Nguyễn Bắc Sơn
Tên thật: Nguyễn Văn Hải
(1944 - 2015) Phan Thiết
Hưởng thọ 71 tuổi
Nhà thơ
Vân tay rớt xuống trắng mây
cuối đời để lại ngón tay đủ mười
Tiểu Sử
Nguyễn Bắc Sơn tên khai sinh là Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1944 tại Phan Thiết, Bình Thuận.
Năm 15 tuổi, ông đã lên nghĩa địa, cắt cổ tay, nằm chờ chết. Không may cho ông là có người vào thăm nghĩa địa, tìm thấy và cứu ông thoát chết. Sau này ít nhất ông còn có hai lần nhảy lầu tự tử nhưng không chết.
Cha Nguyễn Bắc Sơn là cán bộ tập kết ra Bắc năm 1954, đến 30/4/1975 mới trở về đoàn tụ gia đình, mang cấp bậc Đại tá Quân đội nhân dân, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu 6.
Sau một thời gian ngắn đã qua đời vì một tai nạn xe hơi.
Trước năm 1975 Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì lính địa phương quân của chính quyền VNCH, thời gian này ông đã nổi tiếng với tập thơ phản chiến in năm 1972 là Chiến tranh Việt Nam và tôi, gây được tiếng vang trong giới văn nghệ miền Nam. Thơ Nguyễn Bắc Sơn từng được nhiều bạn đọc ưa thích, ngâm nga trong các quán văn nghệ ở Đà Lạt, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ…
Nguyễn Bắc Sơn là con người đa tài: rất giỏi tiếng Anh, nghiên cứu triết học Đông – Tây, đặc biệt là Kinh dịch và triết học Phật giáo, lại có bàn tay châm cứu tuyệt vời cộng với tấm lòng nhân ái của một lương y thực thụ. Thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, ông đã từng tham gia chẩn trị và hướng dẫn châm cứu cho lớp đàn em ở các cơ sở Đông y Phan Thiết và Hàm Thuận Bắc.
Gia đình Nguyễn Bắc Sơn cư ngụ tại thành phố Phan Thiết. Bà Xuân Hồng, vợ ông, từng là một giọng ca hay, thường được phát trên sóng đài phát thanh Phan Thiết và Sài Gòn cùng thời với ca sĩ Thanh Thúy lừng danh vào thập niên 60.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đã qua đời do bệnh tim vào lúc 8h50 sáng ngày 4 tháng 8 năm 2015 tại nhà riêng ở Phan Thiết.
Hưởng thọ 71 tuổi
Tác phẩm đã xuất bản:
1
(1972)
Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời …
Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh xa ra ta xin tí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rừng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang
Toàn bộ tập thơ
Chiến tranh việt nam và tôi
2
Ở đời như một nhà thơ Đông phương
(NxbTrẻ, 1995)
tập thơ do nhà văn Đoàn Thạch Biền và thân hữu góp sức xuất bản.
Biển của một thời
tuyển tập thơ nhiều tác giả
(1999)
Trang Thơ Nguyễn Bắc Sơn
Người bạn già và cô gái Huế
Vũ trụ chẳng qua chỉ là gian nhà mênh mông ấm cúng
Nên ta mời nhau chén rượu trường xuân
Các dân tộc giống như mấy mụ đàn bà hay cãi cọ
Đông phong, tín nguyệt biết bao lần
Trái đất bụi hồng, chiếc xe luân lạc
Chở muôn mùa bao viễn khách truân chuyên
Thi sĩ, người ngây thơ ngó thấy
Cuối trời chiều, một bến đậu vô biên
Tôi đến rồi đi rồi lãng đãng
Anh nằm đau nặng chiếc giường con
“Một chút mặt trời rơi vào ly nước lạnh”
Có gì đâu chuyện mất hay còn
Tôi ra quán cà phê, chuyện trò cùng cô gái Huế
Giọng nói Hương Giang, giọng nói ân tình
Ta mà cũng có người yêu mến nhỉ?
Tóc mây bên trời, mái tóc em xanh
Ta đã sống những ngày ngây ngất
Anh vẽ tranh, còn tôi làm thơ
Chúng ta giống những hài nhi vô nhiễm
Chơi đùa trên sóng nước hư vô
Sáng nay anh đã qua đời rồi
Tôi vào quán nhạc ngó mưa rơi
Cô gái mỉm cười, tôi ứa lệ
Phải cuộc đời như một trò chơi?
Nhắc đến Ma Lâm
Chiều Thiện Giáo hồn mình đầy bóng núi
Con đường mìn ôm vết máu đơm khô
Khu phố quận những đời người đã mỏi
Cỏ tranh đùn cao gió khói hư vô
Đêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay
Đâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc
Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say
Khuya thức mãi trầm tư cây đèn lạp
Chảy trong lòng men nhạc Trịnh Công Sơn
Đêm không ngủ trong những ngày bão táp
Ôi những ngày máu ứa xác quê hương
Tôi hỡi tôi xin đừng chết nhé
Bóng hoà bình thấp thoáng ở miền Nam
Ngày ta mong nằm trong tầm tay với
Sao thấy lòng chưa dứt mối hoang mang
Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể nào vui tiếp rước hoà bình
Đêm đen quá dài nên người quá khác
Không thể nào tin sẽ có bình minh
Mật khu Lê Hồng Phong
Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoáng đã ở phương Tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ thành mây bay
Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong rừng động Thái An
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám xương tàn.
