐQĐ tổ chức được đông đảo đồng bào tham dự đã khiến chính phủ trung ương thấy cần đáp ứng nguyện vọng của dân chúng địa phương. Viện Đại học Cộng đồng Quảng đà được khai giảng mùa thu 1974 với Tiến sĩ Ngô Đồng tốt nghiệp ở Mỹ, thuộc Viện đại học Huế, được mời làm Viện trưởng. Tôi không biết niên khóa đầu tiên Viện có mấy lớp và các giáo sư phụ trách là những ai nhưng tôi có tham dự một buổi với tính cách dự thính lớp Dự bị Văn chương Pháp. Hôm đó giáo sư tên là Lam, một giáo sư trẻ của trường trung học Đà Nẵng giảng về cuốn tiểu thuyết L’Etranger của Albert Camus.
Tháng ba 1975 trong tình hình chiến sự sôi động, Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn I tuyên bố tử thủ Huế, anh Duy Lam nói với tôi, Tướng Trưởng tuyên bố tử thủ thì anh, tôi và vợ Tướng Trưởng phải ở lại. Chứ trong ba chúng tôi mà có ai bỏ chạy trước thì dân chúng ai mà tin lời tuyên bố Tử thủ của Tướng Trưởng. Tôi không biết sau đó anh Duy Lam có bàn như vậy với vợ Tướng Trưởng không (anh Duy Lam là anh cô cậu ruột với bà vợ Tướng Trưởng) nhưng hàng ngày tôi gặp bà vợ Tướng Trưởng tôi thấy bà và mấy cháu vẫn sinh hoạt bình thường, không tỏ ý gì là muốn bỏ về Saigon trước. Cả ba chúng tôi đều để gia đình ở lại Đà Nẵng trong lúc có nhiều cấp lớn đã mua vé máy bay đưa gia đình chạy vào Saigon. Dĩ nhiên tất cả bạn bè của anh Duy Lam hay của tôi đều hỏi chúng tôi về chuyện “Liệu Huế có tử thủ không?” Họ nhìn vào hai chúng tôi để biết Tướng Trưởng, một người rể trong gia đình có thực sự tử thủ Huế hay không. Trong thời gian đó trưa nào tôi cũng tới ăn cơm với bà Trưởng. Các cháu ăn trước rồi, chỉ có hai chị em chúng tôi ngồi nói chuyện và ăn cơm trưa với nhau ở cái bàn nhỏ ở khu nhà bếp. Hai chị em chúng tôi không nói chuyện thời sự. Cũng như hiện nay, tại Mỹ, chúng tôi gọi nhau qua phone nhiều lần trong tuần và lần nào cũng nói lâu cả tiếng về những chuyện mà nếu có ai hỏi chúng tôi nói chuyện gì thì cũng không thể nói rõ chuyện gì ra chuyện gì, toàn những “chuyện ngày xưa” chuyện bà nội chúng tôi v…v, tóm lại là những chuyện gia đình. Thực ra trước đó tôi chỉ ghé bà Trưởng ăn cơm và nói chuyện một tuần một lần, nhưng vào thời điểm gay cấn, trưa nào tôi cũng ghé cốt để xem khi nào thì Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng bỏ Huế… Rồi ngày đó cũng đến! Một buổi trưa, khi tôi vừa tới, bà Trưởng cho tôi biết Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng bỏ Huế. Nghe xong, tôi suýt bật khóc. Từ lâu tôi vẫn nghĩ, Đà Nẵng là trung tâm quân sự, hành chánh và kinh tế nhưng Huế là “thủ phủ tinh thần” của miền Trung. Mất Huế sẽ là mất tất cả miền Trung. Tướng Trưởng là một vị Tư lệnh mà tôi rất quí trọng qua sự liêm khiết, dũng cảm, tận tâm với đơn vị, và thuộc cấp; nhất là đối với những quân nhân ở đơn vị tác chiến; và tôi từng là quân nhân tác chiến trong Sư đoàn 1 của ông trong hai năm. Tôi nghĩ ngay, sau lệnh bỏ Huế thì Tướng Trưởng sẽ trở thành bại tướng và ông sẽ chẳng còn gì. Tôi thương cảm cho ông! Sau vài phút dằn lòng, tôi từ tốn nói với bà Trưởng, “Chiều nay anh về, nhờ chị nói với anh là trong 7 năm qua em chưa bao giờ làm điều gì gây phiền cho anh, nhưng hôm nay em đào ngũ!” Nghe vậy, bà Trưởng chỉ biết từ tốn nói, “Bây giờ thì mạnh ai nấy quyết định!” Vì tôi là sĩ quan trực trung tâm hành quân Bộ chỉ huy cảnh sát Khu I nên tôi không thể lẳng lặng bỏ đi, sẽ gây phiền cho hai sĩ quan trực phiên kế tiếp, tôi lên gặp Đại tá Lộc Chỉ Huy Trưởng để xin nghỉ phép một tuần về Saigon tìm bà mẹ ở Ban Mê Thuột di tản chưa có tin tức. Đại tá Lộc người cao lớn, uy nghiêm nhưng hiền từ, ngồi oai vệ ở chiếc ghế xoay, an ủi tôi “Ừ anh cứ về đi, tôi còn ngồi đây thì tình hình chưa có gì đâu.” Sau đó ông gọi Trưởng ban nhân huấn lên ra lệnh làm giấy phép cho tôi. Tôi chính thức rời nhiệm sở luôn mà không cần đợi lấy giấy phép. Tôi chưa tiết lộ tin đó với ai, chỉ lẳng lặng thu xếp đồ đạc để chuẩn bị rời Đà Nẵng mà chưa biết bao giờ và bằng cách nào.
Mấy ngày sau tôi vẫn tới nhà bà Trưởng để nói chuyện và ăn cơm trưa để xem bao giờ thì bà ấy đi. Một buổi trưa, khi tôi tới thì thấy có một người Mỹ ngồi lẳng lặng ngoài thềm bên cạnh có chiếc máy truyền tin. Khoảng 2 tiếng sau tôi thấy người Mỹ đó nghe máy rồi bảo bà Trưởng cùng mấy con lên xe đi. Tôi lái xe jeep chạy theo ra chổ bãi đáp trực thăng ở ngay cuối đường Độc Lập, cũng rất gần tư dinh. Khi bà Trưởng lên trực thăng, tôi chào bà “Vĩnh biệt chị!” Bà bảo tôi, “Tâm làm gì mà ghê thế, anh còn ở đây mà!”
Thế là mọi chuyện có thể công khai được. Trở về tôi điện thoại dục anh Duy Lam ra đi nhưng anh từ chối. Tôi bảo nếu anh không đi thì để vợ con đi với tôi, anh bảo nếu tôi thuyết phục được vợ anh. Khi tôi gọi dục chị Duy Lam mang mấy cháu đi thì giọng chị vẫn bình thản, “Tôi không đi đâu. Tôi ngồi đây chờ Tuấn.” Từ lúc đó tôi không gặp lại anh Duy Lam ở Đà Nẵng nữa. Tôi biết rằng anh đang vận động thành lập một lực lượng quần chúng bảo vệ Đà Nẵng và anh xin Thị Trưởng Đà Nẵng cấp cho lực lượng đó 2000 ngàn khẩu súng. Tôi không biết việc vận động như vậy của anh diễn tiến ra sao nên tôi không định kể lại sự kiện này. Nhưng cách nay mấy hôm, tình cờ tôi đọc được mẩu đối thoại của 2 facebookers thế này:
Sau thời gian cộng tác với nhà văn Nhất Linh trên Giai phẩm VHNN mà số đầu ra mắt vào ngày 17-6-1958, Duy Lam được Quân đội điều lên làm huấn luyện viên ở trường Chỉ Huy và Tham Mưu tại Đà Lạt. Tại đó, Trung úy Nguyễn Kim Tuấn, tức Duy Lam, gặp Trung tá Hoàng Xuân Lãm. Tháng 2-1963, Trung tá Hoàng Xuân Lãm được thăng cấp Đại tá và được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 23 ở Cao nguyên thì ông Lãm kéo Trung úy Tuấn đi theo làm Chánh văn phòng. Năm 1966 Tướng Lãm đi làm Tư lệnh Sư đoàn 2/BB ở Quảng Ngãi rồi 1966 lên làm Tư lệnh Quân đoàn I mà Bộ Tư lệnh đóng ở Đà Nẵng, Trung úy Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn dần dần được thăng chức Trung tá vẫn được Tướng Lãm kéo theo làm Chánh Văn Phòng cho tới Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 Tướng Lãm bị mất chức vì Bắc Quân tấn công chiếm Cổ Thành Quảng Trị và tạo áp lực nặng nề lên Huế.
Quân Đoàn I & Quân Khu 1 gồm 6 tỉnh thị miền Trung là Quảng Ngãi, Quảng Tín, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị là vùng đất hạ tầng cơ sở của Cộng sản khá nhiều và đồng thời cũng là địa bàn chính của 2 đảng Quốc gia chống Cộng là Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Có thể nói tại nông thôn Vùng 1, người dân nếu không là Việt Quốc hay Đại Việt thì là Việt Cộng và hai bên Quốc Cộng thanh toán nhau quyết liệt.
Gia đình Nguyễn Tường được anh em các cấp trong Việt Nam Quốc Dân Đảng ở mọi địa phương coi như “người nhà”, do đó anh em chúng tôi sinh hoạt với VNQDĐ mà không bao giờ bị hỏi đã tuyên thệ gia nhập đảng chưa, gia nhập hồi nào, ai giới thiệu? Vì vậy trong thời gian ở Đà Nẵng, ngoài nhiệm vụ trong quân đội, Duy Lam dành hết thời gian và tâm trí sinh hoạt, cộng tác và giúp đỡ các Đảng bộ VNQDĐ tại tất cả 6 tỉnh thị để củng cố mặt trận chống Cộng.
Duy Lam cũng chủ trương hợp tác với các tổ chức chống Cộng khác, trong các tổ chức đó có tổ chức kết hợp 6 đảng của GS Nguyễn Ngọc Huy. Một lần GS Huy ra Đà Nẵng, trong cuộc gặp gỡ giữa những người có trách nhiệm tại nhà anh Duy Lam, GS Huy đã gây ấn tượng với tôi khi ông có lối nói chuyện thu hút tất cả người nghe với những câu chuyện đủ mọi loại, một khả năng tôi ít thấy người có được. Khi được chúng tôi tổ chức cho ông nói chuyện với đoàn viên nghiệp đoàn lao động Đà Nẵng, ông chọn đề tài nói về lý thuyết dân chủ rất hàn lâm khiến lúc đầu tôi hơi e-ngại cuộc nói chuyện sẽ khó thành công với thính giả là đoàn viên lao động. Nhưng thật bất ngờ, cuộc nói chuyện của GS Huy thu hút tất cả người tham dự vì họ đã được nghe một đề tài phức tạp qua sự trình bày giản dị mà hấp dẫn. Trong cuộc nói chuyện thân mật tại nhà anh Duy Lam, tôi có hỏi GS Huy hai câu. Trước nhất là con đường học vấn của ông, làm sao vừa tranh đấu bí mật từ thời Pháp thuộc mà ông còn lấy được bằng tiến sĩ? Ông cười nhỏ nhẹ cho biết, “Nhờ ông Diệm đuổi đi năm 1955 nên ông mới có thời giờ sang Pháp tiếp tục học và lấy Tiến sĩ.” Thời điểm đó đang có tin đồn GS Huy có thể được đề cử làm Thủ Tướng cho nên tôi hỏi “Nếu GS được mời làm Thủ Tướng thì GS có nhận lời không?” Ông từ tốn trả lời, “Với một điều kiện, vị Tổng Tham Mưu Trưởng phải là người của tôi.” Thời gian đó cũng từ lâu có tin đồn là Đại tướng Cao Văn Viên đã không muốn làm Tổng Tham Mưu Trưởng, ông muốn về hưu. Chuyện này không ít người trong giới quân đội không nghe nói và cũng biết rõ là với chức Tổng Tham Mưu Trưởng trong lúc chiến tranh sôi động mà ông còn có thời giờ và đầu óc thảnh thơi đi học tại Đại học Văn Khoa Saigon để lấy bằng Cử nhân, trong khi Tổng thống Thiệu lại trực tiếp chỉ huy các Tướng lãnh Tư lệnh Quân đoàn. Anh Duy Lam cho tôi biết chuyến đi đó ra miền Trung của GS Huy chủ yếu gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Cuộc gặp đó có hay không, ở đâu, lúc nào và bàn về chuyện gì thì sau đó tôi không nghe nói và cũng không hỏi lại.
Trên lãnh vực văn nghệ, ngoài việc tiếp tục viết văn, anh còn quan tâm tới việc phát triển sinh hoạt Văn hóa, văn nghệ tại địa phương. Anh là người đã phát hiện ra tài năng của hai họa sĩ Cao Bá Minh và Hoàng Đăng Nhuận. Thời đó Cao Bá Minh rất thân thiết với anh Duy Lam và tôi đã gặp Cao Bá Minh nhiều lần ở nhà anh Duy Lam. Theo lời anh Duy Lam, một hôm Chuẩn Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 không quân ở Đà Nẵng điện thoại mời anh Duy Lam sang xem một bức tranh của một quân nhân không quân. Khi sang xem, anh nhận xét với Tướng Khánh là họa sĩ này có tài và anh muốn gặp. Thế là Tướng Khánh cho gọi Cao Bá Minh tới. Sau cuộc gặp đó, anh Duy Lam tổ chức một cuộc triển làm cho Cao Bá Minh và cuộc triển lãm thành công. Từ sau cuộc triển lãm đó, Cao Bá Minh chính thức trở thành họa sĩ trong giới hội họa. Theo lời Cao Bá Minh, nhờ đó anh cũng được một người bạn của anh Duy Lam là Trung tá Trí, Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn truyền tin ưu đãi hậu hĩnh quá mức so với cấp bực của Cao Bá Minh. Họa sĩ thứ hai là Hoàng Đăng Nhuận. Tôi quen Hoàng Đăng Nhuận, không nhớ do đâu. Nhuận là con ông bà chủ tiệm vàng Kim Chi trên con phố chính của Đà Nẵng, gần nhà anh Duy Lam. Một hôm Nhuận nhờ tôi giới thiệu với anh Duy Lam. Tôi mang cho anh Duy Lam xem một bức tranh của Nhuận, họa phẩm gồm toàn các chấm tròn, một lối sáng tác mà lúc đó lần đầu tiên tôi thấy. Xem xong anh Duy Lam cũng đồng ý làm một triển lãm cho Hoàng Đăng Nhuận. Năm 1986, gặp Hoàng Đăng Nhuận ở một quán café bên sông Hương, Nhuận khoe tôi anh là họa sĩ duy nhất của Huế là hội viên hội họa sĩ Việt Nam. Mới đây tra trên google, được biết Hoàng Đăng Nhuận đã từng có tranh tham dự triển lãm tại Mỹ, Pháp, Hồng Kông, và Singapore. Có tranh tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Singapore. Năm 2010 trong phần giới thiệu cuộc Triển lãm của Ba Họa Sĩ tại Gallery Chiêu Ê, 89 Minh Mạng, Tp Huế, ban tổ chức viết trịnh trọng “Thứ Bảy này, nếu ai yêu mỹ thuật mà lại đang ở Huế thì nên ghé gallery Chiêu Ê. Triển lãm tranh của ba nghệ sỹ Đinh Cường, Hoàng Đăng Nhuận và Phan Ngọc Minh sẽ diễn ra tại đây, kéo dài khoảng một tuần. Hoàng Đăng Nhuận (sinh năm 1942) và Đinh Cường (sinh năm 1939) đều là những họa sĩ hàng đầu của Huế. (http://soi.today/?p=8527).
Sau đó anh Duy Lam thành lập Ủy Ban Phát Huy Văn Hóa Đà Nẵng gồm một số nhân sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức như luật sư Lê Văn Kiềm, luật sư Hồ Công Lộ v…v và người đứng đầu là Bác sĩ Thái Can, để tổ chức một Tuần Lễ Văn Hóa với những diễn giả địa phương như GS Nguyễn Văn Xuân v…v và những diễn giả từ Saigon ra như Phạm Duy v…v Một tuần lễ sinh hoạt văn hóa 7 ngày, mỗi ngày có 2 sinh hoạt trong đó có một cuộc triển lãm hội họa, tất cả đều được đông đảo người tham dự miễn phí được coi là một thành công ngoài dự đoán. Để tổ chức được một tuần lễ văn hóa như vậy rất là khó khăn: Trước tiên là tài chánh chi phí di chuyển, ăn ở cho các diễn giả từ Saigon, thuê mượn và trang trí cơ sở. Tất cả số tiền đó chỉ do một mình anh Duy Lam quyên góp từ các bạn bè của anh. Lại phải là người có uy tín trong giới văn hóa, văn nghệ mới mời được các diễn giả tên tuổi, chuyên nghiệp, cũng lại chính anh Duy Lam mời các văn nghệ sĩ tham dự. Đặc biệt, trong cuộc triển lãm hội họa có nhiều họa sĩ tham dự, có bức tranh Cung Kiếm Mỏi của Hạ Quốc Huy đã từng được giải thưởng khuyến khích của Tổng thống, được một viên chức ngoại giao Hoa Kỳ mua với giá $400,000 đồng (tiền Việt Nam). Bức tranh đó tôi cũng thích. Lúc đó lương một thiếu úy độc thân chưa tới $20 ngàn. Họa sĩ Hạ Quốc Huy không muốn bán. Thấy vậy Duy Lam bàn, “Bán đi chứ! Đâu có họa sĩ nào bán được một bức tranh với giá như thế đâu!” Tưởng cũng nên biết, tại Việt Nam cho tới năm 1975 chỉ mới có hai Tuần lễ sinh hoạt văn hóa do tư nhân tổ chức. Một là Tuần lễ hội chợ có rất nhiều các sinh hoạt do ông Nhất Linh và TLVĐ mời hầu hết giới tinh hoa, trí thức bậc nhất Hà Thành tham gia ban tổ chức tại Hà Nội vào thập niên 1930s. Tuần lễ Văn hóa thứ nhì là tuần lễ này do cá nhân anh Duy Lam, với sự cộng tác của các thân hữu đứng ra tổ chức.
Sau sự thành công vượt dự đoán của Tuần lễ Văn hóa, trong buổi họp tổng kết tại tư gia anh Duy Lam, một lần nữa anh lại đề nghị một đề án mới: Thành lập Viện đại học Quảng Đà. Những buổi họp kế tiếp luân phiên giữa ba tư gia, Duy Lam, BS Thái Can, và LS Hồ Công Lộ đã hình thành Ủy Ban Vận Động Thành Lập Viện Đại Học Cộng Đồng Quảng Đà (UBVĐTLVĐHCĐQĐ) do BS kiêm nhà thơ Thái Can làm Chủ tịch, Tổng thư ký là Duy Lam. Ủy ban nhận định, nhiều địa phương khác có Viện đại học nhưng đó là Viện đại học công hoặc do các tôn giáo tổ chức, Ủy ban muốn lần đầu tiên Quảng Đà có một Viện đại học do người dân địa phương đứng lên yêu cầu. Với hoàn cảnh hạn chế nhân sự tại địa phương, Ủy ban chỉ thỉnh cầu chính quyền mở Viện đại học cộng đồng với chương trình hai năm và liên kết với Viện đại học Huế để sinh viên sau khi tốt nghiệp tại Viện đại học Quảng Đà có thể tiếp tục ra Viện đại học Huế hoàn tất văn bằng kỹ sư hay cử nhân 4 năm. Bây giờ sang Mỹ, những ai từng theo học đại học cộng đồng (community college) đều hiểu vai trò và mục tiêu của Đại học Cộng đồng, chứ nhớ lại, hồi đó tất cả Ủy ban không ai hiểu khác biệt giữa Đại học Cộng đồng 2 năm và đại học thông thường 4 năm. Họ chỉ nghĩ rằng, thiếu nhân sự nên chỉ dậy chương trình 2 năm rồi sau đó sinh viên sẽ ra Huế hay vào Saigon học tiếp. Dù sao thì với sự vận động của Ủy Ban mà chủ yếu là anh Duy Lam, chính phủ trung ương đã cử Quốc Vụ Khanh Phan Quang Đán ra tiếp xúc với dân chúng. Buổi tiếp xúc do UBVĐTLVĐHCĐQĐ tổ chức được đông đảo đồng bào tham dự đã khiến chính phủ trung ương thấy cần đáp ứng nguyện vọng của dân chúng địa phương. Viện Đại học Cộng đồng Quảng đà được khai giảng mùa thu 1974 với Tiến sĩ Ngô Đồng tốt nghiệp ở Mỹ, thuộc Viện đại học Huế, được mời làm Viện trưởng. Tôi không biết niên khóa đầu tiên Viện có mấy lớp và các giáo sư phụ trách là những ai nhưng tôi có tham dự một buổi với tính cách dự thính lớp Dự bị Văn chương Pháp. Hôm đó giáo sư tên là Lam, một giáo sư trẻ của trường trung học Đà Nẵng giảng về cuốn tiểu thuyết L’Etranger của Albert Camus.
Tháng ba 1975 trong tình hình chiến sự sôi động, Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn I tuyên bố tử thủ Huế, anh Duy Lam nói với tôi, Tướng Trưởng tuyên bố tử thủ thì anh, tôi và vợ Tướng Trưởng phải ở lại. Chứ trong ba chúng tôi mà có ai bỏ chạy trước thì dân chúng ai mà tin lời tuyên bố Tử thủ của Tướng Trưởng. Tôi không biết sau đó anh Duy Lam có bàn như vậy với vợ Tướng Trưởng không (anh Duy Lam là anh cô cậu ruột với bà vợ Tướng Trưởng) nhưng hàng ngày tôi gặp bà vợ Tướng Trưởng tôi thấy bà và mấy cháu vẫn sinh hoạt bình thường, không tỏ ý gì là muốn bỏ về Saigon trước. Cả ba chúng tôi đều để gia đình ở lại Đà Nẵng trong lúc có nhiều cấp lớn đã mua vé máy bay đưa gia đình chạy vào Saigon. Dĩ nhiên tất cả bạn bè của anh Duy Lam hay của tôi đều hỏi chúng tôi về chuyện “Liệu Huế có tử thủ không?” Họ nhìn vào hai chúng tôi để biết Tướng Trưởng, một người rể trong gia đình có thực sự tử thủ Huế hay không. Trong thời gian đó trưa nào tôi cũng tới ăn cơm với bà Trưởng. Các cháu ăn trước rồi, chỉ có hai chị em chúng tôi ngồi nói chuyện và ăn cơm trưa với nhau ở cái bàn nhỏ ở khu nhà bếp. Hai chị em chúng tôi không nói chuyện thời sự. Cũng như hiện nay, tại Mỹ, chúng tôi gọi nhau qua phone nhiều lần trong tuần và lần nào cũng nói lâu cả tiếng về những chuyện mà nếu có ai hỏi chúng tôi nói chuyện gì thì cũng không thể nói rõ chuyện gì ra chuyện gì, toàn những “chuyện ngày xưa” chuyện bà nội chúng tôi v…v, tóm lại là những chuyện gia đình. Thực ra trước đó tôi chỉ ghé bà Trưởng ăn cơm và nói chuyện một tuần một lần, nhưng vào thời điểm gay cấn, trưa nào tôi cũng ghé cốt để xem khi nào thì Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng bỏ Huế… Rồi ngày đó cũng đến! Một buổi trưa, khi tôi vừa tới, bà Trưởng cho tôi biết Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng bỏ Huế. Nghe xong, tôi suýt bật khóc. Từ lâu tôi vẫn nghĩ, Đà Nẵng là trung tâm quân sự, hành chánh và kinh tế nhưng Huế là “thủ phủ tinh thần” của miền Trung. Mất Huế sẽ là mất tất cả miền Trung. Tướng Trưởng là một vị Tư lệnh mà tôi rất quí trọng qua sự liêm khiết, dũng cảm, tận tâm với đơn vị, và thuộc cấp; nhất là đối với những quân nhân ở đơn vị tác chiến; và tôi từng là quân nhân tác chiến trong Sư đoàn 1 của ông trong hai năm. Tôi nghĩ ngay, sau lệnh bỏ Huế thì Tướng Trưởng sẽ trở thành bại tướng và ông sẽ chẳng còn gì. Tôi thương cảm cho ông! Sau vài phút dằn lòng, tôi từ tốn nói với bà Trưởng, “Chiều nay anh về, nhờ chị nói với anh là trong 7 năm qua em chưa bao giờ làm điều gì gây phiền cho anh, nhưng hôm nay em đào ngũ!” Nghe vậy, bà Trưởng chỉ biết từ tốn nói, “Bây giờ thì mạnh ai nấy quyết định!” Vì tôi là sĩ quan trực trung tâm hành quân Bộ chỉ huy cảnh sát Khu I nên tôi không thể lẳng lặng bỏ đi, sẽ gây phiền cho hai sĩ quan trực phiên kế tiếp, tôi lên gặp Đại tá Lộc Chỉ Huy Trưởng để xin nghỉ phép một tuần về Saigon tìm bà mẹ ở Ban Mê Thuột di tản chưa có tin tức. Đại tá Lộc người cao lớn, uy nghiêm nhưng hiền từ, ngồi oai vệ ở chiếc ghế xoay, an ủi tôi “Ừ anh cứ về đi, tôi còn ngồi đây thì tình hình chưa có gì đâu.” Sau đó ông gọi Trưởng ban nhân huấn lên ra lệnh làm giấy phép cho tôi. Tôi chính thức rời nhiệm sở luôn mà không cần đợi lấy giấy phép. Tôi chưa tiết lộ tin đó với ai, chỉ lẳng lặng thu xếp đồ đạc để chuẩn bị rời Đà Nẵng mà chưa biết bao giờ và bằng cách nào.
Mấy ngày sau tôi vẫn tới nhà bà Trưởng để nói chuyện và ăn cơm trưa để xem bao giờ thì bà ấy đi. Một buổi trưa, khi tôi tới thì thấy có một người Mỹ ngồi lẳng lặng ngoài thềm bên cạnh có chiếc máy truyền tin. Khoảng 2 tiếng sau tôi thấy người Mỹ đó nghe máy rồi bảo bà Trưởng cùng mấy con lên xe đi. Tôi lái xe jeep chạy theo ra chổ bãi đáp trực thăng ở ngay cuối đường Độc Lập, cũng rất gần tư dinh. Khi bà Trưởng lên trực thăng, tôi chào bà “Vĩnh biệt chị!” Bà bảo tôi, “Tâm làm gì mà ghê thế, anh còn ở đây mà!”
Thế là mọi chuyện có thể công khai được. Trở về tôi điện thoại dục anh Duy Lam ra đi nhưng anh từ chối. Tôi bảo nếu anh không đi thì để vợ con đi với tôi, anh bảo nếu tôi thuyết phục được vợ anh. Khi tôi gọi dục chị Duy Lam mang mấy cháu đi thì giọng chị vẫn bình thản, “Tôi không đi đâu. Tôi ngồi đây chờ Tuấn.” Từ lúc đó tôi không gặp lại anh Duy Lam ở Đà Nẵng nữa. Tôi biết rằng anh đang vận động thành lập một lực lượng quần chúng bảo vệ Đà Nẵng và anh xin Thị Trưởng Đà Nẵng cấp cho lực lượng đó 2000 ngàn khẩu súng. Tôi không biết việc vận động như vậy của anh diễn tiến ra sao nên tôi không định kể lại sự kiện này. Nhưng cách nay mấy hôm, tình cờ tôi đọc được mẩu đối thoại của 2 facebookers thế này:
Tôi quen anh Daniel Hoàng tức Hoàng Văn Thắng, cựu chánh văn phòng Ty Giáo Dục Đà Nẵng và hiện là giáo viên văn chương Anh trong trường Trung học Mỹ tại thành phố tôi đang ở, San Jose. Qua giới thiệu của Hoàng Văn Thắng tôi biết facebooker “Mongthu Lenhu” là anh Lê Quang Thông, một cựu giáo sư trung học Đà Nẵng, sau này vượt biên sang Pháp tốt nghiệp Thạc sĩ Toán tại Đại học Sorbonne và hiện đang dậy Đại học ở Đức. Trong hai messages trên anh Thông viết “Thắng còn nhớ những ngày cuối cùng ở Đà Nẵng, họp ở hội VM với anh DL bàn chuyện tử thủ? ở phần message cuối, anh Thông viết “Mình những ngày cuối tháng 3 loanh quanh ở hội VM sau lưng Tòa Thị Chính, lúc đó có anh DL ngồi với anh em.” (Ghi chú của Tường Tâm: hội VM là hội Việt Mỹ)
Thật may mắn, sau chuyến bỏ chạy gian khổ, cuối cùng tôi và anh Duy Lam gặp nhau ở Saigon. Tôi thấy chưa bao giờ anh Duy Lam có ý nghĩ sẽ mất miền Nam. Anh và tôi tới nhà GS Nguyễn Ngọc Huy, căn nhà khiên tốn vẫn có người cảnh sát gác bên ngoài. Trong cuộc nói chuyện tôi bày tỏ nhận định là dựa theo những gì tôi quan sát hành động của người Mỹ tại Đà Nẵng trước lúc Đà Nẵng bị bỏ lại, nhất là sau này hành động của người Mỹ được lập lại tại Phan Rang, nơi tôi tá túc trước khi đi ghe vô Saigon, thì Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam. Tôi phát biểu “Theo tôi hiện nay Saigon vẫn yên tĩnh, nhưng khi người Mỹ bỏ đi thì Saigon sẽ rối loạn!” Nhưng vẫn với sự lạc quan, GS Huy từ tốn nhận định “Người Mỹ đã đổ vào đây bao nhiêu tiền của và hy sinh mấy chục vạn người, bây giờ lại đã tìm thấy dầu hỏa, cho nên người Mỹ sẽ không thể bỏ miền Nam. Cùng lắm chúng ta sẽ rút xuống miền Tây sau đó người Mỹ sẽ giúp chúng ta phản công lại, như Nam Hàn trong chiến tranh 1950-53.” Khi ra về anh Duy Lam không nhận định gì, nhưng tôi nói, tôi không hiểu GS Huy có tin tức từ cấp cao của Mỹ ra sao mà tin như vậy, tôi thì vẫn không tin.
Sáng ngày 30-4-1975, khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đang ở Đường Kỳ Đồng, gần trường Đại học Vạn Hạnh. Tôi đi bộ tới thăm gia đình anh Duy Lam lúc đó đang tạm trú tại nhà người em rể. Chỉ có chị Duy Lam ở nhà. Khi trở ra ngoài đường tôi gặp một đoàn quân nhân nhẩy dù trên đường Trương Minh Giản đang từ phía Tân Sơn Nhất lui dần về trung tâm Saigon. Trong đoàn quân đó có anh Duy Lam đang mặc đồ trận mầu xanh. Tôi hỏi anh định đi đâu thì anh cho biết định theo đoàn quân nhẩy dù chiến đấu…cuối cùng đoàn quân thiện chiến tan hàng gần cầu Trương Minh Giảng.
Từ ngày đó hai chúng tôi chia tay. Hai mươi năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau ở miền nam tiểu bang California. Duy Lam là trưởng nam của bà Nguyễn thị Thế, em gái của 2 ông Nhất Linh và Hoàng Đạo và chị của Thạch Lam. Truyện Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam chính là câu truyện Thạch Lam viết về chính mình và bà chị này.
Theo nhà thơ Luân Hoán (https://www.luanhoan.net/tacgiavn/1htm/duylam.htm) Duy Lam là thành viên ban sáng lập và chấp hành hội Bút Việt, sau đổi tên là Văn Bút Quốc Tế Việt Nam (Nhất Linh, Ðỗ Ðức Thu, Vũ Hoàng Chương, Ðái Ðức Tuấn, Hiếu Chân, Nguyễn Thị Vinh…)
Trên một trang báo Người Việt tại Nam California, nhà văn Lâm Túy Mĩ đã viết, “Quyển tiểu thuyết đầu đời tôi được đọc là quyển “Gia Đình Tôi” của nhà văn Duy Lam, ông là hậu duệ của gia đình Nguyễn Tường …Mùa Hè 1960, ba tôi lấy quyển tiểu thuyết “Gia Đình Tôi” của Duy Lam, một loại tuyển tập truyện ngắn, ông bắt tôi đọc, và nói rằng ba nghĩ con sẽ thích…”
https://www.nguoi-viet.com/…/viet-cho-nhau/gia-dinh-toi/
Trong hình đính kèm Duy Lam chụp chung với các thành viên Văn Bút Việt Nam mà anh cùng ông Nhất Linh và một số nhà văn, thơ khác đồng sáng lập thập niên 1960 tại Saigon
Duy Lam động viên khóa 3 Thủ Đức, cấp bậc cuối cùng, Trung tá Quân đoàn I, tù cải tạo gần 13 năm. Những năm tháng mới sang Hoa Kỳ theo diện HO vợ chồng anh sống tại Orange County, Nam California, sinh hoạt văn nghệ với nhiều thân hữu địa phương. Sau đó 3 người con gái của anh đã đón vợ chồng anh về sống tại Virginia, miền Đông Hoa Kỳ. Tại đây, anh chuyện về hội họa. Căn phòng riêng của anh trưng bày la liệt các họa phẩm của anh. Dần dần trí nhớ của anh có giảm sút…cuối cùng anh bị ngã. Được các con đưa vào nhà thương không lâu sau anh qua đời vì các căn bệnh khác của tuổi già.
Một số bạn tù cho biết trong tù anh Duy Lam vẫn giữ được khí tiết nên bị biệt giam với cùm sắt tới nỗi cổ chân bị thối. May nhờ có trụ sinh của gia đình gửi vào, nếu không thì chân anh đã bị cưa. Ngoài ra trong tù anh có 1 bài thơ cảm động mà nhạc sĩ Xuân Điềm đã phổ nhạc,
( https://t-van.net/?p=6706) Xuân Điềm & Duy Lam: Chiếc Kẹo Nhỏ
Anh Xuân Điểm kể về bài tù khúc “Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết”:
“Nhà văn Duy Lam từ Bắc chuyển trại về Nam có tặng bài thơ nội dung nói về cái chết tức tưởi của đại tá Nguyễn Khoa Dóanh là bào đệ của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Nhà văn Duy Lam là người tù canh giữ trạm xá nơi đại tá Nguyễn Khoa Dóanh kiệt sức đang nằm chờ chết. Hôm ấy, đại tá Dóanh thều thào với nhà văn Duy Lam rằng ông thèm ngậm một viên kẹo trước khi lìa đời. Sau khi tìm được kẹo về thì đại tá Dóanh cầm chặt viên kẹo trong tay tỏ vẻ vui mừng nhưng không ngậm được nữa vì giờ chết gần kề. Khi nhà văn Duy Lam vuốt mặt lần cuối cho người bạn tù thì viên kẹo rơi ra khỏi tay và nằm trên ngực áo, Ôi! Thương thay, đến chết mà ước mơ thật nhỏ bé cũng không thành sự thật”. (Xuân Điềm)
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Nắm không buông như níu kéo cuộc đời
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Người bạn tôi vừa từ bỏ cuộc đời
Mới vừa đây trong tiếng rên hấp hối
Anh đã xin “hãy tìm hộ cho anh
Một chiếc kẹo” . . . vì đã thèm chất ngọt
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi phút này
Chiếc kẹo nhỏ trong bàn tay người chết
Phút chia ly tôi vuốt mắt bạn hiền
Chiếc kẹo nhỏ rơi nằm trên ngực áo
Kẹo còn đây mà người đã lìa đời . . .
