Thanh Nam
Trần Đại Việt
(1931- 1985)
Nam Định
Hưởng dương 54 tuổi
Nhà văn, nhà thơ, nhà báo
Tiểu Sử Thanh Nam
(26 tháng 7, 1931 – 2 tháng 6, 1985)
Nhà văn/nhà thơ Thanh Nam tên Trần Đại Việt, người làng Mỹ Trọng tỉnh Nam Định, con một, thân phụ là Tổng Giám thị trường Cao đẳng Kỹ thuật Hà Nội ngày trước.
Vì hoàn cảnh thân phụ có vợ bé, thân mẫụ ông bỏ nhà sang Lào cùng người anh ruột, Thanh Nam thoát ly gia đình năm mới 9 tuổi, đến tá túc nhà người cô mà ân nghĩa và tình thương nên ông nhận là mẹ.
Năm 1946, mới 15 tuổi, Thanh Nam đã được tờ báo Thiếu Nhi tại Hà Nội đăng thơ và mời cộng tác, và viết một số Sách Hồng cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh, trong khi ông phụ cho một cửa hàng sách, có cơ hội tìm tòi học hỏi qua không biết cơ man sách báo đủ loại, nên kiến thức rất rộng.
Ông bắt đầu viết vào năm 1950, mới 19 tuổi, dùng bút hiệu Thanh Nam. Theo phu nhân anh là bà Tuý Hồng trong bài viết trên Văn Học số tháng 6, 1986, Hà Nội còn có tên Hà Thành, Nam Định có tên là Thành Nam, có lẽ ông lấy nguyên tên quê quán Thành Nam làm bút danh và sau đó bỏ bớt dấu huyền.
Thanh Nam vào Sài Gòn năm 1953, trước hiệp định Genève chia đôi Nam Bắc, và chỉ sau mấy tháng, mới 22 tuổi, được mời làm Tổng Thư ký báo Thẩm Mỹ, viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục khác như Phụ nữ Gia Đình, Gỡ Rối Tơ Lòng … và còn ký nhiều tên con gái như Sông Hương, Cô Hồng Ngọc, Bà Bách Lệ, Tôn nữ Đài Trang … và … Thợ Cạo, được chính ông kể lại trong Hồi Ký 20 năm Viết Văn Làm Báo, đăng dang dở trên tờ Văn do Mai Thảo chủ trương tại Santa Ana. Năm 1960, ông cũng hợp tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương, và còn là Tổng Thư ký tuần báo Nghệ Thuật ở Sài Sòn, năm 1966 cùng viết bài trên tuần báo Kịch Ảnh.
Ông còn cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tô Kiều Ngân và nhiều văn nghệ sĩ khác phụ trách chương trình thơ nhạc Tao Đàn trên Đài Phát Thanh Sài Gòn, Đài Quân Đội , … đặt lời ca cho một số nhạc phẩm, trong số phải kể bản Suy Tôn Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thanh Nam còn cộng tác với nhiều nhật báo tại Sài Gòn qua nhiều loạt truyện dài viết theo kiểu feuilleton, rất được đông đảo độc giả.
Ông lập gia đình cùng nhà văn Tuý Hồng tháng chạp năm 1966, có bốn con, một gái ba trai. Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, tạm cư tại New Jersey miền Đông Bắc rồi năm 1976, dời sang vùng Tây Bắc, định cư tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington, cộng tác với tờ Đất Mới, một trong vài tờ báo Việt ngữ đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ từ tháng 7, 1975, do Huy Quang Vũ Đức Vinh sáng lập, và Thanh Nam làm Tổng Thư Ký rồi Chủ bút. Ông phụ trách nhiều mục văn học nghệ thuật, ký thêm nhiều bút hiệu nữa như Việt Trần, Viễn Khách, Tiểu Lưu Linh, Đồ Say …
Sau 9 năm trên đất khách, ông mất vào ngày 2 tháng 6 năm 1985, sau ngót 4 năm chống chọi với chứng ung thư thanh quản, hưởng dương 54 tuổi.
Tác phẩm đã xuất bản
1
Cuộc đời một thiếu nữ
(Tiểu thuyết, 195?)
2
Sau cơn binh lửa
(Tiểu thuyết, 1951)
3
Lỡ một đời hoa
(Tiểu thuyết, 1952)
4
Hồng Ngọc
(1957)
5
Người Nữ Danh ca
(1957)
6
Buồn Ga Nhỏ
(1962)
7
Giấc Ngủ Cô Đơn
(1963)
8
Còn Một Đêm Nay
(1963)
9
Cho Mượn Cuộc Đời
(1965)
10
Bầy Ngựa Hoang
(1965)
11
Giòng Lệ Thơ Ngây
(1965)
12
Những Phố Không Đèn
(1965)
13
Mấy Mùa Thương Đau
(1968)
14
Thuế Sống
?
15
Xa Như Dĩ Vãng
?
16
Gã Kéo Màn
?
17
Đất Khách
(1983)
18
Hồi Ký 20 Năm Viết Văn Làm Báo
(dang dở trên tờ Văn của Mai Thảo)
(1984)
Tản Mạn
Thanh Nam
Thành phố Ramsey khốn khổ ngâm lạnh. Bầu dưỡng khí chúng tôi đang thở toàn một màu xám chì. Lề đường, cột điện đóng tuyết buốt băng, hàng cây cao cố gắng đứng thẳng. Thời gian lo âu thở dài. Gió thỗi thốc ngược từ dưới lên đập mạnh vào hông nhà. Trời màu lam tê tái, mây màu lưu huỳnh, giá băng đóng trên mặt đường màu trắng. Không một con chó nào dám xông ra khỏi nhà đi đêm, không một con mèo nào nhẩy lên mái ngói gào kêu. Khi chúng tôi theo họ đạo đi lễ về thì tấm khăn len choàng cổ Thanh Nam đóng băng và hơi thở chàng nặng.
Truớc khi đi nhà thờ, Thanh Nam đã nướng sẵn trong lò sưởi một viên gạch để khi trở về sẽ gói vào tấm vải len cho vào mền. Mấy thằng con kêu: “nóng quá bố ơi!” rồi chúng đạp tung tấm chăn xuống thảm.
Năm 1975 tị nạn trên đảo Guam, Thanh Nam đã kêu đau cổ vì bị một vết xước bên trong cuống họng ngày nào cũng ho. Chàng giải thích: “Anh ho từ cổ trở lên, chứ khong phải từ phổi bật ra. Đau cổ không sao, đau ngực mới đáng sợ.”
Khi ra trại, Thanh Nam không uống nứơc cam được nữa, chàng nhăn mặt khi nhìn trái chanh chua. Ruợu chát ấm cỗ chàng nhâm nhi mỗi ngày , bia và thuốc lá thì không làm sao bỏ được!
Đầu tháng tư 1976, chúng tôi nói “Amen” với họ đạo rồi dời về Seattle. Thời tiết Tây Bắc hiền và bao dung kẻ nhát lạnh không như thứ khí hậu miền Đông. Thanh Nam cười bảo: “Thời tiết Seattle chỉ lạnh chừng này thôi sao? Cửa sổ chỉ một lớp kính, ở New jersey, cửa sổ phải ba lớp dày, máy sửơi chạy bằng hơi nước phát ra tiếng ồn êm ái.”
Về đất mới, Thanh Nam bớt ho và dễ thở hơn, mỗi ngày nhâm nhi rựơu chát và tì tì nhậu budweiser. Và chàng nhớ bia 33.
Nhưng sau chừng vài ba năm, Thanh Nam lại ho ra máu. Nhiều bữa tối, chàng không nuốt nổi miếng cơm kẹt nửa chừng trong cổ, phải uống nứơc đẩy xuống. Đi khám bệnh, bác sĩ cho uống trụ sinh thấy bớt. Khi cơn ho trở lại, cũng trụ sinh luôn. Lập đi lập lại nhiều lần, trụ sinh đâm nhờn. Bạn bè ai cũng khuyên nên đi rọi hình, thử test.
“Anh đau lâu quá rồi, phải đi bác sĩ ở nhà thương Mỹ”
“ ở Mỹ, sao không đi nhà thương Mỹ ?”
Thanh Nam cãi : “ Moa chắc là cổ moa bị nhiễm trùng, uống trụ sinh chắc sẽ khỏi.”
Thanh Nam không đi nhà thương mà chỉ đi vào nhà bếp nấu phở.
Trên cổ chàng dần dần hiện ra những cục tròn nhỏ, từ từ lớn dần thành khối u. Cuối cùng , chị Lai Hồng khuyên được chàng và chở chàng đi khám bệnh.
Bác sĩ Faith giải phẫu cổ chàng , cắt bỏ ống nói và ống dẫn hơi rồi khoét một cái lỗ nhỏ cho chàng thở.
Dr. Faith giảng: “Loại cancer này sau khi giải phẩu thì thường khỏi bệnh, nhưng vì để lâu quá, bệnh đã lan ra những bộ phận khác. Nếu biết sớm, cắt bỏ đi thì tuy mất tiếng nói nhưng còn giữ được cái mạng.”
Tôi đặt câu hỏi: “Chồng tôi có thể sống đựơc bao lâu?”
“Several months.”
“ nghĩa là bao nhiêu năm? Thưa bác sĩ.”
“ I don’t know.”
Chín năm chung sống ở Saigon, Thanh Nam không phải là người chồng tốt. chúng tôi lấy nhau có đám cưới nhưng không có hôn thú. Khi con gái đầu lòng học hết lớp mẫu giáo , chàng mới chịu đóng tiền đút lót một ông lý trưởng ở Quảng Nam để ông ta cấp cho một tờ hôn thú lậu và làm giấy thế vì khai sinh cho con.
Giấy tờ giả làm xong, Thanh Nam nói: “Anh rất quý bạn bè bằng hữu. Giữa bạn và vợ, nếu bắt buộc phải chọn một, thì em là người anh bỏ”.
Bạn hiền của Thanh Nam là tất cả đàn ông chàng đặt lòng thành và tình hiếu hữu. Khi đất nước còn chia đôi hai khối hận thù, miền Nam nằm dưới miền Bắc, chính quyền miền Nam cải tổ toàn thể cục diện, thành lập bộ chiêu hồi tượng trưng bằng một vòng tay ấm dang rộng ra để ôm lấy anh cán binh Việt cộng quay về chính nghĩa . Lòng Thanh Nam cũng bao la như cánh cửa chiêu hiền, cũng rộng mở như thùng thư trước ngõ mang tên số nhà chàng ở, cũng ấm như hộp PO. Box đặt trong sở bưu điện và nhẹ như con tem dán vào góc bì thư gửi tình theo gió mang đi.
Huy Quang Vũ Đức Vinh bảo:
“Nó với Mai Thảo … chơi đêm ngủ ngày, một đằng thì uống bia, một đằng thì đánh bài, một năm dọn nhà bốn lần, vợ moa cấm moa chơi với hai tay này.”
Nhà văn trẻ Nguyễn Thiếu Nhẫn cũng nói: “ Có.. có khi.. hồi còn độc thân ở Sài Gòn , anh Thanh Nam tiêu nguyên một tháng lương vừa mới lãnh ra…trong ..một đêm.”
Tháng chạp năm 1966, tôi gặp Thanh Nam lần đầu và lấy chàng ngay trong ngày cuối tháng đó thì Thanh Nam đã là một lực sĩ đuối sức trên hai vòng đua tình và tiền.
Khi một phụ nữ gặp gã đàn ông chưa quá vài lần mà đã ngủ với hắn ngay và lấy hắn làm chồng liền, đó là hoả hoạn của tình dục, của hoang dâm bấy lâu đè nén đã thừa cơ bật dậy. Những cuộc hôn nhân vội vã như thế này thường xuyên có thể đưa đến đổ vỡ, nhưng Thanh Nam và tôi lì lợm chung sống với nhau hoài bên bầy con bốn đứa. Hôn nhân của chúng tôi đứt đôi vì có một cái chết.
Thanh Nam xoè bàn tay ra :
“Em ngửi tay anh có thơm mùi nho khô không?”
Những điếu thuốc lá Pall Mall nhẹ thơm mùi nho khô. Những ngón tay thuôn dài của Thanh Nam nám màu khói thuốc. Thanh Nam ngồi đâu thì chỗ đó tất phải có lon bia Hams và bao thuốc lá Pall Mall màu đỏ bầm.
Dr.Faith bảo: “ Thuốc lá có thể gây ung thư cổ họng.”
Đến với Thanh Nam trong tình yêu vỡ lòng là Hồng Ngọc, cô gái yểu mệnh chết non trước đợt di cư 1954. Hồng Ngọc là tên truyện viết đầu tay của Thanh Nam, người yêu nhỏ lìa đời trong tuổi thanh xuân 18, lúc dong chơi trên ngọn đồi cát màu vàng loãng, dưới hình mặt trời tròn như cái đĩa đồng và những khối mây lớn xù lông trắng đục.
Khi ung thư giết chàng lần mòn, Thanh Nam vẫn mộng thấy nàng:
Cùng với giá băng em trở lại.
Tóc xưa Hồng Ngọc thuở xuân nồng.
Thương yêu siết nhẹ vòng tay cũ.
Em gọi tình xa tỉnh giấc gần.
Thanh Nam.
Sàigòn cũng có những tháng ngày ướt mưa và sương rơi từ những đường thẳng trên cao xuống các mái tôn và ống máng trong hẽm dài, Thanh Nam khoác áo ra đi theo hướng ánh điện đỏ vàng dẫn tới rạp hát Bích Thuận lúc trên sân khấu người đẹp Bích Sơn đang diễn xuất một màn ca kịch bi thương, để đêm đó Thanh Nam về nhà rung đùi uống bia, đốt thuốc lá viết câu đối đăng lên báo Thẩm Mỹ:
“Kiều nữ Bích Sơn, nàng đứng nhìn gì trên núi biếc?”
Rồi mũi tên Cupid lại chỉ đường Thanh Nam dến một sân khấu vĩ đại hơn , một vòng quay ánh sáng chói mắt hơn, một đám đông xô bồ chen chúc người mộ điệu: Đoàn ca kịch Thanh Minh Thanh Nga. Chàng đã bứng cây si từ Kiều nữ Bích Sơn sang Kỳ Nữ Thanh Nga, huy chương vàng quý báu nhất của miền Nam trái ngọt cây lành. Cải lương ngọt như sầu riêng, mít tố nữ, ổi xá lị, mãng cầu dai.
Trưa Lái Thiêu xưa vườn tiếp vườn.
Trĩu cành trái ngọt thở hương thơm.
Thanh Nam.
Hồi đó, nếu Sàigòn là hòn ngọc Viễn đông thì Thanh Nga là một của những hòn ngọc Sàigòn. Đêm đêm, nàng hát nhạc vàng, ca vọng cổ, đóng tuồng tích trên bục gỗ… nàng có một cuộc đời thật để sống và nhiều cuộc đời ảo cũng để sống…nàng có tiền , vàng, và nhà.. Nhưng quả thật Thanh Nga là người nữ tù bị nhốt trên sân khấu, là Hằng nga ngủ ngày, xa cuộc đời, xa xã hội, nàng viễn mơ và viễn thị không mấy hiểu cuộc đời. Những lúc không lên sân khấu, nàng đã đọc truyện tình do Thanh Nam viết và đọc những bài phóng sự kịch trường Thanh Nam đề cao nàng. Tình yêu quả có thật giữa họ. Thanh Nam, với công việc của một ký giả kịch trường, bao phen đã khó khăn xông vào bedroom của nàng để phóng vấn viết bài cho báo. Thanh Nga ngay ngắn ngồi tiếp chàng trong chiếc kimono đẹp như tranh vẽ. Họ nhìn nhau qua khói ấm tách trà nhỏ.
Nay đã nghìn thu vào tĩnh mịch,
Những anh hùng cũ mỹ nhân xưa.
Thanh Nam
Khi còn ở quê nhà trước năm 1975, Thanh Nam đã phát hiện sở thích đi chợ mua đồ ăn. Mấy bà hàng xóm trong hẽm cụt Lý Thái Tổ thỉnh thoảng ré lên cười:
“ Coi kìa! ông nhà báo đi chợ để vợ ở nhà.”
“ Đôi giày láng lườm của ổng dính dơ bùn chợ hết rồi! Coi coi…ông ta cố dấu bó rau muống trong túi ny lông nhưng cái bó muống nó dài quá, nó cứ thòi ra không thụt vào.”
Ngày tháng êm trôi trước khi bệnh, Thanh Nam đi chợ không do dự, mỗi tuần lễ ba lần sau giờ làm việc cho báo Đất Mới. Hồi còn ở miền đông, ông bạn Trần Đình Hồng Lâm đã kêu :”Tính toa sao lạ vậy, chứ moa thì không thể nào muốn đi chợ chút nào hết!:”
Tôi lắc xắc xen vô: “ Safeway, Fred Meyer, Alberson…là những nơi chỗ vui chân mà Thanh Nam mến thích, còn tôi thì mỗi tuần lễ đi chợ một lần là quá cỡ!”
Ba thằng con trai cũng thường theo bố mẹ đi chợ hồi mới đến Seattle. Một sáng chủ nhật, Thanh Nam hối hả giục cả nhà đi Safeway mua xương bò nấu phở Bắc. Nấu phở mệt phờ người ra, nấu xúp bui-da-bét..lòng tôi cũng bét nát ra luôn vói món xúp này…ai trong cái nhà này phải đứng nhặt giá, rửa rau, cắt củ cải, xắt hành, thái thịt bò, nướng gừng, luộc bánh phở và may một cái túi nhỏ xíu đựng gia vị phở Bắc quê hương…Khi công việc của người bếp phụ xong, đầu bếp chính Thanh Nam bước vào bên bếp điện, mở tủ lạnh lấy xương bò ra tắm rửa kỳ cọ, cắt bỏ mấy cục mỡ thừa vứt đi, rồi nêm vào thùng nước dùng ba muỗng nước mắm,một dúm bột ngọt, một cục đường phèn Quảng Nam, nửa cục đường phổi Quảng Ngãi!