Thế là thôi trong nỗi vui phút cuối
Anh chết đi chiếc kẹo còn trong tay
Đầy cẩn trọng trong nỗi niềm vô vọng
Nhiều tháng năm chỉ chờ đợi phút này
CODA: Tiễn đưa anh những bạn tù đói rách
Chiếc áo thô tẩm liệm cuối đời tù
Khóc cho anh và cho cả chúng ta
Rồi ngày nao . . . cũng sẽ đến lượt . . . mình
Sáng nay, mùng 5 tết âm lịch, tức 15-2-2021, trong khi viết những dòng này tôi đang ngồi ở miền Tây Hoa Kỳ tiễn đưa thân xác anh Duy Lam trở về với cát bụi qua đám tang trực tuyến ở miền Đông với nhiều xúc cảm. Một đời người 90 năm như bóng câu qua cửa sổ, nhưng anh Duy Lam đã luôn sống hữu ích với tinh thần lạc quan, năng nổ của kẻ sĩ nhập thế. Trong giây phút gian nguy của đất nước, anh vẫn lạc quan quên bản thân và gia đình để tập họp dân chúng bàn chuyện tử thủ, anh đã bày tỏ khí tiết anh hùng của một chiến sĩ vô danh. Vĩnh biệt Duy Lam!
Triển lãm tranh Duy Lam
Đoạn ghi chiều đi xem triển lãm tranh Duy Lam tại Café Monmartre ở Reston
Thiệp mời
Mùa Xuân, sơn dầu trên canvas
Phố, sơn dầu trên canvas
Duy Lam – Đinh Cường
Nghệ thuật là vô cầu, vì vô cầu, vì không vướng,
nên tâm được thanh tịnh
Tôi nghe một người xem tranh nói
đẻ con gái mà nhờ
thật vậy chiều nay được dự một cuộc triển lãm
thật đẹp thật đầm ấm do ba cô con gái tổ chức
cho Duy Lam tại Café Monmartre ở Reston [1]
Colors, Memory & Imagination
Màu sắc, tưởng nhớ và tưởng tượng
tên gọi chung của cuộc triển lãm
như mở ra cho người xem
trước bao nhiêu bức tranh
đầy sắc màu đầy nỗi nhớ và đầy sáng tạo
như cô con gái út Nguyễn Anh Phương
đã đọc ở giờ khai mạc một đoạn văn hay
chắc không ai hiểu anh hơn :
…Chúng tôi hôm nay tổ chức buổi triển lãm này
không có ý định làm cho ông phải nổi tiếng hơn nữa.
Tiếng tăm văn chương của ông, và con người bản chất thật đam mê,
đa dạng nhưng đôi khi có phần gai góc, lập dị của ông
đã đủ để tạo nên một kỳ nhân xuất chúng,
một chứng nhân sống chết vì nghệ thuật của ba tôi …
anh đã đề tặng Ly, Ty, Xu tên gọi ở nhà
của ba cô con gái anh chị yêu quý
ở trang đầu tập truyện dài Lột Xác
tôi đoán cô này là Xu nay là dược sĩ
tôi hay ra fill thuốc ở CVS pharmacy gặp, gương mặt rất giống anh
đoạn kết cô nói: Những mầu sắc thật sôi nổi và mê hoặc
ở những bức tranh trừu tượng, những đường nét tạo hình
thật táo bạo của ba tôi. Những hình nét mang nhiều tính nghệ thuật
ẩn náu ở trong những đường phố Hà nội quanh co ,
làng xá quê hương thật gần gũi . Xin quí vị cùng thưởng thức.
không ngờ gần năm mươi năm sau tôi lại đến xem tranh anh
nhớ lại những năm đầu 1970 khi anh làm chánh văn phòng [2]
cho trung tướng Lãm, tư lệnh quân đoàn một vùng một chiến thuật ở Đà Nẵng
anh hay bảo trợ cho Cao Bá Minh và tôi bày tranh
tôi thường bày ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp
anh chị đến dự, anh áo veste sọc nâu ngậm pipe dài…
chiều nay thật hạnh phúc ngồi bên anh
áo veste trắng, đã 81 tuổi mà vẫn khỏe
nhờ luyện tập yoga nhiều năm
thời sung sức ở Cali. anh nói sợ đi máy bay
đi đâu cũng lái xe đường trường…
thật vui và mừng gặp lại Duy Lam gặp lại tác giả Gia Đình Tôi
tập hồi ký mà tôi yêu thích, gặp anh lại nhớ Thế Uyên em anh
đã viết cùng anh Nỗi Chết Không Rời …
bên hai ly café đen ngon trên chiếc bàn ghế cao Café Monmartre chiều nay
dăm ba câu chuyện vãn, hỏi họa sĩ Việt Nam anh thích ai
anh nói thích Nguyễn Gia Trí và Tô Ngọc Vân
còn ngoại quốc ? anh thích Kandinsky và Pollock
anh nói anh thích nhất những bức trừu tượng mùa xuân của anh
và ai cũng thích, anh nói anh luôn chú ý đến màu sắc
nhưng cũng thích phối hợp đường nét Á Đông
và anh lại nói như tâm sự : Mùa thay đổi nhưng cành cây khô thì chứng kiến
Tôi như được lắng nghe từ anh từ tranh anh sự vĩnh hằng của Nghệ Thuật.
Virginia, May 6, 2013
Đinh Cường
[1] Triển lãm tranh Duy Lam tại Café Monmartre, Lake Anne Village Center, Reston
Từ May 5 đến June 15, 2013
[2] Duy Lam tên thật Nguyễn Kim Tuấn, sinh năm 1932 tại Hà Nội, con ông Nguyễn Kim Hoàn ( quản lý cơ sở xuất bản Ngày Nay, Đời Nay, mất năm 1963, Sài Gòn) và Bà Nguyễn Thị Thế, mất năm 1997 tại Hoa Kỳ (em gái Nhất Linh, Hoàng Đạo, chị của Thạch Lam).
Trung tá quân lực VNCH. Sau 12 năm tù CS (1975- 1987), năm 1990 định cư tại Cali. Hiện nay ở tại Virginia.
Hồi ký Gia đình tôi
của Duy Lam
Thủ bút Duy Lam ghi chiều khai mạc May 5, 2013
Duy Lam qua trí nhớ –
Phác thảo của Đinh Cường.
Đinh Cường & Duy Lam
Truyện Duy Lam
Truyện ngắn
"Chồng con tôi"
của Duy Lam trên Văn Hóa Ngày Nay số 1
với lời giới thiệu của Nhất Linh:
Như trên đã nói, Duy - Lam viết đủ các giọng. Đây là một truyện ngắn có giọng Dostoievsky. Báo Mới lúc đăng truyện này đã phê bình là tuy tác giả mới bước vào làng văn mà đã già đặn như những cây bút già dặn nhất. “Chồng Con Tôi” có thể coi là một truyện hay trong văn chương nước nhà. Đọc truyện này ta không thể không nghĩ tới truyện “Sợi Tóc” của Thạch-Lam:
CHỒNG CON TÔI
của DUY - LAM
Trước kia không bao giờ tôi tưởng tượng cái chết lại đáng sợ đến thế; không bao giờ ý-tưởng mất một người thân xâm-nhập tâm hồn tôi. Nhưng khi chồng tôi chết, tâm hồn tôi xúc-động quá mạnh nên ám ảnh của cái chết không rời bỏ tôi ra nữa. Trong những lúc sung sướng cạnh con tôi, thỉnh thoảng ám ảnh đó lại hiện ra với hết cả sự hãi hùng tàn ác của nó. Cảm giác lạnh buốt khi tôi sờ vào đôi mi mắt nhắm nghiền của chồng tôi khiến tôi run rẩy mỗi khi nghĩ đến. Tia mắt cuối cùng chồng tôi nhìn tôi là tia mắt oán hận của người cố gắng cưỡng lại một vật vô hình, nhưng biết rõ mình bất lực.
Khi con tôi bắt đầu ốm, tôi đã biết là nó sẽ chết. Tôi không thể lừa dối được tôi. Tôi cố gắng bấu víu vào đủ mọi hy-vọng, nhưng trong thâm tâm tôi biết tất cả đều vô-ích.
Một hôm, vào buổi sáng, tôi đang ngồi khâu, nó đang học, tự nhiên nó bảo tôi:
- Con ghét ba lắm!
Tôi ngạc nhiên khi nghe câu ấy, nhưng nhìn đôi mắt có ánh oán ghét của nó, tôi rõ là con tôi nói thật. Tự-nhiên sao nó lại nhắc đến chồng tôi? Nhớ đến cái chết của chồng tôi, tôi chợt linh cảm thấy một sự không may sắp xẩy đến cho mẹ con tôi. Linh cảm đó thật vô lý, không liên lạc gì với câu chuyện con tôi đang nói. Khi nghe tôi hỏi: “Tại sao thế con?” con tôi có vẻ ngạc nhiên vì hình như trong khối óc trẻ con nhưng rất sớm hiểu thấu cuộc đời của nó, nó tưởng tôi cũng đã biết rõ tại sao và có lẽ nó cũng cho rằng tôi ghét chồng tôi. Vẻ mặt ngạc nhiên của nó khiến tôi phật lòng nhưng tôi không nói rõ ra vì muốn biết rõ ý-tưởng của nó hơn. Câu đáp của nó giản-dị:
- Con ghét ba, vì ba ác lắm, ba hay làm mẹ sợ, ba lại không yêu con, không yêu mẹ. Mẹ có nhớ buổi chiều hôm “bắt đầu mùa hè”... (Tôi mỉm cười và nhớ ra ngay, vì đó là một cách chỉ thời gian theo những đặc biệt về thời tiết do mẹ con tôi đặt ra.) Ba đi đâu về, ba gặp con đứng chơi ngoài cửa, ba không để ý gì đến con. Chợt ba trông thấy con, con biết ngay thế nào con cũng bị đánh, con biết thế nhưng con không sợ ba.
Mặt con tôi trông rất kiêu ngạo và đặc biệt; trước kia khi con tôi có vẻ mặt đó và hai cha con ngồi cạnh nhau, tôi sờ sợ và khó chịu vi đoán biết thể nào cũng có chuyện không hay.
- Ba quắc mắt và quát to con mới chịu lại. Con đến gần ba, ba nắm chặt lấy cổ tay con. Đau lắm mẹ ạ! Ba tát con mấy cái liền. Đầu con váng lên và con trông thấy bao nhiêu đom đóm.
Con tôi chợt cười lên như quên mất sự vô lý của tiếng cười tới câu chuyện đang nói, nhưng nó lại im ngay và nét mặt trở lại như cũ.
- Ba đánh con xong ba quát: “Mày có cút đi chỗ khác không? Mày ghét tao lắm phải không? Trông bộ mặt bướng bỉnh của mày tao biết. Mày còn đứng đấy thì liệu hồn. Tao trông thấy đôi mắt oán hờn của mày là tao thấy rùng mình. Rồi ba tự nhiên bỏ tay con ra. Nhưng con không đi, con vẫn đứng trước mặt ba. Con không sợ, ba đánh mãi con cũng không cần, đánh đến chết cũng được…
Nghe thấy tiếng “chết” tôi thấy hối hận; trước kia biết đâu đã có nhiều lần vì dại dột, vì vô tình tôi có thể giết chết con tôi. Tôi biết rõ nó lắm; tính nó giống ba nó rất kỳ dị và có những hành động không thể ngờ được. Có một điều mà tôi không hiểu là tuy tính nết giống nhau mà tại sao hai cha con lại ghét nhau đến như vậy.
- ...Rồi ba không nói nữa, hình như ba đang mải nghĩ ngợi như người vừa đánh mất cái gì mẹ ạ! Ba quay đi vào trong nhà. Hôm ấy Ba dọa mẹ hay sao mẹ sợ thế? Ba nói gì với mẹ? Con không thích thế. Lại còn hôm mẹ đi chợ về, mẹ cầm gói lụa con đòi xem. Con làm mẹ giận phải không?
Tròng mắt con tôi có vẻ hối hận khi nói đến chuyện này, tôi cảm động. Nó lại gần tôi và ngồi bên cạnh. Đôi mắt mầu nâu sẫm của nó sáng long lanh giống hệt đôi mắt chồng tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi. Con tôi như thấy rõ trong mắt tôi sự âu yếm và tha thứ. Mỗi khi nó nhìn tôi như vậy, tôi lại thấy sung sướng bội phần, nhưng cảm-tưởng đó tựa hồ có lẫn một cái gì nhớ tiếc và đau khổ. Ám ảnh chồng tôi lại lẩn quất trong tâm hồn tôi.
- Con nhất định đòi mẹ cắt cho con một miếng lụa đẹp để chơi. Mẹ không cho. Con hét tướng lên, con biết mẹ sợ con hét lắm phải không mẹ? Lúc ấy ba về, ba thấy thế mặt ba xầm xuống; hôm ấy con bị một trận đòn đau và còn bị nhịn cơm. Ba vừa đánh vừa mắng. Con không khóc, con chỉ hét lên: “Con ghét ba lắm! Ba chết đi!”. Ba còn mắng những gì này. À! ba nói: “Tại sao mày lại giống tao? Sao mày cũng ác nghiệt đến thế? Không được!” Ba còn nói nhiều lắm nhưng con quên mất rồi. Con có giống ba đâu. Ba chỉ kiếm cớ để đánh con. Nhưng con cần gì! Có phải ba ác lắm không mẹ?
Tôi mỉm cười có ý trả lời nó là tôi không phản đối. Trong lúc này nó lại càng giống cha nó hơn. Tôi nhớ sau khi đánh con xong chồng tôi nửa như tức giận, nửa như buồn rầu và tôi chưa kịp hỏi, hay trách móc gì chàng đã vội nói:
- Anh không thể kìm được. Em phải rõ anh không muốn đánh nó một chút nào, nhưng lúc đó anh giận nó một cách lạ lùng. Em biết tại sao không? Anh thấy nó giống anh quá. Nó như hệt anh ngày trước tàn ác và nhẫn tâm. Nó có biết nó làm cái gì đâu?
Mặt chồng tôi trở nên đau khổ.
- Em không thể hiểu được và anh cũng không thể giảng rõ ràng để em hiểu. Em đừng giận anh, anh thế đấy, lắm khi làm những việc thật vô lý mà cũng không hiểu tại sao. Không những anh muốn đánh nó mà anh còn muốn làm khổ anh bằng bất cứ cách nào. Nó gợi cho anh những cảm tưởng đau đớn và hối hận. Anh giận ghét anh nên anh ghét lây sang cả mọi người.
Nghe chồng nói, tôi thấy sợ hãi, tôi biết chồng tôi đau khổ lắm nhưng tôi không biết làm thế nào để an ủi. Những trường hợp này thường xảy ra luôn luôn; chồng tôi kể, nói liên tiếp như tâm hồn đang bị hành hạ:
- Anh nhớ hồi còn bé, anh đã làm một việc rất xấu, anh không thể quên được và anh cũng không muốn quên. Anh làm mẹ anh khổ. Sao lúc đó anh ghét me anh đến thế! Anh đang sốt mà me anh không săn sóc trông nom anh như mọi lần khác. Me anh ngồi khâu và không nói chuyện với anh. Anh có biết đâu là me anh đang buồn. Anh chỉ thấy tức giận. Anh không muốn ai được quên anh. Khi người khác không chú ý đến anh, anh có nhiều tư-tưởng rất quái gở. Anh tự bảo: “Me muốn quên con. Được rồi me sẽ không thể quên được.” Anh liền lựa lúc me anh cúi xuống, tung chăn trốn ra ngoài nhà. Me anh không biết gì cả. Anh cứ để nguyên đầu trần, chân đi đất và quần áo mỏng manh mà chạy ra ngoài trời mưa to. Đầu anh lúc đó nóng lên bừng bừng, cơn giận dữ càng ngày càng mạnh. Anh dứt đứt hết cả khuy áo, phanh ngực ra mưa. Anh để mặc cho mưa rơi vào đầu vào tóc, anh dầm chân vào những vũng nước vũng bùn. Tuy lúc đó anh ốm nhưng cơn giận làm anh quên hết. Một lúc sau khi người đã mệt, anh mới chịu về nhà. Lúc vào nhà anh thấy me anh vẫn ngồi y nguyên. Me anh vẫn không biết gì. Anh ghét me anh cực điểm, anh đến trước mặt me anh và đứng nguyên đó. Chợt me anh ngửng mặt lên và trông thấy anh. Mặt me anh ngạc nhiên và như tỉnh dậy, me anh nhận ra sự thật. Khuôn mặt me anh vụt tái mét và hãi hùng. Không hiểu sao lúc đó anh thấy hả hê và sung sướng đến thế. Anh sung sướng vì trả thù được me anh và hành hạ chính thân anh. Me anh vừa khóc sướt mướt, vừa thay quần áo, lau mình cho anh vừa nói:
- Trời ơi! Con tôi! Con yêu quý của tôi.
Me anh không hỏi anh qua một câu sao anh làm vậy. Mẹ anh như sợ không đả động đến chuyện đó, Sau hành động điên rồ này anh ốm liên miên. Cũng may anh lại không chết ở trận ốm đó. “Giá anh chết, anh đã làm me anh khổ biết chừng nào”. Ý-tưởng ấy bây giờ vẫn làm anh đau nhói ở tim mỗi khi nghĩ đến. Khuôn mặt đau đớn và thương xót của me anh đêm anh tỉnh giấc thấy nghiêng trên mặt anh và đầy nước mắt. Bây giờ em đã hiểu tại sao anh ghét con không? Anh ghét anh còn hơn ghét nó nữa. Sau này nó sẽ hiểu tại sao anh đánh nó vô cớ.
Tôi im lặng ngồi nghe chồng tôi và không nói một câu. Tôi thương chồng tôi hết sức. Sau mỗi lần chồng tôi nói chuyện như vậy, chồng tôi ngồi yên nghĩ ngợi rất lâu. Có ai quấy rối, chồng tôi dễ dãi mỉm cười, không mắng gắt gì cả. Chồng tôi như lạc vào một thế giới khác không liên lạc gì với thế giới sống này.
Tôi ngồi khâu đợi chồng tôi tỉnh vì chồng tôi đúng là một người đang mê. Tôi không giận và oán trách chồng tôi một chút nào. Sau đó thường chồng tôi rất vui vẻ với vợ con tuy nhiều khi chỉ trong chốc lát.
Tôi nghĩ ngợi liên miên đến chồng tôi, có điều khiến tôi lấy làm lạ là nhiều khi chồng tôi đi đâu về có vẻ mệt nhọc, tôi đến cạnh săn sóc chồng tôi không những tỏ vẻ khó chịu mà còn như ghét tôi nữa. Có lần vì thấy mặt chồng tôi xanh như người ốm, tôi hỏi anh có cần uống thuốc không? Chồng tôi nói như quát: “Để mặc tôi!” Tôi không dám hỏi thêm một câu nào và lảng xa để chồng tôi ngồi một mình yên tĩnh. Bỗng nhiên chồng tôi gọi tôi lại gần và nói chuyện rất dịu dàng. Trông mắt tôi rõ là chồng tôi đang cần thổ lộ một điều gì. Tôi rất sợ những lúc đó vì thấy chàng đau khổ một cách kỳ dị. Lắm khi tôi không giấu được sợ hãi và để lộ ra mặt. Thường lúc con tôi cũng có đấy, nên cảm tưởng bố nó làm mẹ nó sợ hãi đã in sâu vào khối óc non nớt của nó.
- Em giận anh phải không? Anh hứa với em không thế nữa. Sao mặt em lại tái đi thế kia? Bây giờ anh rất hối hận. Anh sợ sẽ làm khổ em như trước kia anh đã làm khổ me anh và những người thân yêu của anh. Lắm khi anh tự hỏi: “tại sao anh lại cư xử như thế đối với những người anh yêu quý nhất?” Câu hỏi đó anh không trả lời được và luôn luôn dày vò anh, làm anh đau đớn băn khoăn. Anh không thể tha thứ lỗi lầm của anh. Anh biết anh rất hèn hạ vì không xứng đáng với những sự săn sóc của em, của mẹ yêu anh trước kia. Anh thấy xấu hổ, anh đã gặp bao nhiêu người khinh bỉ anh. Họ coi anh là một thằng hèn, một người không làm được việc gì. Đau khổ cho anh hơn hết là anh nhận thấy anh hèn kém thật. Anh không có một tài năng đức tính gì khả dĩ khiến người ta kính phục. Hơn nữa anh không thể làm thế nào để tự mình khỏi khinh bỉ và ghét chính mình. Gặp những người mà anh ghét độc địa và khinh bỉ, tự nhiên anh tự hỏi:
“Có lẽ anh ghét họ vì anh không thể làm được như họ. Nếu anh có can đảm, tại sao anh không làm được như họ trước, rồi sau khinh ghét họ có hơn không?"
Nhưng anh không thể làm được như vậy. Anh vừa khinh ghét họ vừa cố ngăn anh không cho phép anh ghét họ. Thật khó hiểu và trái ngược. Thế mà mỗi khi anh trở về nhà, em đến săn sóc anh, em không khinh bỉ anh. Em lại có vẻ kính phục anh nữa.
Anh nghi ngờ là có lẽ vì em không rõ anh, nếu em hiểu anh không biết em sẽ khinh ghét anh đến thế nào. Nhưng may cho anh sự nghi ngờ đó chỉ thoáng qua óc anh mà thôi. Sau cùng anh nhận ra nếu không có em anh không thể nào sống được. Cũng như trước kia tình yêu của me anh là một điểm nương tựa của anh để sống, em là ánh sáng của đời anh, tia sáng rất nhỏ nhưng không có, anh sẽ không còn. Em bao giờ cũng tha lỗi, cũng yêu anh, dù anh không ngỏ lời xin. Như vậy anh càng yêu em và đồng thời xấu hổ với em!
Nói đến đây chồng tôi cảm động và hình như khóc, vì tôi thấy đôi mắt chàng long lanh. Tại sao chồng tôi lại nói với tôi như vậy, tôi cũng không biết. Nhưng tôi chỉ biết yêu chàng tha thiết. Tôi chỉ mong nếu tôi có thể giúp sức làm chàng bớt khổ, tôi sẽ cố. Chồng tôi hình như bao giờ cũng cố tránh làm tôi lo sợ và đau khổ vì những hành động và lời nói kỳ dị của chàng. Nhưng chúng tôi cũng cảm thấy là nhờ những cái đó mà chúng tôi gần nhau hơn.
Chiều hôm đó, sau buổi sáng ngồi khâu và hai mẹ con nói chuyện với nhau, con tôi đi học về, kêu nhức đầu và đòi đi nằm. Đêm hôm đó tôi thao thức mãi. Sáng hôm sau con tôi đã bớt nóng, tôi cũng không lo lắng lắm. Tôi để con tôi nằm nhà, ra phố mua mấy thứ cần dùng và thuốc thường thức. Trời không nắng, không mưa, nên nặng nề khó thở. Đi phố tôi gặp một đám ma trẻ con. Tôi như bị tê liệt và đứng đờ ở giữa phố.
Tiếng khóc và tiếng kèn não nùng gợi trong tâm hồn tôi hình ảnh hãi hùng là một một ngày kia tôi sẽ cũng khóc và đưa đám con tôi như vậy. Có lẽ đám ma này là một điềm báo hiệu. Tôi lo ngại khi chợt nghĩ đến con tôi đang nằm một mình ở nhà. Lúc đi tôi có khép cửa sổ cẩn thận không? Nó có thể bị trúng gió. Óc tưởng tượng của tôi thêu dệt ra bao nhiêu điều quái gở. Tôi đi về nhà vội vàng như một người điên. Mỗi bước chân tôi lại cố đi nhanh thêm. Tôi không để ý gì đến chung quanh tôi. Khi trong nhà, tôi chợt nhận thấy tôi đang chạy. Như thế chưa đủ, hãy còn chậm quá. Sao căn nhà tôi ở lại lạnh lẽo và vắng vẻ thế kia. Khi tôi thấy con tôi nằm yên trên giường đôi mắt nhắm nghiền tôi tưởng có thể ngất đi. Mặt nó xanh xao và gầy. Hay là nó chết rồi? Nhưng khi nó vừa mở mắt, tôi mừng rỡ và sung sướng như vừa thoát khỏi một sự đe dọa ghê sợ. Tôi òa khóc. Con tôi mỉm cười với tôi và gọi:
- Me ơi! Sao me đi lâu thế?
Tôi khóc khiến nó sợ hãi:
- Me làm sao thế? Me đừng khóc nữa. Con làm me khóc hay sao? Con không làm me khóc hay sợ như ba đâu. Me lại đây với con.
Tôi chạy lại ôm chặt lấy con tôi vào lòng. Lúc đó tôi quên hết đau khổ và lo lắng. Tôi ngồi bên con tôi và suốt ngày tôi không rời nó một bước. Tôi gục đầu vào lòng con tôi. Nó nhổ tóc sâu cho tôi. Mỗi khi nó nhổ lầm thành hai cái, tôi lại giả vờ kêu đau để nó cười vang vui vẻ.
Bệnh con tôi bắt đầu giảm, tôi đã mừng. Nhưng chỉ được một ngày rồi lại vụt tăng. Đầu và người nó nóng như lửa đốt. Bệnh nó càng nặng tôi lại càng thêm bối rối và mất hết óc suy xét. Tôi đi đi lại lại trong phòng khi con tôi thiếp ngủ. Tôi không dám khóc sợ con tôi biết. Điều cần nhất là phải làm thế nào mua được thuốc, mời được bác sĩ cho con. Dạo chồng tôi còn sống tôi không phải lo gì đến sinh kế, nhưng từ khi chồng tôi chết đi, tôi phải chật vật mới kiếm đủ ăn. Tiền để dành không còn một đồng nào. Những bạn mới quen, tôi vay mượn họ cũng đã nhiều và họ cũng không giầu gì hơn tôi. Bán một cái gì đi chăng? Nhìn quanh phòng tôi thất vọng, không một đồ đạc đáng giá. Tiếng con tôi gọi khiến tôi giật mình. Nó bắt đầu mê sảng. Nó vùng ngồi dậy nhìn thẳng trước mặt một cách kinh hãi. Mắt nó mở to trừng trừng hình như không nhìn thấy tôi.
Nó kêu lên:
- Me ơi! Con sợ lắm! Ai đương làm gì trong giường con thế này?
Tôi ôm nó thật chặt và nhìn thẳng vào mắt nó.
- Nhưng nó vẫn đứng kia (con tôi giơ hai tay lên). Sao tay con đầy máu thế này?
Nó xát hai tay vào nhau và sợ hãi:
- Bao nhiêu thủy tinh trong tay con. Sắc quá, mẹ có thấy không?
Con tôi sắp chết hay sao? Tôi lạnh giá người và run lên. Không thể thế được! Tôi phải cứu con tôi khỏi chết. Tôi không thể ngồi yên đây được. Sau khi con tôi đã bớt mê và nằm xuống ngủ, tôi đắp chăn lên người nó, đóng các cửa như người mất hồn và đi ra phố. Tất cả mọi người chỉ là những cái bóng qua lại trước mắt tôi. Tôi đi rảo bước và không thấy ai cả.
Cuối cùng tôi thấy đứng trước cửa một nhà bác-sĩ. Không hiểu sao tôi có thể tìm được đến đây Trong khi đi đường tôi đã hỏi những ai? Tôi đã làm thế nào để biết đường đi. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy thật kỳ lạ. Có một sức mạnh gì đã đưa dẫn tôi trong khi tôi như một người mê. Đứng trước cửa nhà bác-sĩ, tôi như chợt tỉnh và bối rối sợ hãi. Bác sĩ có bằng lòng đi thăm bệnh và chữa cho con tôi không? Tôi lấy tiền đâu mà trả? Nghĩ đến đây tôi thất vọng nhưng đành vậy tôi không biết làm thế nào hơn. Tôi phải nói dối, tôi sẽ làm tất cả mọi sự rồi muốn ra sao thì ra. Tôi ngồi trên chiếc ghế trong phòng đợi và lòng nóng như lửa đốt. Sao phòng khám bệnh hôm nay đông quá. Bao giờ mới đến lượt tôi. Thời gian như đứng lại không trôi nữa. Trông thấy mấy bà ẵm con cười nói với nhau, tôi vội quay mặt đi. Tôi không dám nhìn họ, tôi không thể chờ lâu được. Khi cánh cửa phòng khám bệnh mở ra, tôi vùng dậy chạy vội vào như sợ cửa đóng lại. Tôi níu chặt lấy bác sĩ không dám bỏ ra.
Tôi van xin như một người điên.
- Ông cứu lấy con tôi! tôi van ông! Nó sắp chết rồi. Ông thương tôi. Nó mê sảng, bệnh nó nặng lắm. Tôi không biết làm thế nào. Ông đến ngay chữa cho con tôi. Tôi sẽ trả ông thật nhiều tiền. Tôi sẽ làm đầy tớ cho ông suốt đời. Miễn là nó sống! miễn là nó sống!
Tôi không nói hơn được nữa, nước mắt trào lên và tiếng khóc nức nở chặn nghẹn cổ họng tôi. Tôi ngồi xuống chiếc ghế, nhưng khi ngửng mặt lên thì bác sĩ đã đi đâu mất, chỉ còn có người nữ khán hộ đứng nhìn tôi tò mò như nhìn một vật lạ. Người đó lạnh lùng bảo tôi:
- Ông đốc không đi khám bệnh đâu xa. Bà mang nó đến đây.
Tôi cố gắng ngăn nước mắt:
- Bà làm ơn nói giúp với ông đốc hộ tôi. Trời ơi nó sắp chết rồi mà!
Người nữ khán hộ buông sõng một câu:
- Nó sắp chết cũng phải mang nó đến đây.
Tôi vùng đứng dậy, nhìn khuôn mặt không lộ vẻ cảm động của nữ khán hộ, tôi biết dù có van xin tha thiết cũng không ích gì. Tôi thấy tức giận hết sức. Tôi ghét người nữ khán hộ đến cực điểm, tôi muốn sỉ-nhục thẳng vào mặt người đàn bà nhẫn tâm đó, không biết mặt tôi dữ dội đến thế nào khiến người nữ khán hộ phải lùi lại một bước. Tôi vùng mở cửa và bước ra ngoài.
- “Thế là hết! thế là hết! Nó sẽ chết: Không còn gì cứu được con tôi nữa.”
Hình như có tiếng một người nào nhắc đi nhắc lại bên tai tôi những câu nói kinh khủng này. Tôi không thể lê chân đi được. Tôi không còn sức đứng vững và ngã ngồi xuống sân gạch. Khi thấy mấy người chạy đến quây lấy tôi và đỡ tôi dậy thì cơn giận của tôi lại bùng lên mạnh mẽ hơn. Tôi lấy tay đẩy họ ra, tôi ghê tởm họ, tôi khinh ghét họ:
- Để mặc tôi! tôi không cần ai giúp tôi. Đi đi! Có ai nghĩ đến tôi đâu? Con tôi sắp chết rồi!
Tôi cố gắng đứng dậy và ra cửa không quay đầu lại. Đi được mấy bước tôi bỗng thấy một bàn tay để nhẹ nhàng lên vai tôi. Tôi hất bàn tay ấy ra, chân vẫn không dừng bước. Một tiếng nói nhẹ và dịu vang lên sau tôi.
- Đừng đi vội bà! hãy chờ tôi một chút.
Không biết tiếng nói đó có một mãnh lực gì khiến tôi dừng bước. Quay đầu lại tôi thấy hai người đàn bà mặc toàn đồ đen đứng cạnh tôi. Dù trong lúc mà nỗi tuyệt vọng đã khiến tôi gần như mất lương tri, tâm hồn tôi cũng xúc động khi tôi nhìn đến khuôn mặt trái xoan đều đặn rất buồn của bà, nhìn đôi mắt long lanh của bà tôi linh cảm hình như bà đã hiểu hết. Bà nắm lấy tay tôi nhìn vào tận mắt:
- Thôi bà đừng khóc nữa! Tôi hiểu nỗi đau khổ của bà lắm. Bà cứ yên tâm, tôi sẽ giúp. Nhà bà ở đâu? Bà về ngay trông nom và gần cháu. Tôi sẽ mời ngay một bác sĩ khác đến chữa cho cháu. Bà đừng lo lắng gì nữa.
Tôi không biết nói gì để cám ơn bà ta. Bà lại không quên đưa tôi mấy đồng để đi xe về cho chóng. Hình ảnh người đàn bà buồn và dịu hiền đó không bao giờ phai mờ trong tâm hồn tôi. Tôi ngồi bên cạnh con tôi, nhìn nó ngủ. Tôi dần dần bình tĩnh lại và hy vọng. Bà ân nhân của tôi đến cùng một ông bác-sĩ. Con tôi đã tỉnh dậy, mắt nó sáng long lanh một cách kỳ-dị, nhưng khuôn mặt xanh và gầy khiến tôi lo ngại. Tôi ngồi yên lặng xem bác sĩ khám, tôi trả lời như một cái máy những câu hỏi của bác sĩ, ông cho tôi một cái đơn mua thuốc. Sau khi khuyên tôi không nên lo lắng gì, vì bệnh con tôi không có gì đáng lo ngại lắm, ông cùng bà bạn tôi ra ngoài hiên, tôi không dám theo ra, không dám hỏi ông thêm một câu. Tôi sợ.
Hình như tôi muốn trốn tránh một cái gì ghê gớm. Con tôi có vẻ rất mệt mỏi nên tôi vừa đặt nó xuống giường là nó ngủ ngay. Hai bàn tay nhỏ bé và nóng hổi của con tôi nắm lấy tay tôi và đặt lên ngực nó. Khi bà bạn tôi bước vào trong phòng, tôi nhìn thẳng vào mặt bà. Tôi cảm thông hết những điều bà không dám nói thật với tôi. Tôi run rẩy nói:
- Ông đốc bảo bệnh con tôi nặng lắm phải không! Nó sắp chết không cứu được nữa...