Chàng phân tích: “Người Huế không nấu ăn ngon được vì họ ăn cay quá, nấu phở cần phải tận tình đứng vớt bọt, nhưng đừng vớt mỡ thẳng tay quá!. Khi thưởng thức tô phở, em nên biết rằng phở cần chút nước béo, vài ba giọt sao óng ánh.”
Cầm đôi đũa cả trở lát thịt xào lăn trên chảo mỡ, Thanh Nam bảo: “Ở ViệtNam, anh đã ăn cải làn, bí đao, bầu… Sang đây, anh không thể nào ăn zucchini và brocoli được. Ăn phải đúng cách, nấu phải đúng kiểu, món nào ra món đó.”
Một chiều thứ bẩy trong Safeway thịt bò bán đại hạ giá., buy one get one free. Thừa lúc Thanh Nam mãi chọn mấy miếng thịt thăn, thịt mông, ba rọi…thằng con lớn đẩy xe đi chất hai két nước ngọt.
Thanh Nam nạt: “Không được mua nhiều nước ngọt như vậy.”
Thằng bé vặn hỏi: “Tại sao không được hả bố? Coi! Bố mua bao nhịêu két bia kìa!”
“Bố lớn, mày nhỏ.”
“Mình equal mà bố”
Tôi chen vào: “Mình bình đẳng mà bố.”
Khi đồng hồ trong chợ chỉ đúng vaò số 5 , thời gian ấm nhất của ngày, thằng con lớn đòi về nhà gấp, Thanh Nam bảo tôi gọt vỏ khoai tây, cắt thành khối vuông nhỏ để chàng làm mashed potatoes. Cao thủ đầu bếp trong ngôi nhà Lỗ Tấn này sở trường nhiều món chứ không phải một vài! Khoai tây nghiền bấy xong, Thanh Nam trộn thịt jambon vào rồi dùng thìa lớn múc ra bốn đĩa cho bốn đứa con đang há miệng như bốn cái mỏ hoét.
“Non quá bố ơi!”
Thanh Nam cười giỡn thằng Cu Tý: “ Bố ngon mà con…À bố tên gì?”
“ Xanh Nam !”
Thanh Nam quay lại bếp điện xúc thêm một đĩa khoai bấy đưa cho tôi :
“Em ăn đi.”
Thứ bẩy tuần sau, trẻ con không chịu đi shopping với bố mẹ. Khi ở chợ về, tôi chạy vội vô nhà, vì mấy ngày trước, họ đạo ở miền Đông điện thoại cho biết đã gửi hai thùng áo quần và đồ chơi cho trẻ con.
Thanh Nam khệ nệ xách hai túi đồ ăn từ xe vào bếp cất giọng cà khịa:
“ Ra xe đem đồ ăn vào chứ em, em để một mình anh phải xách hai cái túi này nặng ..nặng nặng… đựng hai ga lông sữa bò ở trong.”
Ba thằng con vội chạy ra bê đồ ăn vào một phút xong ngay.
Ba năm trôi mau, vầng trăng chưa qua hết mấy chu kỳ sáng tối thì Thanh Nam vào bệnh viện, mổ, khám và tái khám.
Sau cuộc giải phẩu rùng rợn, Thanh Nam vẫn gượng gạo khoẻ mạnh, bộ mặt thụng xuống dưới áp lực của ống nhựa, ống hút đặt trong mũi trong miệng.
Từ ngày mất tiếng nói, chàng viết : “Ngày xưa ăn chơi, sang Mỹ bỏ chơi chỉ còn ăn… Một thằng khoái ăn ngon như anh mà trời không cho đớp.”
Rồi lại viết: “Cái khổ của kiếp người là chỉ có một đời để sống mà lại có quá nhiều đời khác để mơ.”
Mỗi tuần lễ, Thanh Nam đều soạn sẵn một thực đơn:
– Chủ nhật ngày 10 tháng 6: Cơm thịt bằm xào dưa leo hoặc cà chua nhồi thịt.
Canh sườn heo rau cải xanh, hoặc bí đao.
– Thứ hai ngày 11 tháng 6:
Gà nấu nấm ăn với cơm hoặc bánh mì.
– Thứ ba :
Spaghetti ăn với sauce cà chua.
Gà nấu nấm ( left over }
– Thứ năm ngày mười bốn tháng sáu
Phở.
Ngâm gạo nếp nấu xôi.
Thanh Nam đọc sách, ôm kinh Phật tung âm thầm, cố gắng tập thể dục thực hành những lời thiền chỉ dạy. Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm. Có những đêm thức giấc, đứng sau cửa kính mờ, Thanh Nam nhìn ra ngoài trời không trăng sao, có những ngày an phận nín câm, Thanh Nam đi tới đi lui, ngồi nằm… Có khi con cái tan trường về, Thanh Nam vui cười nấu ăn, coi tivi, lòng thư thái an lành như lá bạch dương êm ái chạm vào nhau khi có gió. Còn tôi ngồi bên cạnh, tôi nghe bộ tiêu hoá của chàng réo sôi ùng ục, đồ ăn cử động trong bao tử, chuyễn từ ruột non tới ruột già xuống hậu môn. Bằng hũu đến thăm, gửi thư gửi thiệp chúc mừng . Thơ và văn, thiền và thuốc, và những cơn đau khủng khiếp vỡ đầu bễ ngực từ cái ống nhựa đặt trong cổ thay thế cho thanh quản, khí quản gì đó phải cắt bỏ vứt đi, và từ những phản động hoá học của thúôc mê, thuốc tỉnh, thuốc viên, thuốc nước,thuốc bột, trụ sinh, an thần, morphine .
Thi sĩ Huyền Không, tức là Hoà thượng Thích Mãn Giác, víêt thư thăm, gửi theo hai câu thơ.
Ta từ vô sinh tử về chơi,
Ngồi trên chóp đỉnh, mỉm cười với trăng.
Huyền Không.
Thầy Mãn Giác khuyên tôi đừng quá sợ hãi bệnh hoạn của thân xác, nên an nhiên tự tại_chữ của nhà Phật_có nghĩa là mặc kệ, để đó, dẹp đi… chấp nhận cái bất hạnh, như cậu bé mỉm cười với trăng. Tôi hãy chuẩn bị lo cho Thanh Nam một ba lô nhẹ, một va li nhỏ để chàng dễ dàng xách theo trong chuyến đi chót. Đôi mắt sắt đá của tôi có bao giờ biết khóc?. Thầy Mãn Giác vẫn dạy tôi những bài Thiền học để tâm tính đằm lại. Người Mỹ đã bắt đầu học Thiền để mưu lợi cho sức khoẻ và cầu an cho tâm thần. Sao tôi mãi mãi mang nặng những khổ đau vô thần ? Chàng em trai của tôi vẫn mắng tôi như vậy.
Thanh Nam đem xấp giấy ra viết xuống: “Thích Mãn Giác ngày xưa có theo Cộng sản không? ”
Trông Thanh Nam lúc đó giống như một chiến sĩ H.O. Tôi trả lời:
“Không. Báo Mỹ bảo Thầy là một chiến sĩ chống Cộng. Thầy là một Thiền sư vẻ mặt tương tợ như một Samurai trong các môn võ thuật Nhật bản.”
Tôi kéo ra từ trong trí nhớ mấy câu thơ của thi sĩ Huyền Không :
Chùa xưa mái ngói cũ,
Trèo lên kéo cây sào.
Đêm khuya rồi không ngủ,
Khều rụng bao nhiêu sao.
Thầy Mãn Giác mọt lần hỏi tôi : “Chị Túy Hồng còn nhớ tên người đàn bà Việt Nam đầu tiên vào chùa tu là gì không?”
Sư Huyền Không hứa sẽ gửi thêm một số tài liệu Phật pháp trong đó có chương bàn về Mạn Đà La.
Thầy Mãn Giác ngày xưa tu học ở chùa Bảo Quốc Huế, du học tại Nhật Bản.
Chùa Bảo Quốc xưa, một hàng thông xanh, một một luống cải xanh. “Gió thông đưa kệ tan niềm tục, hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.” Bươm bướm toả ra một đoàn rộng cánh bay, ve ve thì tụ lại trong các lùm cây. Gần chùa có một tiệm cho thuê xe đạp, hai ba cái lốp xe bằng cao su và những xích sắt treo vào vách. Ngày đó một mình , tôi đạp xe qua cầu Ván, rượt tới Morin, ghé Sát-Făn-rông mua bánh choux à la crème, rồi phóng tới ngã giữa. Tiệm cho thuê sách Ngô văn Mạch mở cửa bảy ngày trong tuần. Tôi ký tên vào cuốn sổ cũ mướn mấy cuốn tiểu thuyết của văn sĩ Thanh Nam về nhà đọc.
Thanh Nam đã viết quá nhiều tiểu thuyết loè loẹt màu sắc xã hội đắng cay, viết một cách dễ dàng và kiếm sống bằng ngòi bút của mình… Chàng viết cho bà nội trợ đọc, cô bán hàng đọc, nữ sinh, nữ công chức đọc.. và đã bắt đầu viết khi tuổi đời còn sớm bảnh mắt, khi trí khôn và sức học chưa đủ cho một người cầm bút. Thanh Nam dùng thì giờ để đi chơi nhiều hơn thì giờ ngồi viết bài. Đây là một lỗi lầm không phải nhỏ. Người tu sĩ bỏ đời theo đạo, người nghệ sĩ, kẻ đã nghe tiếng gọi của nghiệp dĩ từ cao xanh, phải cố gắng thí phát thì giờ của mình vào nghệ thuật. Người nghệ sĩ Việt Nam luôn luôn nên cố gắng trau dồi khả năng ,tức là phải học hỏi thêm. Trước cái đẹp, nhà văn cảm xúc mười phần, hắn viết xuống trên giấy , người đọc chỉ nhận được một phần. Kịch sĩ, ca sĩ, văn thi sĩ, trong mấy kẻ sĩ đó, kịch sĩ đóng hài kịch tức là những cây cười cần phải học thêm nhiều hơn ai hết. Hề cần phải học. Hề là kẻ phải hiễu biết nhiều, sâu rộng và lanh trí mới ứng khẩu nói ra những lời chọc cười.
Với truyện dài, Thanh Nam thất bại. Với truyện ngắn , tức là các sáng tác nhỏ đã đăng trên các báo Hiện Đại, Sáng Tạo, Thế kỹ 20, Thanh Nam không thất bại. Tập truyện “Buồn ga Nhỏ” xuất bản năm 1962, tái bản lần thứ nhất năm 1965 và tái bản lần thứ hai tại hải ngoại năm 1983 cho thấy rằng Thanh Nam là cây bút viết truyện ngắn có ích cho tiếng Việt.
Sau năm 1975, Thanh Nam làm được tập thơ “Đất Khách”.
Thi sĩ Nguyên Sa gọi điện thoại khen: “Moa không ngờ Thanh Nam làm thơ hay đến như vậy. Nếu moa bị đày đi Côn đảo hoặc bị đưa sang Reunion, moa chỉ mang theo bên mình mỗi một tập thơ “Đất Khách”mà thôi.”
Bác sĩ Nguyễn Đăng Diệm ở Seattle cũng đã nói giữa toà soạn báo Đất Mới:
“ Phải chăng bệnh ung thư đã khiến Thanh Nam làm được một cái gì….”
Nhà văn trẻ Chu Vương Miện, một cây bút chủ lực của nguyệt san Văn trước 1975, cũng viết thư thăm :
“Anh buồn quá! Thơ anh thật tuyệt vời, anh Thamh Nam ạ..”
Trước năm 1975 ở Việt Nam, chợt xuất hiện các nhà văn nữ viết tự truyện. Theo giáo sư Sharon O’brien giảng dạy tại đại học Dickinson college, lối viết tự truyện chỉ thành công một phần nhỏ trong văn chương mà thôi. Đưa cái tôi vào tác phẩm, vạch sống áo để lộ tấm lưng ra, giải bày đời tư trên giấy trắng … người viết tự truyện thường bị phê bình là thiếu đề tài, nghèo tư tưởng. Ngòai ra, văn tự truyện còn bị nói là thời thượng.
Trái lại với văn tự truyện, thơ tự tình được đề cao lên. Bà Huyện Thanh Quan với mấy bài tả cảnh u hoài tình non nước, Cao Bá Nhạ vói khúc tự tình oan khiên đau khổ đã được đưa vào sách giáo khoa dạy học, và hậu thế còn lấy tên họ đặt tên đường.
Nói chung , thơ gồm hai phần: lời và ý. Mỗi chữ mỗi câu là một sự cố tình sắp đặt gồm có âm thanh , vần điệu và màu sắc. Mỗi ý tưởng là phần thân và tâm của thi sĩ. Thơ tự tình của Thanh Nam, chữ và nghĩa không chênh lệch mấy, chữ nhiều và nghĩa cũng khá nhiều, là tâm thần bất ổn của người lìa nước ra đi lòng nao naonỗi sầu viễn xứ và nỗi buồn quốc hận Ba Mươi Tháng Tư
Canh bạc trần gian dù thắng bại
Nẻo về đất lạnh giống nhau thôi.
…………………………………………..
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nõi buồn nào cũng mang tên Sàigòn.
………………………………………………….
Giống như người lính vừa thua trận.
Nằm giữa sa trường nát gió sương.
………………………………………………….
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá tự do.
Thanh Nam không khéo tay làm thơ tình. Ta có thể tạm kết luận rằng Thanh Nam làm thơ vì tình bạn và lòng hiếu hữu. Rõ ràng tình bạn đã đuổi tình yêu đàn bà ra khỏi lòng chàng:
Uống say mai sớm bạn lên đường
Thân lai nương nhờ chốn viễn phuơng
Trăm hận nghìn đau nào sánh nỗi
Tấm lòng lưu lạc nhớ quê hương
Ta như giông bão tan rồi hợp
Trôi giạt còn hơn sóng đại dương.
Tình quê hương trong thơ Thanh Nam thật dịu dàng qua từng ngón tay lẵng lơ của Chàng:
Hai mươi ba tuỗi gặp SàiGòn
Như gặp người yêu chưa phấn son.
Bở nghỡ làm quen thành phố lạ
Mặn nồng nhiệt đới nắng trao hôn.
Thanh Nam.
Thỉnh thoảng Thanh Nam cũng làm một vài câu thơ vui.
Buổi Sáng
Ngó ra buổi sáng quê người
Tiếng xe lăn bánh, nhịp đời bon chen.
Giã từ ngôn ngữ đã lâu
Hôm nay thèm nói một câu chửi thề.
Hoặc
Bụi đời đầy đã lòi cơn sốt
Mang chuyện tương lai tháu cáy hoài. .
Lâu lâu ,chàng lại viết câu đối :
“ Vừa mới Tết bính thìn, chín Tết ôm hờn xa tổ quốc.
Giờ xuân giáp tí, một xuân nào hẹn cùng quê hương.”
Thanh Nam mất sau gần mười năm ở Mỹ, xác được hoả thiêu trong một nhà táng lúc đó hoa xum xê nở banh ra. Hoa auriculas, hoa thrift và một vài hoa lạ không có tên trong tự điển Việt Nam.
Giữa xấp giấy chàng viết nguệch ngoạc trong những tháng ngày mất tiếng nói, có một đoạn nhỏ: “Anh nhận thấy mấy đứa con sao dại khờ và vô tâm quá, chúng cứ tự nhiên… Nếu chúng nói được những câu buồn thương này nọ, chắc lúc anh ra đi , anh sẽ khó cất bước, khó..”
Tôi vội cãi: “Con Ti nó ăn ít quá mà anh, còn ba thằng đực thì cứ quanh quẩn ở trong nhà không nói năng… Bà y tá bảo rằng tình cảm của trẻ con đôi khi còn biểu lộ ở sự học có sút kém hay không..”
Ngày hôm sau Thanh Nam viết xuống tiếp : “Hôm nay bảo thằng Cu dẫn hai em nó đi phố chơi đi. Lấy tiền lì xì mà đi bus và tiêu cho sướng. Mười hai giờ trưa về.”
Thơ tức là người.Thanh Nam mang một lòng hiếu hữu thương bạn hiền. Tình đàn bà , người đàn bà trong thi tập “Đất khách” và trong cuộc đời ngắn hạn, bất hạnh của Thanh Nam, không được vẽ và chiếu ra rõ nét, không biết chàng đã nhung nhớ ai trong dĩ vãng khi đang nằm trên chăn gối hiện tại:
“Nửa khuya nghe động tiếng mưa buồn
Mái lạnh hiên người giọt giọt tuôn.
Chăn gối bỗng thơm mùi dĩ vãng
Dịu dàng mộng cũ ghé môi hôn”.
Mộng cũ-Thanh Nam.
Người tức là thơ. Thanh Nam đau yếu nhưng tình bạn trong chàng vẫn dồi dào sức khoẻ:
“Xin chào bằng hữu gần xa
Dẫu chưa quen biết đã là anh em”.
…………………………………………………………….