Mặt bà tái lại, bà chạy đến ôm lấy tôi mà khóc. Tôi gục xuống ngất đi. Trước khi ngất tôi còn thoáng thấy mặt bà bạn cúi xuống tôi đầy nước mắt. Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường. Bà bạn tôi ngồi cạnh và đương đắp một tấm khăn ướt lên trán tôi. Con tôi vẫn thiêm-thiếp ngủ.
- Bà đã tỉnh hẳn chưa. Bà có thấy người mệt không? Bà làm tôi sợ quá! Bà kéo chăn lên ngực. Lỡ gió một cái bây giờ có thể nguy hiểm.
Tôi nói yếu ớt:
- Bà tử-tế quá. Tôi...
Bà ta ngắt lời:
- Bà không nên nói nhiều, bà nên nằm nghỉ đã.
Chúng tôi yên lặng một lúc. Tôi nằm nghĩ ngợi một chút rồi bỗng nhiên tôi hỏi bà bạn:
- Bà có điều gì buồn?
Nói xong câu đó tôi thấy như lỡ lời vì đã gợi mối đau thương của bà. Khuôn mặt buồn và dịu của bà lại buồn và đau đớn thêm. Tôi thấy tay bà hơi run trong tay tôi. Những lời nói của bà làm tâm hồn tôi rối loạn thêm vì tôi thấy nỗi đau khổ của bà lớn lao và kinh sợ quá. Bà nói giọng đều đều:
- Con tôi vừa chết được nửa tháng. Không bao giờ tôi còn được nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nó nữa. Nhà tôi vắng vẻ và lạnh lẽo như không có người ở. Từ sáng đến chiều tôi không còn được nghe tiếng nó cười đùa. Tôi không còn được quát mắng nó mỗi khi nó chạy ầm-ĩ trên sàn gác. Mà chính tôi... chính tôi đã giết con yêu quý của tôi. Trời ơi ....
Bà gục đầu xuống như không thể cưỡng nổi sự hối hận và đau đớn mãnh liệt. Bà nắm chặt như bóp tay tôi. Đôi mắt tuyệt vọng của bà như thoáng những hình ảnh hãi hùng. Tôi nằm yên không nói một câu nào.
- Tôi không thể quên được ngày ghê gớm đó. Sao tôi vội đi thế. Tại tôi quên đóng cái cửa đó lại. Tại tôi! Tại tôi hết. Tôi vội vàng đi đến nhà người bạn mua bát họ. Mỗi hôm đi đâu tôi cũng cẩn thận đóng cái cửa ra sân, chỉ để nó chơi ở trong nhà. Nó nghịch ngợm lắm nên mỗi khi đi đâu vắng nhà là tôi cấm nó lên gác sợ nó ngã cầu thang. Tôi có biết đâu rằng buổi sáng hôm đó là buổi sáng cuối cùng tôi sống với con tôi. Tôi tưởng có thể phát điên rồ khi người nhà chạy đến hốt hải gọi: “Mợ về! chú bé ngã trên gác xuống sân! Mợ về ngay con còn phải đi mời đốc tờ.” Mấy bà bạn giữ chặt tay tôi và kèm tôi lên xe về nhà. Về đến nơi con tôi đã chết rồi. Trông thấy con tôi nằm trên giường tôi không thể ngờ được là nó đã rời bỏ tôi mãi mãi. Tôi còn hy vọng cứu được nó. Nhưng khi bác sĩ đến khám và cho biết là không có cách gì cứu sống được nữa, tôi có ý tưởng muốn chết ngay, nhất là khi tôi chợt nhớ ra chính vì tôi, tại tôi mà con tôi chết. Tôi giận tôi hết sức, tôi hối hận, tôi muốn xé hết quần áo, đâm đầu vào tường. Người ta giữ chặt lấy tôi và khuyên nhủ. Khuyên nhủ lúc đó không ích gì! Nó đã chết mất rồi. Có thể là mấy ngày sau tôi đã tự tử theo con tôi nếu không có chồng tôi. Chồng tôi như đoán biết ý định của tôi, chồng tôi không rời tôi một bước và khi đi làm thì nhờ mấy bà bạn đến chăm nom săn sóc tôi. Giá tôi chết được lúc đó thì tôi sung sướng lắm. Nhưng sau ý định tự tử không ám ảnh tôi nữa. Tôi nhớ một buổi chiều, tâm hồn mệt mỏi, tôi nằm nghỉ trên giường từ buổi trưa. Lúc chồng tôi đi làm về thì tôi vừa tỉnh một giấc ngủ ngắn ngủi.
Chồng tôi đến cạnh giường tôi, nhưng tưởng tôi còn ngủ chồng tôi ra góc phòng ngồi. Tôi mở mắt thì thấy chồng tôi đang chăm chú xem một vật gì. Mấy hôm nay người tôi như mất hồn nên không để ý đến chồng tôi lắm; lúc nhìn mặt chồng tôi xanh và gầy tôi mới thấy lo và hối hận. Tôi ngồi dậy nhẹ nhàng đến bên chồng tôi. Chàng đang ngắm bức ảnh chụp con tôi mới đây. Tôi để tay lên vai chàng, chồng tôi quay đầu lại và mắt rơm rớm nước.
Từ hôm đó tôi không muốn chết nữa. Tôi còn phải sống với chồng. Không bao giờ tôi có thể tin là tôi mất con chỉ vì một sơ ý nhỏ nhặt. Giá tôi không quên đóng cửa, bây giờ con tôi còn sống, tôi sung sướng biết bao. Nhưng không thể được. Con tôi không trở lại nữa. Giờ bà đã hiểu tại sao tôi lại mến và giúp bà như vậy. Bà đừng lo, cháu nó thế nào cũng khỏi.
Bác sĩ bảo tôi bệnh không nặng lắm có thể chữa khỏi được, tuy nhiên hơi lâu một chút. Mai kia cháu lại chạy chơi như thường. Tôi cam đoan với bà là cháu sẽ khỏi. Bây giờ tôi về qua nhà một lúc rồi tôi sẽ đến ngay.
Bà bạn đã đi rồi, tôi nằm nghĩ ngợi. Đầu óc tôi rối loạn. Tôi rùng mình khi nghĩ lại đến truyện bà bạn tôi vừa kể. Bà chắc còn đau khổ hơn tôi nhiều. Tôi lại nghĩ đến bệnh con tôi: tôi biết bà bạn tôi nói dối để tôi yên tâm. Bệnh con tôi không thể cứu được. Nó chết thì tôi sẽ ra sao? Chợt một tư tưởng kỳ dị lướt qua óc tôi. Hay bây giờ tôi đương mơ một giấc mơ kinh hãi? Đến bao giờ tôi mới tỉnh? Ai sẽ lôi tôi khỏi giấc mơ đó? Nhưng rồi tư tưởng đó lại biến đi. Sự thật lại hiện ra rõ ràng và tôi chỉ thấy con tôi, ốm nặng nằm ngủ trên giường và tôi ngồi bên cạnh trong căn phòng vắng vẻ này. Trời đã tối, tôi không để ý gl đến chung quanh nữa. Tôi chăm chú nhìn mặt con tôi dưới ánh đèn. Tôi chú ý đến từng chi tiết một trong khuôn mặt con tôi, cái mũi nhỏ, bộ tóc, đôi môi. Tôi nghĩ đến bao kỷ niệm trong lúc tôi giận con tôi, yêu con tôi. Tôi đang mê man trong những tư tưởng dồn dập, cánh cửa chớp vụt mở và đọng lại với một tiếng động khô khan. Bóng tối in trên tường hơi rung rinh. Tôi nhìn quanh phòng và tôi chợt cảm thấy sợ hãi vô tả. Tôi nhớ ra rồi. Tôi nhớ lại hết cái đêm hôm đó cũng ở trong căn phòng với những đồ đạc y nguyên, tôi ngồi đây và nắm lấy tay một người sắp chết, người đó là chồng tôi hay con tôi. Không! Tôi tỉnh. Đây là con tôi.
Sự trùng nhau ghê gớm của hai trường hợp khiến tôi tê liệt cả trí óc. Hai người, chồng tôi và con tôi đều chết trong một căn phòng, cùng trên một chiếc giường trước mắt tôi. Tôi phải bế con tôi ra khỏi đây. Nó không thể chết được. Tôi vùng dậy ôm lấy con tôi và chạy ra cửa. Tôi xô phải một người. Tôi suýt kêu lên vì hoảng hốt. Đó là bà bạn tôi, bà lôi tôi vào trong nhà và trách móc:
- Bà vào đây! Bà cho cháu đi đâu vậy? Không được. Ngoài kia đêm tối gió máy. Bà nên bình tĩnh, đừng rối loạn như vậy. Bà đặt cháu xuống. Cháu bé tỉnh rồi đấy ư? Ngủ đi em nhé. Mai khỏi tha hồ chạy chơi đi học. Bà đắp chăn cho cháu. Bà cũng nên đi nằm và cố ngủ thì hơn.
Tôi theo lời bà bạn như một cái máy. Tôi thấy sự vô lý của hành động tôi vừa làm. Tôi nằm cùng giường với con tôi. Sao con tôi nó ngủ mệt thế? Tôi không muốn xa con tôi một chút nào. Tôi nằm áp mình vào thân thể nóng hổi của nó. Tôi không ngủ nhưng có một lúc thời gian như ngừng lại. Tôi không cảm thấy gì hết. Tôi như rơi vào một khoảng rỗng không? Mắt tôi mờ đi và không thấy cả đến bóng tối in trên giường nữa.
Không rõ tôi lọt vào thế giới đó bao nhiêu lâu nhưng khi tôi tỉnh lại, trong phòng không một tiếng động. Bà bạn tôi đã ngủ còn con tôi, tôi nghe rõ tim nó đập dồn dập, ngực sát vào người tôi. Lạ lùng quá bây giờ tôi không thấy trong lòng đau đớn và rối loạn như trước. Trái lại một sự bình tĩnh và êm ả đã đến trong tâm hồn tôi. Một tư tưởng vừa xuất hiện và mang đến sự bình tĩnh đó. Nếu con tôi chết, tôi sẽ chết theo con tôi. Không biết tôi đã quyết định từ bao giờ nhưng tôi cảm thấy đó là điều mà tôi sẽ làm và không có gì thay đổi được. Tôi chết sẽ gần con tôi. Cái chết không chia rẽ được chúng tôi nữa. Chúng tôi sẽ mãi mãi gần nhau. Ý tưởng gần mãi con tôi khiến tâm hồn tôi sung sướng và đầy đủ. Tôi ôm chặt thêm con tôi vào lòng, tựa đầu lên mớ tóc êm ả và mượt của nó.
Suốt ngày hôm sau tôi luôn luôn ngồi cạnh con tôi nói chuyện và chơi đùa với nó hoặc yên lặng âu-yếm nhìn nó hàng giờ. Con tôi vui đùa và vẫn bướng bỉnh như những ngày thường. Có điều tôi lấy làm lạ: hình như nó không ốm. Nó không mê sảng và rất tỉnh táo, nhưng tôi biết rõ là không phải bệnh con tôi thuyên giảm mà con tôi sắp đến lúc chết. Trông vẻ mặt và đôi mắt nó sáng một cách kỳ-dị có vẻ giống mắt chồng tôi lúc hấp hối.
Bà bạn tôi ngạc nhiên vì thấy tôi vui vẻ, có lẽ bà cho vì con tôi đỡ bệnh. Có khi tôi tưởng tôi và con tôi đương sửa soạn cuộc đi xa. Tôi mang ra tất cả những đồ chơi cũ, những quần áo nó thường thích mặc đặt trước mặt con tôi. Tôi sung sướng khi thấy nó vui vẻ, tuy nó không nói truyện được nhiều, nhưng tiếng nói và giọng nói vẫn trong trẻo tinh-nghịch. Nó dỗi với tôi mấy lượt và tôi làm vừa lòng tất cả những điều nó đòi.
Bà bạn cũng mang lại mấy thứ đồ chơi khiến nó mừng rỡ. Bác-sĩ hôm qua lại đến nhưng tôi biết là vô ích. Do linh-tính của người mẹ tôi chỉ nhìn vẻ mặt ông ta và bà bạn là đủ hiểu.
Cái đó bây giờ không có nghĩa gì với tôi cả. Ánh nắng tràn vào trong nhà và trải lên sân gạch như một tấm thảm sáng. Tất cả căn phòng đều sáng lên, đồ-đạc trông linh-động. Con tôi bắt mang quần áo cũ ra phơi. Nó hỏi cái mũ len năm ngoái của nó đâu? Tôi phải lục tận đáy hòm mới tìm được. Tôi cảm thấy hai mẹ con tôi như lạc vào một thế giới khác êm-ả đẹp đẽ và đầy ánh nắng tươi sáng. Thế giới đã xa tất cả và chỉ có riêng chúng tôi. Tôi nhớ đến chồng tôi, chắc chồng tôi vui vẻ lắm khi gặp tôi và con.
Đến chiều con tôi chết.
Trước khi nó chết tôi bế nó lên lòng như hồi nó còn bé tí, tôi vuốt tóc và xoa lưng cho nó. Nó mở to đôi mắt nâu nhìn tôi; nó vòng tay ôm lấy cổ tôi, nói vui vẻ:
- Con buồn ngủ lắm mẹ ạ! Con đi ngủ đây. À! mai con dậy me cho con về quê nhá! Đi học chán lắm. Con khỏi con phải nghỉ chứ. Me xoa mạnh một tí.
Nó nhắm mắt và thiếp đi như ngủ một giấc ngon lành. Đôi môi nó vẫn mỉm cười. Tôi ngồi ôm con tôi như thế rất lâu và sau tôi đặt nó nhẹ nhàng xuống giường, lấy chăn đắp lên người nó và lấy chiếc gối nhỏ xinh kê dưới đầu. Tôi săn sóc nhẹ nhàng như sợ nó tỉnh giấc ngủ. Trông căn phòng không có vẻ gì kinh hãi nữa. Chỉ có con tôi đang nằm ngủ kia thôi. Tôi đi tìm bà bạn và chúng tôi bàn việc làm ma cho con tôi như khi bàn đến một chuyện rất thường và giản-dị, một cuộc đi chơi xa. Tôi sửa soạn cho con tôi, tôi mặc cho nó bộ quần áo đẹp nhất. Bộ quần áo tôi yêu vì nó mặc rất xinh. Tôi hoàn thành công việc đó một cách âu yếm và bên tai như vẳng nghe thấy tiếng cười nói líu ríu buồn cười và vui vẻ của con tôi. Nó thường hay bướng bỉnh và dãy dụa không cho tôi mặc, nó vuốt má tôi, giật tóc và hai mẹ con tôi vui thú và sung-sướng. Nhưng lần này tôi mặc quần áo cho nó rất dễ dàng.
Tất cả ngày đưa đám hôm sau trôi qua êm ả trong tâm-hồn tôi. Tôi không nhớ rõ rệt những chi tiết về hôm đó và cũng không có gì đáng nhớ. Không một tình-cảm đau đớn và buồn rầu còn quấy rối tôi nữa. Tôi ngồi im lặng ngắm gian phòng tràn đầy ánh nắng. Tôi thấy có một việc gì đã xẩy ra nhưng đã xa tôi lắm. Thật là kỳ-lạ. Tôi có cảm tưởng là không có gì xẩy ra cả. Tôi ngồi thẳng người dậy và lần lượt lôi từng cái áo, cái quần trong hòm ra. Cái quần tím này rách đầu gối, chắc con tôi mắc vào đinh, cái thằng ấy nghịch gớm. Chốc tôi lại phải vá lại. Đấy cái áo trắng có lẽ bây giờ mặc không vừa, phải nới rộng ra mới được. Sau khi đã kiểm soát lại một lượt tất cả quần áo của con tôi, tôi gấp cẩn thận những bộ quần áo nó thường mặc để vào góc rương còn những bộ rách, tuột chỉ hoặc cần phải chữa lại tôi mang để vào thúng khâu. Tôi dọn dẹp nhà như thường lệ. Tôi rất vui vẻ. Tôi rất vừa lòng ngắm căn phòng sáng sủa sạch bụi.
Bây giờ tôi phải đi khâu. Có mấy cái áo quần nếu chữa nhanh thì con tôi mặc ngay được.
Hôm nay trời đẹp và nắng ấm áp. Tôi ngồi trên giường khâu cặm cụi. Có tiếng kẹt cửa, con tôi nghịch thật, nó chơi ngoài sân chắc, thỉnh thoảng lại mở cửa thò đầu vào xem đang làm gì. Nó lại muốn òa lên một cái để tôi giật mình.
Tuy không quay đầu lại, nhưng tôi biết là con tôi đang đứng sau lưng tôi và rình tôi. Tôi mắng:
- Đi ra chơi đi con. Mẹ còn đương bận khâu, mày nghịch bẩn thì liệu hồn.
Tôi nghe thấy tiếng cửa khép lại và bất giác mỉm cười. Nó lại chạy đi chơi đâu đấy. Nghịch cả ngày mà không chán. Tôi lại tiếp tục khâu mạng. Bỗng có người đặt tay lên vai, quay đầu lại, tôi nhận thấy bà bạn. Sao mặt bà xanh và có vẻ sợ hãi thế. Bà ta giọng cảm động:
- Bà đang làm gì đấy?
- Tôi mạng lại và vá những cái quần áo cho cháu.
Không hiểu tại sao mắt bà lại mở to như thế, hình như có điều gì khiến bà ngạc nhiên lắm. Bà ngồi xuống cạnh tôi và nói có vẻ ngượng ngập:
- Thế à? Nhưng bà vá quần áo cho cháu để làm gì cơ?
- Bà không thấy cháu đương chơi ngoài cửa à? Chắc nó lại chạy quanh đấy thôi.
Bà bạn nắm lấy tay tôi và rơm rớm nước mắt:
- Bà làm sao thế này? Trời ơi bà mê sảng rồi.
Để tay lên trán tôi bà kêu lên:
- Bà ốm đây này. Thôi bà đừng khâu nữa. Bà hãy đi nằm nghỉ đã.
Bà bạn dìu tôi lên giường, đặt tôi xuống và đắp chăn lên người. Bà đóng cửa chớp lại, nhưng tôi không bằng lòng. Tôi lấy cớ là đêm hôm không có gió mấy. Sao bà bạn có vẻ lo lắng cho tôi thế. Tôi có làm sao đâu chỉ rức đầu một chút thôi. Bà nói với tôi sẽ đi mời bác sĩ. Tôi bảo đừng đi vô ích, phí tiền thì bà đã mở cửa đi mất. Tôi nhắm nghiền mắt lại, trong người hơi mỏi mệt; tôi thiếp ngủ. Đương mơ mơ màng màng chưa tỉnh hẳn thì nghe tiếng chân người đi và tiếng nói trong phòng. Tôi tỉnh dậy thấy bà bạn và bác sĩ đứng bên giường. Tôi để bác sĩ khám. Trông bà bạn, tôi cũng biết bà lo lắng nhưng không dám lộ ra. Khám xong bác sĩ tiêm cho tôi và viết đơn. Bác sĩ đi rồi tôi hỏi bà:
- Chắc bệnh tôi không có gì. Mệt một chút qua loa. Bà có thấy cháu đâu không? Bà trông nó hộ tôi đừng để nó nghịch nhiều. Bà thật tử tế quá!
Tôi nhắm mắt lại, bà bạn tưởng tôi ngủ, tôi nghe thấy tiếng bà thở dài và khóc. Chắc bà lại buồn về gia đình. Tôi mở mắt hỏi:
- Bà làm sao thế?
Bà bạn tôi vội lau nước mắt và trả lời:
- Không! Tôi không sao cả. Bà cứ ngủ đi.
Chắc bà lại nghĩ đến con. Thật tội nghiệp. Nằm yên một lúc tôi vùng ngồi dậy:
- Tôi phải tìm con tôi mới được. Mãi không thấy nó vào đây với tôi. Nó mải chơi quanh nhà.
Bà bạn ép tôi nằm xuống, tôi bắt bà phải ra ngoài tìm con tôi xem nó đương làm gì tôi mới chịu nằm nghỉ. Bà bạn tôi theo lời và một lúc sau trở lại:
- Cháu vẫn chơi ngoan lắm bà ạ!
Bà định nói với tôi điều gì nhưng rồi lại thôi không dám nói. Tôi cũng không để ý.
Suốt trong hai ngày tôi vẫn như vậy; tôi không phân biệt được bây giờ tôi tỉnh hay mê nữa. Điều đó không quan trọng. Ban đầu có lúc tôi ngồi dậy và nói trong hàng giờ hình như đang nói chuyện với con tôi đứng hoặc ngồi bên cạnh. Có một điều lạ, suốt trong thời gian đó tôi vui vẻ và cười luôn. Tôi bắt bà bạn ngồi cạnh tôi để tôi nói về con tôi hàng giờ. Những thói tinh nghịch, những tính nết đặc biệt của con tôi. Tôi gần như không ngủ hoặc có thiếp đi thì lại tỉnh dậy ngay. Bà bạn rất lo lắng về bệnh của tôi. Mỗi ngày hai lần bác sĩ đến khám và tiêm. Chồng bà cũng đến thăm tôi hai lượt. Ông ta có vẻ buồn bã nhưng rất tử-tế và nhã nhặn. Bà bạn luôn luôn ở bên cạnh tôi. Bà săn sóc tôi chu đáo quá khiến có lần tôi ứa nước mắt vì cảm động.
Tôi ngồi nói chuyện lăng quăng với bà bạn. Tuy nói truyện nhưng có lúc tôi lơ đãng óc để đâu. Tôi không rõ bà bạn tôi nói gì và tôi cũng không trả lời. Tôi thấy trong người nóng ruột và thiếu một cái gì. Cũng như trong giấc mơ, tôi như chờ đợi một người nào và tôi cũng chợt nhận ra là tôi đang chờ đợi con tôi. Tôi sắp gặp và gần nó. Tôi chắc chắn là sẽ gặp nó; mai kia hay chỉ một lúc nữa thôi, cảm tưởng chờ đợi khiến tôi ngồi không yên, sự nóng ruột của tôi lộ ra ngoài mặt và cử chỉ làm bà bạn lạ lùng. Đến chiều hôm đó, tôi gọi bà bạn đến ngồi cạnh tôi. Giọng nói và vẻ mặt nghiêm trang của tôi khiến bà đoán là sắp có một điều gì hệ trọng xảy đến. Mặt bà xanh lại và tôi thấy bà hơi run run trái lại tôi rất vui vẻ.
- Bà ạ! Chúng ta sắp phải xa nhau rồi. Bà đứng khóc. Tôi không mê đâu, tôi rất tỉnh táo. Từ trước đến nay không có người bạn nào hiểu tôi và thân với tôi như bà. Tôi không bao giờ quên bà đâu. Bà đừng buồn nữa, bà đã khổ nhiều. Bà phải hứa với tôi một điều nếu bà yêu quý tôi: bà đừng bao giờ có tư tưởng dại dột. Ông nhà rất buồn, bà phải săn sóc đến ông luôn. Bà thử tưởng tượng sau khi mất đứa con yêu mến, ông lại sẽ phải sống một mình nữa hay sao? Bà hứa với tôi tôi mới yên lòng. Tôi thú thật với bà bây giờ tôi thấy trong người lạ lắm. Đầu óc tôi nhẹ nhàng vui vẻ. Không một điều lo lắng và bận bịu. Tôi sắp được gần con tôi. Tôi chờ mãi lúc đó, không có gì ngăn cản tôi đến gần chồng tôi cả. Trời ơi! Tôi không thể nói cho bà rõ tôi sung sướng đến mức nào. Tôi không nhớ tiếc một cái gì. Con yêu quý của tôi đang chờ và gọi tôi. Bà mang lại đây cho tôi tất cả những quần áo của con tôi và cả những đồ chơi nữa.
Tôi để tất những thứ đó trên chăn trước mặt tôi. Tôi vuốt ve âu yếm cái mũ xinh xinh nó thường đội. Bây giờ gặp tôi chắc nó mừng lắm. Tôi có rất nhiều chuyện nói với nó, với chồng tôi. Tôi nắm lấy tay bà bạn. Tôi nằm xuống nhắm mắt lại. Tôi thiếp đi như ngủ một giấc say.
*
Tôi vừa bừng thức giấc, nhưng sao tôi vẫn nức nở khóc và nước mắt chảy ràn rụa trên má. Tôi áp tay lên ngực và cảm thấy rõ rệt tim tôi dồn dập. Kinh hoảng đưa mắt nhìn quanh. Tôi không nhận thấy gì hết. Tôi như hiện ở một nơi tối đen. Đầu óc tôi rối loạn nhưng tôi vẫn linh cảm thấy một sự gì sắp đến, mạnh mẽ và kinh sợ. Tôi không thể hiểu cái đó ra sao, nhưng không thể cản được. Chợt những hình ảnh rõ rệt của giấc mơ hiện ra trước mắt tôi. Sự sợ hãi của tôi càng càng ngày tăng, tôi như sống lại giấc mơ:
“Tôi đương đứng trong căn nhà không có mái chỉ còn trơ mấy chiếc cột gạch; chung quanh căn nhà một làn khói dầy đặc bao phủ. Sau đám khói tôi không nhìn rõ là có những gì. Tôi như chờ đợi một người nào. Nhưng rồi cảm tưởng chờ đợi biến thành cảm tưởng sợ hãi.
Tôi vừa đánh mất một vật gì quan-trọng mà nếu không tìm thấy ngay, tôi không thể sống được. Bỗng nhiên xung quanh sủi lên như một hố vôi và lửa cháy bùng bùng. Tôi nhìn thấy con tôi ở ngoài kia đương giơ tay gọi tôi. Chợt tôi nhận ra vật vừa mất là con tôi. Sao tôi không thể cử động chân tay, tôi muốn kêu thực to nhưng ngực tôi như tắc thở. Tôi thấy nó biến đi và tôi có cảm tưởng là không bao giờ tôi có thể tìm được con tôi nữa. Tôi khóc nức nở và khóc mãi rất lâu. Bỗng tôi như ngã vào một vực thẳm!”
Tôi nằm trên giường, trời đã sáng soi tận chỗ tôi. Sau giấc mơ kinh khủng đầu óc tôi hoang mang. Tôi ngồi dậy thò tay ra đầu giường với chiếc áo ngoài. Tình cờ mắt tôi nhìn về góc phòng và người tôi run lên. Mắt tôi mở to hãi hùng. Tôi thấy đau đớn mãnh liệt, áp tay lên mặt tôi khóc, lồng ngực như vỡ ra. Trước mặt tôi, một chiếc rương quần áo mở rộng, ở trong lẫn lộn những quần áo trẻ con. Mấy chiếc mũ len, cạnh rương, mấy đôi giày con để ngổn ngang. Tôi đến cạnh rương quỳ phục xuống. Tôi gục đầu dang tay ôm tất cả những quần áo đó vào ngực.
Lần này sự đau khổ của tôi tàn ác hơn.
Tôi ngã gục trước một sức mạnh ghê gớm đang bóp nghẹt, nghiến nát tôi. Tôi nhớ lại dần dần tất cả những việc đã xảy ra. Tôi nói, tôi nhắc lại mãi một câu đứt đoạn vì tiếng nức nở:
- Con tôi chết rồi! Con tôi chết thật rồi!
Tôi úp mặt vào đống quần áo.
Tôi vò trong tay những quần áo mà trước kia con tôi mặc. Tôi ngửi thấy mùi thơm riêng biệt của con tôi. Bây giờ con tôi đâu?
Chợt tôi cảm thấy có người đứng gần tôi. Tôi ngửng mặt lên và thấy bà bạn. Sau lưng là chiếc khung cửa sổ mở rộng, ánh sáng trắng xóa lớp lớp tràn từ khoảng trời cao ngất xuống. Bà bạn thấy tôi khóc thì cau đôi lông mày đẹp đẽ của bà lại, mặt sa sầm xuống như trách móc tôi và lo lắng hộ tôi. Nhưng chợt bà tươi nét mặt như tìm thấy một sự gì nửa vui nửa buồn. Bà ngồi xuống cạnh tôi, đôi mắt êm dịu của bà yên lặng nhìn vào mắt tôi.
Tôi lấy làm lạ vì tự nhiên tâm hồn tôi mát rợi. Tôi nhìn bà bạn tôi và có cảm tưởng vừa bước ra khỏi một thế giới hỗn loạn và bước vào một thế giới yên lành. Gió từ phía sau thổi đến làm rung tà áo lụa của bà bạn tôi, làm tóc mai của bà lòa xòa trên má. Tôi mỉm cười, bà bạn tôi cũng mỉm cười. Bây giờ tôi mới hiểu rằng lúc nãy khi trông thấy tôi khóc, đầu gục xuống đống quần áo, bà bạn tôi sa sầm nét mặt vì bà tưởng tôi mê. Nhưng bà hiểu ngay rằng tôi khóc được là tôi đã tỉnh, nhưng tỉnh để đau đớn vì con chết, vì thế bà vừa mừng cho tôi lại vừa thương tôi và thương cả bà nữa, hai người mẹ cùng chung một đau khổ. Tôi ứa nước mắt khi nhìn lại đống quần áo của con tôi. Tôi cảm động nhận thấy vô tình, chúng tôi đều để tay lên đống quần áo, tay bà bạn dịu dàng đặt lên tay tôi. Tôi nói khẽ:
- Chị ạ, chị đã cứu sống em...
DUY LAM
(Nhà xuất bản Phượng Giang giữ độc quyền)
Văn Hóa Ngày Nay số 1 ngày 17-6-1958
Truyện dài
CÁI LƯỚI
Vào một ngày mùa đông năm 19…, ông bà Hạ dọn đến biệt thự Hoàng Hôn. Trong khi ông Hạ còn mải đốc thúc người nhà khuân hòm xiểng đựng quần áo và những đồ dùng lặt vặt vào nhà, bà Hạ một mình lẳng lặng dạo thăm một lượt tất cả các phòng.
Tuy đây là chiếc biệt thự xưa kia bà Hạ và các con thiết tha mong ước được làm chủ, nhưng mọi công việc trông nom xây cất điều đình với kiến trúc sư, đốc thúc thợ thuyền bà đã để mặc ông tự ý lo liệu. Nếu ông cố gặng:
“Mình đến ngó qua một chút! Thợ đương xây đến phòng khách… Mình có muốn xây một chiếc lò sưởi thật lớn hay không? Đà Lạt vào mùa rét lạnh lắm đấy!”
Bà chỉ lắc đầu, thờ ơ trả lời:
“Tùy mình quyết định!”
Tuy bận chỉ dẫn người nhà kê tạm những đồ đạc cồng kềnh, ông Hạ vẫn kín đáo theo dõi những cử chỉ hơi khác thường của vợ. Ông băn khoăn tự hỏi, lần đầu tiên bước chân đến biệt thự, bà Hạ nghĩ sao về cách kiến trúc, sự sắp đặt các phòng và trang hoàng bên trong? Tự nhiên ông e ngại bà sẽ không hài lòng. Tự bao giờ ông bắt đầu quan tâm đến ý kiến của vợ?
Sau một hồi hò hét các người làm, ông thấm mệt và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành rộng trong phòng khách.
Bà Hạ đang đứng trong căn phòng đáng nhẽ là phòng dành cho Di – đứa con trai thứ nhì của hai vợ chồng – quay lưng về phía ông. Cửa phòng mở, nên ông quan sát những hành động của vợ rất dễ dàng. Sau mấy phút trầm ngâm, vợ ông đặt một bức ảnh lên bàn – chắc vừa lấy ở va li ra – lùi lại mấy bước và ngây người ngắm nghía. Ngồi hơi xa nên ông khó nhận biết là ảnh ai.
Chợt bà Hạ đưa hai bàn tay lên ấp lấy mặt, hai vai rung nhẹ. Vợ ông khóc, ông đoán vậy, vì sống bên nhau bao nhiêu năm, ông không còn xa lạ gì lối khóc im lặng không một tiếng nức nở, đầy chịu đựng và nhẫn nhục của vợ.
Ông cảm thấy nửa như bực tức nóng nảy, nửa như lo lắng trước những cơn khóc lóc, rầu rĩ bất chợt của vợ trong những năm gần đây. Sức khoẻ của vợ ông cứ theo ngày tháng mà kém sút. Trước kia không hiểu sao ông có thành kiến vợ ông không bao giờ có thể ốm được. Từ khi lấy ông, đẻ con, qua thời kỳ gia đình tản cư và trở về Hà Nội sa sút đi, bà Hạ không lúc nào ngừng tay chân, làm lụng quần quật, xoay xở vay tiền, nhưng hiếm khi ốm.
Các con ông Hạ thường đùa me:
“Me không biết đau gì! Làm thế nào me ốm được nhỉ?”
Nhưng sau cái chết của Di, bà Hạ không còn được như xưa. Thân hình đẫy đà sút hẳn, làn da không còn trắng hồng, dáng đi chậm chạp nặng nề và đôi mắt to đã sâu lại sâu thêm.
Ông đứng dậy nhẹ nhàng lại gần vợ. Ông đến sát sau lưng mà bà không hay biết. Nhìn qua vai bà, ông nhận ra người trong ảnh là Di.
Chân ông đột nhiên trùn lại. Ông muốn lùi bước. Trong ngày theo ý ông, đầy vui vẻ và khoái hoạt này, ông không muốn nghe những lời trách móc và đối diện với khuôn mặt u tối của vợ.
Bà Hạ quay đầu lại, nhìn thấy ông. Trong một giây ngắn ngủi, ông Hạ bắt buộc phải nhìn thẳng vào cặp mắt đầy trách móc và oán hận chưa kịp che giấu của vợ.
Bà Hạ quay mặt đi lấy khăn lau nước mắt. Hai vợ chồng im lặng một phút. Đoạn ông đằng hắng, giọng nói làm ra vẻ cứng rắn, thản nhiên:
“Mấy cái thằng phu thật đổ đốn! Mình có thấy thiếu chiếc hòm nào không?”
Bà Hạ không đáp. Ông vội vã ra khỏi phòng không quay mặt lại.
Suốt trong ngày, ông tránh ngồi lâu một mình cạnh vợ. Ông tránh một trận cãi nhau giữa hai vợ chồng. Tâm tính vợ ông không còn giản dị như xưa. Bà có thể tức giận, gây chuyện với chồng gì những lý do không đâu. Một vài khi, những lời trách móc chua chát từ miệng bà Hạ thốt ra, khiến ông sửng sốt. Những nguyên nhân thầm kín nào đã biến chuyển tâm hồn vợ ông đến thế?