Ôi hỡi quê hương bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
…………………………………………………………
Ôi bạn ôi ta ,chiều đã xế
Phù sinh thương mình ly rượu xuông
Sau hết, Thanh Nam có biệt tài làm báo, làm tổng thư ký toà soạn, làm chủ bút bao sân tất cả mọi công việc viết lách. Trang trong thíêu bài, trang cuối còn mấy chỗ trống, Thanh Namtìm bài khác lắp vào, vá vào trám hết tất cả mọi lỗ khuyết ngay tức khắc. Chính chàng đã đề nghị quý vị chủ báo miền Nam ngày nào, hãy đưa phần tỉêu thuýêt vào trang hai để độc giả dễ dàng xếp đôi tờ báo lại ngồi đọc chuyện tình bất cứ chỗ nào.
Nhiều người bảo rằng khi đến giai đoạn cuối, cancer gây ra những cực hình tra trấn dã man, những cơn đau xé xác thân ra, bệnh nhân kêu rên ngày đêm không ăn ngủ… chỉ mong được chết để giải thoát… Nhưng Thanh Nam đã mất tiếng nói, mất âm thanh để kêu đau… Ba thằng con bất hiếu ngủ chung giường đâu có biết cha sắp chết, chúng nằm xoay ngược trở ngang, hất gối xuống giường, đạp mền xuống thảm. Thanh Nam chỉ biết ghi vào hồi ký “đau, đau, đau.”…
Trước khi đi vào hôn mê, Thanh Nam đã viết xuống “Người nghệ sĩ có những lúc sống cẩu thả, buông thỏng dây cương luân lý, nhưng em nên nhớ rằng từ ngày lấy em, anh không bao giờ phản bội thể xác em.”
Đôi mắt Thanh Nam to nhưng cạn và mờ đục, lúc đó ánh lên, nhìn thẳng mặt tôi. Tôi thấy tôi hiện diện trong cái nhìn thật thà đó: ở chàng, tình nghĩa vợ chồng cũng quý báu như lòng hiếu hữu ái mộ bạn hiền.
Ngày 27 tháng 5 năm 2007
Thơ Thanh Nam
Bài Hành Đón Tuổi Bốn Mươi
Én nhạn về nam, xuân rồi đây
Chợt thèm ly rượu, chút mưa bay
Gọi về trong đáy hồn lưu lạc
Những bước chân xưa nhạt dấu giầy
Bạn cũ hay nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Uống ly thứ nhất mừng tao ngộ
Cho tiếng cười lên vỡ tháng ngày
Vào cuộc hành hương tìm gặp nhau
Cõi trời xanh ngắt tuổi thơ ngây
Trong veo cặp mắt chưa vương bụi
Chăn chiếu còn thơm ngát mộng trai
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Đồng tiền mừng tuổi ngày Nguyên Đán
Canh bạc đời chưa lột trắng tay
Dăm bẩy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này
Gió nổi mười phương trời buổi đó
Với ngày như tháng, lá như mây
Lầu sương từng buổi đùa nhan sắc
Giấc ngủ thềm khuya rộn tiếng hài
Chiều xuống đã nghe lòng rổn rã
Gió lên hồn ngỏ phố vui mời
Ca trường, hý viện, xuân như hạ
Đời thả trôi vào nhịp phách lơi
Lãng đãng khói sương trời tưởng nhớ
Ly này xin cạn hết chua cay
Mười lăm năm đó từ phiêu bạt
Đứa vợ con yên, đứa lạc loài
Viết mướn đã bao thằng mệt mỏi
Sang giàu đếm được những ai đây ?
Lưới đời chân đã bùn nhơ vướng
Mắt vẫn trời cao rướn cánh tay
Cuộc chiến nay chừa dăm bẩy mạng
Thôi thì ly rượu đó uống say
Rót thêm ly nữa chào năm cũ
Tuổi bốn mươi rồi, thương lắm thay .
Lận đận lý nào theo trọn kiếp
Tối tăm không lẽ mãi đêm dài ?
Niềm thê nhi đó giờ an phận
Nợ áo cơm này nặng trĩu vai
Năm tháng sức trai mòn mỏi mãi
Nụ xuân đời đã lánh tầm tay
Vỡ tuồng nhạt nhẽo màn chưa hạ
Vai kép hề kia vẫn riễu hoài
Nhìn lại trời xuân vừa khép kín
Thơ hồng, tuổi ngọc tiếc thương ai
Ngiêng chai thêm một ly này nữa
Trên vách sầu ta đối bóng gầy
Chợt tiếng con thơ cười lảnh lót
Nhìn con, lòng bỗng thấy xuân đầy
Lại đây con nhỏ, con yêu dấu
Bố uống cho con ly rượu này
Ly rượu mừng con tròn mộng đẹp
Niềm vui hoa nở tháng năm dài
Ngủ đi con hỡi, mai khôn lớn
Đời sẽ bình yên không lửa gai
Trong vắt hồn con nguyên khối ngọc
Lượng xuân đời chẳng khép vòng tay
Nhìn con giây phút lòng tan biến
Những chuyện ân thù, những đắng cay
Tiếng bạc đời cha gieo đã lỡ
Chiều tà khôn gỡ nước cờ sai
Trắng tay nhìn lại còn con đó
Hy vọng đời cha mẹ kiếp này
Tăm tối căm phần cha đã chịu
Cánh hồng con hẳn sẽ xa bay !
Ngủ đi con, ngủ đi yên giấc
Cha ru con bằng hơi rượu say
Cha ru con bằng lời thống khổ
Trong nhục nhằn mê sảng đêm nay .
Chếnh choáng lòng khuya men đã ngấm
Nghe ngoài đêm tối tiếng mưa rơi
Vọng lời sao xác hồn năm tháng
Chuyển nhịp mùa xanh lại đất trời
Bắt chước cổ nhân nâng chén rượu
Mừng xuân thay áo mới cho đời
Mười năm thêm một bài thơ nữa
Viết tặng riêng mình tuổi bốn mươi
Sàigòn 1970
Đêm Cuối Năm Uống Rượu Một Mình
Rượu mời ta rót cho ta
Bạn gần không tới bạn xa chưa về
Rót nghiêng năm tháng vào ly
Mắt nheo bóng xế tay che tuổi buồn
Rót đầy băng giá cô đơn
Rót thao thức nhớ, rót hờn giận quên
Thôi, đừng. Thôi hãy nằm yên
Ngủ ngoan đi nhé cơn điên thuở nào
Rót ta với bóng cùng nhau
Ngất ngư rót mãi tỉnh vào cơn say
Bốn mươi lăm tuổi rồi đây
Lá xanh còn được bao ngày phù du ?
Rót đau thân thế mơ hồ
Nửa khôn ngoan thức, nửa rồ dại mê
Ngó đời lăn lóc vòng xe
Rã rời xích chuyển, ê chề bánh xoay
Ngó lui hun hút đêm dài
Những xuân đã lánh, những đời đã xa
Rót thêm ly nữa mời ta
Cái say như muốn chuyển qua cái sầu
Bốn mươi lăm tuổi rồi sao ?
Ngó gương xưa thấy tóc râu rối bù
Trán hằn dăm lũng ưu tư
Cuộc chơi phù thế chừng như mỏi mòn
Sóng nhồi thác đẩy mưa tuôn
Đời trôi hối hả mộng tròn lần khân
Bốn mươi tư tuổi quay nhìn
Cái trôi cùng với cái chìm đuổi đeo
Tiếc gì trận gió thu reo
Tóc xanh phơ phất chạy theo mộng vàng
Hỡi ta ngày xế năm tàn
Rượu mời sao chẳng rót tràn xót thương
Ngủ say, mai sớm lên đường
Đấu trường lại múa dăm đường võ quen …
Ta ru ta khúc ưu phiền:
“Ngủ ngoan đi nhé cơn điên thuở nào …”
Lời Xa
Gởi Trần Cao Lĩnh
Rượu tiễn chưa trao lời giã biệt
Tháng giêng theo tuyết bạn xa rồi
Gió đưa khăn gói thành ly khách
Có gặp hồn quê giữa xứ người?
Mai Mốt
Mai mốt em tôi về xứ Bắc
Cách bao rừng núi cách bao sông
Tôi nằm mộng thấy em cười khóc
Lo ngại đời hoa bạc má hồng
Mai mốt con tàu say khói sóng
Em về như một dáng hoa bay
Tôi nhìn muôn dặm còn thương nhớ
Theo dõi em đi trọn tháng ngày
Mai mốt con đường xa lạ quá
Phố phường nào thấy bóng em qua
Em đi tha thiết tình nhau lắm
Trang giấy băng sương mực chửa nhoà
Mai mốt em về thôn xóm cũ
Con đường Kinh Bắc lá tre rơi
Giữa trưa đường vắng em ngừng bước
Nghiêng nón môi em sẽ hé cười
Mai mốt em sầu như dáng liễu
Pháo hồng làm bạn với xe hoa
Rưng rưng mắt lệ em thầm nói
Thôi nhé, thôi rồi chuyện chúng ta
Mai mốt đời em vui hạnh phúc
Bên chồng, bên một đứa con ngoan
Rồi khi chiều xuống trăng lên ấy
Giở áo em ngồi lặng lẽ đan
Mai mốt em ơi em có nhớ
Cuộc đời còn nhắc đến tên tôi
Và em bình thản cười vơ vẩn
Người ấy, chờ chi cưới vợ rồi
Mai mốt, thôi em về xứ Bắc
Nói gì em đã của phương xa
Cầu cho đôi mắt em trong mãi
Và vẫn xanh màu như thuở xưa
Tôi vẫn chẳng buồn vì cách biệt
Dù rằng còn gọi: cố nhân ơi
Tôi không lưu luyến mùi son phấn
Thôi nhé ! Em đi, hết, hết rồi !
Mười Năm
Tặng Vũ Quang Ninh
Chớp mắt mười năm gặp lại nhau
Ngậm ngùi tóc bạc ngó lòng đau
Nụ cười như muốn tan thành lệ
Trong mắt ân tình rộn biển dâu
Phố Cũ
Nhận thư bè bạn từ quê nhà
Dò đọc tên đường thấy xót xa
Ôi, đã nghìn thu vào tịch mịch
Những anh hùng cũ, mỹ nhân xưa!
Tà Dương Cuối Trời
(1983)
Chín năm đón Tết quê người
Vẫn ta ở tạm, vẫn đời ghé qua
Chín năm thương tuổi thêm già
Cành Xuân đã ngã qua bờ Thu Đông
Thấy mình như có như không
Xót xa cơm áo, bềnh bồng thê nhi
Đấu trường bốn mặt hôn mê
Dấu chân xa mãi nẻi về quê hương
Lửa nào rực sáng mười phương
Xua giùm ta bóng đêm trường cô đơn ...
Chín năm lạ bến xa nguồn
Nỗi phai tâm ý, nỗi mòn xác thân
Sóng đời tiếng bạc phân vân
Ngẩn ngơ tiếng mất, băn khoăn tiếng còn
Cõi xưa mộng ngủ rêu buồn
Dăm trang sách cũ, một hồn tang thương
Mịt mùng dáng khói hình sương
Đã như hiện nét tà dương cuối trời
Sài gòn ơi, thủ đô ơi
Theo ta chung thủy nghìn nơi lưu đày
Chín năm, ôi tiếng than dài
Rợn trong hơi thở, vang ngoài biển Đông ..
Thơ Xuân Đất Khách
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bời
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa .
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư !
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do !
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta .
Seattle, mùa xuân 1977 .
Trời Chớm Vào Thu
Trời chớm vào thu ươn ướt mưa
Sông sâu chừng thấm lạnh đôi bờ
Hoa vàng ý cúc phơi mầu nhớ
Nằm giữa thôn hiền gọi cố đô
Ta ở nơi này nhớ những ai
Đành thôi câu chuyện khách trang đài
Sông kia có gợi niềm u uất
Cũng thể đôi lòng sớm nhạt phai
Ôi tóc xanh này phai với thu
Ngàn năm còn khóc chuyện sông hồ
Bài ca trường dạ ngâm chưa dứt
Đã thấy dâng buồn ngát ý thơ
Chiều xuống mưa xanh màu nhớ thương
Hơi thu man mát gió lên đường,
Cố nhân xa cách nghìn sông núi
Cách biệt đôi bờ thoáng phấn hương
Ta gọi em thầm em gái ơi
Chiêm bao toàn những chuyện phương trời
Hờn lên ly rượu miền gai lửa
Chợt thấy em sầu lệ đẫm rơi
(*) Bài thơ này được ký dưới bút hiệu Nguyễn Minh Lang, là tên một người bạn của Thanh Nam, và được đăng trên báo văn nghệ Thẩm Mỹ của nhóm Thanh Nam năm 1954
Nhà văn Duyên Anh kể lại lời Thanh Nam “Ừ. Tao ký tên Nguyễn Minh Lang. Hơi hớm Đôi Bờ của Trần Quang Dũng, phải không mày?”
THANH NAM - CÁI SAY NHƯ MUỐN CHUYỂN QUA CÁI SẦU
Tên thật là Trần Đại Việt, nhà văn, nhà thơ Thanh Nam sinh năm một ngàn chín trăm ba mươi mốt tại Nam Định và mất năm một ngàn chín trăm tám mươi lăm tại Seattle, Hoa Kỳ, do bệnh ung thư thanh quản.
Ông vào Nam năm một ngàn chín trăm năm mươi ba, hợp tác và làm tổng thơ ký với nhiều tờ báo như: Thẩm Mỹ, Văn, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh và nhiều nhật báo khác. Cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tô Kiều Ngân, ông phụ trách chương trình thơ nhạc Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn, đài Quân Đội. Vợ ông là nhà văn Túy Hồng.
Thanh Nam còn là người đặt lời cho một số các bản nhạc của Hoàng Trọng, Ngọc Bích, Nguyễn Hiền. Qua Mỹ năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, ông làm tổng thơ ký cho tờ Đất Mới. Ông đã xuất bản hơn hai mươi tiểu thuyết, hồi ký, và một tập thơ mang tên Đất Khách (1983).
Thanh Nam làm thơ không nhiều, dẫu bài nào ông viết cũng hay. Chính vì bài nào cũng hay, nên tôi thật là khó lựa chọn.
******
THƠ XUÂN ĐẤT KHÁCH
1.
tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
mới hay năm tháng đã thay mùa
ra đi từ thuở làm ly khách
sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
**
Thanh Nam viết bài Thơ Xuân Đất Khách vào năm một ngàn chín trăm bảy mươi bảy, nghĩa là, sau hai năm, ông đặt chân đến Mỹ.
Hững hờ, có nghĩa là thờ ơ, có nghĩa là không thiết tha. Ông thấy mình thờ ơ và chẳng thiết tha gì khi tờ lịch đầu năm vừa rớt xuống. Xứ người mà, mới hai năm, còn nhiều lạ lẫm, có chi vui, nhất là mỗi khi tết đến. Mà nói cho thẳng thừng ra, có ở đến nhiều năm đi nữa, thì tết, cũng khó mà vui cho trọn vẹn như lúc còn ở quê hương.
Ở quê, không cần xem ngày tháng, chỉ cần thấy cái chộn rộn ở ngoài đường, ngoài ngõ, hoa cỏ nở bung, thấy cái nắng, cái gió, nghe tiếng chim hót rộn ràng, thấy bà con người ta lo phơi hành, phơi kiệu, là biết, tết sắp về. Còn xứ người, cắm mặt làm, tối về chỉ kịp lên giường, ngủ cho đủ giấc, sớm mai dậy còn lo cày bừa. Ngày nào cũng như ngày đó. Nên chỉ lúc chạm tờ lịch, thì mới hay, tết sắp sửa về.
Thanh Nam nhắc tới từ “ly khách”, làm tôi nhớ quá chừng đến Tống Biệt Hành của Thâm Tâm: ly khách, ly khách, con đường nhỏ / chí nhớn chưa về bàn tay không / thì không bao giờ nói trở lại / ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Con người ta ngộ vậy đó. Hở chút, xa nhà, là đã cảm thấy mình lạc lõng rồi, cảm thấy mình là “ly khách” rồi. Ly là ly biệt, là xa cách. Khách nghĩa là người lạ. Ly khách nghĩa là người lạ từ chốn xa, người phải xa quê hương. Trong khổ mở đầu, Thanh Nam tự gọi mình là ly khách, và áo não than, sầu nơi xứ người cũng đã được hai năm.
Hai năm, chẳng biết xuân là gì!
****
2.
trôi dạt từ đông sang cõi bắc
hành trình trơ một gánh ưu tư
quê người nghĩ xót thân lưu lạc
đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
**
Đông là phương đông. Bắc là vùng tây bắc của nước Mỹ. Thanh Nam trôi dạt từ nơi này đến nơi kia của quả địa cầu. Xa đến thế thì thôi. Đi xa như vậy, mà hành lý mang theo của ông, chỉ duy mỗi một gánh - ưu tư.
Thanh Nam ưu tư gì? Thì ưu tư vận nước, ưu tư gia đình, ưu tư cho chính mình. Ra đi, thương mình một, thương người còn ở lại đến hai, ba. Lại xót xa mỗi khi nghĩ đến mình, rồi đây, thân lưu lạc nơi đất lạ quê người, sẽ ra sao.
Chuyến viễn du này, thật khó để biết, khi nao mới là ngày quay trở lại!
****
3.
thức ngủ một mình trong tủi nhục
dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
giống như người lính vừa thua trận
nằm giữa sa trường nát gió mưa
**
Thức ngủ gì thì cũng chỉ một mình. Một mình với những nỗi lo, với những muộn phiền, buồn bã, với cả tủi, cả nhục, khi bỗng dưng mình, gia đình mình, vận đời xô đẩy, nên bước phải lưu vong.