Sau bữa cơm tối, ông Hạ ngồi đọc sách, bà Hạ ngồi ở divan gần bên. Thói quen đọc sách từ bao năm nay ông không hề bỏ. Chiếc biệt thự rộng yên lặng lạ lùng. Tiếng các trang sách ông dở nghe rõ mồn một.
Một tham vọng nữa của ông Hạ đã thành sự thật: Ông hiện là chủ nhân một chiếc biệt thự lớn, đầy đủ tiện nghi. Ông không còn phải lo đến việc kiếm tiền. Hai vợ chồng có thể sống đến già mà vẫn giữ được một mức sống khá cao.
Nhưng, những căn phòng bày biện sang trọng và không người ở trong biệt thự làm giảm hẳn sự kiêu hãnh của ông. Các con ông đâu? Bên phải là phòng dành cho Tô – đứa con cả của ông bà – còn bên trái là những phòng của Lan và Di. Tại sao các con ông lại đã đều rời bỏ gia đình, cách này hay cách khác?
Bà Hạ đang mải mê đọc mấy bức thư mới nhận được. Chắc là thư của Tô và Lan. Một chiếc ảnh nhỏ lọt khỏi mấy tờ thư, rơi xuống đất. Bà cúi xuống nhặt lên và ngắm rất lâu. Bà mỉm cười, nụ cười hiền dịu âu yếm đầu tiên trong ngày xuất hiện trên mặt bà. Bà Hạ hình như có chuyện muốn nói với ông. Ông chờ đợi, mắt không rời khỏi trang sách. Nhưng bầu không khí yên lặng trong phòng vẫn tiếp tục kéo dài.
Ông giận dữ dỡ mạnh liền mấy trang sách và ho khan mấy tiếng, như muốn nhắc nhở là ông đang ngồi đây. Tại sao vợ ông không nói một lời nào? Thà rằng hai vợ chồng cãi nhau còn hơn ngồi bên nhau mà xa cách hàng vạn dậm, mỗi người theo đuổi một sự suy tưởng riêng biệt. Vợ ông không có quyền giữ riêng những thư của các con, đọc một mình. Chúng cũng là con ông, sao bà lại quên điều đo?
Nhưng suy đi nghĩ lại ông thấy thầm trách vợ như vậy cũng có phần bất công. Thư chúng ông đọc làm chi; khi mà ông còn nhất định cấm cửa chúng, không cho phép trở về với gia đình.
Đêm đã khuya. Ông bà Hạ sửa soạn đi ngủ. Bà loay hoay mặc chiếc áo ngủ bằng hàng bông điểm những cành hoa nhỏ, cắt theo lối âu phương, cổ áo viền đăng”ten xanh nhạt. Chiếc áo này và một chiếc khác mầu hồng nhạt đều đã cũ, nhưng đi đâu bà cũng mang theo và nếu không mặc lên người thời khó mà ngủ yên giấc.
Chính tay Lan đã vẽ kiểu và may những áo ngủ đó cho mẹ. Hồi công việc doanh thương của ông thua lỗ, cả gia đình phải sống chen chúc trong một căn nhà nhỏ hẹp không tối nào Lan không chui vào giường mẹ, nằm trò chuyện cho đến khi ông xem sách xong và kỳ kèo mẹ phải mặc chiếc áo ngủ hơi kỳ khôi cho bằng được. Lan viện cớ:
“Me mặc áo ngủ con may trông quý phái lắm. Trông mặt me chung quanh tóc lõa xõa con thú ghê.”
Lan thường trò chuyện với hai anh là nó muốn luôn luôn được ngắm khuôn mặt thanh tú của mẹ nổi bật trên gối trắng và màu hồng xanh nhã nhặn của áo ngủ. Mới đây ông đã có lần càu nhàu:
“Sao mình không vứt mấy cái áo ngủ rách nát đó đi. Dễ thường tôi không đủ tiền may cho mình áo mới hay sao?”
Bà đáp ngay, giọng hơi sẵng:
“Mình để mặc tôi…!”
… Và rồi lẩm bẩm một mình:
“Áo mới mua dễ, nhưng ai mua được con gái.”
Ông Hạ cứng họng không biết đáp ra sao.
Ông Hạ mang sách vào giường đọc thêm. Ánh đèn không làm bà khó ngủ. Hồi mới lấy nhau vợ ông chỉ ngủ dễ dàng trong bóng tối hoàn toàn, nhưng nể chồng nên cũng đã phải tập ngủ dưới ánh đèn sáng cho quen. Bây giờ trái lại nếu không có ánh đèn nhẹ, bà lại hay mê hoảng.
Bà Hạ giở tập ảnh gia đình ra xem một lúc đoạn thiếp ngủ lúc nào không biết.
Ông đặt sách xuống đùi, nhặt mấy chiếc ảnh vợ bỏ rơi xuống ngực, định cất vào ngăn kéo bàn ngủ, nhưng rồi không hiểu sao vẫn giữ chúng trên tay ngắm nghía rất lâu. Đó là những bức ảnh chụp các con hai ông bà qua nhiều thời ký: Hồi chúng còn nhỏ, khi đến tuổi bắt đầu lớn và cả những bức chụp mới đây khi chúng đã trưởng thành.
Hình như ông nghe thấy vài tiếng động nhỏ ở đâu đây: Có lẽ là những tiếng cười ròn rã của con trẻ, tiếng cười đùa văng vẳng, lẫn lộn với những tiếng khóc thút thít thật dễ thương.
Ông lắc đầu mạnh và tỉnh hẳn. Óc tưởng tượng vừa đánh lừa ông: Đấy chỉ là một giấc mơ.
Thực tại trần trụi khiến ông choáng váng: Chỉ có ông và vợ sống lủi thủi trong toà biệt này, hai vợ chồng già và cô độc.
Dầu ông muốn hay không, tất cả những kỷ niệm xưa cũ, hoặc không xa lắm trong thời gian lại vụt trở về, tràn ngập tâm hồn ông. Ông thở dài, hạ cặp kính lão xuống, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng trời tối đen ngoài khung cửa sổ. Dĩ vãng! Ông không sợ đối diện với dĩ vãng, nhưng ông đâu ngờ dĩ vãng lại có thể khiến ông xúc động đến thế.
Giai đoạn đầy rẫy những thay đổi quan trọng và đau thương của gia đình ông Hạ bắt đầu ngay sau khi hai vợ chồng ông và các con hồi cư về Hà Nội vào năm 194…
Hồi V.M. đảo chính, nắm chính quyền, hai đứa con trai ông – Di và Tô cũng tham sự những đoàn thể thanh niên và cũng sống ồ ạt, sôi nổi không khác những đứa trẻ cùng tuổi. Công việc làm ăn khó khăn buổi giao thời không cho phép ông Hạ có thời giờ chăm sóc con cái về mặt giáo dục cũng như tinh thần.
Chiến tranh bùng nổ. Gia đình ông bà Hạ tản cư về quê nội cách Hà Nội khoảng gần 20 cây số. Sau gần hai năm trời di chuyển từ vùng này sang vùng khác, số tiền dự trữ cạn hết. Hai vợ chồng cũng không tìm nổi cách gì để kiếm sống nuôi một gia đình năm miệng ăn.
Tuy ông từ trước đến nay, không hề tham dự trực tiếp hay gián tiếp vào một phong trào hay đảng phái chính trị nào, nhưng vì mấy người anh ruột của bà Hạ đều là những cấp lãnh đạo trong V.N.Q.D.Đ., nên các ủy ban kháng chiến tại làng ông bà cư ngụ vẫn ngấm ngầm theo dõi để mắt tới mọi hoạt động dù nhỏ nhặt nhất của gia đình ông Hạ. Gia đình ông bà luôn luôn sống trong sự lo ngại phập phồng và không dám ở lâu tại một làng nào nhất định.
Cho đến ngày, ông bà Hạ rồn rập tiếp được những tin tức đen tối, người anh thứ hai của bà vừa bị V.M. bắt đem đi, anh cả – một công chức cao cấp trong chính phủ hồi Pháp thuộc cũng như hồi V.M. – cũng bị ngầm mang đi an trí và giam lỏng, còn người vợ và đứa con trai cả của anh Bằng vừa bị V.M. bắt giam cách đây mấy ngày; hai vợ chồng sau một đêm bàn bạc suy tính, đành phải quyết định tìm cách trở về thành càng sớm càng hay.
Về Hà Nội nhà xuất bản trước kia ông Hạ hùn vốn và đồng thời làm quản lý bị đốt cháy tan tành. Người chủ chết trong cuộc chiến tranh. Tạm thời ông Hạ phải nhẫn nhục làm thư ký cho một hãng buôn ngoại quốc để chờ thời cơ. Cả gia đình chỉ còn trông cậy vào số lương quá ít ỏi của ông để sống. Đang quen với một mức sống vật chất tương đối sung túc, những sự túng thiếu không thể tránh được trong thời kỳ này ảnh hưởng đến tâm tính ông không ít.
Tuy ông cũng cố hết sức xoay xở tìm lối thoát, nhưng vốn không có, bạn hữu cũ đều thất lạc, ông đành bó tay. Làm một thư ký quèn, nhiều khi ông Hạ tưởng điên lên vì phải chịu lụy những kẻ trước kia chỉ đáng làm công cho ông.
Càng cảm thấy bất lực trong việc kinh doanh xây dựng lại sự nghiệp, ông càng trở nên gay gắt và khe khắt hơn đối với gia đình. Hễ đi làm về là ông gắt gỏng, hậm hực với tất cả mọi người – không kể một ai.
Ông Hạ luôn luôn lấy sự nghèo khổ ra làm đầu đề, phóng đại nó lên. Ông cũng cố ý hạ mình xuống để làm nổi bật sự nhục nhã chung của gia đình.
Tuy thừa biết vợ con rất sợ phải nghe những lời lẽ thô tục, mai mỉa độc ác của ông, nhưng hễ cứ ngồi nung nấu những tư tưởng đen tối và chua chát, chỉ một lúc sau chính sự bất mãn của ông làm ông say lên và ông bật nói rất lớn. Tuy nhiên ông vẫn còn đủ bình tĩnh để chọn lựa những câu nói cay đắng và thấm thía nhất.
“Tôi nói cho mà biết! Chưa ăn thua gì đâu. Bây giờ còn miếng cơm mà ăn là phúc lắm. Tôi thì tôi quen rồi. Từ bé tôi đã hiểu thế nào là thân phận một kẻ nghèo hèn. Nhưng nói đến đời tôi làm gì, tôi đâu có đáng kể… Sinh ra chỉ làm đầy tớ và lo lắng nuôi sống mọi người. Phải! Có ai lo đến kiếm ăn bao giờ đâu mà biết cuộc sống chật vật ra sao. Sinh ra đã được chiều chuộng, nưng như nưng trứng hứng như hứng hoa. Đã có người lo việc tiền nong… Hà! Tiền! tiền đâu mang lại hạnh phúc. Đúng lắm! Đẹp lắm! Cao thượng lắm! Chỉ đời sống tinh thần mới đáng kể. Giá tôi có hơi chút mắng mỏ đe nẹt, các ông con của tôi đã cho tôi là ác nghiệt độc tài…”
“Mà thôi nói làm gì nhiều vô ích. Có ai thèm nghe tôi đâu. Đành vậy, số tôi còn phải khổ nhiều. Nhỡ một cái tôi chết đi. Chết có lẽ lại may, đỡ phải lo kiếm tiền…”
Ông lấy cớ nhà không đủ tiền nuôi người ở, bắt các con phải làm đủ mọi việc. Ông cũng hay nhắc đến dự định trong tương lai cắt ngang mọi việc học hành của các con và bắt chúng đi làm sớm hầu giúp đỡ gia đình. Ông nêu ngay đời ông làm thí dụ.
“Học nhiều mà làm gì. Có bao nhiêu vĩ nhân lúc trẻ con nhà nghèo khổ nên phải làm những nghề hà tiện làm bồi, bán báo… Tao đây cũng thế! Tao có bằng cấp gì đâu, sao ra đời ai cũng kính nể. Học như con vẹt, nhồi vào đầu óc toàn lý thuyết chỉ làm mụ người đi và đảm óc phấn đấu.”
Ông không quên kể lại, lần này là lần thứ mấy mươi, quãng đời thơ ấu vất vả của ông. Để nêu gương khắc khổ, ông không hề nhếch miệng cười, bỏ hẳn sự ham mê mua và đọc sách báo. Những ngày lễ và chủ nhật ông cũng nhất định không đi đâu và cũng không tìm những cách giải trí không mấy tốn tiền như uống trà, sưu tầm tem thư hay hội họp với một số bạn đồng sở nói chuyện gẫu cho khuây khoả.
Vào năm ấy, những người buôn bán rau cỏ, thực phẩm tập họp tại bờ hồ Hoàn Kiến, ngay cạnh ngã tư Tràng Tiền, làm thành một cái chộ lộ thiên ở ngay trung tâm thành phố. Chẳng biết vợ con ông bàn nhau ra sao, nhờ vớ được mấy bao tải lá vối và một số sách cũ, tại mấy căn nhà bỏ hoang cùng phố, Di đột nhiên trở thành một chú bé bán nước và sách ở chợ.
Các bà các cô bạn hàng dần dần quen với khuôn mặt trắng trẻo, đẹp trai của “cậu hàng nước”. Tính hay ngượng, Di có một lối bán hàng rất kỳ khôi. Suốt buổi chợ, Di ngồi chúi mũi vào một cuốn sách, không mảy may quan tâm đến việc bán hàng. Có khách muốn uống nước, Di miễn cưỡng múc nước chè ra bát, mắt vẫn không rời trang sách. Ai muốn trả bao nhiêu thì trả, Di không hé miệng kì kèo.
Đôi khi, mấy bà mau mắn không muốn làm phiền Di, tự tiện lật bát, múc nước, đặt tiền trả trên giá hàng, Di cũng mặc. Tiền lãi kiếm được cũng tạm đủ để bà Hạ mua thêm ít món ăn cho bữa cơm gia đình bớt phần đạm bạc.
“Cậu hàng nước tài tử thường là đầu đề cho những câu chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, của bà Hạ và các con. Riêng ông Hạ, ông bất mãn ra mặt trước thái độ coi việc buôn bán như một trò chơi của vợ con.
Khi số lá vối dự trữ cạn hết, ông Hạ đã tưởng câu chuyện buôn bán của vợ con chấm dứt luôn ở đây; thời đến một hôm, trong bữa cơm, Tô tự nhiên đề nghị:
“Ba! Me và con định bắt đầu đi buôn kể từ ngày mai.”
Ông ngạc nhiên, cau mày nghiêm khắc nhìn Tô và vợ. Bà Hạ mà định đi buôn?
“Me mày thì buôn cái gì. Từ bé đến giờ ăn sung mặc sướng, buôn bán chịu đâu nổi cực nhọc. Mà…bây giờ buôn cái quái gì lời lãi cho được. Vốn đào ở đâu?”
Tô đỡ lời mẹ:
“Me đã vay được ít tiền vốn và dự định buôn rau cỏ, gạo, gà vịt ở vùng quê mang về Hà Nội bán. Mấy bà ở chợ nói rau quả hiếm, nên bán rất được giá.”
Ông vặn hỏi:
“Đã xin được giấy phép chưa? Có mối bán không…”
Trước những câu trả lời gẫy gọn, đâu ra đấy của vợ và Tô, ông Hạ cảm thấy cay đắng, bực bội và thầm suy luận “À ra thế! Vợ con ông định buôn bán vì cho rằng ông không kiếm đủ ăn cho gia đình. Tại sao vợ ông không chịu đem bàn trước với ông. Vợ ông không còn tin tưởng vào ông?”
Ông im lặng ăn. Ông biết mọi người đang hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông nhưng ông kéo dài giây phút chờ đợi. Ông cảm thấy đầy sức mạnh. Tuy vậy, ông không phản đối và cũng không nổi giận, ngửng đầu thản nhiên bảo:
“Được nếu mình đã tính toán kĩ càng hơn thiệt, mình cứ việc đi buôn. Càng hay! Tô chút nữa mang giấy tờ ra đây, ba viết cho lá đơn xin giấy phép thông hành.”
Tất cả mọi người đều sửng sốt chưng hửng. Riêng Tô, sau giây phút ngạc nhiên ban đầu, yên lặng nhìn ông dò hỏi, ánh mắt thoáng nghi ngờ.
Không ai hiểu được sự ưng thuận của ông Hạ có ẩn dấu một chủ ý thâm hiểm như thế nào.
Trong mấy tháng đầu việc buôn bán của bà Hạ có vẻ phát đạt rõ rệt. Ông Hạ là người ngạc nhiên hơn ai hết. Vợ ông thạo buôn bán? Ông tưởng vợ ông chỉ có thể là một người vợ, người mẹ kiểu mẫu. Ông tự hỏi tại sao vợ không bỡ ngỡ, lầm lỡ khi phải tiếp xúc giao dịch với những con buôn quỷ quyệt.
Ông xin nghỉ việc một hôm, đi theo vợ xem buôn bán ra sao. Đi đâu ông cũng thấy vợ được mọi người vì nể một cách đặc biệt. Đứng giữa đám người buôn bán chuyên nghiệp, vợ ông và Tôi nổi bật hẳn lên. Khuôn mặt thanh tú của bà Hạ, thân hình giong giỏng cao hai bàn tay ngón dài chưa bao giờ phải dùng tới để khuân vác của Tô, khiến mọi người lưu ý bàn bạc. Họ kháo nhau, phỏng đoán thêu dệt rất nhiều chuyện về bà Hạ. Nào bà là con nhà gia thế, trước chiến tranh rất giàu, tản cư về gia sản khánh kiệt nên phải buôn bán nuôi con v.v…
Họ quan sát bà, tò mò nhưng rộng lượng. Họ cười khi thấy bà vụng về hớ hênh trong việc mặc cả, thương lượng. Họ chỉ dẫn cho bà những mánh lới của các con buôn thiếu lương tâm. Dần dần, bà Hạ cũng tìm được một số mối hàng quen.
Khi lên tàu xuống tàu, ông Hạ lưu ý thấy rất nhiều người không nề hà giúp bà bốc hàng lên hoặc rỡ xuống. Vợ ông chỉ biết cám ơn họ bằng những nụ cười. Họ tỏ vẻ hài lòng ra mặt.
Một buổi tối, bà Hạ và Tô đi buôn về, mọi người thấy mặt Tô đầy những vết tím và trán xưng lên. Trong bữa cơm ông hỏi tại sao, Tô đáp ngay:
“Bị ngã tàu đấy!”
Bà Hạ tủm tỉm cười, liếc nhìn đứa con cả. Ông nghi ngờ vặn hỏi:
“Mình! Có thật nó ngã tàu không? Me con mày dấu tao chuyện gì đây.”
Lan sờ sờ cái bướu trên trán anh, ngây thơ:
“Ngã tàu thời phải gãy chân tay chứ đâu sưng trán.”
Ông gắt:
“Tô! hay ai đánh mày? Nói cho tao biết để tao còn liệu can thiệp chứ!”
“Mình đừng mắng Tô! Nó bênh cô Khanh nên bị thằng đội Tây ở đồn đánh cho đấy!”
Khanh là tên một cô bạn buôn bán của bà Hạ, goá chồng nhưng còn trẻ và xinh đẹp nên hay bị tên đội Tây theo đuổi tán tỉnh. Ông Hạ vừa bực mình vừa cười thầm Tô trong bụng: Máu con ông cũng nóng và bướng bỉnh, lại hay quyến luyến gái đẹp chẳng khác gì ông hồi trẻ.
Ông mỉa:
“Anh hùng nhỉ? Gặp thằng hung dữ, có phen nó đánh cho què cũng chẳng biết kêu ở đâu. Thời này ấy mà.”
Vẻ mặt Tô xầm tối, nhưng nó vẫn lầm lì không cãi lý với cha.
Công việc buôn bán nặng nhọc, sức chịu đựng của bà Hạ cũng có hạn. Bà xanh và gầy trông thấy. Tuy vậy vợ con ông Hạ vẫn nhất định đeo đuổi buôn bán.
Mấy tháng sau, số người đi buôn tăng lên, mối lời ít. Những con buôn khôn ngoan dần dần chuyển sang buôn đồ lậu: Thuốc tây, dầu hoả. Bà Hạ một phần không đủ vốn, một phần không có gan kiếm lời một cách nguy hiểm, nên tuy việc buôn bán rau quả chưa đến nỗi thua lỗ, ăn lạm vào số vốn, nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu:
Một buổi tối ông Hạ bảo vợ và Tô:
“Trước đây tôi ưng thuận để mình buôn bán là cốt ý để mình quen với đời sống chật vật. Tôi cũng thừa biết lời lãi không mấy, chẳng bỏ công. Đã đến lúc mình nghỉ ở nhà đi thì vừa. Dạo này tàu hoả hay bị giựt mìn. Nhỡ một cái rồi ra hối không kịp.”
Bà cúi đầu im lặng, khuôn mặt hốc hác thoáng vẻ thấy vọng, buồn rầu. Ông Hạ đoán vợ chắc cũng đã nhiều lần cân nhắc, suy tính nên bỏ hay tiếp tục buôn bán.
Còn đương lưỡng lự chưa quyết hẳn bề nào, thời mấy ngày sau một tai nạn xảy đến cho bà Hạ, khiến bà đành nghỉ hẳn ở nhà. Tàu hoả bị giật mìn và bà bị thương ở chân.
Khi Tô về báo tin xấu, ông hốt hoảng hỏi:
“Có nặng không? Me bị thương ở đâu?”
Tô vội đáp:
“Không sao đâu ba ạ! Me được đưa ngay đến nhà thương và bác sĩ có nói với con chân me chỉ phải bó bột và nằm dưỡng bệnh vài tuần là khỏi.”
Yên tâm và biết chắc vết thương không trầm trọng mấy, nên suốt thời gian cùng Tô đi đến nhà thương, thái độ ông Hạ nghiêm khắc và lạnh lùng.
Tô đi bên ông lặng lẽ. Cách đó hai, ba hôm, Tô đã cãi lại ông:
“Ba luôn kêu ca nhà thiếu tiền và muốn các con đi làm. Đi buôn dù không lãi nhiều nhưng cũng giúp được gia đình phần nào. Tại sao ba không chịu? Theo ý con, cứ tiếp tục đi buôn cho đến khi hoàn toàn không lãi nữa mới thôi.”
Ông Hạ cũng tự biết, vì đã tỏ ra coi thường sự cản ngăn của ông nên vào giây phút này con trai ông đành câm miệng hến. Ông cũng không cần lên tiếng trách móc, hoặc mỉa mai cay độc. Cái chân bị thương của chính bà Hạ chắc cũng đủ dạy cho Tô một bài học cụ thể và đích đáng.
Vừa bước chân vào phòng vợ ông nằm ở nhà thương, bà ã vội nói ngay, giọng e dè và ngượng ngập:
“Tôi không sao đâu, mình đừng lo. Chỉ phải nằm đây ít lâu.”
Ông yên lặng. Vợ ông thu hết can đảm tiếp:
“Mình…! Tôi xin mình đừng mắng Tô tội nghiệp. Tại tôi ham mấy món lời. Và…cũng chính tôi xui nó cãi lại mình. Vả lại… Tôi vừa nhất định sẽ thôi đi buôn, sau khi ra nhà thương… Ông đáp ngắn ngủi:
“Thế cũng phải! Dạo này mình gầy đi nhiều. Lãi chẳng thấy đâu, đã thấy ốm với què.”
Bà Hạ thở dài. Cặp mắt đầy thương xót hướng về phía Tô, đang đứng tựa vào thành cửa sổ nhìn ra ngoài trời, quay lưng về phía hai vợ chồng ông bà Hạ.
Sau khi bà Hạ rời nhà thương về nhà, không ai bảo ai, bà và các con đều tránh không đề cập tới chuyện làm ăn buôn bán.
Việc chi tiêu trong gia đình từ đó trở đi hoàn toàn ông Hạ nắm giữ. Vợ ông không dám phản đối. Tô và Di, dù muốn hay không, cũng vẫn phải tuân theo những quyết định độc đoán của ông về mọi vấn đề. Trong khi chờ đợi ông kiếm cho chúng mỗi đứa một việc làm thích hợp, ông cho chúng theo học một trường trung học công lập. Tuy vậy thỉnh thoảng ông cũng không quên nhắc nhở chúng đừng quên đó chỉ là một đặc ân. Ông sẽ bắt chúng thôi học ngay, nếu chúng dám cãi lại, hoặc chống đối với ông.
Ông Hạ vẫn ngày hai buổi đi làm và nhẫn nhục chờ thời.
Năm năm qua. Ông Hạ xin được một chỗ làm tại một công sở. Số lương cũng tạm đủ cho sự chi dùng của gia đình. Tô và Di thay đổi hẳn. Chúng đã vượt qua tuổi thiếu niên đầy phức tạp và bắt đầu bước chân vào quãng đời thanh niên. Lan càng lớn càng xinh đẹp và giống mẹ hồi trẻ.
Hai đứa con trai ông Hạ càng lớn, ông càng chua chát nhận thấy những thay đổi trong tâm tính chúng không hợp với sự mong muốn của ông chút nào.
Riêng Di, chỉ trong có mấy năm nó đã gây cho ông bao nhiêu buồn phiền thất vọng. Di không sợ và kiêng nể ông như hồi còn nhỏ. Di không hề giấu diếm che đậy lòng oán ghét bố của hắn. Hắn không để lỡ bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ bằng hành động, lời nói: Hắn phủ nhận trọn vẹn quan niệm sống của ông Hạ. Làm thế nào để uốn nắn Di. Đánh hay chửi mắng? Không lẽ Di đã 17, 18 tuổi cao lồng ngồng mà ông còn đánh nó như một đứa trẻ.
Ngay từ hồi nhỏ, Di cũng đã tỏ ra có một tâm hồn rất dễ xúc cảm và một óc tưởng tượng quá phong phú. Rất dễ khóc và cũng rất dễ cười. Vì không muốn con trai tâm tính ủy mị và đàn bà nên ông Hạ hay mắng – “Con trai gì động tí thì khóc. Mày sinh ra làm con gái đúng hơn”. “Khóc! Khóc mà kiếm được cơm ăn à? Hồi tao bằng tuổi mày tao đã kiếm được tiền rồi”.
Về thể chất, Di giống mẹ nhiều hơn là bố: Đôi mắt sáng to, lông mi dài và cong, nét mặt đầy đặn và đường môi thanh tú, làn tóc mềm sõa trên trán rộng. Các bà rất ưa Di, hay nưng niu và cho quà. Thấy Di được nuông chiều quá đáng, ông bất mãn. Ông không trách vợ, đàn bà nào chẳng chiều con, nhưng ông đổ nỗi bực bội vào đầu Di: “Con trai sao cứ quấn lấy mẹ! Phải cứng rắng mạnh bạo chứ”.
Di sợ những hành động mạnh và có tính cách áp chế. Nó hình như không thể nào hiểu nổi tại sao trẻ con lại thích hợp thành bè phái, bắt nạt và đánh nhau. Tô hay phải bênh vực Di chống lại những đứa trẻ không ưa giáng dấp như con gái của em. Khi Tô một mình đánh nhau với hai ba đứa trẻ, Di đứng ngẩn người, mắt mở to đầy ngạc nhiên và cũng không hề nghĩ đến chuyện tiếp tay với anh.
Về nhà, bà Hạ lấy cồn soa bóp những vết xưng trên trán và tay chân Tô, Di còn hỏi những câu thật chướng tai, “Tại sao chúng lại đánh anh Tô hở me? Tại sao trẻ con thích đánh nhau? Di kinh lắm! không bao giờ Di đánh ai đâu me ạ!”Trước thái độ ông cho là hèn nhát của Di, ông Hạ quát lên: “Sao mày hèn thế? Chúng nó xúm lại đánh anh mày mà mày để mặc à? Tay chân mày để đâu…? Hừ! Nhớn lên thằng Tô cho làm quan võ được. Còn thằng Di? bộ mày suốt đời chắc chỉ quanh quẩn xó nhà bám váy me. À! Hay đi đóng tuồng giả làm con gái được đấy”.
Di sợ những lời chế giễu cay độc của bố hơn cả bị đánh mắng. Bà Hạ lắm khi thấy ông cứ nhắm vào đứa con thứ nhì làm tình làm tội, lên tiếng bênh: “Sao mình ác thế! Mình không biết nó khổ sở khi mình mang nó ra làm trò cười hay sao? Di hãy còn bé. Nhớn lên nó khác đi chứ”. Ông đáp tàn nhẫn “Phải thế mới được. Bé không vin, cả gẫy ngành. Nếu hành hạ nó mà nó khá lên được thời cũng rất nên”. Vợ ông im lặng không cãi, nhưng ông biết bà hầm không đồng ý với lối răn dạy con cái khe khắt của ông. Vợ ông đồng ý không thực ra ông Hạ cũng chẳng quan tâm.
Càng nhớn Di càng ít nói và không ưa những trò chơi mạnh. Khi Tô 12 tuổi, ông Hạ mua cho một chiếc xe đạp. Hễ nhàn rỗi, Tô nhảy lên xe đạp đi thật xa. Mới đầy, Tô còn chịu khó rủ em, nhưng sau nhiều lần thúc dục, thấy Di tỏ vẻ không thích thú những cuộc đi chơi ngoài những khoảng rộng, Tô đành đi một mình.
Di ham mê đọc sách từ nhỏ. Sách ông Hạ mua rất nhiều đủ mọi loại. Ngoài những sách viết cho trẻ con đọc, còn có những tiểu thuyết của các nhà văn hữu danh V.N. và sách dịch? Mặc dầu cấm các con đọc sách của người lớn, nhưng ông biết Di luôn luôn lấy sách cấm ra đọc. Mắng mãi cũng không chừa.
Di còn cố ý tránh dàn mặt với bố. Trừ trong những bữa ăn Di bắt buộc phải đối diện với ông Hạ, còn vào những khoảng thời gian khác trong ngày, Di tìm đủ mọi cách để có thể ngồi yên trong một xó kín đáo nào đó trong nhà, đọc sách và mơ mộng một mình.
Di tin tưởng vào Tkhông và coi như một người kiểu mẫu. Di cố gắng dập mọi hành động, suy luận ý hệt anh, một cố gắng không mấy khi đạt được kết quả. Mỗi khi ông Hạ mắng Di mà Di không tìm được đủ lý lẽ đối đáp, Di nhìn Tô cầu cứu. Ông Hạ bắt gặp nhiều lần hai anh em nghiêm trang ngồi bên nhau, Tô giảng giải, Di lắng nghe. Dần dần thái độ của Di cũng có vẻ cứng rắng mạnh bạo hơn trước phần nào.
Thấy Di có thể dựa vào Tô, bà Hạ cũng lấy làm mừng. Yêu con nhưng không dám bênh con ra mặt vì nể chồng, nhiều lần bà chỉ còn biết than thở với con cái, sau khi chồng rời khỏi nhà.
Ông Hạ cũng hay bắt gặp ba mẹ con Di, Tô thủ thỉ chuyện trò. Đôi mắt sáng lên thương yêu mến phục của vợ ông không rời khuôn mặt linh động của Tô. Hễ thấy ông, ba mẹ con tự động ngừng câu chuyện nói dở, trao đổi những cái nhìn kín đáo, hoặc lảng sang một vấn đề khác.
Sau khi nghĩ buôn bán, gia đình ông bà Hạ bắt đầu nợ. Vợ ông vay chỗ này một ít chỗ kia một ít, không cho ai hay biết, kể cá các con. Tiền chợ và chi tiêu lặt vặt ông giao cho bà quá ít – bà Hạ lại không phải hạng người có thể khoanh tay bất lực trước những kham khổ, thiếu thốn của những người thân.
Nếu ông biết vợ vay lãi ngay từ đầu, chắc ông đã có thể hoặc dùng uy quyền hoặc doạ nạt để ngăn cản. Nhưng thực ra ông đâu có thời giờ và tâm trí để theo dõi mọi hành động của vợ. Nhưng tình cảm hậm hực, bi quan đã chiếm hết tâm óc ông, ám ảnh ông ngày đêm.
Bà Hạ nay sắm món đồ này, mai sửa chữa món đồ khác, mua thêm thức ăn, chăm chút cho chồng và các con. Những món nợ chồng chất mãi lên nhau. Hàng tháng, bà Hạ chỉ vay nổi tiền trả nợ lãi, còn số nợ gốc tăng vùn vụt một cách đáng sợ.
Đến hôm chủ nhà đến tận nhà đòi và làm ầm lên, ông Hạ và các con mới khám phá ra bà nợ nhiều đến mức nào. Và từ đó trở đi chuyện nợ nần chẳng khác lửa được đổ thêm dầu, gây ra bao nhiêu cuộc cãi cọ, tranh luận giữa ông Hạ và vợ con.
Sau một thời kỳ trên bề mặt tương đối yên tĩnh, sóng gió lại xáo động cuộc sống của gia đình.
Vào một buổi sáng chủ nhật, cả gia đình ông Hạ đều ở nhà, một người khách đàn bà đến hỏi bà Hạ. Vừa trông thấy mặt bà ta, khuôn mặt bà Hạ tái nhợt nhạt. Bà vội chạy ra tiếp khách, dáng điệu lúng túng.
Bà Hạ thì thầm với bà khách những gì không hiểu, nhưng sau vài câu trao đổi, bà ta lộ vẻ tức giận, cất cao giọng nói không kiêng nể một ai:
“Thế bà nhất định không chịu trả? Bà còn khất đến bao giờ nữa? Tôi nể lắm mới gia hạn cho bà đến buổi nay, chứ người khác thì tôi đã lôi ra cẩm rồi.”
Bà Hạ bối rối nho nhỏ:
“Chết! Tôi xin bà. Bà nói khe khẽ thôi chứ…! Vâng, tôi sẽ cố…”
Người chủ nợ đứng phắt dậy, hai tay chống cạnh sườn, nhìn tất cả mọi người trông nhà một lượt, giọng thách thức:
“Tôi không việc gì phải nói khẽ. Tôi đến đây đòi nợ chứ không phải để xin tiền bà.”
Quan sát thái độ của vợ, ngay phút đầu ông Hạ đã nghi nghi, bây giờ mới vỡ lẽ: bà này là chủ nợ của vợ ông. Bà Hạ quay đầu nhìn chồng rất nhanh, khuôn mặt sợ hãi trông thật đáng thương.
Bà nắm tay người chủ nợ, nói liều:
“Vâng! Bà cứ về đi: đến sáng mai tôi sẽ đem đến trả bà…”
Người chủ nợ giật tay ra giận dữ:
“Tôi không đi đâu hết. Tôi sẽ ngồi lì đây đến hồi nào bà chạy được tiền trả tôi cả gốc lẫn lãi… Tôi tin vào lời hứa của bà để tôi chết đói rã họng ra ấy à. Hừ! Hứa với hẹn, khất ba lần bẩy lượt rồi chứ phải không đâu.”
Tô đứng dậy lại gần me, trán nói cau nhẹ, mắt nhìn người chủ nợ đầy khinh bỉ. Tô hỏi thẳng mẹ:
“Cái gì thế me? Có thật me nợ bà này một số tiền?”
Bà Hạ nghẹn ngào không nói lên lời, chỉ khẽ gật đầu.
“Bao nhiêu hở me?”
Bà Hạ yếu ớt đáp:
“Hơn bốn vạn!”
Ông Hạ vùng đứng dậy như ngồi phải lửa. Thế này thì quá lắm! Lỗi lầm của vợ ông không thể tha thứ được. Tại sao vợ ông dám tự ý vay một món tiền lớn đến như vậy? Chắc hẳn vay tiền để các con được ăn sung mặc sướng.
Nhưng nhìn khuôn mặt rắn như sành và đanh đá của người chủ nợ, sự thận trọng cố hữu của ông ghìm cơn nóng giận của ông lại. Ông phải thật khôn khéo và dò hỏi xem vợ có làm giấy tờ gì không. Nếu bị tù vì nợ, danh dự của ông, của gia đình còn gì?
Tô ngạc nhiên hỏi mẹ:
“Bốn vạn! Sao me không nói cho con biết? Mà mấy món nợ bà Bốn, bà Chi con đã đưa tiền me trả đầy đủ cơ mà?”
Người chủ nợ giơ tay lên sỉa vào mặt bà Hạ, giọng chua ngoa và đe doạ:
“Gớm thật! Bà có tiền mà bà không chịu trả tôi. Bà định ăn quịt phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi. Con mẹ này không phải tay vừa…”
Tô quay phắt lại nhìn thẳng vào mặt người chủ nợ, giận dữ.
“Tôi xin bà im ngay! Tôi đang nói chuyện với me tôi. Mà bà không cần phải nhiều lời. Chúng tôi không phải hạng người quen quịt nợ. Rồi bà sẽ được trả đầy đủ.”
Người chủ nợ vừa hé miệng định làm dữ, Tô đã tiến lên một bước, giọng cả quyết và đe doạ:
“Nếu bà mà nói thêm một câu thiếu lịch sự, tôi bắt buộc phải mời bà ra khỏi nhà. Đây là nhà chúng tôi. Nợ bà chúng tôi sẽ trả nhưng bà không có quyền làm ồn ào.”
Thấy tình thế có vẻ gay go, ông Hạ vội lại gần người chủ nợ, cười rất xã giao:
“Mời bà vào trong này ngồi chơi. Xin bà yên tâm! Tuy tôi không được biết rõ về chuyện nợ nần của nhà tôi nhưng rồi tôi xin lo liệu. Tôi là chủ gia đình, có gì tôi xin chịu trách nhiệm…”
Người chủ nợ còn lưỡng lự, ông vội thêm một câu:
“Chúng ta là người lớn cả! Đâu mỗi lúc mang nhau ra trước pháp luật. Gia dĩ, chắc khi cho nhà tôi vay tiền bà cũng quên một điều là vợ các công chức không có quyền vay nợ, nếu không được chồng cho phép.”
Biết gặp người thông thạo pháp luật, dù có làm ầm cũng không chắc đi đến đâu, người chủ nợ theo ông vào trong nhà. Ông khôn khéo hỏi cặn kẽ về món nợ của vợ nợ gốc hiện lên đến bao nhiêu, những điều kiện trả lãi và giấy tờ làm bằng chứng.
Sau gần một giờ đồng hồ điều đình, người chủ nợ ra về.
Không khí trong gia đình trở nên nặng nề khó thở, ngay sau khi người chủ nợ rời khỏi nhà. Bà Hạ ngồi cúi đầu gầm ra vẻ chăm chú khâu. Tô thì thầm trò chuyện với me. Bà lẳng lặng nghe, đôi mắt xâu chớp chớp, thỉnh thoảng lại thở dài. Nhưng tiếng thở dài não ruột của bà Hạ càng khiến ông, điên ruột. Di, từ lúc người chủ nợ bước chân vào nhà làm ầm ĩ và lăng nhục mẹ, vẫn ngồi bất động ở bàn học, khuôn mặt nó nhăn nhúm, cánh mũi phập phồng, đôi lông mày rậm nhíu vào nhau.
Ông Hạ mặt hầm hầm, đi đi lại lại trong nhà. Ông thầm nghĩ: “Được lắm! Thường lệ vợ con đoàn kết thành một phe để bênh vực lẫn nhau. Lần này thử xem còn ai bênh vực nổi ai nữa hay không”.
Ông lật đi lật lại chuyện vay nợ trong đầu, nhìn vấn đề dưới đủ mọi khía cạnh, cố tìm một lối thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng này của gia đình. Ông cũng không quên một sự kiện hiển nhiên: Vợ ông đã vay một món tiền lớn và đã lại dại dột làm giấy tờ hẳn hoi. Ông đã viện lý lẽ vợ một công chức không có quyền vay mượn tiền không có sự ưng thuận của người chồng để làm kế hoãn binh. Nhưng ông đã phải hứa sẽ trả thành nhiều tháng, vì biết nếu người chủ nợ nhất định kiện vợ ông trước toà, tên ông sẽ bị trưng lên mặt báo. Được toà xử vô can thì không sao nhưng nếu chẳng may bị tù tội…? Ông sẽ không còn hi vọng gây dựng lại sự nghiệp một khi danh dự mang một vết nhơ khó rửa.
“Bốn vạn bạc”. Với số tiền lương của ông dù trả thành nhiều tháng, đến bao giờ mới dứt món nợ. Mà chắc đâu vợ ông chỉ nợ có món đó. Chắc chắn còn vài món nợ khác vợ ông hãy còn dấu ông.
Suốt mấy năm hễ ông dự định làm gì là y như gặp khó khăn. Chưa bao giờ vận ông đen đến thế? Nhiều khi ông đâm nghi ngờ cả tài năng soay sở kinh doanh của ông. Nếu thực ông là người có bản lĩnh tại sao lại gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Thoạt đầu ông còn có thể đổ cho vận đen, nhưng dần dần lòng tự tin của ông bị lung lay đến tận cội rễ. Ông tự hỏi “Đen một hai lần chứ đâu có thể đen cả chục lần”. Hay có lẽ ông đã hết thời và bắt đầu già rồi?
Ông Hạ kéo một chiếc ghế, ngồi phịch xuống. Ông giang tay gạt mạnh. Mấy chồng sách, cốc chén văng xuống đất vỡ nát. Tiếng thủy tinh vỡ làm tất cả mọi người ngửng đầu quay mặt về phía ông.
Ông bắt đầu nói, giọng như quát. Càng nói cơn giận của ông càng bừng lên.
Ông hỏi vợ:
“Thế nào! Bây giờ bà nói ra làm sao? Tôi sẵn sàng giỏng tai lên nghe…! Bà vay tiền làm gì mà nhiều đến thế? Mà tại sao bà lại dám dấu tôi…? Bà tưởng bà vay nợ thời không liên can gì đến tôi phải không? Bà nhầm to! Nếu bà không trả nổi, con mẹ chủ nợ mang bà ra toà thì rồi chính tôi, bà nghe rõ chưa, chính tôi sẽ bị trừ lương hàng tháng cho đến khi nào hết hạn nợ…”
Trước những câu hỏi dồn dập bà Hạ không biết trả lời ra sao. Tô bênh me:
“Ba hỏi từ từ, chứ ba quát lên me trả lời sao kịp.”
Ông quắc mắt:
“Tao không nói chuyện với mày! Để mặc me mày trả lời…”
Bị dồn đến bước đường cùng, bà Hạ cũng đâm liều.
“Tôi vay để tiêu cho gia đình… Để mua thêm cái ăn cái uống cho ông cho các con… Để may thêm quần áo cho chúng và mua sách vở chúng cần dùng… Lâu ngày nợ gốc không trả được, lãi chồng lên nhau mới nhiều đến thế.”
“À! … Thế bây giờ người ta không còn coi tôi ra cái thớ gì nữa! Tôi ngồi đây để làm gì? Tôi là phỗng đá hả? Dính đến chuyện nợ nần gỡ ra đâu dễ! Vào tù như chơi. Trời ơi! Vợ với con. Tại sao bà không cho tôi biết từ đầu? Tại sao?”
Câu trả lời của vợ càng khiến ông tức giận thêm, mất hẳn bình tĩnh và tự chủ.
“Nói với ông chẳng ích gì! Ông lại la hét mà rồi con cái đói rách vẫn đói rách…’
“Bà cấm tôi la hét phải không? Từ bao giờ bà cho rằng tôi không đủ sức nuôi gia đình? Bà phải nhớ tôi la hét là có lợi cho bà. Tôi lo lắng kiếm tiền vì ai? Cho tôi à? Dễ thường trong gia đình này chỉ có tôi ăn, tôi tiêu, tôi phung phí tiền bạc… Phải chỉ có tôi ăn báo hại, báo cô…”
Tô bất mãn, ngắt lời bố:
“Ba nói hơi quá! Me chúng con đâu ăn báo hại lúc nào cũng tìm cách kiếm thêm tiền đỡ ba đấy chứ! Me chẳng đi buôn là gì?”
“Đi buôn! Mày đừng nhắc đến chuyện đi buôn nữa mà tao lộn ruột. Suýt nữa què một cẳng, mà lãi đâu? Lãi đâu?”
“Cứ cho là không lãi đi, nhưng ba cũng phải công nhận là me đã làm hết sức rồi…”
“Tôi không cầu ai làm hết sức! Tôi chỉ mong mọi người để tôi yên. Đừng phá tôi, đừng làm nhục tôi, đừng đưa tôi đến cảnh tù tội! Nợ đến hàng chục vạn trả đến kiếp nào mới hết!”
Quay về phía vợ, ông hỏi mỉa:
“Bà tưởng tôi là con trâu kéo cày trả nợ cho bà phải không?”
Bà Hạ tự nhiên ôm lấy đầu, mắt nhắm lại, nước da tái xanh miệng kêu lên:
“Sao tôi chóng mặt thế này…?”
Tô đỡ me nằm xuống giường. Lan chạy vội lấy nước và mấy viên thuốc cảm.
Ông còn cố nói với:
“Sao lại vác cái lo lắng vào người. Vay nợ phải suy tính trước sau chứ…?”
Hình như bị động lực mãnh liệt thúc đẩy, Di vùng đứng lên mặt nhăn nhó, ánh mắt oán ghét. Giọng nói run rẩy:
“Sao ba không thôi đi! Ba nói thế chưa hả hay sao? Ba không thấy me ốm nặng mà còn hành hạ me?”
Ông Hạ hơi ngạc nhiên, nhìn Di. Thằng này điên hả? Dám hỗn cả với bố nó. Ai hành hạ gì me nó? Ông chưa kịp mắng Di, nó đã rảo bước ra khỏi phòng, không quay đầu lại.
Bà Hạ ốm dai dẳng hơn một tuần lễ. Căn bệnh của bà không rõ rệt, không hẳn ra cảm sốt, cũng chẳng phải là cúm. Người bà cứ rạc đi, mắt trũng sâu, không ăn không ngủ được. Mặc các con thúc dục, bà cũng không chịu đi khám bác sĩ và thoái thác: “Me khó chịu soàng thôi mà. Mai khỏi!”
Ban ngày bà tránh nói chuyện với chồng. Đêm đến nằm cạnh ông, bà hay trở mình vật vã, chốc chốc lại thở dài.
Trước đây trong đời sống vợ chồng, những lúc nằm trò chuyện trước khi ngủ là giây phút tương đối gần gũi và thân mật giữa ông bà Hạ.
Muốn biết điều gì về các con ông có thể hỏi vợ và nếu bà muốn bênh vực tranh đấu cho các con thời cũng lợi dụng được mỗi thời gian đó nêu các vấn đề gay go lên mà không e ngại ông gắt và mắng lấp đi.
Dạo này, mặc dầu ông cố ý gợi chuyện, bà cũng chỉ trả lời cho qua, đoạn nằm vắt lên trán mắt nhắm lại giả vờ ngủ. Ông hơi bực mình trước thái độ cách biệt đó của vợ. Vợ ông không có quyền giữ những mối lo âu riêng cho mình. Ông muốn vợ phải hỏi ý kiến, nương tựa vào ông, bám víu vào ông, trong mọi trường hợp.
Cả đêm ông Hạ nghi ngờ tự hỏi: Hay có lẽ vợ ông không còn tin cậy trông mong vào ông như xưa? Vợ ông cũng như các con, cho rằng ông là một người bất đắc chí, hết thời mà vẫn cứ tưởng mình tài giỏi.
Lần đầu tiên trong đời ông hiểu thế nào là cô độc.
Đêm này qua đêm khác vợ chồng ông nằm cạnh nhau, chia cách bởi một bức tường thành vô hình và cùng cảm thấy bất lực như nhau trước số mệnh.
Ông có thể chịu đựng cô độc, nhưng cảm thấy mình bất lực thật là một cực hình ghê khiếp.
Trong thời kỳ bà Hạ ốm đau và dưỡng bệnh, ông nhượng bộ không hề đả động đến nợ nần. Ông kiên nhẫn đợi đến khi vợ hỏi hẳn bệnh. Tuy ông đã giao hẹn với người chủ nợ, hàng tháng sẽ thân hành mang tiền đến tận nhà, nhưng không hiểu tại sao ông lại không cho vợ hay biết sự thoả thuận đó giữa ông và chủ nợ. Hễ có tiếng gõ cửa vợ ông lại giật mình, khuôn mặt nhợt nhạt, nằm trên giường thân hình bất động và chờ đợi…
Hôm vợ gần khỏi, ông Hạ mới kể vắn tắt công chuyện nợ nần đã được giải quyết cách nào. Bà Hạ ngồi yên, đầu cúi, không hé miệng nói một câu.
Ông Hạ tưởng với tư cách một người chủ gia đình, cố gắng thu xếp như thế là hết, không thể chê trách được. Thế mà ông linh cảm hình như các con – nhất là Di và Lan – lại còn đổ hết lỗi cho ông: Lỗi tại ông nên bà Hạ nợ nhiều đến thế, lỗi tại ông nên bà Hạ ốm đau. Sự vô ơn của các con làm ông Hạ thâm gan tím mật. Chúng đã không hiểu ông, tại sao ông còn tỏ ra rộng lượng làm chi?
Khi vợ ông khỏi hẳn và bắt đầu ăn trả bữa, ông lại mang chuyện nợ nần ra nói. Gia đình đã túng thiếu, mỗi tháng lại phải trích 2.000$ tiền lương để trả nợ, nên các sự chi tiêu lại càng phải dè sẻn hơn. Ngay đến thuốc lá rẻ tiền ông Hạ nhiều lúc cũng không đủ tiền mua. Các món ăn quá thanh đạm ông nuốt không nổi. Thời tiết mùa nực khiến nhà biến thành một cái hòm lớn. Hà tiện tiền điện đến nỗi có cái quạt máy cũ ông cũng không dám bật lên. Ăn không được, ngủ không được, ông gầy đi và ngày càng khó tính và khe khắt.
Đêm đến trằn trọc trở mình đi trở mình lại, giấc ngủ vẫn không đến: Ông Hạ dằn vặt vợ, nói những câu mỉa mai như róc thịt. Nằm nghe hoài những lời trách của bố, Di đang đêm đùng đùng dậy mặc quần áo, mở cửa đi đâu không biết, mặc dầu ông Hạ đe.
“Muốn chết hả! Nhà binh đang thiết quân luật, đi lớ quớ lính tuần bắn chết mất xác.”
Những ngày đen tối của gia đình ông Hạ tiếp tục trôi qua. Vợ ông ngày nào cũng phải nghe những lời trách móc dai dẳng của ông, nên tâm tính thay đổi hẳn. Trước kia bà tươi tắn hay cười nói, duyên dáng không ai gặp mà không ưa mến; bây giờ ít nói, ra vào như một cái bóng, lúc nào cũng ngẩn ngơ như người bị một ác mộng ám ảnh. Nhiều lúc bà ngồi thừ người hàng giờ đồng hồ. Đôi khi ông còn bắt gặp vợ khóc một mình.
Trong câu chuyện với các con, dần dà bà Hạ đưa ra những lý luận lời lẽ hơi kỳ lạ.
Bà nhận hết lỗi về phần mình. Lỗi với chồng vì không biết thu va thu vén, tiết kiệm mọi chi tiêu để đến nỗi sợ như chúa chổm, vì buôn bán vụng về không kiếm thêm được tiền nuôi con ăn học đâu ra đấy; vì không khéo léo hoà giải mỗi người trong gia đình nên không lấp được vực sâu oán hận thù ghét nhau giữa chồng và các con.
Bà lại còn bênh chồng “Trước kia ba đâu có thế! Tại me cả! Các con cứ trách me đây này!”Bà còn nhắc lại hồi mới cưới nhau và có con, ông đã chứng tỏ là một người chồng người cha kiểu mẫu thương mến vợ con như thế nào. Các con bà ngạc nhiên, bỡ ngỡ. Không biết chúng có tìm ra nguyên nhân thầm kín đã khiến mẹ chúng thay đổi thái độ hay không, nhưng nể và yêu mẹ, chúng bảo nhau tạm thời tránh đề cập tới những sự “độc ác”của bố. Chúng còn cố gắng tìm đủ mọi cách giúp mẹ quên đi một phần nào cảnh buồn của gia đình. Chúng khôi hài và làm ra vẻ coi nhẹ chuyện nợ nần. Nghe những câu khôi hài của các con, bà Hạ cũng chiều chúng cười đấy, nhưng rồi sau đó buồn và lo lắng hơn.
Về phần ông Hạ, ông không chịu nổi sự khôi hài cười cợt giả tạo và không đúng chỗ đó của các con. Ông cho thế là hèn nhát và trốn tránh thực tại. Nghe chúng bông đùa về chuyện quần áo mỗi người đều cũ và mạng tứ tung, thiếu tiền ăn sáng phải ăn cơm nguội. Di đi học phải lê một đôi giày há mõm, Tô không bao giờ có đến chục bạc trong túi v.v… Ông lộn cả ruột gan muốn tát cho mỗi đứa một cái – như hồi chúng còn nhỏ – để làm chúng tỉnh ngộ. Chúng không biết thế nào là nhục nhã hay sao mà còn cười.
Chiều đến, và các con thích bác chõng ra hiên trước nhà hứng gió và chuyện trò mơ tưởng những chuyện cao xa, tưởng tượng ra những thú vui mọi người sẽ được hưởng nếu có nhiều tiền. Bà Hạ mơ xây được một biệt thự ở Đà Lạt có đầy đủ phòng cho cả gia đình, hoặc hè đến rồi rào tiền nong cho các con ra bể tắm, nghỉ ngơi. Bà còn gợi lại những kỷ niệm êm đẹp của thời con gái sống trong một gia đình khá giả.
Ngồi bó gối lẻ loi trong nhà, xa cách hẳn vợ con, ông Hạ nhiều lần tưởng chừng đang nghe một lũ người điên hay dở người trò chuyện. Mơ mộng hão huyền hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Tuy ông Hạ soay sở tìm được mấy chỗ làm cho Tô, giúp đỡ một ông bạn thầu khoán của ông trông nom các tù binh tại một công trường, hay làm bồi cho một sĩ quan Pháp, nhưng hễ ông đưa đề nghị nào ra, vợ ông – thường lệ vẫn phục tòng ông – đều khăng khăng phản đối “Thà để các con chết đói còn hơn làm đầy tớ cho người ngoại quốc”. “Trông nom phu phen thường có kham khổ may ra. Tô còn kham nổi, nhưng đốc thúc tù binh phải đánh đập họ dã man lắm. Vả lại, nếu các bác thằng Tô một ngày kia trở về biết chuyện, tôi còn mặt mũi nào…”
Cho vợ chỉ là đàn bà câu nệ, ông hỏi thẳng ý kiến Tô. Tô nín lặng. Khuyên nhủ nhẹ nhàng, mắng mỏ, Tô lơ đãng miễn cưỡng nghe. Tô đợi khi ông hết lời, buông độc một câu ngắn ngủi “Con chịu thôi. Con không thể làm vừa lòng ba”, ông nản lòng, đành bỏ cuộc. Nhưng, ông đâu ngờ Tô đã ngầm đến gặp ông bạn của bố, nhận một chân phu đốc công trại một công trường bên kia Gia Lâm, trông nom phu mộ ở mấy làng kế cận. Trong mấy tháng liền, Tô xin nghỉ học để “dưỡng bệnh”, đạp chiếc xe cọc cạch qua cần sông cái, làm việc suốt ngày ngoài nắng đến tối mịt mới trở về, ông Hạ cũng không hay biết mảy may.
Mãi đến hôm Tô hỏi me trước mặt người chủ nợ “Con đã đưa tiền me góp trả đầy đủ các món nợ bà Chi, bà Bốn rồi cơ mà…” ông mới nghi ngờ, và sau đó tra hỏi Tô:
“Mày góp tiền trả nợ hộ me? Mày lấy tiền ở đâu?”
“Con giúp bác Phú trông nom phu bên Gia Lâm, mỗi tháng bác trả 1.200$.”
“Sao mày không cho tao biết?”
Tô nhún vai thản nhiên đáp:
“Cho ba biết thì làm sao góp được tiền trả nợ cho me.”
Ông Hạ thầm nghĩ “À ra vậy! Nó đi làm cốt để trả nợ cho me, không phải vì bị mình bó buộc”.
“Hiện thời mày còn làm với bác Phú không?”
“Không! Con xin thôi ngay sau khi trả xong hai món nợ cho me.”
Đôi mắt long lanh sáng của Tô soi mói nhìn bố. Tôi tiếp luôn, miệng thoáng một nụ cười chua chát, khinh thị:
“Chắc ba muốn con đi làm chứ gì? Đáng tiếc, bác Phú đã tìm người thay chỗ con mất rồi. Tuy nhiên nếu ba muốn, còn cái chân bồi hay bếp gì đó ba nói đến dạo trước, còn trống hay không? Kể ra, làm bồi cho một sĩ quan Pháp vào thời này cũng vinh dự cho cha mẹ lắm đấy chứ? Con cũng chỉ bắt chước óc thực tế của ba thuở nhỏ, đâu có gì xấu phải không ba?”
Bất giác ông vung tay tát Tô một chiếc. Tô đưa tay lên xoa má, vẻ mặt đanh lại. Hắn nhìn chăm chăm vào mặt bố, môi mím chặt, những thớ thịt hai bên hàm nổi hẳn lên. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được, gượng gạo nói:
“Xin lỗi ba!”
Tuy miệng xin lỗi, khuôn mặt Tô lại thoáng một vẻ kiêu hãnh khác lạ. Thật trái ngược, ông Hạ cảm thấy trong hai người kẻ thua trận bị lăng nhục lại là ông.
Tô ra khỏi phòng, ông Hạ vẫn ngồi trầm ngâm.
Về phần Di, Di đi về thất thường, nhiều tối không ngủ nhà. Di vẫn đi học nhưng hắn không mấy quan tâm đến bài vở thi cử. Thông minh thứ hạng điểm số của Di luôn luôn dưới mức trung bình. Ông Hạ mắng, Di cúi đầu nghe, vẻ mặt thờ ơ, chịu đựng – một sự thờ ơ còn khiêu khích và hỗn xược gấp trăm nghìn lần những câu phản đối cãi hướng.
Tệ hơn nữa, Di hình như còn định tâm gây ra nhiều chuyện rắc rối cho gia đình, và dĩ nhiên cho chính bản thân nó.
Đầu tiên là chuyện Di gây sự và cãi bướng với một người đội cảnh sát Tây.
Hôm đó ông Hạ đi làm về chưa kịp thay quần áo thời có tiếng gõ cửa. Một người cảnh sát Việt, đứng tuổi, tóc và bộ râu ghi đông cuốc điểm bạc, khuôn mặt vuông hiền lành, bước vào nhà hỏi:
“Đây có phải nhà cậu Di? Xin lỗi ông! Tôi chắc ông là ba cậu Di, vậy xin mời ông lên cẩm làm giấy bảo đảm và đón cậu ấy về…”
Ông hỏi Di bị bắt về tội gì, ông ta cười đáp:
“Cậu ấy đi xe không phanh lại đi trái đường. Ông đội Tây ra lệnh cho tôi bắt cậu ta vào bóp hỏi giấy tờ. Ông đội hỏi tên tuổi giấy tờ cậu ấy chẳng buồn cho biết lại còn cãi bướng “Tôi không có giấy tờ. Tôi không có nhà. Hỏi gì mà lắm thế!” Bị ông đội tát cho mấy chiếc cậu Di trừng mắt lên mắng “Đồ thực dân!” May mà ông đội không biết tiếng Việt. Rồi cậu ấy bảo tôi “Cụ làm ơn dẫn tôi đến phòng giam. Tôi không trả lời đâu”.
Ông ta cười tha thứ, lắc lắc cái đầu:
“Con trai thời này bướng thật! Tù cũng chẳng sợ!”
Ông Hạ cám ơn ông đã bênh vực cho Di. Ông đáp giản dị:
“Đâu có gì! Chẳng là tôi cũng có một thằng con trai tính nết bướng bỉnh chẳng khác gì cậu Di… Nó bị đạn lạc chết hồi Tây Ta đánh nhau trong thành phố…”
Ông thở dài nhỏ nhẹ khuyên ông Hạ:
“Tôi không muốn xen vào chuyện dạy dỗ con trẻ của ông, nhưng có lẽ ông nên răn dạy cậu Di bớt ngang tàng một chút. Nhỡ ra bị nghi là Việt Minh rồi tù tội thì khổ.”
Ông Hạ sượng sùng không biết đáp ra sao. Nếu trả lời người cha yêu con đó “ông cứ bỏ tủ nó đi cho nó sáng mắt ra”, chẳng hoá ông thú nhận không những không dạy nổi con cái mà còn phải nhờ pháp luật trừng phạt để thoả lòng oán ghét của ông.
Sau khi ông Hạ giở hết tài ngoại giao ra xin lỗi viên đội Tây, Di được tha. Di lẳng lặng theo ông về nhà không hề lộ vẻ biết ơn. Về đến nhà ông mắng, Di đáp gọn lỏn:
“Ba đến đón con làm gì cho mất công. Cứ để mặc con bị giam ở bóp có hơn không. Con đâu có sợ! Hay ba tiếc trăm bạc nộp phạt…?”
Ông nổi giận cổ nghẹn tức chưa kịp phản ứng, Di thọc xâu hai tay vào túi, cánh môi trề xuống, buông một câu:
“Mà xin xỏ cái thằng đội Tây đó làm gì! Trông cái mặt thực dân của nó, con chỉ muốn tát chuyện cho mấy cái rồi muốn ra sao thì ra…”
Bà Hạ ngồi gần đó, hốt hoảng nhổm dậy níu chặt lấy cánh tay chồng. Ông gạt vợ ra quăng cái gối xuống đất, giọng đầy khinh bỉ:
Bà không cần phải can. Đánh đứa con bất hiếu vô ơn này làm gì cho bẩn tay. Di! Mày đi đâu thì đi cho rảnh mắt tao…”
Di không nói nửa lời, lầm lũi ra khỏi nhà.
Tô từ đầu đến cuối vẫn ngồi im lặng quan sát bố và Di không can thiệp.
Tối đến ông Hạ trằn trọc mãi không ngủ được. Ông nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi miên man. Xưa nay trong vẫn ghét thậm tệ những tình trạng tranh tối tranh sáng.
Trong một khoảng thời gian ngắn ông đã đánh đập hai đứa con trai. Từ khi chúng bắt đầu lớn và hiểu biết, nhiều khi ông quát mắng chúng, nhưng chưa lần nào phải dùng đến chân tay. Đánh chúng là phải hay trái? Ông có thể tự bào chữa: Chúng hỗn láo và xúc phạm đến ông, đánh là đáng lắm. Nhưng một câu hỏi quái ác vẫn lởn vởn trong trí óc ông. Ông đã khổ công nuôi dạy chúng đến khi khôn lớn, tại sao chúng lại trả ơn bằng khinh bỉ oán ghét, hoặc thờ ơ cách biệt? Dĩ nhiên đôi khi ông cũng đã tỏ ra quá khe khắt và hành hạ chúng đôi chút, nhưng cũng vì bị thúc đẩy bởi thiện ý muốn chúng nên người, đầy đủ bản lĩnh đối chọi với đời. Ông đâu có sống chỉ vì đồng tiền. Sở dĩ ông say mê với tham vọng làm giàu là khổ vì đồng tiền quá nhiều trong thời thơ ấu và tuổi thiếu niên, ông không muốn vợ con ông nhục nhã trong cảnh nợ nần nghèo túng. Các con và kể cả vợ ông không chịu hiểu cho ông điều đó. Mà thực ra có ai chịu tìm hiểu tâm sự thầm kín của ông đâu?
“Vợ và các con ông không chịu tìm hiểu ông!”Tất cả những chuyện rắc rối trong gia đình đều phát xuất từ đấy mà ra. Đã vậy, tại sao ông không giải thích cho họ hiểu? Các con ông lớn rồi, óc phán đoán cũng đủ vững vàng để phân biệt phải, trái. Gặp cơ hội thuận tiện ông sẽ giải thích cho cả gia đình hiểu tâm sự của ông.
Sau hôm bị bố đánh, Di bỏ nhà đi dâu ba, bốn hôm không về. Ông Hạ vịn vào sự vắng mặt của Di, hoãn ít lâu ý định giải thích cùng mọi người trong gia đình. Thực ra ông cũng chưa quyết định hẳn; hễ định mở miệng thổ lộ những tư tưởng thầm kín là y như có một sức mạnh vô hình chặn họng ông. Sau năm hôm vắng mặt Di trở về nhà. Suốt trong bữa cơm chiều ông Hạ trò chuyện với vợ, Lan và Tô làm ra vẻ không lưu tâm đến sự có mặt của Di. Cơm nước xong xuôi ông ngồi ở bàn và tiếp tục câu chuyện dở dang với vợ. Khi ông cố gắng giảng giải là món nợ bốn vạn của bà sẽ trả xong trong năm tới, Di ngồi ở cạnh đó tự nhiên cười khảy một tiếng và nói khá to:
“Tiền! Lúc nào cũng kêu ca thiếu tiền…”
Ông Hạ quắc mắt, giọng đanh lại:
“Thế thì sao?”
Vợ ông lo lắng nhìn ông và Di. Giọng của Di ngầm mang một ý nghĩ thách thức. Tô thấy câu chuyện có vẻ gay go chêm vào, giọng khôi hài:
“Thì kiếm thêm chứ sao phải không me?”
Di mím môi ngồi không yên, dáng mặt nóng nảy. Ông Hạ gay gắt:
“Tôi xin nói để mọi người hiểu là để mặc tôi lo liệu! Hay có ông con nào muốn kiếm tiền thay tôi? Hừ còn là mệt mới thay nổi thằng bố già này…”
Di buông sõng một câu:
“Thật không! Ba cứ làm như kiếm tiền khó lắm…”
“Thưa ông không khó đâu, nhưng cái mẽ ông đi làm phu chưa chắc ai mướn…”
“Nếu ba cần tiền đến thế thì tiền đây!”
…
Mọi người hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông Hạ. Ông hơi ngạc nhiên nhìn tập giấy bạc rồi lại nhìn Di. Chẳng lẽ Di thay đổi chóng thế, hết mơ mộng viễn vông và đã chịu khó kiếm việc làm giúp gia đình? Nếu vậy thì hay lắm! Ông sẽ cầm tiền, khen Di mấy câu và tiện thể hoà giải với tất cả mọi người trong gia đình. Đây là cơ hội ông không bỏ qua…
Nếu Tô không khéo can thiệp kịp thời, chắc ông Hạ đã vứt tiền vào mặt Di và đánh Di mấy cái tát. Di tưởng ông không đủ thông minh để hiểu ý nghĩa hành động hỗn sược của nó. Di cho rằng kiếm được một món tiền đưa cho ông, nó đã có quyền khinh bỉ sự tha thiết đồng tiền của bố. Di muốn làm nhục ông trước mặt mọi người.
Khi thấy mặt bố cau lại và rút mạnh tay về, Tô thản nhiên cầm số tiền lên, miệng tươi cười.
“À! Nhà phải ăn khao cái đã! Đây là tiền Di đi làm buổi tối đây mà. Con giao cho me làm một bữa cơm gà vịt ăn cho sướng mồm.”
Di nhìn ông một lần nữa.
Mấy ngày sau tình cờ nghe hai anh em Di, Tô chuyện trò với nhau ông Hạ có dịp biết thêm ít điều mới lạ và khá bất ngờ về ý nghĩ của các con trai ông về chính ông.
Trưa hôm đó sau bữa cơm, ông nằm ngủ ở giường phòng ngoài. Đêm đến ông thường trằn trọc khó ngủ, nên giấc ngủ trưa tuy ngắn ngủi thường vẫn giúp ông lấy sức khá hiệu quả. Ngủ mê mệt được một lúc, ông Hạ chợt tỉnh giấc. Ông không ngồi hẳn dậy, nằm mơ màng, vì đoán chưa đến giờ đi làm. Tiếng Di và Tô rì rầm nói chuyện ở đâu đây. Chúng ngồi ở chiếc bàn phía trong. Ông không nhìn thấy chúng, một chiếc màn ngăn chia chỗ ông nằm và nửa phòng phía trong.
Thoạt đầu ông không lưu ý đến câu chuyện giữa Tô, Di nhưng sau thấy thoáng nghe thấy những tiếng “ba”ông đoán chúng đang nói đến ông. Ông lắng tai nghe. Chắc chúng tưởng ông ngủ say sưa như thường lệ, nên bàn tán không giữ gìn.
Tiếng Tô hỏi Di vẳng đến tai ông Hạ:
“Suỵt! Ba còn ngủ đấy chứ?”
Ông nhắm mắt lại vờ ngủ, cố giữ hơi thở đều đặn. Di vạch màn nhìn sang chỗ bố nằm
Di trả lời ngay:
“Ba ngủ say lắm!”
Chúng tiếp tục câu chuyện dở dang.
Tiếng Tô nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
“Tại sao hôm đưa tiền cho ba, Di có vẻ hằn học thế?”