Khác gì đâu người lính vừa thua trận. Giữa sa trường, thân phơi nát gió mưa!
****
4.
khép mắt cố quên đời chiến sĩ
làm thân cây cỏ gục ven bờ
chợt nghe từ đáy hồn thương tích
vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa
**
Đôi khi, cả tập thơ, người ta chỉ tìm thấy một bài thơ hay. Đôi khi, cả trường thi, người ta chỉ tìm thấy một khổ thơ hay, hoặc một câu thơ hay, hoặc một từ, đột ngột xuất hiện, làm sáng bừng lên, làm rộn rã lên, làm luồng gió mát ban trưa, làm trăng ngời sáng giữa màn đêm u hoài, tăm tối.
Từ mà tôi muốn nói lời khen ngợi, đó chính là từ “truy điệu”. Truy điệu là bày tỏ lòng thương tiếc với người không còn nữa: chợt nghe từ đáy hồn thương tích / vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Ông đã muốn khép mắt để cố quên đời chiến sĩ, như thân cây cỏ khô, gục ngã ở bên đàng. Nhưng rồi ông: chợt nghe từ đáy hồn thương tích / vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Mộng xưa không còn, mộng xưa đã chết rồi, và tiếng truy điệu như đang được cất lên, như đang được vọng về, tiếc thương hồn tử sĩ, có tên “mộng xưa”.
****
5.
ơi hỡi quê hương bè bạn cũ
những ai còn ai mất giữa sa mù
mất nhau từ buổi tàn xuân đó
không một tin nhà, một cánh thư
**
Bài Thơ Trên Đất Khách của Thanh Nam thiệt là buồn. Càng đọc, nỗi buồn càng mỗi tăng lên.
Ông gọi tên quê hương, gọi tên bè bạn cũ. Ông hỏi thinh không, chớ ai mất, ai còn. Từ cái tháng vừa tàn mùa xuân ấy, đến nay, ông không một tin nhà, mà cũng chẳng cánh thư.
****
6.
biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
rối bời tâm sự tuyết đan tơ
một năm người có mười hai tháng
ta trọn năm dài, một tháng tư
**
Lại là một khổ thơ rất buồn. Buồn đeo đẳng. Buồn dai dẳng. Buồn cứ hoài ở trong lòng. Buồn chẳng chịu đi cho.
Biền biệt nghĩa là biệt tăm, không có tin tức gì cả. Thời gian cứ biền biệt. Và ông, ông cứ mòn mỏi đợi, đợi tin nhà.
Lòng ông rối bời, nôn nao, lo lắng. Một năm, người ta, chỉ có mười hai tháng. Riêng ông, một tháng tư thôi, cái tháng tư vừa qua mùa xuân ấy, sao mà nó dài dằng dặc, dài bằng suốt cả năm.
Một tháng mà như bằng một năm!
****
7.
chấp nhận hai đời trong một kiếp
đành theo giông bão phũ phàng đưa
đầu thai lần nữa trên trần thế
kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
**
Lại một đoạn thơ rất hay. Hay vì cách ví von của Thanh Nam rất lạ. Ông gọi những tháng năm sống ở quê nhà là một đời, tị nạn ở xứ người là đời kế tiếp. Người ta một kiếp một đời. Còn ông, một kiếp, ngắt ra, làm hai đời, là vậy đó.
Ông đành: chấp nhận hai đời trong một kiếp / đành theo giông bão phũ phàng đưa / đầu thai lần nữa trên trần thế / kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ.
Cái đời thứ hai, giống như chết đi rồi, mà Diêm Vương ổng bảo, chưa tận số, sao lù đù vác xác xuống đây? Rồi cái, ổng úm ba la, thấy mình bay lên trần thế lại. Có điều, Diêm Vương ổng lộn, quăng lên, không nhằm nước Việt mà nhằm qua xứ Mỹ.
Thì thôi, kéo tiếp vậy, cho nốt một trăm năm, cái kiếp sống nhờ!
****
8.
đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
tập làm con trẻ nói ngu ngơ
vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
thân phận không bằng đứa mãng phu
**
Cái chỗ: đổi ngược họ tên cha mẹ đặt / tập làm con trẻ nói ngu ngơ, thì dễ hiểu quá rồi, không cần nói thêm làm chi nữa. Giờ thì lo mà sống, lo mà: vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi. Vùi sâu những danh giá, những địa vị từng có. Chúng hôm nay, đã tro bụi hết cả rồi.
Ở chỗ này, tôi muốn được nói thêm một chút. Người di tản, họ khác lắm với những người chủ động đi định cư ở xứ người. Đi định cư là sự lựa chọn trong chủ động. Còn di tản, họ bị động. Họ rối ren, họ chẳng còn nghĩ được gì cho thông suốt vào những giờ phút sinh tử ấy. Họ cũng không sẵn anh em bà con để nương nhờ, cậy cục. Ngoài hai bàn tay trắng, khi ra đi, họ chẳng kịp mang theo tài sản nào.
Nên, nếu Thanh Nam có nói: thân phận không bằng đứa mãng phu, nghĩa là, không bằng kẻ ít học, thấp hèn, thì cũng có cái lý của nó, chớ chẳng phải không!
****
9.
canh bạc chưa chơi mà hết vốn
cờ còn nước đánh phải đành thua
muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
nghĩ đắt vô cùng giá tự do
**
Rồi ông rầu rĩ: canh bạc chưa chơi mà hết vốn / cờ còn nước đánh phải đành thua / muốn rơi nước mắt khi tàn mộng / nghĩ đắt vô cùng giá tự do.
Quá hay, thơ Thanh Nam quá hay. Câu nào ra câu nấy, không thiếu, không thừa, dầu chỉ là một chữ. Cuộc đời mà ví như canh bạc. Rõ ràng, còn nước đánh, vậy mà phải đành thua. Hay đến vậy, thì thôi.
Không dưng, chỗ này, tôi cũng tặc lưỡi một cái. Mới thấy, cõi đời là cái nơi, không nói gì được trước. Nó đầy rẫy bất ngờ. Và, đầy rẫy, cả những vô lý, khó tin.
Muốn rơi nước mắt, cái cụm từ ấy mới làm ta xúc động làm sao. Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng. Biết, chỉ là cơn mộng thôi, một cơn mộng dài, một cơn mộng lớn, mà cũng không tránh được những đau lòng quá đỗi.
Nghĩ đắt vô cùng giá tự do. Để được tự do, như Thanh Nam giờ đây, cũng thiệt là bi ai quá!
10.
bằng hữu qua đây dăm bảy kẻ
đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
đứa nằm yên phận, vui êm ấm
đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa
**
Xứ người, thưa thớt bạn bè. Đã thế, lại mỗi đứa mỗi nơi, mỗi đứa, mỗi hoàn cảnh.
Mà kiểu nào, thì cũng, kiếp sống thừa thôi!
****
11.
mây nước có phen còn hội ngộ
thâm tình viễn xứ lại như xa
xuân này đón tuổi gần năm chục
đối bóng mình ta say với ta.
**
Giọng thơ Thanh Nam vừa cổ điển vừa hiện đại, nên, tuổi nào, đọc thơ ông cũng đặng, giới nào, đọc thơ ông, cũng thấy bóng dáng mình trong đó.
Mây và nước, vốn thứ trên trời, thứ kia ở dưới đất, thế mà, có đôi khi, chúng còn gặp nhau. Còn lũ chúng ta, xưa kia, nơi quê nhà, từng tình thâm, khác gì anh em ruột thịt, bây giờ, lại khó thể thăm nhau. Tết, đứa nào ở nhà đứa đó.
Nên, nhà thơ đành: xuân này đón tuổi gần năm chục / đối bóng mình ta say với ta.
Mình ta, say với ta!
******
ĐÊM CUỐI NĂM UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
1.
Rượu buồn ta rót cho ta
Bạn gần không đến bạn xa chưa về
Rót nghiêng năm tháng vào ly
Mắt nheo bóng xế tay che tuổi buồn
**
Cứ lục bát là tôi thích. Tôi cũng không lý giải được vì sao tôi thích lục bát. Có lẽ, lục bát là một thể thơ, coi vậy chớ khó mà làm hay được lắm. Nhàng nhàng thì nhiều, chớ xuất sắc, ít ai dám vỗ ngực, tự xưng, là tôi.
Thơ Thanh Nam buồn. Cái buồn nằm trong từng con chữ. Cái buồn nằm trong những lúc lên giọng những lúc xuống giọng. Chỉ trong một khổ thơ thôi, mà Thanh Nam dùng đến ba điệp từ “ta”, “bạn”, “buồn”, đủ hiểu, cô đơn lắm, một mình lắm. Luẩn quẩn vào ra, chỉ: rượu buồn ta rót cho ta / bạn gần không đến bạn xa chưa về.