“Em đâu muốn vậy! Mà nếu thật ra em đã có thái độ hằn học, em cũng chẳng cần.”
Giọng Tô châm biếm:
“‘Di đâu có muốn hằn học!’. Di không đùa đấy chứ? Tại sao không thú thật đó là một thái độ cố ý!”
“Anh rắc rối lắm! Em đã bảo em cóc cần mà! Mà tại sao em không có quyền hằn học, nếu em muốn thế!”
“Đấy nhé! Di công nhận Di cố tâm kiếm bằng được một số tiền để có thể “ném”vào mặt ba và có cơ hội bộc lộ tất cả sự hằn học của Di. Đúng thế không?”
“Cứ cho rằng Di công nhận đi thì sao? Anh định đưa câu chuyện đến đâu?”
Tô rành rẽ:
“A! Anh muốn biết sau khi chứng tỏ Di kiếm nổi ra tiền và tự lập, Di có ý định rời bỏ gia đình hay không?”
Im lặng một phút. Di lẩm bẩm chua chát:
“Anh suy luận nhanh nhỉ! Anh tưởng anh đọc rõ những tư tưởng trong óc Di phải không? Phải rồi anh vẫn thường tự phụ rất sành tâm lý mọi người mà!”
“Di cáu với anh đấy hả?”
“Không! Di không cáu khi thấy anh soi mói tâm hồn người khác, nhưng rất ‘bực mình – và – khó chịu’ vì cái giọng làm ra vẻ thản nhiên của anh khi đề cập tới những đau khổ của mọi người.”
Tô láy lại, chế riễu:
“Anh thản nhiên khi nói tới những đau khổ của Di! Lạ nhỉ! Anh có cảm tưởng Di giận anh.”
“Phải nói là Di bất mãn mới đúng! Ừ! Tại sao anh cứ đòi đóng cái vai quan toà hạch tội nhân? Tại sao Di hằn học? Tại sao Di làm thế này, thế kia? Anh đừng quên anh cũng là người trong cuộc! Anh cũng hằn học và oán ghét ba không kém gì em!”
Im lặng. Tiếng Tô lại cất lên:
“Di khó tính lại nhiều tự ái! Làm gì có chuyện ai là quan toà ai là tội nhân ở đây. Có điều Di quên mất là anh và Di tính nết khác nhau. Di hằn học, Di muốn lộ tình cảm đó ra mặt, anh cũng có thể hằn học, nhưng anh dấu kĩ thì sao.”
Ngừng một chút, Tô tiếp giọng thành thật và dịu dàng như muốn làm lành với em:
“Hay bây giờ Di và anh gạt sang một bên những chuyện cãi vã rắc rối về bản chất của anh và Di. Tại sao Di không nghĩ rằng anh hỏi Di chỉ vì muốn tìm hiểu chút ít về Di. Dạo này Di và anh không có dịp nói chuyện với nhau… Anh ngại rằng nhiều điều anh nghĩ về Di có thể sai lầm. Di hình như muốn sống cách biệt với mọi người… với anh. Dĩ nhiên anh không trách móc Di nhưng ít nhất Di cũng phải để mọi người giúp Di chứ.”
Trước những lời lẽ lúng túng của anh. Di ngắt lời:
“Em hiểu anh!”
“Nếu vậy Di nói thẳng ra đi! Có phải vì muốn tỏ ra khinh bỉ ba nên Di đã quyết định bỏ học đi làm kiếm thêm tiền. Trong tuần qua, Di không bước chân đến trường, anh đã làm giấy phép xin nghỉ cho Di, nhưng anh dấu cả me lẫn ba. Di còn muốn đi học nữa hay không?”
Di trả lời, giọng mệt mỏi chán nản:
“Em không biết nữa! Em cũng không rõ sẽ phải nghĩ gì làm gì. Bao nhiêu vấn đề cấp bách phức tạp em cần phải giải quyết. Ngay vấn đề ba và em chẳng hạn!”
Di ngừng một chút, đoạn tiếp giọng cả quyết:
“Em sẽ nói hết anh nghe ý nghĩ của em về ba. Từ dạo tản cứ về ba không ngớt than phiền kêu ca về chuyện tiền. Đối với ba kiếm tiền và thành công là những chuyện quan trọng nhất trên đời. Ba than phiền nhà mình nghè. Ba đe doạ anh em chúng mình sẽ có ngày phải đi ăn mày làm phu phen để kiếm sống. Chuyện này em chẳng phải nói dài, anh cũng rõ như em. Nhưng ba tha hồ mắng nhiếc và hành hạ mọi người, anh và em nhớn rồi cũng đủ sức chịu đựng ba. Miễn là ba đừng đụng chạm đến me.”
Giọng Di nghẹn ngào:
“Em không tưởng tượng nổi, khi hành hạ áp chế một người yếu hơn mình, người ta lại có thể cảm thấy vui thú. Thử hỏi me có tội gì? Từ khi lấy ba đến giờ me ăn bao nhiêu cơm và tiêu bao nhiêu tiền của ba? Lúc nào me cũng tươi cười, nhẫn nhục chịu đựng ba. Ba đâu biết ba làm khổ me đến bực nào. Me không than thở kêu ca, nhưng me khổ ngấm ngầm? Nghe những lời riếc móc ray rứt me muốn khóc mà cũng không dám. Dạo chúng mình còn bé chẳng nhiều lần bắt gặp me khóc thầm là gì? Ba luôn luôn chỉ biết có ba. Ý kiến của ba là nhất ai cũng phải theo. Nếu cưỡng lại ba sẽ tìm cách ép buộc phải vâng theo ba.”
Tô xen vào:
“Di! Di muốn thêu dệt ra những chuyện thực ra không hề xẩy ra hay sao?”
“Thôi Di! Làm sao chúng mình biết được những chuyện thầm kín giữa ba và me. Hơn nữa, nếu kết tội ba một phần nào Di cũng kết tội me. Theo ý anh, không ai hoàn toàn vô tội cả, kể cả me chúng ta.”
Di bướng bỉnh cãi:
“Em không tin me có lỗi!
“Hay em không ‘muốn’ tin thì đúng hơn… Anh yêu me, nhưng cũng không lạ gì tính me. Một khi đã yêu con chiều con, me quên hết mọi thận trọng, tính toán. Me vay nợ lu bù để bù đắp cho chúng ta. Làm sao anh lại có thể trách me yêu các con? Anh tự hào có người mẹ như me! Tuy nhiên gia đình mình sẽ đi đến đâu, nếu me tiếp tục vay nợ? Em thử nghĩ xem?”
Hai anh em lại im lặng. Ông Hạ nằm không động cựa, và không dám thở mạnh. Ông đâu ngờ Di khe khắt với ông đến thế.
“Anh không biết chứ dạo me đi buôn, ngồi ở lớp học em lo lắng ghê rớm. Lúc nào cũng thấp tha thấp thỏm chỉ sợ tầu bị mìn và nhỡ me làm sao mỗi buổi tối thấy me và anh trở về bình yên, em nhẹ hẳn người và mừng không thể tưởng được. Càng mừng em càng thù ghét ba. Tại ba hết! Sau này, me ốm và gãy chân, ba chắc hể hả lắm. Ai bảo mọi người trái lời ba! Trông bộ mặt đắc thắng của ba, em mong me và anh chết cả trong một tai nạn tàu để xem ba phản ứng ra sao. Liệu ba còn sống nổi một mình hay không?”
“Sao Di hay nghĩ ra nhiều chuyện rắc rối làm khổ mình cho mệt. Chỉ vì muốn ‘trả thù’ ba, Di muốn me và anh chết đi hay sao?”
“Em cũng biết nghĩ thế là bậy, nhưng anh đã hỏi em cũng không giấu.”
“Em thật kỳ lạ!”
Di nhắc đi nhắc lại hai chữ “trả thù” Tô vừa nêu ra.
“Trả thù! Trả thù! Có lẽ anh nói đúng! Em thù ba! Ngay từ hồi bé. Anh còn nhớ hồi nhỏ, em đâu bạo dạn như anh. Em rút rát như con gái. Nhưng, tại sao ba không để em yên thân? Ba chế nhạo em, mắng chửi em và không hề quan tâm là tâm hồn một đứa trẻ nhạy cảm và mỏng manh đến mực nào. Dĩ nhiên em khác hẳn tính ba hồi nhỏ. Nhưng, tại sao ba muốn em phải có được bộ óc thực tế sát đất của ba? Tại sao ba muốn em phải sớm đụng chạm với những sự ti tiện của đời sống? Ba khổ thuở bé, nên thấy các con được hưởng một đời sống vật chất và tình cảm tương đối sướng hơn, ba không chịu được!”
Giọng Tô suy nghĩ:
“Em nói cũng có phần nào đúng. Nhưng suy đi nghĩ lại mình cũng khó trách ba được. Nếu lúc bé em hay anh cũng phải khổ như ba?”
Di nóng nảy:
“Em không chịu cái lối suy luận của anh. Anh quá rộng lượng đối với ba. Mình đã khổ sở, thời mình phải cố gắng giúp những người thân yêu khỏi bị khổ như vậy chứ. Không lẽ nếu người khác tát anh một cái, anh sẽ có quyền tát cho người thân của anh một cái hay sao?”
Tô không cãi lại em, Di tiếp:
“Vì vậy hồi nhỏ, và ngay thời kỳ cách đây mấy năm, cứ nghe ba nói mãi, mắng mãi em đâm mất cả tự tin. Em nghĩ có lẽ em là một đứa trẻ bỏ đi và không có một khả năng, đức tính nào hết. Rất nhiều lần em ngồi khóc thầm một mình trong căn phòng xép. Khóc, em cũng dấu mọi người. Em sợ nhỡ ba bắt gặp, em lại phải nghe những lời chế diễu. Em so sánh em với anh, với những đứa trẻ bình thường khác. Càng so sánh, em càng tủi thân và hoang mang. Em tự biết không bao giờ em bạo rạn được bằng anh. Em cũng không ưa thích lối sống hoạt động như anh. Thời giờ của em chỉ dùng để tưởng tượng, mơ mộng hão huyền. Dần dần em đâm ra ít nói, không thích chơi bời với bất cứ ai. Vì em cho rằng, em chỉ là một đứa trẻ bệnh não, gần như tàn tật. Anh xem, chỉ vì ba mà thời thơ ấu của em không còn chút gì là ngây thơ, êm đẹp!”
Di nửa đùa nửa thật:
“Em nói điều này chắc anh không tin. Còn bé, em đã nhiều lần nghĩ đến chuyện tự tử. Không có anh và me, không biết chừng em khó sống được đến nay.”
“Di nhiều óc tưởng tượng quá!”
“Giàu óc tưởng tượng đâu phải lỗi tại em!”
“Dĩ nhiên! Nhưng, anh nghĩ không chừng vì quá giàu tưởng tượng, Di đã gán cho dĩ vãng một ý nghĩ đen tối hơi quá sự thực chăng? Hồi nhỏ em ngây thơ, em đâu đã thù ba ghê gớm đến như vậy. Bây giờ, em mới thù ba đấy chứ!”
Di nồng nhiệt:
“Không! Anh đừng nhầm! Em thù ba bất cứ vào thời kỳ nào – Xưa nay em vẫn thù ba.”
Tô cười nhẹ, chế giễu:
“Di nói thế, anh cũng biết vậy. Nhưng, tính em ấy mà… Hôm nay thế này mai thế khác. Lúc nào cũng cả quyết, nghe phát ớn. Không hiểu sao anh tin rằng một ngày kia Di sẽ hết thù ba. Di sẽ hướng lòng thù hận của Di vào một nhưng khác, hướng khác, cũng hăng hái chẳng kém.”
Di cười khảy:
“Anh lại giở giọng tiên tri gàn rồi?”
Tô, Di cùng im lặng. Ông Hạ tưởng chúng đã trò chuyện xong, nhưng rồi Tô lại lên tiếng:
“Anh cũng đồng ý với Di là ba không dễ dãi với mọi người. Ba ích kỷ độc đoán và nhiều khi rất tầm thường. Nhưng Di phải công nhận một điều: Làm sao thay đổi được ba. Ba cứng rắn như một hòn đá! Anh chắc ba sẽ vẫn như thế mãi, suốt đời ba. Di, me, chính anh, chúng ta một phần nào cũng đã là những ‘nạn nhân’ của ba.”
“Nhưng đó là chuyện ‘ngày xưa’. Hiện tại anh và Di đều lớn cả rồi, không lẽ chịu sống dưới ảnh hưởng của ba. Ô! Tại sao chúng mình không nhìn đời khác đi? Tại sao lại oán và thù ba? Làm khổ mình sống trong những tư tưởng đen tối như Di. Phản đối, trả thù mà làm gì? Ba nói gì mặc ba. Nói lắm cũng mỏi mồm. Di cứ làm như ba không có đấy. Di có đời sống riêng của Di. Di còn phải lo cho tương lai nữa chứ?”
Di ngắt lời anh, giọng gay gắt hẳn lên:
“‘Làm như ba không có đấy’. Nói đến thì ngon lành nhưng trong thực tế đâu dễ như vậy. Anh khéo lý luận lắm nhưng em không rơi vào tròng đâu.”
Tô cất cao giọng một chút, ngạc nhiên:
“Tròng nào? Em nói cái gì đấy anh không hiểu!”
Im lặng.
Tô gặng:
“Di điên đấy à! Di làm như anh dùng lý luận để đánh lừa Di. Đâu có, anh chỉ muốn giúp Di.”
Di nói như khóc:
“Không! Bây giờ em mới thấy chính anh cũng không thể giúp được Di… Vì anh không bao giờ có thể là Di, nghĩ được, cảm được, đau khổ giống hệt Di! Anh là anh, Di là Di! Anh không ghét ba ‘giống’ Di. Anh đâu biết oán hận đã ăn xâu vào tâm hồn em. Dứt đi sao được. Lắm khi em sợ chính nguồn tình cảm mãnh liệt của em. Em không biết rồi đây lòng oán ghét ba của em sẽ đưa em đến đâu… Em muốn bỏ gia đình mà đi. Nhưng thế là hèn nhát là trốn tránh. Em còn cảm thấy ghét ba, em còn nhìn thấy mẹ héo hon, chết dần chết mòn đi. Vì mẹ vì mọi người; em càng thấy rõ ‘Em không thể rời bỏ nơi đây được’. Anh hiểu chưa? Em – không – thể!”
Giọng Tô trầm hẳn xuống, khắc khoải và thương xót:
“Kể ra những điều anh nghĩ về Di cũng không sai lầm bao nhiêu. Anh cũng đoán biết có một nguyên nhân nào, rất quan trọng lôi kéo Di, và giữ Di sống tại gia đình. Nhưng anh cũng đã lầm, khi tưởng đó là tình yêu! Anh không ngờ lòng oán hận đã giữ Di. Không phải tình yêu!”
“Làm sao em phân biệt được tình yêu hay oán hận đã giữ em ở lại gia đình? Mà có lẽ cả hai thứ không chừng?”
1.
Vào một ngày mùa đông năm 19…, ông bà Hạ dọn đến biệt thự Hoàng Hôn. Trong khi ông Hạ còn mải đốc thúc người nhà khuân hòm xiểng đựng quần áo và những đồ dùng lặt vặt vào nhà, bà Hạ một mình lẳng lặng dạo thăm một lượt tất cả các phòng.
Tuy đây là chiếc biệt thự xưa kia bà Hạ và các con thiết tha mong ước được làm chủ, nhưng mọi công việc trông nom xây cất điều đình với kiến trúc sư, đốc thúc thợ thuyền bà đã để mặc ông tự ý lo liệu. Nếu ông cố gặng:
“Mình đến ngó qua một chút! Thợ đương xây đến phòng khách… Mình có muốn xây một chiếc lò sưởi thật lớn hay không? Đà Lạt vào mùa rét lạnh lắm đấy!”
Bà chỉ lắc đầu, thờ ơ trả lời:
“Tùy mình quyết định!”
Tuy bận chỉ dẫn người nhà kê tạm những đồ đạc cồng kềnh, ông Hạ vẫn kín đáo theo dõi những cử chỉ hơi khác thường của vợ. Ông băn khoăn tự hỏi, lần đầu tiên bước chân đến biệt thự, bà Hạ nghĩ sao về cách kiến trúc, sự sắp đặt các phòng và trang hoàng bên trong? Tự nhiên ông e ngại bà sẽ không hài lòng. Tự bao giờ ông bắt đầu quan tâm đến ý kiến của vợ?
Sau một hồi hò hét các người làm, ông thấm mệt và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành rộng trong phòng khách.
Bà Hạ đang đứng trong căn phòng đáng nhẽ là phòng dành cho Di – đứa con trai thứ nhì của hai vợ chồng – quay lưng về phía ông. Cửa phòng mở, nên ông quan sát những hành động của vợ rất dễ dàng. Sau mấy phút trầm ngâm, vợ ông đặt một bức ảnh lên bàn – chắc vừa lấy ở va li ra – lùi lại mấy bước và ngây người ngắm nghía. Ngồi hơi xa nên ông khó nhận biết là ảnh ai.
Chợt bà Hạ đưa hai bàn tay lên ấp lấy mặt, hai vai rung nhẹ. Vợ ông khóc, ông đoán vậy, vì sống bên nhau bao nhiêu năm, ông không còn xa lạ gì lối khóc im lặng không một tiếng nức nở, đầy chịu đựng và nhẫn nhục của vợ.
Ông cảm thấy nửa như bực tức nóng nảy, nửa như lo lắng trước những cơn khóc lóc, rầu rĩ bất chợt của vợ trong những năm gần đây. Sức khoẻ của vợ ông cứ theo ngày tháng mà kém sút. Trước kia không hiểu sao ông có thành kiến vợ ông không bao giờ có thể ốm được. Từ khi lấy ông, đẻ con, qua thời kỳ gia đình tản cư và trở về Hà Nội sa sút đi, bà Hạ không lúc nào ngừng tay chân, làm lụng quần quật, xoay xở vay tiền, nhưng hiếm khi ốm.
Các con ông Hạ thường đùa me:
“Me không biết đau gì! Làm thế nào me ốm được nhỉ?”
Nhưng sau cái chết của Di, bà Hạ không còn được như xưa. Thân hình đẫy đà sút hẳn, làn da không còn trắng hồng, dáng đi chậm chạp nặng nề và đôi mắt to đã sâu lại sâu thêm.
Ông đứng dậy nhẹ nhàng lại gần vợ. Ông đến sát sau lưng mà bà không hay biết. Nhìn qua vai bà, ông nhận ra người trong ảnh là Di.
Chân ông đột nhiên trùn lại. Ông muốn lùi bước. Trong ngày theo ý ông, đầy vui vẻ và khoái hoạt này, ông không muốn nghe những lời trách móc và đối diện với khuôn mặt u tối của vợ.
Bà Hạ quay đầu lại, nhìn thấy ông. Trong một giây ngắn ngủi, ông Hạ bắt buộc phải nhìn thẳng vào cặp mắt đầy trách móc và oán hận chưa kịp che giấu của vợ.
Bà Hạ quay mặt đi lấy khăn lau nước mắt. Hai vợ chồng im lặng một phút. Đoạn ông đằng hắng, giọng nói làm ra vẻ cứng rắn, thản nhiên:
“Mấy cái thằng phu thật đổ đốn! Mình có thấy thiếu chiếc hòm nào không?”
Bà Hạ không đáp. Ông vội vã ra khỏi phòng không quay mặt lại.
Suốt trong ngày, ông tránh ngồi lâu một mình cạnh vợ. Ông tránh một trận cãi nhau giữa hai vợ chồng. Tâm tính vợ ông không còn giản dị như xưa. Bà có thể tức giận, gây chuyện với chồng gì những lý do không đâu. Một vài khi, những lời trách móc chua chát từ miệng bà Hạ thốt ra, khiến ông sửng sốt. Những nguyên nhân thầm kín nào đã biến chuyển tâm hồn vợ ông đến thế?
Sau bữa cơm tối, ông Hạ ngồi đọc sách, bà Hạ ngồi ở divan gần bên. Thói quen đọc sách từ bao năm nay ông không hề bỏ. Chiếc biệt thự rộng yên lặng lạ lùng. Tiếng các trang sách ông dở nghe rõ mồn một.
Một tham vọng nữa của ông Hạ đã thành sự thật: Ông hiện là chủ nhân một chiếc biệt thự lớn, đầy đủ tiện nghi. Ông không còn phải lo đến việc kiếm tiền. Hai vợ chồng có thể sống đến già mà vẫn giữ được một mức sống khá cao.
Nhưng, những căn phòng bày biện sang trọng và không người ở trong biệt thự làm giảm hẳn sự kiêu hãnh của ông. Các con ông đâu? Bên phải là phòng dành cho Tô – đứa con cả của ông bà – còn bên trái là những phòng của Lan và Di. Tại sao các con ông lại đã đều rời bỏ gia đình, cách này hay cách khác?
Bà Hạ đang mải mê đọc mấy bức thư mới nhận được. Chắc là thư của Tô và Lan. Một chiếc ảnh nhỏ lọt khỏi mấy tờ thư, rơi xuống đất. Bà cúi xuống nhặt lên và ngắm rất lâu. Bà mỉm cười, nụ cười hiền dịu âu yếm đầu tiên trong ngày xuất hiện trên mặt bà. Bà Hạ hình như có chuyện muốn nói với ông. Ông chờ đợi, mắt không rời khỏi trang sách. Nhưng bầu không khí yên lặng trong phòng vẫn tiếp tục kéo dài.
Ông giận dữ dỡ mạnh liền mấy trang sách và ho khan mấy tiếng, như muốn nhắc nhở là ông đang ngồi đây. Tại sao vợ ông không nói một lời nào? Thà rằng hai vợ chồng cãi nhau còn hơn ngồi bên nhau mà xa cách hàng vạn dậm, mỗi người theo đuổi một sự suy tưởng riêng biệt. Vợ ông không có quyền giữ riêng những thư của các con, đọc một mình. Chúng cũng là con ông, sao bà lại quên điều đo?
Nhưng suy đi nghĩ lại ông thấy thầm trách vợ như vậy cũng có phần bất công. Thư chúng ông đọc làm chi; khi mà ông còn nhất định cấm cửa chúng, không cho phép trở về với gia đình.
Đêm đã khuya. Ông bà Hạ sửa soạn đi ngủ. Bà loay hoay mặc chiếc áo ngủ bằng hàng bông điểm những cành hoa nhỏ, cắt theo lối âu phương, cổ áo viền đăng”ten xanh nhạt. Chiếc áo này và một chiếc khác mầu hồng nhạt đều đã cũ, nhưng đi đâu bà cũng mang theo và nếu không mặc lên người thời khó mà ngủ yên giấc.
Chính tay Lan đã vẽ kiểu và may những áo ngủ đó cho mẹ. Hồi công việc doanh thương của ông thua lỗ, cả gia đình phải sống chen chúc trong một căn nhà nhỏ hẹp không tối nào Lan không chui vào giường mẹ, nằm trò chuyện cho đến khi ông xem sách xong và kỳ kèo mẹ phải mặc chiếc áo ngủ hơi kỳ khôi cho bằng được. Lan viện cớ:
“Me mặc áo ngủ con may trông quý phái lắm. Trông mặt me chung quanh tóc lõa xõa con thú ghê.”
Lan thường trò chuyện với hai anh là nó muốn luôn luôn được ngắm khuôn mặt thanh tú của mẹ nổi bật trên gối trắng và màu hồng xanh nhã nhặn của áo ngủ. Mới đây ông đã có lần càu nhàu:
“Sao mình không vứt mấy cái áo ngủ rách nát đó đi. Dễ thường tôi không đủ tiền may cho mình áo mới hay sao?”
Bà đáp ngay, giọng hơi sẵng:
“Mình để mặc tôi…!”
… Và rồi lẩm bẩm một mình:
“Áo mới mua dễ, nhưng ai mua được con gái.”
Ông Hạ cứng họng không biết đáp ra sao.
Ông Hạ mang sách vào giường đọc thêm. Ánh đèn không làm bà khó ngủ. Hồi mới lấy nhau vợ ông chỉ ngủ dễ dàng trong bóng tối hoàn toàn, nhưng nể chồng nên cũng đã phải tập ngủ dưới ánh đèn sáng cho quen. Bây giờ trái lại nếu không có ánh đèn nhẹ, bà lại hay mê hoảng.
Bà Hạ giở tập ảnh gia đình ra xem một lúc đoạn thiếp ngủ lúc nào không biết.
Ông đặt sách xuống đùi, nhặt mấy chiếc ảnh vợ bỏ rơi xuống ngực, định cất vào ngăn kéo bàn ngủ, nhưng rồi không hiểu sao vẫn giữ chúng trên tay ngắm nghía rất lâu. Đó là những bức ảnh chụp các con hai ông bà qua nhiều thời ký: Hồi chúng còn nhỏ, khi đến tuổi bắt đầu lớn và cả những bức chụp mới đây khi chúng đã trưởng thành.
Hình như ông nghe thấy vài tiếng động nhỏ ở đâu đây: Có lẽ là những tiếng cười ròn rã của con trẻ, tiếng cười đùa văng vẳng, lẫn lộn với những tiếng khóc thút thít thật dễ thương.
Ông lắc đầu mạnh và tỉnh hẳn. Óc tưởng tượng vừa đánh lừa ông: Đấy chỉ là một giấc mơ.
Thực tại trần trụi khiến ông choáng váng: Chỉ có ông và vợ sống lủi thủi trong toà biệt này, hai vợ chồng già và cô độc.
Dầu ông muốn hay không, tất cả những kỷ niệm xưa cũ, hoặc không xa lắm trong thời gian lại vụt trở về, tràn ngập tâm hồn ông. Ông thở dài, hạ cặp kính lão xuống, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng trời tối đen ngoài khung cửa sổ. Dĩ vãng! Ông không sợ đối diện với dĩ vãng, nhưng ông đâu ngờ dĩ vãng lại có thể khiến ông xúc động đến thế.
Giai đoạn đầy rẫy những thay đổi quan trọng và đau thương của gia đình ông Hạ bắt đầu ngay sau khi hai vợ chồng ông và các con hồi cư về Hà Nội vào năm 194…
Hồi V.M. đảo chính, nắm chính quyền, hai đứa con trai ông – Di và Tô cũng tham sự những đoàn thể thanh niên và cũng sống ồ ạt, sôi nổi không khác những đứa trẻ cùng tuổi. Công việc làm ăn khó khăn buổi giao thời không cho phép ông Hạ có thời giờ chăm sóc con cái về mặt giáo dục cũng như tinh thần.
Chiến tranh bùng nổ. Gia đình ông bà Hạ tản cư về quê nội cách Hà Nội khoảng gần 20 cây số. Sau gần hai năm trời di chuyển từ vùng này sang vùng khác, số tiền dự trữ cạn hết. Hai vợ chồng cũng không tìm nổi cách gì để kiếm sống nuôi một gia đình năm miệng ăn.
Tuy ông từ trước đến nay, không hề tham dự trực tiếp hay gián tiếp vào một phong trào hay đảng phái chính trị nào, nhưng vì mấy người anh ruột của bà Hạ đều là những cấp lãnh đạo trong V.N.Q.D.Đ., nên các ủy ban kháng chiến tại làng ông bà cư ngụ vẫn ngấm ngầm theo dõi để mắt tới mọi hoạt động dù nhỏ nhặt nhất của gia đình ông Hạ. Gia đình ông bà luôn luôn sống trong sự lo ngại phập phồng và không dám ở lâu tại một làng nào nhất định.
Cho đến ngày, ông bà Hạ rồn rập tiếp được những tin tức đen tối, người anh thứ hai của bà vừa bị V.M. bắt đem đi, anh cả – một công chức cao cấp trong chính phủ hồi Pháp thuộc cũng như hồi V.M. – cũng bị ngầm mang đi an trí và giam lỏng, còn người vợ và đứa con trai cả của anh Bằng vừa bị V.M. bắt giam cách đây mấy ngày; hai vợ chồng sau một đêm bàn bạc suy tính, đành phải quyết định tìm cách trở về thành càng sớm càng hay.
Về Hà Nội nhà xuất bản trước kia ông Hạ hùn vốn và đồng thời làm quản lý bị đốt cháy tan tành. Người chủ chết trong cuộc chiến tranh. Tạm thời ông Hạ phải nhẫn nhục làm thư ký cho một hãng buôn ngoại quốc để chờ thời cơ. Cả gia đình chỉ còn trông cậy vào số lương quá ít ỏi của ông để sống. Đang quen với một mức sống vật chất tương đối sung túc, những sự túng thiếu không thể tránh được trong thời kỳ này ảnh hưởng đến tâm tính ông không ít.
Tuy ông cũng cố hết sức xoay xở tìm lối thoát, nhưng vốn không có, bạn hữu cũ đều thất lạc, ông đành bó tay. Làm một thư ký quèn, nhiều khi ông Hạ tưởng điên lên vì phải chịu lụy những kẻ trước kia chỉ đáng làm công cho ông.
Càng cảm thấy bất lực trong việc kinh doanh xây dựng lại sự nghiệp, ông càng trở nên gay gắt và khe khắt hơn đối với gia đình. Hễ đi làm về là ông gắt gỏng, hậm hực với tất cả mọi người – không kể một ai.
Ông Hạ luôn luôn lấy sự nghèo khổ ra làm đầu đề, phóng đại nó lên. Ông cũng cố ý hạ mình xuống để làm nổi bật sự nhục nhã chung của gia đình.
Tuy thừa biết vợ con rất sợ phải nghe những lời lẽ thô tục, mai mỉa độc ác của ông, nhưng hễ cứ ngồi nung nấu những tư tưởng đen tối và chua chát, chỉ một lúc sau chính sự bất mãn của ông làm ông say lên và ông bật nói rất lớn. Tuy nhiên ông vẫn còn đủ bình tĩnh để chọn lựa những câu nói cay đắng và thấm thía nhất.
“Tôi nói cho mà biết! Chưa ăn thua gì đâu. Bây giờ còn miếng cơm mà ăn là phúc lắm. Tôi thì tôi quen rồi. Từ bé tôi đã hiểu thế nào là thân phận một kẻ nghèo hèn. Nhưng nói đến đời tôi làm gì, tôi đâu có đáng kể… Sinh ra chỉ làm đầy tớ và lo lắng nuôi sống mọi người. Phải! Có ai lo đến kiếm ăn bao giờ đâu mà biết cuộc sống chật vật ra sao. Sinh ra đã được chiều chuộng, nưng như nưng trứng hứng như hứng hoa. Đã có người lo việc tiền nong… Hà! Tiền! tiền đâu mang lại hạnh phúc. Đúng lắm! Đẹp lắm! Cao thượng lắm! Chỉ đời sống tinh thần mới đáng kể. Giá tôi có hơi chút mắng mỏ đe nẹt, các ông con của tôi đã cho tôi là ác nghiệt độc tài…”
“Mà thôi nói làm gì nhiều vô ích. Có ai thèm nghe tôi đâu. Đành vậy, số tôi còn phải khổ nhiều. Nhỡ một cái tôi chết đi. Chết có lẽ lại may, đỡ phải lo kiếm tiền…”
Ông lấy cớ nhà không đủ tiền nuôi người ở, bắt các con phải làm đủ mọi việc. Ông cũng hay nhắc đến dự định trong tương lai cắt ngang mọi việc học hành của các con và bắt chúng đi làm sớm hầu giúp đỡ gia đình. Ông nêu ngay đời ông làm thí dụ.
“Học nhiều mà làm gì. Có bao nhiêu vĩ nhân lúc trẻ con nhà nghèo khổ nên phải làm những nghề hà tiện làm bồi, bán báo… Tao đây cũng thế! Tao có bằng cấp gì đâu, sao ra đời ai cũng kính nể. Học như con vẹt, nhồi vào đầu óc toàn lý thuyết chỉ làm mụ người đi và đảm óc phấn đấu.”
Ông không quên kể lại, lần này là lần thứ mấy mươi, quãng đời thơ ấu vất vả của ông. Để nêu gương khắc khổ, ông không hề nhếch miệng cười, bỏ hẳn sự ham mê mua và đọc sách báo. Những ngày lễ và chủ nhật ông cũng nhất định không đi đâu và cũng không tìm những cách giải trí không mấy tốn tiền như uống trà, sưu tầm tem thư hay hội họp với một số bạn đồng sở nói chuyện gẫu cho khuây khoả.
Vào năm ấy, những người buôn bán rau cỏ, thực phẩm tập họp tại bờ hồ Hoàn Kiến, ngay cạnh ngã tư Tràng Tiền, làm thành một cái chộ lộ thiên ở ngay trung tâm thành phố. Chẳng biết vợ con ông bàn nhau ra sao, nhờ vớ được mấy bao tải lá vối và một số sách cũ, tại mấy căn nhà bỏ hoang cùng phố, Di đột nhiên trở thành một chú bé bán nước và sách ở chợ.
Các bà các cô bạn hàng dần dần quen với khuôn mặt trắng trẻo, đẹp trai của “cậu hàng nước”. Tính hay ngượng, Di có một lối bán hàng rất kỳ khôi. Suốt buổi chợ, Di ngồi chúi mũi vào một cuốn sách, không mảy may quan tâm đến việc bán hàng. Có khách muốn uống nước, Di miễn cưỡng múc nước chè ra bát, mắt vẫn không rời trang sách. Ai muốn trả bao nhiêu thì trả, Di không hé miệng kì kèo.
Đôi khi, mấy bà mau mắn không muốn làm phiền Di, tự tiện lật bát, múc nước, đặt tiền trả trên giá hàng, Di cũng mặc. Tiền lãi kiếm được cũng tạm đủ để bà Hạ mua thêm ít món ăn cho bữa cơm gia đình bớt phần đạm bạc.
“Cậu hàng nước tài tử thường là đầu đề cho những câu chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, của bà Hạ và các con. Riêng ông Hạ, ông bất mãn ra mặt trước thái độ coi việc buôn bán như một trò chơi của vợ con.
Khi số lá vối dự trữ cạn hết, ông Hạ đã tưởng câu chuyện buôn bán của vợ con chấm dứt luôn ở đây; thời đến một hôm, trong bữa cơm, Tô tự nhiên đề nghị:
“Ba! Me và con định bắt đầu đi buôn kể từ ngày mai.”
Ông ngạc nhiên, cau mày nghiêm khắc nhìn Tô và vợ. Bà Hạ mà định đi buôn?
“Me mày thì buôn cái gì. Từ bé đến giờ ăn sung mặc sướng, buôn bán chịu đâu nổi cực nhọc. Mà…bây giờ buôn cái quái gì lời lãi cho được. Vốn đào ở đâu?”
Tô đỡ lời mẹ:
“Me đã vay được ít tiền vốn và dự định buôn rau cỏ, gạo, gà vịt ở vùng quê mang về Hà Nội bán. Mấy bà ở chợ nói rau quả hiếm, nên bán rất được giá.”
Ông vặn hỏi:
“Đã xin được giấy phép chưa? Có mối bán không…”
Trước những câu trả lời gẫy gọn, đâu ra đấy của vợ và Tô, ông Hạ cảm thấy cay đắng, bực bội và thầm suy luận “À ra thế! Vợ con ông định buôn bán vì cho rằng ông không kiếm đủ ăn cho gia đình. Tại sao vợ ông không chịu đem bàn trước với ông. Vợ ông không còn tin tưởng vào ông?”
Ông im lặng ăn. Ông biết mọi người đang hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông nhưng ông kéo dài giây phút chờ đợi. Ông cảm thấy đầy sức mạnh. Tuy vậy, ông không phản đối và cũng không nổi giận, ngửng đầu thản nhiên bảo:
“Được nếu mình đã tính toán kĩ càng hơn thiệt, mình cứ việc đi buôn. Càng hay! Tô chút nữa mang giấy tờ ra đây, ba viết cho lá đơn xin giấy phép thông hành.”
Tất cả mọi người đều sửng sốt chưng hửng. Riêng Tô, sau giây phút ngạc nhiên ban đầu, yên lặng nhìn ông dò hỏi, ánh mắt thoáng nghi ngờ.
Không ai hiểu được sự ưng thuận của ông Hạ có ẩn dấu một chủ ý thâm hiểm như thế nào.
Trong mấy tháng đầu việc buôn bán của bà Hạ có vẻ phát đạt rõ rệt. Ông Hạ là người ngạc nhiên hơn ai hết. Vợ ông thạo buôn bán? Ông tưởng vợ ông chỉ có thể là một người vợ, người mẹ kiểu mẫu. Ông tự hỏi tại sao vợ không bỡ ngỡ, lầm lỡ khi phải tiếp xúc giao dịch với những con buôn quỷ quyệt.
Ông xin nghỉ việc một hôm, đi theo vợ xem buôn bán ra sao. Đi đâu ông cũng thấy vợ được mọi người vì nể một cách đặc biệt. Đứng giữa đám người buôn bán chuyên nghiệp, vợ ông và Tôi nổi bật hẳn lên. Khuôn mặt thanh tú của bà Hạ, thân hình giong giỏng cao hai bàn tay ngón dài chưa bao giờ phải dùng tới để khuân vác của Tô, khiến mọi người lưu ý bàn bạc. Họ kháo nhau, phỏng đoán thêu dệt rất nhiều chuyện về bà Hạ. Nào bà là con nhà gia thế, trước chiến tranh rất giàu, tản cư về gia sản khánh kiệt nên phải buôn bán nuôi con v.v…
Họ quan sát bà, tò mò nhưng rộng lượng. Họ cười khi thấy bà vụng về hớ hênh trong việc mặc cả, thương lượng. Họ chỉ dẫn cho bà những mánh lới của các con buôn thiếu lương tâm. Dần dần, bà Hạ cũng tìm được một số mối hàng quen.
Khi lên tàu xuống tàu, ông Hạ lưu ý thấy rất nhiều người không nề hà giúp bà bốc hàng lên hoặc rỡ xuống. Vợ ông chỉ biết cám ơn họ bằng những nụ cười. Họ tỏ vẻ hài lòng ra mặt.
Một buổi tối, bà Hạ và Tô đi buôn về, mọi người thấy mặt Tô đầy những vết tím và trán xưng lên. Trong bữa cơm ông hỏi tại sao, Tô đáp ngay:
“Bị ngã tàu đấy!”
Bà Hạ tủm tỉm cười, liếc nhìn đứa con cả. Ông nghi ngờ vặn hỏi:
“Mình! Có thật nó ngã tàu không? Me con mày dấu tao chuyện gì đây.”
Lan sờ sờ cái bướu trên trán anh, ngây thơ:
“Ngã tàu thời phải gãy chân tay chứ đâu sưng trán.”
Ông gắt:
“Tô! hay ai đánh mày? Nói cho tao biết để tao còn liệu can thiệp chứ!”
“Mình đừng mắng Tô! Nó bênh cô Khanh nên bị thằng đội Tây ở đồn đánh cho đấy!”
Khanh là tên một cô bạn buôn bán của bà Hạ, goá chồng nhưng còn trẻ và xinh đẹp nên hay bị tên đội Tây theo đuổi tán tỉnh. Ông Hạ vừa bực mình vừa cười thầm Tô trong bụng: Máu con ông cũng nóng và bướng bỉnh, lại hay quyến luyến gái đẹp chẳng khác gì ông hồi trẻ.
Ông mỉa:
“Anh hùng nhỉ? Gặp thằng hung dữ, có phen nó đánh cho què cũng chẳng biết kêu ở đâu. Thời này ấy mà.”
Vẻ mặt Tô xầm tối, nhưng nó vẫn lầm lì không cãi lý với cha.
Công việc buôn bán nặng nhọc, sức chịu đựng của bà Hạ cũng có hạn. Bà xanh và gầy trông thấy. Tuy vậy vợ con ông Hạ vẫn nhất định đeo đuổi buôn bán.
Mấy tháng sau, số người đi buôn tăng lên, mối lời ít. Những con buôn khôn ngoan dần dần chuyển sang buôn đồ lậu: Thuốc tây, dầu hoả. Bà Hạ một phần không đủ vốn, một phần không có gan kiếm lời một cách nguy hiểm, nên tuy việc buôn bán rau quả chưa đến nỗi thua lỗ, ăn lạm vào số vốn, nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu:
Một buổi tối ông Hạ bảo vợ và Tô:
“Trước đây tôi ưng thuận để mình buôn bán là cốt ý để mình quen với đời sống chật vật. Tôi cũng thừa biết lời lãi không mấy, chẳng bỏ công. Đã đến lúc mình nghỉ ở nhà đi thì vừa. Dạo này tàu hoả hay bị giựt mìn. Nhỡ một cái rồi ra hối không kịp.”
Bà cúi đầu im lặng, khuôn mặt hốc hác thoáng vẻ thấy vọng, buồn rầu. Ông Hạ đoán vợ chắc cũng đã nhiều lần cân nhắc, suy tính nên bỏ hay tiếp tục buôn bán.
Còn đương lưỡng lự chưa quyết hẳn bề nào, thời mấy ngày sau một tai nạn xảy đến cho bà Hạ, khiến bà đành nghỉ hẳn ở nhà. Tàu hoả bị giật mìn và bà bị thương ở chân.
Khi Tô về báo tin xấu, ông hốt hoảng hỏi:
“Có nặng không? Me bị thương ở đâu?”
Tô vội đáp:
“Không sao đâu ba ạ! Me được đưa ngay đến nhà thương và bác sĩ có nói với con chân me chỉ phải bó bột và nằm dưỡng bệnh vài tuần là khỏi.”
Yên tâm và biết chắc vết thương không trầm trọng mấy, nên suốt thời gian cùng Tô đi đến nhà thương, thái độ ông Hạ nghiêm khắc và lạnh lùng.
Tô đi bên ông lặng lẽ. Cách đó hai, ba hôm, Tô đã cãi lại ông:
“Ba luôn kêu ca nhà thiếu tiền và muốn các con đi làm. Đi buôn dù không lãi nhiều nhưng cũng giúp được gia đình phần nào. Tại sao ba không chịu? Theo ý con, cứ tiếp tục đi buôn cho đến khi hoàn toàn không lãi nữa mới thôi.”
Ông Hạ cũng tự biết, vì đã tỏ ra coi thường sự cản ngăn của ông nên vào giây phút này con trai ông đành câm miệng hến. Ông cũng không cần lên tiếng trách móc, hoặc mỉa mai cay độc. Cái chân bị thương của chính bà Hạ chắc cũng đủ dạy cho Tô một bài học cụ thể và đích đáng.
Vừa bước chân vào phòng vợ ông nằm ở nhà thương, bà ã vội nói ngay, giọng e dè và ngượng ngập:
“Tôi không sao đâu, mình đừng lo. Chỉ phải nằm đây ít lâu.”
Ông yên lặng. Vợ ông thu hết can đảm tiếp:
“Mình…! Tôi xin mình đừng mắng Tô tội nghiệp. Tại tôi ham mấy món lời. Và…cũng chính tôi xui nó cãi lại mình. Vả lại… Tôi vừa nhất định sẽ thôi đi buôn, sau khi ra nhà thương… Ông đáp ngắn ngủi:
“Thế cũng phải! Dạo này mình gầy đi nhiều. Lãi chẳng thấy đâu, đã thấy ốm với què.”
Bà Hạ thở dài. Cặp mắt đầy thương xót hướng về phía Tô, đang đứng tựa vào thành cửa sổ nhìn ra ngoài trời, quay lưng về phía hai vợ chồng ông bà Hạ.
Sau khi bà Hạ rời nhà thương về nhà, không ai bảo ai, bà và các con đều tránh không đề cập tới chuyện làm ăn buôn bán.
Việc chi tiêu trong gia đình từ đó trở đi hoàn toàn ông Hạ nắm giữ. Vợ ông không dám phản đối. Tô và Di, dù muốn hay không, cũng vẫn phải tuân theo những quyết định độc đoán của ông về mọi vấn đề. Trong khi chờ đợi ông kiếm cho chúng mỗi đứa một việc làm thích hợp, ông cho chúng theo học một trường trung học công lập. Tuy vậy thỉnh thoảng ông cũng không quên nhắc nhở chúng đừng quên đó chỉ là một đặc ân. Ông sẽ bắt chúng thôi học ngay, nếu chúng dám cãi lại, hoặc chống đối với ông.
Ông Hạ vẫn ngày hai buổi đi làm và nhẫn nhục chờ thời.
Năm năm qua. Ông Hạ xin được một chỗ làm tại một công sở. Số lương cũng tạm đủ cho sự chi dùng của gia đình. Tô và Di thay đổi hẳn. Chúng đã vượt qua tuổi thiếu niên đầy phức tạp và bắt đầu bước chân vào quãng đời thanh niên. Lan càng lớn càng xinh đẹp và giống mẹ hồi trẻ.
Hai đứa con trai ông Hạ càng lớn, ông càng chua chát nhận thấy những thay đổi trong tâm tính chúng không hợp với sự mong muốn của ông chút nào.
Riêng Di, chỉ trong có mấy năm nó đã gây cho ông bao nhiêu buồn phiền thất vọng. Di không sợ và kiêng nể ông như hồi còn nhỏ. Di không hề giấu diếm che đậy lòng oán ghét bố của hắn. Hắn không để lỡ bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ bằng hành động, lời nói: Hắn phủ nhận trọn vẹn quan niệm sống của ông Hạ. Làm thế nào để uốn nắn Di. Đánh hay chửi mắng? Không lẽ Di đã 17, 18 tuổi cao lồng ngồng mà ông còn đánh nó như một đứa trẻ.
Ngay từ hồi nhỏ, Di cũng đã tỏ ra có một tâm hồn rất dễ xúc cảm và một óc tưởng tượng quá phong phú. Rất dễ khóc và cũng rất dễ cười. Vì không muốn con trai tâm tính ủy mị và đàn bà nên ông Hạ hay mắng – “Con trai gì động tí thì khóc. Mày sinh ra làm con gái đúng hơn”. “Khóc! Khóc mà kiếm được cơm ăn à? Hồi tao bằng tuổi mày tao đã kiếm được tiền rồi”.
Về thể chất, Di giống mẹ nhiều hơn là bố: Đôi mắt sáng to, lông mi dài và cong, nét mặt đầy đặn và đường môi thanh tú, làn tóc mềm sõa trên trán rộng. Các bà rất ưa Di, hay nưng niu và cho quà. Thấy Di được nuông chiều quá đáng, ông bất mãn. Ông không trách vợ, đàn bà nào chẳng chiều con, nhưng ông đổ nỗi bực bội vào đầu Di: “Con trai sao cứ quấn lấy mẹ! Phải cứng rắng mạnh bạo chứ”.
Di sợ những hành động mạnh và có tính cách áp chế. Nó hình như không thể nào hiểu nổi tại sao trẻ con lại thích hợp thành bè phái, bắt nạt và đánh nhau. Tô hay phải bênh vực Di chống lại những đứa trẻ không ưa giáng dấp như con gái của em. Khi Tô một mình đánh nhau với hai ba đứa trẻ, Di đứng ngẩn người, mắt mở to đầy ngạc nhiên và cũng không hề nghĩ đến chuyện tiếp tay với anh.
Về nhà, bà Hạ lấy cồn soa bóp những vết xưng trên trán và tay chân Tô, Di còn hỏi những câu thật chướng tai, “Tại sao chúng lại đánh anh Tô hở me? Tại sao trẻ con thích đánh nhau? Di kinh lắm! không bao giờ Di đánh ai đâu me ạ!”Trước thái độ ông cho là hèn nhát của Di, ông Hạ quát lên: “Sao mày hèn thế? Chúng nó xúm lại đánh anh mày mà mày để mặc à? Tay chân mày để đâu…? Hừ! Nhớn lên thằng Tô cho làm quan võ được. Còn thằng Di? bộ mày suốt đời chắc chỉ quanh quẩn xó nhà bám váy me. À! Hay đi đóng tuồng giả làm con gái được đấy”.
Di sợ những lời chế giễu cay độc của bố hơn cả bị đánh mắng. Bà Hạ lắm khi thấy ông cứ nhắm vào đứa con thứ nhì làm tình làm tội, lên tiếng bênh: “Sao mình ác thế! Mình không biết nó khổ sở khi mình mang nó ra làm trò cười hay sao? Di hãy còn bé. Nhớn lên nó khác đi chứ”. Ông đáp tàn nhẫn “Phải thế mới được. Bé không vin, cả gẫy ngành. Nếu hành hạ nó mà nó khá lên được thời cũng rất nên”. Vợ ông im lặng không cãi, nhưng ông biết bà hầm không đồng ý với lối răn dạy con cái khe khắt của ông. Vợ ông đồng ý không thực ra ông Hạ cũng chẳng quan tâm.
Càng nhớn Di càng ít nói và không ưa những trò chơi mạnh. Khi Tô 12 tuổi, ông Hạ mua cho một chiếc xe đạp. Hễ nhàn rỗi, Tô nhảy lên xe đạp đi thật xa. Mới đầy, Tô còn chịu khó rủ em, nhưng sau nhiều lần thúc dục, thấy Di tỏ vẻ không thích thú những cuộc đi chơi ngoài những khoảng rộng, Tô đành đi một mình.
Di ham mê đọc sách từ nhỏ. Sách ông Hạ mua rất nhiều đủ mọi loại. Ngoài những sách viết cho trẻ con đọc, còn có những tiểu thuyết của các nhà văn hữu danh V.N. và sách dịch? Mặc dầu cấm các con đọc sách của người lớn, nhưng ông biết Di luôn luôn lấy sách cấm ra đọc. Mắng mãi cũng không chừa.
Di còn cố ý tránh dàn mặt với bố. Trừ trong những bữa ăn Di bắt buộc phải đối diện với ông Hạ, còn vào những khoảng thời gian khác trong ngày, Di tìm đủ mọi cách để có thể ngồi yên trong một xó kín đáo nào đó trong nhà, đọc sách và mơ mộng một mình.
Di tin tưởng vào Tkhông và coi như một người kiểu mẫu. Di cố gắng dập mọi hành động, suy luận ý hệt anh, một cố gắng không mấy khi đạt được kết quả. Mỗi khi ông Hạ mắng Di mà Di không tìm được đủ lý lẽ đối đáp, Di nhìn Tô cầu cứu. Ông Hạ bắt gặp nhiều lần hai anh em nghiêm trang ngồi bên nhau, Tô giảng giải, Di lắng nghe. Dần dần thái độ của Di cũng có vẻ cứng rắng mạnh bạo hơn trước phần nào.
Thấy Di có thể dựa vào Tô, bà Hạ cũng lấy làm mừng. Yêu con nhưng không dám bênh con ra mặt vì nể chồng, nhiều lần bà chỉ còn biết than thở với con cái, sau khi chồng rời khỏi nhà.
Ông Hạ cũng hay bắt gặp ba mẹ con Di, Tô thủ thỉ chuyện trò. Đôi mắt sáng lên thương yêu mến phục của vợ ông không rời khuôn mặt linh động của Tô. Hễ thấy ông, ba mẹ con tự động ngừng câu chuyện nói dở, trao đổi những cái nhìn kín đáo, hoặc lảng sang một vấn đề khác.
Sau khi nghĩ buôn bán, gia đình ông bà Hạ bắt đầu nợ. Vợ ông vay chỗ này một ít chỗ kia một ít, không cho ai hay biết, kể cá các con. Tiền chợ và chi tiêu lặt vặt ông giao cho bà quá ít – bà Hạ lại không phải hạng người có thể khoanh tay bất lực trước những kham khổ, thiếu thốn của những người thân.
Nếu ông biết vợ vay lãi ngay từ đầu, chắc ông đã có thể hoặc dùng uy quyền hoặc doạ nạt để ngăn cản. Nhưng thực ra ông đâu có thời giờ và tâm trí để theo dõi mọi hành động của vợ. Nhưng tình cảm hậm hực, bi quan đã chiếm hết tâm óc ông, ám ảnh ông ngày đêm.
Bà Hạ nay sắm món đồ này, mai sửa chữa món đồ khác, mua thêm thức ăn, chăm chút cho chồng và các con. Những món nợ chồng chất mãi lên nhau. Hàng tháng, bà Hạ chỉ vay nổi tiền trả nợ lãi, còn số nợ gốc tăng vùn vụt một cách đáng sợ.
Đến hôm chủ nhà đến tận nhà đòi và làm ầm lên, ông Hạ và các con mới khám phá ra bà nợ nhiều đến mức nào. Và từ đó trở đi chuyện nợ nần chẳng khác lửa được đổ thêm dầu, gây ra bao nhiêu cuộc cãi cọ, tranh luận giữa ông Hạ và vợ con.
Sau một thời kỳ trên bề mặt tương đối yên tĩnh, sóng gió lại xáo động cuộc sống của gia đình.
Vào một buổi sáng chủ nhật, cả gia đình ông Hạ đều ở nhà, một người khách đàn bà đến hỏi bà Hạ. Vừa trông thấy mặt bà ta, khuôn mặt bà Hạ tái nhợt nhạt. Bà vội chạy ra tiếp khách, dáng điệu lúng túng.
Bà Hạ thì thầm với bà khách những gì không hiểu, nhưng sau vài câu trao đổi, bà ta lộ vẻ tức giận, cất cao giọng nói không kiêng nể một ai:
“Thế bà nhất định không chịu trả? Bà còn khất đến bao giờ nữa? Tôi nể lắm mới gia hạn cho bà đến buổi nay, chứ người khác thì tôi đã lôi ra cẩm rồi.”
Bà Hạ bối rối nho nhỏ:
“Chết! Tôi xin bà. Bà nói khe khẽ thôi chứ…! Vâng, tôi sẽ cố…”
Người chủ nợ đứng phắt dậy, hai tay chống cạnh sườn, nhìn tất cả mọi người trông nhà một lượt, giọng thách thức:
“Tôi không việc gì phải nói khẽ. Tôi đến đây đòi nợ chứ không phải để xin tiền bà.”
Quan sát thái độ của vợ, ngay phút đầu ông Hạ đã nghi nghi, bây giờ mới vỡ lẽ: bà này là chủ nợ của vợ ông. Bà Hạ quay đầu nhìn chồng rất nhanh, khuôn mặt sợ hãi trông thật đáng thương.
Bà nắm tay người chủ nợ, nói liều:
“Vâng! Bà cứ về đi: đến sáng mai tôi sẽ đem đến trả bà…”
Người chủ nợ giật tay ra giận dữ:
“Tôi không đi đâu hết. Tôi sẽ ngồi lì đây đến hồi nào bà chạy được tiền trả tôi cả gốc lẫn lãi… Tôi tin vào lời hứa của bà để tôi chết đói rã họng ra ấy à. Hừ! Hứa với hẹn, khất ba lần bẩy lượt rồi chứ phải không đâu.”
Tô đứng dậy lại gần me, trán nói cau nhẹ, mắt nhìn người chủ nợ đầy khinh bỉ. Tô hỏi thẳng mẹ:
“Cái gì thế me? Có thật me nợ bà này một số tiền?”
Bà Hạ nghẹn ngào không nói lên lời, chỉ khẽ gật đầu.
“Bao nhiêu hở me?”
Bà Hạ yếu ớt đáp:
“Hơn bốn vạn!”
Ông Hạ vùng đứng dậy như ngồi phải lửa. Thế này thì quá lắm! Lỗi lầm của vợ ông không thể tha thứ được. Tại sao vợ ông dám tự ý vay một món tiền lớn đến như vậy? Chắc hẳn vay tiền để các con được ăn sung mặc sướng.
Nhưng nhìn khuôn mặt rắn như sành và đanh đá của người chủ nợ, sự thận trọng cố hữu của ông ghìm cơn nóng giận của ông lại. Ông phải thật khôn khéo và dò hỏi xem vợ có làm giấy tờ gì không. Nếu bị tù vì nợ, danh dự của ông, của gia đình còn gì?
Tô ngạc nhiên hỏi mẹ:
“Bốn vạn! Sao me không nói cho con biết? Mà mấy món nợ bà Bốn, bà Chi con đã đưa tiền me trả đầy đủ cơ mà?”
Người chủ nợ giơ tay lên sỉa vào mặt bà Hạ, giọng chua ngoa và đe doạ:
“Gớm thật! Bà có tiền mà bà không chịu trả tôi. Bà định ăn quịt phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi. Con mẹ này không phải tay vừa…”
Tô quay phắt lại nhìn thẳng vào mặt người chủ nợ, giận dữ.
“Tôi xin bà im ngay! Tôi đang nói chuyện với me tôi. Mà bà không cần phải nhiều lời. Chúng tôi không phải hạng người quen quịt nợ. Rồi bà sẽ được trả đầy đủ.”
Người chủ nợ vừa hé miệng định làm dữ, Tô đã tiến lên một bước, giọng cả quyết và đe doạ:
“Nếu bà mà nói thêm một câu thiếu lịch sự, tôi bắt buộc phải mời bà ra khỏi nhà. Đây là nhà chúng tôi. Nợ bà chúng tôi sẽ trả nhưng bà không có quyền làm ồn ào.”
Thấy tình thế có vẻ gay go, ông Hạ vội lại gần người chủ nợ, cười rất xã giao:
“Mời bà vào trong này ngồi chơi. Xin bà yên tâm! Tuy tôi không được biết rõ về chuyện nợ nần của nhà tôi nhưng rồi tôi xin lo liệu. Tôi là chủ gia đình, có gì tôi xin chịu trách nhiệm…”
Người chủ nợ còn lưỡng lự, ông vội thêm một câu:
“Chúng ta là người lớn cả! Đâu mỗi lúc mang nhau ra trước pháp luật. Gia dĩ, chắc khi cho nhà tôi vay tiền bà cũng quên một điều là vợ các công chức không có quyền vay nợ, nếu không được chồng cho phép.”
Biết gặp người thông thạo pháp luật, dù có làm ầm cũng không chắc đi đến đâu, người chủ nợ theo ông vào trong nhà. Ông khôn khéo hỏi cặn kẽ về món nợ của vợ nợ gốc hiện lên đến bao nhiêu, những điều kiện trả lãi và giấy tờ làm bằng chứng.
Sau gần một giờ đồng hồ điều đình, người chủ nợ ra về.
Không khí trong gia đình trở nên nặng nề khó thở, ngay sau khi người chủ nợ rời khỏi nhà. Bà Hạ ngồi cúi đầu gầm ra vẻ chăm chú khâu. Tô thì thầm trò chuyện với me. Bà lẳng lặng nghe, đôi mắt xâu chớp chớp, thỉnh thoảng lại thở dài. Nhưng tiếng thở dài não ruột của bà Hạ càng khiến ông, điên ruột. Di, từ lúc người chủ nợ bước chân vào nhà làm ầm ĩ và lăng nhục mẹ, vẫn ngồi bất động ở bàn học, khuôn mặt nó nhăn nhúm, cánh mũi phập phồng, đôi lông mày rậm nhíu vào nhau.
Ông Hạ mặt hầm hầm, đi đi lại lại trong nhà. Ông thầm nghĩ: “Được lắm! Thường lệ vợ con đoàn kết thành một phe để bênh vực lẫn nhau. Lần này thử xem còn ai bênh vực nổi ai nữa hay không”.
Ông lật đi lật lại chuyện vay nợ trong đầu, nhìn vấn đề dưới đủ mọi khía cạnh, cố tìm một lối thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng này của gia đình. Ông cũng không quên một sự kiện hiển nhiên: Vợ ông đã vay một món tiền lớn và đã lại dại dột làm giấy tờ hẳn hoi. Ông đã viện lý lẽ vợ một công chức không có quyền vay mượn tiền không có sự ưng thuận của người chồng để làm kế hoãn binh. Nhưng ông đã phải hứa sẽ trả thành nhiều tháng, vì biết nếu người chủ nợ nhất định kiện vợ ông trước toà, tên ông sẽ bị trưng lên mặt báo. Được toà xử vô can thì không sao nhưng nếu chẳng may bị tù tội…? Ông sẽ không còn hi vọng gây dựng lại sự nghiệp một khi danh dự mang một vết nhơ khó rửa.
“Bốn vạn bạc”. Với số tiền lương của ông dù trả thành nhiều tháng, đến bao giờ mới dứt món nợ. Mà chắc đâu vợ ông chỉ nợ có món đó. Chắc chắn còn vài món nợ khác vợ ông hãy còn dấu ông.
Suốt mấy năm hễ ông dự định làm gì là y như gặp khó khăn. Chưa bao giờ vận ông đen đến thế? Nhiều khi ông đâm nghi ngờ cả tài năng soay sở kinh doanh của ông. Nếu thực ông là người có bản lĩnh tại sao lại gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Thoạt đầu ông còn có thể đổ cho vận đen, nhưng dần dần lòng tự tin của ông bị lung lay đến tận cội rễ. Ông tự hỏi “Đen một hai lần chứ đâu có thể đen cả chục lần”. Hay có lẽ ông đã hết thời và bắt đầu già rồi?
Ông Hạ kéo một chiếc ghế, ngồi phịch xuống. Ông giang tay gạt mạnh. Mấy chồng sách, cốc chén văng xuống đất vỡ nát. Tiếng thủy tinh vỡ làm tất cả mọi người ngửng đầu quay mặt về phía ông.
Ông bắt đầu nói, giọng như quát. Càng nói cơn giận của ông càng bừng lên.
Ông hỏi vợ:
“Thế nào! Bây giờ bà nói ra làm sao? Tôi sẵn sàng giỏng tai lên nghe…! Bà vay tiền làm gì mà nhiều đến thế? Mà tại sao bà lại dám dấu tôi…? Bà tưởng bà vay nợ thời không liên can gì đến tôi phải không? Bà nhầm to! Nếu bà không trả nổi, con mẹ chủ nợ mang bà ra toà thì rồi chính tôi, bà nghe rõ chưa, chính tôi sẽ bị trừ lương hàng tháng cho đến khi nào hết hạn nợ…”
Trước những câu hỏi dồn dập bà Hạ không biết trả lời ra sao. Tô bênh me:
“Ba hỏi từ từ, chứ ba quát lên me trả lời sao kịp.”
Ông quắc mắt:
“Tao không nói chuyện với mày! Để mặc me mày trả lời…”
Bị dồn đến bước đường cùng, bà Hạ cũng đâm liều.
“Tôi vay để tiêu cho gia đình… Để mua thêm cái ăn cái uống cho ông cho các con… Để may thêm quần áo cho chúng và mua sách vở chúng cần dùng… Lâu ngày nợ gốc không trả được, lãi chồng lên nhau mới nhiều đến thế.”
“À! … Thế bây giờ người ta không còn coi tôi ra cái thớ gì nữa! Tôi ngồi đây để làm gì? Tôi là phỗng đá hả? Dính đến chuyện nợ nần gỡ ra đâu dễ! Vào tù như chơi. Trời ơi! Vợ với con. Tại sao bà không cho tôi biết từ đầu? Tại sao?”
Câu trả lời của vợ càng khiến ông tức giận thêm, mất hẳn bình tĩnh và tự chủ.
“Nói với ông chẳng ích gì! Ông lại la hét mà rồi con cái đói rách vẫn đói rách…’
“Bà cấm tôi la hét phải không? Từ bao giờ bà cho rằng tôi không đủ sức nuôi gia đình? Bà phải nhớ tôi la hét là có lợi cho bà. Tôi lo lắng kiếm tiền vì ai? Cho tôi à? Dễ thường trong gia đình này chỉ có tôi ăn, tôi tiêu, tôi phung phí tiền bạc… Phải chỉ có tôi ăn báo hại, báo cô…”
Tô bất mãn, ngắt lời bố:
“Ba nói hơi quá! Me chúng con đâu ăn báo hại lúc nào cũng tìm cách kiếm thêm tiền đỡ ba đấy chứ! Me chẳng đi buôn là gì?”
“Đi buôn! Mày đừng nhắc đến chuyện đi buôn nữa mà tao lộn ruột. Suýt nữa què một cẳng, mà lãi đâu? Lãi đâu?”
“Cứ cho là không lãi đi, nhưng ba cũng phải công nhận là me đã làm hết sức rồi…”
“Tôi không cầu ai làm hết sức! Tôi chỉ mong mọi người để tôi yên. Đừng phá tôi, đừng làm nhục tôi, đừng đưa tôi đến cảnh tù tội! Nợ đến hàng chục vạn trả đến kiếp nào mới hết!”
Quay về phía vợ, ông hỏi mỉa:
“Bà tưởng tôi là con trâu kéo cày trả nợ cho bà phải không?”
Bà Hạ tự nhiên ôm lấy đầu, mắt nhắm lại, nước da tái xanh miệng kêu lên:
“Sao tôi chóng mặt thế này…?”
Tô đỡ me nằm xuống giường. Lan chạy vội lấy nước và mấy viên thuốc cảm.
Ông còn cố nói với:
“Sao lại vác cái lo lắng vào người. Vay nợ phải suy tính trước sau chứ…?”
Hình như bị động lực mãnh liệt thúc đẩy, Di vùng đứng lên mặt nhăn nhó, ánh mắt oán ghét. Giọng nói run rẩy:
“Sao ba không thôi đi! Ba nói thế chưa hả hay sao? Ba không thấy me ốm nặng mà còn hành hạ me?”
Ông Hạ hơi ngạc nhiên, nhìn Di. Thằng này điên hả? Dám hỗn cả với bố nó. Ai hành hạ gì me nó? Ông chưa kịp mắng Di, nó đã rảo bước ra khỏi phòng, không quay đầu lại.
Bà Hạ ốm dai dẳng hơn một tuần lễ. Căn bệnh của bà không rõ rệt, không hẳn ra cảm sốt, cũng chẳng phải là cúm. Người bà cứ rạc đi, mắt trũng sâu, không ăn không ngủ được. Mặc các con thúc dục, bà cũng không chịu đi khám bác sĩ và thoái thác: “Me khó chịu soàng thôi mà. Mai khỏi!”
Ban ngày bà tránh nói chuyện với chồng. Đêm đến nằm cạnh ông, bà hay trở mình vật vã, chốc chốc lại thở dài.
Trước đây trong đời sống vợ chồng, những lúc nằm trò chuyện trước khi ngủ là giây phút tương đối gần gũi và thân mật giữa ông bà Hạ.
Muốn biết điều gì về các con ông có thể hỏi vợ và nếu bà muốn bênh vực tranh đấu cho các con thời cũng lợi dụng được mỗi thời gian đó nêu các vấn đề gay go lên mà không e ngại ông gắt và mắng lấp đi.
Dạo này, mặc dầu ông cố ý gợi chuyện, bà cũng chỉ trả lời cho qua, đoạn nằm vắt lên trán mắt nhắm lại giả vờ ngủ. Ông hơi bực mình trước thái độ cách biệt đó của vợ. Vợ ông không có quyền giữ những mối lo âu riêng cho mình. Ông muốn vợ phải hỏi ý kiến, nương tựa vào ông, bám víu vào ông, trong mọi trường hợp.
Cả đêm ông Hạ nghi ngờ tự hỏi: Hay có lẽ vợ ông không còn tin cậy trông mong vào ông như xưa? Vợ ông cũng như các con, cho rằng ông là một người bất đắc chí, hết thời mà vẫn cứ tưởng mình tài giỏi.
Lần đầu tiên trong đời ông hiểu thế nào là cô độc.
Đêm này qua đêm khác vợ chồng ông nằm cạnh nhau, chia cách bởi một bức tường thành vô hình và cùng cảm thấy bất lực như nhau trước số mệnh.
Ông có thể chịu đựng cô độc, nhưng cảm thấy mình bất lực thật là một cực hình ghê khiếp.
Trong thời kỳ bà Hạ ốm đau và dưỡng bệnh, ông nhượng bộ không hề đả động đến nợ nần. Ông kiên nhẫn đợi đến khi vợ hỏi hẳn bệnh. Tuy ông đã giao hẹn với người chủ nợ, hàng tháng sẽ thân hành mang tiền đến tận nhà, nhưng không hiểu tại sao ông lại không cho vợ hay biết sự thoả thuận đó giữa ông và chủ nợ. Hễ có tiếng gõ cửa vợ ông lại giật mình, khuôn mặt nhợt nhạt, nằm trên giường thân hình bất động và chờ đợi…
Hôm vợ gần khỏi, ông Hạ mới kể vắn tắt công chuyện nợ nần đã được giải quyết cách nào. Bà Hạ ngồi yên, đầu cúi, không hé miệng nói một câu.
Ông Hạ tưởng với tư cách một người chủ gia đình, cố gắng thu xếp như thế là hết, không thể chê trách được. Thế mà ông linh cảm hình như các con – nhất là Di và Lan – lại còn đổ hết lỗi cho ông: Lỗi tại ông nên bà Hạ nợ nhiều đến thế, lỗi tại ông nên bà Hạ ốm đau. Sự vô ơn của các con làm ông Hạ thâm gan tím mật. Chúng đã không hiểu ông, tại sao ông còn tỏ ra rộng lượng làm chi?