Nhậu một mình, uống một mình, không ai mời, không ai cụng, và cũng chẳng có ai rót cho. Chợt thấy mình già rồi, khi: rót nghiêng năm tháng vào ly / mắt nheo bóng xế tay che tuổi buồn.
****
2.
Rót đầy băng giá cô đơn
Rót thao thức nhớ rót hờn giận quên
Thôi đừng thôi hãy lặng yên
Ngủ ngoan đi nhé cơn điên thuở nào
**
Cũng như thế, ở khổ thơ thứ hai, Thanh Nam vẫn liên tiếp dùng những điệp từ “rót”, “thôi”.
Nỗi một mình, mỗi lúc, mỗi một nhiều hơn. Không chỉ là năm tháng, không chỉ là tuổi buồn, mà, bây giờ, là: rót đầy băng giá cô đơn / rót thao thức nhớ rót hờn giận quên.
Chỉ muốn được nổi giận, chỉ muốn được quên đi, để khỏi hóa điên, những cơn điên của thời tuổi trẻ, nhưng lại sợ tội tình vợ con: ngủ ngoan đi nhé cơn điên thuở nào.
****
3.
Rót ta với bóng cùng nhau
Ngất ngư rót mãi tỉnh vào cơn say
Bốn mươi lăm tuổi rồi đây
Lá xanh còn được bao ngày phù du
**
Cuối cùng, thì cũng tìm được một người bạn, đó là cái bóng. Bèn ân cần với nó: rót ta với bóng cùng nhau / ngất ngư rót mãi tỉnh vào cơn say / bốn mươi lăm tuổi rồi đây.
Say thì say, chớ cũng còn nhớ tuổi mình. Khổng Tử chia cuộc đời người ta làm sáu giai đoạn. Tứ thập nhi bất hoặc. Ngũ thập tri thiên mệnh. Bốn mươi tuổi là cái tuổi chẳng còn những nghi hoặc, bởi trí tuệ đã mở mang. Năm mươi tuổi thì phải biết mệnh trời.
Thanh Nam viết bài thơ này lúc ông bốn mươi lăm tuổi, là cái độ tuổi này đây. Nên, ông mới nói: lá xanh còn được bao ngày phù du.
Phải khen ông, ông Thanh Nam ạ. Bốn mươi lăm tuổi mà thốt được lời như vậy, thì rất đáng để khen.
Cứ như tôi, bốn mươi lăm tuổi, mà lúc nào, cũng ngỡ, đời này dài lắm. Mình vẫn còn, hoài mãi, những ngày mai.
****
4.
Rót đau nhân thế mơ hồ
Nửa khôn ngoan thức nửa rồ dại mê
Nửa đời lăn lóc vòng xe
Rã rời xích chuyển ê chề bánh xoay
**
Biết được cõi này phù du, lại biết được nhân thế rất mơ hồ. Tự nhận mình, khôn ngoan cũng có đấy, nhưng chỉ một nửa thôi, nửa kia, là rồ dại, là ngu ngơ, là mê đắm.
Rồi thì biết đời này vốn chỉ là một vòng xe, mà sợi xích của nó, đã rã rời, mà bánh xoay của nó, đã ê chề lắm nỗi.
Bốn mươi lăm tuổi, viết thơ được như thế, kể cũng chỉ trên đầu ngón tay!
****
5.
Ngó lui hun hút đêm dài
Những xuân đã lánh những đời đã xa
Rót thêm chén nữa mời ta
Cái say như muốn chuyển qua cái sầu
**
Người ta thì ngó tới phía trước, ông Thanh Nam, ổng ngó lui về phía sau, làm tôi nhớ đến Bùi Giáng: xin chào nhau giữa con đường / mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
Thì đúng rồi, ông Thanh Nam đây: ngó lui hun hút đêm dài / những xuân đã lánh những đời đã xa.
Thơ lục bát là phải vần, là phải điệu, điệu đàng, điệu bộ, điệu nghệ. Không có những thức điệu ấy, thì, lục bát tiêu tùng
Thanh Nam viết lục bát rất giỏi:
Những xuân đã lánh những đời đã xa
Rót thêm chén nữa mời ta
Cái say như muốn chuyển qua cái sầu
Một loạt xa, ta, qua, “a” mở miệng ra, rồi chúm miệng lại “ầu”, cái sầu!
Giống không, vần điệu của ca dao, của dân ca, của lời mẹ ru, mà chỉ xứ Việt, chỉ nước Việt mới có.
Quá tuyệt. Thanh Nam làm thơ lục bát quá tuyệt. Cái tuyệt nằm ở sự nên thơ. Cái tuyệt nằm ở vần điệu. Cái tuyệt nằm ở hình ảnh tạo nên. Cái tuyệt nằm ở sự liên tưởng.
Liên tưởng về cái chất rất Việt Nam.
Có đến nơi đâu, thì, nguồn gốc, cũng Việt Nam!
****
6.
Bốn mươi lăm tuổi rồi sao
Ngó gương xưa thấy tóc râu rối bù
Trán hằn dăm lũng ưu tư
Cuộc chơi phù thế chừng như mỏi mòn
**
Bốn mươi lăm tuổi, mà đã thảng thốt, rồi sao! Thì phải rồi, hồi xưa, ông Y Vân, ổng từng viết nhạc đó: em ơi, có bao nhiêu, sáu mươi năm cuộc đời.
Giờ, bốn mươi lăm tuổi, là hơn nửa đời người rồi: ngó gương xưa thấy tóc râu rối bù / trán hằn dăm lũng ưu tư / cuộc chơi phù thế chừng như mỏi mòn.
Làm thơ lục bát mà muốn hay, thì không chỉ giỏi vần, giỏi điệu, mà còn phải giàu có cả về từ vựng nữa.
Ông Thanh Nam, ổng đủ cả hai điều ấy!
****
7.
Sóng nhồi thác đẩy mưa tuôn
Đời trôi chảy mãi mộng tròn lần khân
Bốn mươi lăm tuổi quay nhìn
Cái trôi cùng với cái chìm đuổi đeo
**
“Lần khân”, nghĩa là chần chừ, kéo dài nhằm trì hoãn. Lâu lắm, tôi mới lại nghe từ này. Thanh Nam vẻ như rất bối rối với số tuổi quá nửa đời người của mình, nên ông lặp đi lặp lại mãi con số bốn mươi lăm tuổi.
Tôi lại sực nhớ về thời cuộc lúc này, một ngàn chín trăm bảy mươi tư, dầu sôi lửa bỏng. Nên cũng không trách được những lo lắng, những muộn phiền, những âu sầu, mà gần như, lúc ấy, ai cũng hệt.
****
8.
Tiếc gì trận gió thu reo
Tóc xanh phơ phất chạy theo mộng vàng
Hỏi ta ngày xế năm tàn
Rượu buồn sao chẳng rót tràn xót thương
**
Tóc còn xanh mà mộng đã vàng, rồi, ngày xế năm tàn. Những ý đối, những vế đối, những từ đối trong thơ của Thanh Nam, liên tục xuất hiện. Gần như trong toàn bài thơ, không chỗ nào mà ông không sử dụng phép đăng đối .
Thế nên, thơ ông buồn nhưng đọc không chán, thơ ông sầu nhưng đọc không ngán, là nhờ những cấu trúc đăng đối, khiến đọc lên, nghe chữ rất giòn, rất sinh động.
****
9.
Ngủ say mai sớm lên đường
Đấu trường lại múa dăm đường võ quen
Ta ru ta khúc ưu phiền
Ngủ ngoan đi nhé, cơn điên thuở nào.
**
Buồn mấy thì cũng phải sống. Sầu mấy, thì cũng phải đối diện. Đối diện với cuộc đời. Đối diện với đấu trường cơm áo, mà mỗi thế võ sai, là mỗi lần trượt vào lằn sinh tử.
Ngủ cho say. Tự mà ru mình đi. Lại nhớ câu của ông Trịnh Công Sơn, ổng viết: ru từng chiếc bóng, lênh đênh vào giấc ngủ ngon.
Cho tôi tay gối mong manh!
******
KẾT
Thơ Thanh Nam hiền. Nói một cách khác, thơ ông thuần hậu, nhẹ nhàng. Chỉ xót xa, đau đớn, ngậm ngùi, chớ không hằn học, căm ghét hay thù hận.
Thơ không lên giọng dạy đời, chỉ bảo, cũng không xuống giọng rên rỉ, khóc than. Thơ Thanh Nam không cường điệu, không thương vay khóc mướn, và cũng chẳng làm bộ làm tịch. Thơ ông không giả tạo, lại càng không kịch tính.
Thơ ông không đỏm dáng. Nó lành như cuộc đời ông. Và, buồn như cuộc đời ông. Một kiếp hai đời, chỉ vỏn vẹn năm mươi tư năm, ngắn ngủi!
Sài Gòn 03.04.2024
Phạm Hiền Mây
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.