Khi vợ ông khỏi hẳn và bắt đầu ăn trả bữa, ông lại mang chuyện nợ nần ra nói. Gia đình đã túng thiếu, mỗi tháng lại phải trích 2.000$ tiền lương để trả nợ, nên các sự chi tiêu lại càng phải dè sẻn hơn. Ngay đến thuốc lá rẻ tiền ông Hạ nhiều lúc cũng không đủ tiền mua. Các món ăn quá thanh đạm ông nuốt không nổi. Thời tiết mùa nực khiến nhà biến thành một cái hòm lớn. Hà tiện tiền điện đến nỗi có cái quạt máy cũ ông cũng không dám bật lên. Ăn không được, ngủ không được, ông gầy đi và ngày càng khó tính và khe khắt.
Đêm đến trằn trọc trở mình đi trở mình lại, giấc ngủ vẫn không đến: Ông Hạ dằn vặt vợ, nói những câu mỉa mai như róc thịt. Nằm nghe hoài những lời trách của bố, Di đang đêm đùng đùng dậy mặc quần áo, mở cửa đi đâu không biết, mặc dầu ông Hạ đe.
“Muốn chết hả! Nhà binh đang thiết quân luật, đi lớ quớ lính tuần bắn chết mất xác.”
Những ngày đen tối của gia đình ông Hạ tiếp tục trôi qua. Vợ ông ngày nào cũng phải nghe những lời trách móc dai dẳng của ông, nên tâm tính thay đổi hẳn. Trước kia bà tươi tắn hay cười nói, duyên dáng không ai gặp mà không ưa mến; bây giờ ít nói, ra vào như một cái bóng, lúc nào cũng ngẩn ngơ như người bị một ác mộng ám ảnh. Nhiều lúc bà ngồi thừ người hàng giờ đồng hồ. Đôi khi ông còn bắt gặp vợ khóc một mình.
Trong câu chuyện với các con, dần dà bà Hạ đưa ra những lý luận lời lẽ hơi kỳ lạ.
Bà nhận hết lỗi về phần mình. Lỗi với chồng vì không biết thu va thu vén, tiết kiệm mọi chi tiêu để đến nỗi sợ như chúa chổm, vì buôn bán vụng về không kiếm thêm được tiền nuôi con ăn học đâu ra đấy; vì không khéo léo hoà giải mỗi người trong gia đình nên không lấp được vực sâu oán hận thù ghét nhau giữa chồng và các con.
Bà lại còn bênh chồng “Trước kia ba đâu có thế! Tại me cả! Các con cứ trách me đây này!”Bà còn nhắc lại hồi mới cưới nhau và có con, ông đã chứng tỏ là một người chồng người cha kiểu mẫu thương mến vợ con như thế nào. Các con bà ngạc nhiên, bỡ ngỡ. Không biết chúng có tìm ra nguyên nhân thầm kín đã khiến mẹ chúng thay đổi thái độ hay không, nhưng nể và yêu mẹ, chúng bảo nhau tạm thời tránh đề cập tới những sự “độc ác”của bố. Chúng còn cố gắng tìm đủ mọi cách giúp mẹ quên đi một phần nào cảnh buồn của gia đình. Chúng khôi hài và làm ra vẻ coi nhẹ chuyện nợ nần. Nghe những câu khôi hài của các con, bà Hạ cũng chiều chúng cười đấy, nhưng rồi sau đó buồn và lo lắng hơn.
Về phần ông Hạ, ông không chịu nổi sự khôi hài cười cợt giả tạo và không đúng chỗ đó của các con. Ông cho thế là hèn nhát và trốn tránh thực tại. Nghe chúng bông đùa về chuyện quần áo mỗi người đều cũ và mạng tứ tung, thiếu tiền ăn sáng phải ăn cơm nguội. Di đi học phải lê một đôi giày há mõm, Tô không bao giờ có đến chục bạc trong túi v.v… Ông lộn cả ruột gan muốn tát cho mỗi đứa một cái – như hồi chúng còn nhỏ – để làm chúng tỉnh ngộ. Chúng không biết thế nào là nhục nhã hay sao mà còn cười.
Chiều đến, và các con thích bác chõng ra hiên trước nhà hứng gió và chuyện trò mơ tưởng những chuyện cao xa, tưởng tượng ra những thú vui mọi người sẽ được hưởng nếu có nhiều tiền. Bà Hạ mơ xây được một biệt thự ở Đà Lạt có đầy đủ phòng cho cả gia đình, hoặc hè đến rồi rào tiền nong cho các con ra bể tắm, nghỉ ngơi. Bà còn gợi lại những kỷ niệm êm đẹp của thời con gái sống trong một gia đình khá giả.
Ngồi bó gối lẻ loi trong nhà, xa cách hẳn vợ con, ông Hạ nhiều lần tưởng chừng đang nghe một lũ người điên hay dở người trò chuyện. Mơ mộng hão huyền hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Tuy ông Hạ soay sở tìm được mấy chỗ làm cho Tô, giúp đỡ một ông bạn thầu khoán của ông trông nom các tù binh tại một công trường, hay làm bồi cho một sĩ quan Pháp, nhưng hễ ông đưa đề nghị nào ra, vợ ông – thường lệ vẫn phục tòng ông – đều khăng khăng phản đối “Thà để các con chết đói còn hơn làm đầy tớ cho người ngoại quốc”. “Trông nom phu phen thường có kham khổ may ra. Tô còn kham nổi, nhưng đốc thúc tù binh phải đánh đập họ dã man lắm. Vả lại, nếu các bác thằng Tô một ngày kia trở về biết chuyện, tôi còn mặt mũi nào…”
Cho vợ chỉ là đàn bà câu nệ, ông hỏi thẳng ý kiến Tô. Tô nín lặng. Khuyên nhủ nhẹ nhàng, mắng mỏ, Tô lơ đãng miễn cưỡng nghe. Tô đợi khi ông hết lời, buông độc một câu ngắn ngủi “Con chịu thôi. Con không thể làm vừa lòng ba”, ông nản lòng, đành bỏ cuộc. Nhưng, ông đâu ngờ Tô đã ngầm đến gặp ông bạn của bố, nhận một chân phu đốc công trại một công trường bên kia Gia Lâm, trông nom phu mộ ở mấy làng kế cận. Trong mấy tháng liền, Tô xin nghỉ học để “dưỡng bệnh”, đạp chiếc xe cọc cạch qua cần sông cái, làm việc suốt ngày ngoài nắng đến tối mịt mới trở về, ông Hạ cũng không hay biết mảy may.
Mãi đến hôm Tô hỏi me trước mặt người chủ nợ “Con đã đưa tiền me góp trả đầy đủ các món nợ bà Chi, bà Bốn rồi cơ mà…” ông mới nghi ngờ, và sau đó tra hỏi Tô:
“Mày góp tiền trả nợ hộ me? Mày lấy tiền ở đâu?”
“Con giúp bác Phú trông nom phu bên Gia Lâm, mỗi tháng bác trả 1.200$.”
“Sao mày không cho tao biết?”
Tô nhún vai thản nhiên đáp:
“Cho ba biết thì làm sao góp được tiền trả nợ cho me.”
Ông Hạ thầm nghĩ “À ra vậy! Nó đi làm cốt để trả nợ cho me, không phải vì bị mình bó buộc”.
“Hiện thời mày còn làm với bác Phú không?”
“Không! Con xin thôi ngay sau khi trả xong hai món nợ cho me.”
Đôi mắt long lanh sáng của Tô soi mói nhìn bố. Tôi tiếp luôn, miệng thoáng một nụ cười chua chát, khinh thị:
“Chắc ba muốn con đi làm chứ gì? Đáng tiếc, bác Phú đã tìm người thay chỗ con mất rồi. Tuy nhiên nếu ba muốn, còn cái chân bồi hay bếp gì đó ba nói đến dạo trước, còn trống hay không? Kể ra, làm bồi cho một sĩ quan Pháp vào thời này cũng vinh dự cho cha mẹ lắm đấy chứ? Con cũng chỉ bắt chước óc thực tế của ba thuở nhỏ, đâu có gì xấu phải không ba?”
Bất giác ông vung tay tát Tô một chiếc. Tô đưa tay lên xoa má, vẻ mặt đanh lại. Hắn nhìn chăm chăm vào mặt bố, môi mím chặt, những thớ thịt hai bên hàm nổi hẳn lên. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được, gượng gạo nói:
“Xin lỗi ba!”
Tuy miệng xin lỗi, khuôn mặt Tô lại thoáng một vẻ kiêu hãnh khác lạ. Thật trái ngược, ông Hạ cảm thấy trong hai người kẻ thua trận bị lăng nhục lại là ông.
Tô ra khỏi phòng, ông Hạ vẫn ngồi trầm ngâm.
Về phần Di, Di đi về thất thường, nhiều tối không ngủ nhà. Di vẫn đi học nhưng hắn không mấy quan tâm đến bài vở thi cử. Thông minh thứ hạng điểm số của Di luôn luôn dưới mức trung bình. Ông Hạ mắng, Di cúi đầu nghe, vẻ mặt thờ ơ, chịu đựng – một sự thờ ơ còn khiêu khích và hỗn xược gấp trăm nghìn lần những câu phản đối cãi hướng.
Tệ hơn nữa, Di hình như còn định tâm gây ra nhiều chuyện rắc rối cho gia đình, và dĩ nhiên cho chính bản thân nó.
Đầu tiên là chuyện Di gây sự và cãi bướng với một người đội cảnh sát Tây.
Hôm đó ông Hạ đi làm về chưa kịp thay quần áo thời có tiếng gõ cửa. Một người cảnh sát Việt, đứng tuổi, tóc và bộ râu ghi đông cuốc điểm bạc, khuôn mặt vuông hiền lành, bước vào nhà hỏi:
“Đây có phải nhà cậu Di? Xin lỗi ông! Tôi chắc ông là ba cậu Di, vậy xin mời ông lên cẩm làm giấy bảo đảm và đón cậu ấy về…”
Ông hỏi Di bị bắt về tội gì, ông ta cười đáp:
“Cậu ấy đi xe không phanh lại đi trái đường. Ông đội Tây ra lệnh cho tôi bắt cậu ta vào bóp hỏi giấy tờ. Ông đội hỏi tên tuổi giấy tờ cậu ấy chẳng buồn cho biết lại còn cãi bướng “Tôi không có giấy tờ. Tôi không có nhà. Hỏi gì mà lắm thế!” Bị ông đội tát cho mấy chiếc cậu Di trừng mắt lên mắng “Đồ thực dân!” May mà ông đội không biết tiếng Việt. Rồi cậu ấy bảo tôi “Cụ làm ơn dẫn tôi đến phòng giam. Tôi không trả lời đâu”.
Ông ta cười tha thứ, lắc lắc cái đầu:
“Con trai thời này bướng thật! Tù cũng chẳng sợ!”
Ông Hạ cám ơn ông đã bênh vực cho Di. Ông đáp giản dị:
“Đâu có gì! Chẳng là tôi cũng có một thằng con trai tính nết bướng bỉnh chẳng khác gì cậu Di… Nó bị đạn lạc chết hồi Tây Ta đánh nhau trong thành phố…”
Ông thở dài nhỏ nhẹ khuyên ông Hạ:
“Tôi không muốn xen vào chuyện dạy dỗ con trẻ của ông, nhưng có lẽ ông nên răn dạy cậu Di bớt ngang tàng một chút. Nhỡ ra bị nghi là Việt Minh rồi tù tội thì khổ.”
Ông Hạ sượng sùng không biết đáp ra sao. Nếu trả lời người cha yêu con đó “ông cứ bỏ tủ nó đi cho nó sáng mắt ra”, chẳng hoá ông thú nhận không những không dạy nổi con cái mà còn phải nhờ pháp luật trừng phạt để thoả lòng oán ghét của ông.
Sau khi ông Hạ giở hết tài ngoại giao ra xin lỗi viên đội Tây, Di được tha. Di lẳng lặng theo ông về nhà không hề lộ vẻ biết ơn. Về đến nhà ông mắng, Di đáp gọn lỏn:
“Ba đến đón con làm gì cho mất công. Cứ để mặc con bị giam ở bóp có hơn không. Con đâu có sợ! Hay ba tiếc trăm bạc nộp phạt…?”
Ông nổi giận cổ nghẹn tức chưa kịp phản ứng, Di thọc xâu hai tay vào túi, cánh môi trề xuống, buông một câu:
“Mà xin xỏ cái thằng đội Tây đó làm gì! Trông cái mặt thực dân của nó, con chỉ muốn tát chuyện cho mấy cái rồi muốn ra sao thì ra…”
Bà Hạ ngồi gần đó, hốt hoảng nhổm dậy níu chặt lấy cánh tay chồng. Ông gạt vợ ra quăng cái gối xuống đất, giọng đầy khinh bỉ:
Bà không cần phải can. Đánh đứa con bất hiếu vô ơn này làm gì cho bẩn tay. Di! Mày đi đâu thì đi cho rảnh mắt tao…”
Di không nói nửa lời, lầm lũi ra khỏi nhà.
Tô từ đầu đến cuối vẫn ngồi im lặng quan sát bố và Di không can thiệp.
Tối đến ông Hạ trằn trọc mãi không ngủ được. Ông nằm vắt tay lên trán nghĩ ngợi miên man. Xưa nay trong vẫn ghét thậm tệ những tình trạng tranh tối tranh sáng.
Trong một khoảng thời gian ngắn ông đã đánh đập hai đứa con trai. Từ khi chúng bắt đầu lớn và hiểu biết, nhiều khi ông quát mắng chúng, nhưng chưa lần nào phải dùng đến chân tay. Đánh chúng là phải hay trái? Ông có thể tự bào chữa: Chúng hỗn láo và xúc phạm đến ông, đánh là đáng lắm. Nhưng một câu hỏi quái ác vẫn lởn vởn trong trí óc ông. Ông đã khổ công nuôi dạy chúng đến khi khôn lớn, tại sao chúng lại trả ơn bằng khinh bỉ oán ghét, hoặc thờ ơ cách biệt? Dĩ nhiên đôi khi ông cũng đã tỏ ra quá khe khắt và hành hạ chúng đôi chút, nhưng cũng vì bị thúc đẩy bởi thiện ý muốn chúng nên người, đầy đủ bản lĩnh đối chọi với đời. Ông đâu có sống chỉ vì đồng tiền. Sở dĩ ông say mê với tham vọng làm giàu là khổ vì đồng tiền quá nhiều trong thời thơ ấu và tuổi thiếu niên, ông không muốn vợ con ông nhục nhã trong cảnh nợ nần nghèo túng. Các con và kể cả vợ ông không chịu hiểu cho ông điều đó. Mà thực ra có ai chịu tìm hiểu tâm sự thầm kín của ông đâu?
“Vợ và các con ông không chịu tìm hiểu ông!”Tất cả những chuyện rắc rối trong gia đình đều phát xuất từ đấy mà ra. Đã vậy, tại sao ông không giải thích cho họ hiểu? Các con ông lớn rồi, óc phán đoán cũng đủ vững vàng để phân biệt phải, trái. Gặp cơ hội thuận tiện ông sẽ giải thích cho cả gia đình hiểu tâm sự của ông.
Sau hôm bị bố đánh, Di bỏ nhà đi dâu ba, bốn hôm không về. Ông Hạ vịn vào sự vắng mặt của Di, hoãn ít lâu ý định giải thích cùng mọi người trong gia đình. Thực ra ông cũng chưa quyết định hẳn; hễ định mở miệng thổ lộ những tư tưởng thầm kín là y như có một sức mạnh vô hình chặn họng ông. Sau năm hôm vắng mặt Di trở về nhà. Suốt trong bữa cơm chiều ông Hạ trò chuyện với vợ, Lan và Tô làm ra vẻ không lưu tâm đến sự có mặt của Di. Cơm nước xong xuôi ông ngồi ở bàn và tiếp tục câu chuyện dở dang với vợ. Khi ông cố gắng giảng giải là món nợ bốn vạn của bà sẽ trả xong trong năm tới, Di ngồi ở cạnh đó tự nhiên cười khảy một tiếng và nói khá to:
“Tiền! Lúc nào cũng kêu ca thiếu tiền…”
Ông Hạ quắc mắt, giọng đanh lại:
“Thế thì sao?”
Vợ ông lo lắng nhìn ông và Di. Giọng của Di ngầm mang một ý nghĩ thách thức. Tô thấy câu chuyện có vẻ gay go chêm vào, giọng khôi hài:
“Thì kiếm thêm chứ sao phải không me?”
Di mím môi ngồi không yên, dáng mặt nóng nảy. Ông Hạ gay gắt:
“Tôi xin nói để mọi người hiểu là để mặc tôi lo liệu! Hay có ông con nào muốn kiếm tiền thay tôi? Hừ còn là mệt mới thay nổi thằng bố già này…”
Di buông sõng một câu:
“Thật không! Ba cứ làm như kiếm tiền khó lắm…”
“Thưa ông không khó đâu, nhưng cái mẽ ông đi làm phu chưa chắc ai mướn…”
“Nếu ba cần tiền đến thế thì tiền đây!”
…
Mọi người hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông Hạ. Ông hơi ngạc nhiên nhìn tập giấy bạc rồi lại nhìn Di. Chẳng lẽ Di thay đổi chóng thế, hết mơ mộng viễn vông và đã chịu khó kiếm việc làm giúp gia đình? Nếu vậy thì hay lắm! Ông sẽ cầm tiền, khen Di mấy câu và tiện thể hoà giải với tất cả mọi người trong gia đình. Đây là cơ hội ông không bỏ qua…
Nếu Tô không khéo can thiệp kịp thời, chắc ông Hạ đã vứt tiền vào mặt Di và đánh Di mấy cái tát. Di tưởng ông không đủ thông minh để hiểu ý nghĩa hành động hỗn sược của nó. Di cho rằng kiếm được một món tiền đưa cho ông, nó đã có quyền khinh bỉ sự tha thiết đồng tiền của bố. Di muốn làm nhục ông trước mặt mọi người.
Khi thấy mặt bố cau lại và rút mạnh tay về, Tô thản nhiên cầm số tiền lên, miệng tươi cười.
“À! Nhà phải ăn khao cái đã! Đây là tiền Di đi làm buổi tối đây mà. Con giao cho me làm một bữa cơm gà vịt ăn cho sướng mồm.”
Di nhìn ông một lần nữa.
Mấy ngày sau tình cờ nghe hai anh em Di, Tô chuyện trò với nhau ông Hạ có dịp biết thêm ít điều mới lạ và khá bất ngờ về ý nghĩ của các con trai ông về chính ông.
Trưa hôm đó sau bữa cơm, ông nằm ngủ ở giường phòng ngoài. Đêm đến ông thường trằn trọc khó ngủ, nên giấc ngủ trưa tuy ngắn ngủi thường vẫn giúp ông lấy sức khá hiệu quả. Ngủ mê mệt được một lúc, ông Hạ chợt tỉnh giấc. Ông không ngồi hẳn dậy, nằm mơ màng, vì đoán chưa đến giờ đi làm. Tiếng Di và Tô rì rầm nói chuyện ở đâu đây. Chúng ngồi ở chiếc bàn phía trong. Ông không nhìn thấy chúng, một chiếc màn ngăn chia chỗ ông nằm và nửa phòng phía trong.
Thoạt đầu ông không lưu ý đến câu chuyện giữa Tô, Di nhưng sau thấy thoáng nghe thấy những tiếng “ba”ông đoán chúng đang nói đến ông. Ông lắng tai nghe. Chắc chúng tưởng ông ngủ say sưa như thường lệ, nên bàn tán không giữ gìn.
Tiếng Tô hỏi Di vẳng đến tai ông Hạ:
“Suỵt! Ba còn ngủ đấy chứ?”
Ông nhắm mắt lại vờ ngủ, cố giữ hơi thở đều đặn. Di vạch màn nhìn sang chỗ bố nằm
Di trả lời ngay:
“Ba ngủ say lắm!”
Chúng tiếp tục câu chuyện dở dang.
Tiếng Tô nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
“Tại sao hôm đưa tiền cho ba, Di có vẻ hằn học thế?”
“Em đâu muốn vậy! Mà nếu thật ra em đã có thái độ hằn học, em cũng chẳng cần.”
Giọng Tô châm biếm:
“‘Di đâu có muốn hằn học!’. Di không đùa đấy chứ? Tại sao không thú thật đó là một thái độ cố ý!”
“Anh rắc rối lắm! Em đã bảo em cóc cần mà! Mà tại sao em không có quyền hằn học, nếu em muốn thế!”
“Đấy nhé! Di công nhận Di cố tâm kiếm bằng được một số tiền để có thể “ném”vào mặt ba và có cơ hội bộc lộ tất cả sự hằn học của Di. Đúng thế không?”
“Cứ cho rằng Di công nhận đi thì sao? Anh định đưa câu chuyện đến đâu?”
Tô rành rẽ:
“A! Anh muốn biết sau khi chứng tỏ Di kiếm nổi ra tiền và tự lập, Di có ý định rời bỏ gia đình hay không?”
Im lặng một phút. Di lẩm bẩm chua chát:
“Anh suy luận nhanh nhỉ! Anh tưởng anh đọc rõ những tư tưởng trong óc Di phải không? Phải rồi anh vẫn thường tự phụ rất sành tâm lý mọi người mà!”
“Di cáu với anh đấy hả?”
“Không! Di không cáu khi thấy anh soi mói tâm hồn người khác, nhưng rất ‘bực mình – và – khó chịu’ vì cái giọng làm ra vẻ thản nhiên của anh khi đề cập tới những đau khổ của mọi người.”
Tô láy lại, chế riễu:
“Anh thản nhiên khi nói tới những đau khổ của Di! Lạ nhỉ! Anh có cảm tưởng Di giận anh.”
“Phải nói là Di bất mãn mới đúng! Ừ! Tại sao anh cứ đòi đóng cái vai quan toà hạch tội nhân? Tại sao Di hằn học? Tại sao Di làm thế này, thế kia? Anh đừng quên anh cũng là người trong cuộc! Anh cũng hằn học và oán ghét ba không kém gì em!”
Im lặng. Tiếng Tô lại cất lên:
“Di khó tính lại nhiều tự ái! Làm gì có chuyện ai là quan toà ai là tội nhân ở đây. Có điều Di quên mất là anh và Di tính nết khác nhau. Di hằn học, Di muốn lộ tình cảm đó ra mặt, anh cũng có thể hằn học, nhưng anh dấu kĩ thì sao.”
Ngừng một chút, Tô tiếp giọng thành thật và dịu dàng như muốn làm lành với em:
“Hay bây giờ Di và anh gạt sang một bên những chuyện cãi vã rắc rối về bản chất của anh và Di. Tại sao Di không nghĩ rằng anh hỏi Di chỉ vì muốn tìm hiểu chút ít về Di. Dạo này Di và anh không có dịp nói chuyện với nhau… Anh ngại rằng nhiều điều anh nghĩ về Di có thể sai lầm. Di hình như muốn sống cách biệt với mọi người… với anh. Dĩ nhiên anh không trách móc Di nhưng ít nhất Di cũng phải để mọi người giúp Di chứ.”
Trước những lời lẽ lúng túng của anh. Di ngắt lời:
“Em hiểu anh!”
“Nếu vậy Di nói thẳng ra đi! Có phải vì muốn tỏ ra khinh bỉ ba nên Di đã quyết định bỏ học đi làm kiếm thêm tiền. Trong tuần qua, Di không bước chân đến trường, anh đã làm giấy phép xin nghỉ cho Di, nhưng anh dấu cả me lẫn ba. Di còn muốn đi học nữa hay không?”
Di trả lời, giọng mệt mỏi chán nản:
“Em không biết nữa! Em cũng không rõ sẽ phải nghĩ gì làm gì. Bao nhiêu vấn đề cấp bách phức tạp em cần phải giải quyết. Ngay vấn đề ba và em chẳng hạn!”
Di ngừng một chút, đoạn tiếp giọng cả quyết:
“Em sẽ nói hết anh nghe ý nghĩ của em về ba. Từ dạo tản cứ về ba không ngớt than phiền kêu ca về chuyện tiền. Đối với ba kiếm tiền và thành công là những chuyện quan trọng nhất trên đời. Ba than phiền nhà mình nghè. Ba đe doạ anh em chúng mình sẽ có ngày phải đi ăn mày làm phu phen để kiếm sống. Chuyện này em chẳng phải nói dài, anh cũng rõ như em. Nhưng ba tha hồ mắng nhiếc và hành hạ mọi người, anh và em nhớn rồi cũng đủ sức chịu đựng ba. Miễn là ba đừng đụng chạm đến me.”
Giọng Di nghẹn ngào:
“Em không tưởng tượng nổi, khi hành hạ áp chế một người yếu hơn mình, người ta lại có thể cảm thấy vui thú. Thử hỏi me có tội gì? Từ khi lấy ba đến giờ me ăn bao nhiêu cơm và tiêu bao nhiêu tiền của ba? Lúc nào me cũng tươi cười, nhẫn nhục chịu đựng ba. Ba đâu biết ba làm khổ me đến bực nào. Me không than thở kêu ca, nhưng me khổ ngấm ngầm? Nghe những lời riếc móc ray rứt me muốn khóc mà cũng không dám. Dạo chúng mình còn bé chẳng nhiều lần bắt gặp me khóc thầm là gì? Ba luôn luôn chỉ biết có ba. Ý kiến của ba là nhất ai cũng phải theo. Nếu cưỡng lại ba sẽ tìm cách ép buộc phải vâng theo ba.”
Tô xen vào:
“Di! Di muốn thêu dệt ra những chuyện thực ra không hề xẩy ra hay sao?”
“Thôi Di! Làm sao chúng mình biết được những chuyện thầm kín giữa ba và me. Hơn nữa, nếu kết tội ba một phần nào Di cũng kết tội me. Theo ý anh, không ai hoàn toàn vô tội cả, kể cả me chúng ta.”
Di bướng bỉnh cãi:
“Em không tin me có lỗi!
“Hay em không ‘muốn’ tin thì đúng hơn… Anh yêu me, nhưng cũng không lạ gì tính me. Một khi đã yêu con chiều con, me quên hết mọi thận trọng, tính toán. Me vay nợ lu bù để bù đắp cho chúng ta. Làm sao anh lại có thể trách me yêu các con? Anh tự hào có người mẹ như me! Tuy nhiên gia đình mình sẽ đi đến đâu, nếu me tiếp tục vay nợ? Em thử nghĩ xem?”
Hai anh em lại im lặng. Ông Hạ nằm không động cựa, và không dám thở mạnh. Ông đâu ngờ Di khe khắt với ông đến thế.
“Anh không biết chứ dạo me đi buôn, ngồi ở lớp học em lo lắng ghê rớm. Lúc nào cũng thấp tha thấp thỏm chỉ sợ tầu bị mìn và nhỡ me làm sao mỗi buổi tối thấy me và anh trở về bình yên, em nhẹ hẳn người và mừng không thể tưởng được. Càng mừng em càng thù ghét ba. Tại ba hết! Sau này, me ốm và gãy chân, ba chắc hể hả lắm. Ai bảo mọi người trái lời ba! Trông bộ mặt đắc thắng của ba, em mong me và anh chết cả trong một tai nạn tàu để xem ba phản ứng ra sao. Liệu ba còn sống nổi một mình hay không?”
“Sao Di hay nghĩ ra nhiều chuyện rắc rối làm khổ mình cho mệt. Chỉ vì muốn ‘trả thù’ ba, Di muốn me và anh chết đi hay sao?”
“Em cũng biết nghĩ thế là bậy, nhưng anh đã hỏi em cũng không giấu.”
“Em thật kỳ lạ!”
Di nhắc đi nhắc lại hai chữ “trả thù” Tô vừa nêu ra.
“Trả thù! Trả thù! Có lẽ anh nói đúng! Em thù ba! Ngay từ hồi bé. Anh còn nhớ hồi nhỏ, em đâu bạo dạn như anh. Em rút rát như con gái. Nhưng, tại sao ba không để em yên thân? Ba chế nhạo em, mắng chửi em và không hề quan tâm là tâm hồn một đứa trẻ nhạy cảm và mỏng manh đến mực nào. Dĩ nhiên em khác hẳn tính ba hồi nhỏ. Nhưng, tại sao ba muốn em phải có được bộ óc thực tế sát đất của ba? Tại sao ba muốn em phải sớm đụng chạm với những sự ti tiện của đời sống? Ba khổ thuở bé, nên thấy các con được hưởng một đời sống vật chất và tình cảm tương đối sướng hơn, ba không chịu được!”
Giọng Tô suy nghĩ:
“Em nói cũng có phần nào đúng. Nhưng suy đi nghĩ lại mình cũng khó trách ba được. Nếu lúc bé em hay anh cũng phải khổ như ba?”
Di nóng nảy:
“Em không chịu cái lối suy luận của anh. Anh quá rộng lượng đối với ba. Mình đã khổ sở, thời mình phải cố gắng giúp những người thân yêu khỏi bị khổ như vậy chứ. Không lẽ nếu người khác tát anh một cái, anh sẽ có quyền tát cho người thân của anh một cái hay sao?”
Tô không cãi lại em, Di tiếp:
“Vì vậy hồi nhỏ, và ngay thời kỳ cách đây mấy năm, cứ nghe ba nói mãi, mắng mãi em đâm mất cả tự tin. Em nghĩ có lẽ em là một đứa trẻ bỏ đi và không có một khả năng, đức tính nào hết. Rất nhiều lần em ngồi khóc thầm một mình trong căn phòng xép. Khóc, em cũng dấu mọi người. Em sợ nhỡ ba bắt gặp, em lại phải nghe những lời chế diễu. Em so sánh em với anh, với những đứa trẻ bình thường khác. Càng so sánh, em càng tủi thân và hoang mang. Em tự biết không bao giờ em bạo rạn được bằng anh. Em cũng không ưa thích lối sống hoạt động như anh. Thời giờ của em chỉ dùng để tưởng tượng, mơ mộng hão huyền. Dần dần em đâm ra ít nói, không thích chơi bời với bất cứ ai. Vì em cho rằng, em chỉ là một đứa trẻ bệnh não, gần như tàn tật. Anh xem, chỉ vì ba mà thời thơ ấu của em không còn chút gì là ngây thơ, êm đẹp!”
Di nửa đùa nửa thật:
“Em nói điều này chắc anh không tin. Còn bé, em đã nhiều lần nghĩ đến chuyện tự tử. Không có anh và me, không biết chừng em khó sống được đến nay.”
“Di nhiều óc tưởng tượng quá!”
“Giàu óc tưởng tượng đâu phải lỗi tại em!”
“Dĩ nhiên! Nhưng, anh nghĩ không chừng vì quá giàu tưởng tượng, Di đã gán cho dĩ vãng một ý nghĩ đen tối hơi quá sự thực chăng? Hồi nhỏ em ngây thơ, em đâu đã thù ba ghê gớm đến như vậy. Bây giờ, em mới thù ba đấy chứ!”
Di nồng nhiệt:
“Không! Anh đừng nhầm! Em thù ba bất cứ vào thời kỳ nào – Xưa nay em vẫn thù ba.”
Tô cười nhẹ, chế giễu:
“Di nói thế, anh cũng biết vậy. Nhưng, tính em ấy mà… Hôm nay thế này mai thế khác. Lúc nào cũng cả quyết, nghe phát ớn. Không hiểu sao anh tin rằng một ngày kia Di sẽ hết thù ba. Di sẽ hướng lòng thù hận của Di vào một nhưng khác, hướng khác, cũng hăng hái chẳng kém.”
Di cười khảy:
“Anh lại giở giọng tiên tri gàn rồi?”
Tô, Di cùng im lặng. Ông Hạ tưởng chúng đã trò chuyện xong, nhưng rồi Tô lại lên tiếng:
“Anh cũng đồng ý với Di là ba không dễ dãi với mọi người. Ba ích kỷ độc đoán và nhiều khi rất tầm thường. Nhưng Di phải công nhận một điều: Làm sao thay đổi được ba. Ba cứng rắn như một hòn đá! Anh chắc ba sẽ vẫn như thế mãi, suốt đời ba. Di, me, chính anh, chúng ta một phần nào cũng đã là những ‘nạn nhân’ của ba.”
“Nhưng đó là chuyện ‘ngày xưa’. Hiện tại anh và Di đều lớn cả rồi, không lẽ chịu sống dưới ảnh hưởng của ba. Ô! Tại sao chúng mình không nhìn đời khác đi? Tại sao lại oán và thù ba? Làm khổ mình sống trong những tư tưởng đen tối như Di. Phản đối, trả thù mà làm gì? Ba nói gì mặc ba. Nói lắm cũng mỏi mồm. Di cứ làm như ba không có đấy. Di có đời sống riêng của Di. Di còn phải lo cho tương lai nữa chứ?”
Di ngắt lời anh, giọng gay gắt hẳn lên:
“‘Làm như ba không có đấy’. Nói đến thì ngon lành nhưng trong thực tế đâu dễ như vậy. Anh khéo lý luận lắm nhưng em không rơi vào tròng đâu.”
Tô cất cao giọng một chút, ngạc nhiên:
“Tròng nào? Em nói cái gì đấy anh không hiểu!”
Im lặng.
Tô gặng:
“Di điên đấy à! Di làm như anh dùng lý luận để đánh lừa Di. Đâu có, anh chỉ muốn giúp Di.”
Di nói như khóc:
“Không! Bây giờ em mới thấy chính anh cũng không thể giúp được Di… Vì anh không bao giờ có thể là Di, nghĩ được, cảm được, đau khổ giống hệt Di! Anh là anh, Di là Di! Anh không ghét ba ‘giống’ Di. Anh đâu biết oán hận đã ăn xâu vào tâm hồn em. Dứt đi sao được. Lắm khi em sợ chính nguồn tình cảm mãnh liệt của em. Em không biết rồi đây lòng oán ghét ba của em sẽ đưa em đến đâu… Em muốn bỏ gia đình mà đi. Nhưng thế là hèn nhát là trốn tránh. Em còn cảm thấy ghét ba, em còn nhìn thấy mẹ héo hon, chết dần chết mòn đi. Vì mẹ vì mọi người; em càng thấy rõ ‘Em không thể rời bỏ nơi đây được’. Anh hiểu chưa? Em – không – thể!”
Giọng Tô trầm hẳn xuống, khắc khoải và thương xót:
“Kể ra những điều anh nghĩ về Di cũng không sai lầm bao nhiêu. Anh cũng đoán biết có một nguyên nhân nào, rất quan trọng lôi kéo Di, và giữ Di sống tại gia đình. Nhưng anh cũng đã lầm, khi tưởng đó là tình yêu! Anh không ngờ lòng oán hận đã giữ Di. Không phải tình yêu!”
“Làm sao em phân biệt được tình yêu hay oán hận đã giữ em ở lại gia đình? Mà có lẽ cả hai thứ không chừng?”
Nguồn: https://vietmessenger.com/books/?title=cai%20luoi
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.