Tiệc tẩy trần của người sống sót
Bóng bồ câu gù trên đầu ngọn tháp
Ai chèo thuyền câu cá giữa dòng sông
Vẫn còn đây bóng dáng chiếc cầu cong
Đây có sẵn rượu bia đồ nhắm tốt
Các bạn cũ những thằng nào vô phước
Mồ đang xanh vì cuộc chiến hôm qua
Hãy về đây mà say khướt cùng ta
Này bóng mây cao này vòm lá thấp
Con đường phố người anh em tấp nập
Một người này yêu một chút người kia
Tay ấm trong tay chân ấm vỉa hè
Trái tim ấm lửa tình người ấm áp
Người sống sót nâng ly mời kẻ khuất
Lại gần đây trên bãi cỏ bờ sông
Soi mặt mình trong dòng nước xanh trong
Để nhìn thấy hình bản lai diện mục
Cởi áo trận và hoa mai ném tuốt
Xin giã từ đời vũ khí huy chương
Xin trở về như một kẻ hoàn lương
Xin vứt hết xin bắt đầu lại hết.
Cười lên đi, tiếng khóc bi hùng
Đời bắt một kẻ làm thơ như ta đi làm lính
Bắt lê la mang một chiếc mai rùa
Nên tâm hồn ta là cánh đồng úng thuỷ
Và nỗi buồn như nước những đêm mưa
Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
Râu tóc mọc dài như bầy cỏ loạn
Sống thật âm thầm, ai hiểu ta đâu
Dù đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu
Trời đất bao la ta chỉ một mình
Nhưng làm sao quên cuộc đời dưới đó
Quên những thằng người bôi bẩn kiếp nhân sinh
Ngày hôm nay ta muốn chặt đi bàn tay trái
Để được làm người theo ý riêng ta
Ngày hôm nay ta muốn thọc mù con mắt phải
Ngày hôm nay ta muốn bỏ đi xa
Khi nâng chén lên cao ta muốn cười lớn tiếng
Cười lên đi, cười những tiếng bi hùng
Đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính
Chiếc mai rùa đã nặng ở trên lưng
Trời cố xứ
Gởi Thức, Hoàng và Tân
Trời mưa ở Nha Trang làm tôi nhớ bạn đến rơi nước mắt
Khi thấy rượu tràn sôi vành ly
Hoa sứ đỏ rụng nhiều xui tôi nhớ ngày đi trọ học
Nhà em láng giềng cửa sổ mở đêm khuya
Tưởng tượng có người thanh niên ngồi im trong quán gió
Khi chuyến xe đò tách bến trong mưa
Chuyến xe chở người đàn bà mang áo khoác
Tóc dài như tóc của em xưa
Tôi sợ tình yêu như sợ nhìn về viễn kiếp
Tôi ngại quê nhà nhưng lại hoài hương
Biết đâu mẹ tôi không đang sơn xanh ngôi nhà, mở toang từng cánh cửa
Mong bóng tôi bỗng hiện cuối con đường
Nơi cổ thành kia tôi đã lớn khôn đã cười đã khóc
Đã đem lòng thương mến Cúc Hoa em
Đã sống âm thầm những năm bất khuất
Soi chiếu đời với những que diêm
Tưởng tượng giữa trưa có người thanh niên nghe tiếng con gà trống gáy
Nghĩ đời mình trôi dạt biết bao nhiêu
Máu tôi lẫn máu người du mục
Nhưng lòng tôi e gió thổi đìu hiu
Các con ơi, tưởng tượng ba mỗi ngày ôm theo nón sắt
Đứng chờ xe trước ngã ba đường
Phải lộn sòng theo gái giang hồ và những tay mỗ mật
Các con sẽ thấy lòng người đen bạc ở quê hương
Cổ thành kia ơi, cổ thành bạc bẽo
Đuổi xua người trai trẻ mến thương người
Vì sao người thành ra bãi rác
Thành ra nơi đĩ điếm chuột heo ruồi
Các con, thế nào ba cũng dọn nhà đi viễn xứ
Dù tình quê hương rất khó nguôi khuây
Nhưng nghĩ giòng sông đã nhơ, lòng người đã đục
Đâu có người thương tiếc đám mây bay
(trích từ báo Sóng Thần số Xuân năm 1973)
Thiếu nữ
Đứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình lạnh buốt mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên chợt nhớ mắt một người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ mòng thuở đó.
Thơ tình tháng Chạp
Cảm ơn em đã viết cho anh những bức thư tình
Tình thảo nguyên hoa quỳ vàng đắm đuối
Em không nói tiếng người, em nói tiếng chim, em nói bằng tiếng suối
Tiếng nói em thơm ngát suốt hồn anh
Cảm ơn em đã đi cùng anh trong khu vườn xanh
Vườn trĩu trái, trái hồng như trái ngực
Anh thương những hàng cây suốt ngày bực tức
Vì giận mình sao chưa biết đi
Dù cho cây biết đi như mây bay
Vẫn còn thua bước chân người tình đầy dấu ấn
Khi loài chim bước tình cờ tha thẩn
Là lúc tâm hồn anh đầy dấu chân
Cảm ơn ngôi nhà em, ngôi nhà đã bao dung người thiếu nữ
Vừa ngọt ngào vừa cay đắng như em
Những đêm mưa em có thắp ngọn đèn
Để chiếu sáng những góc lòng đen tối
Thôi câu chuyện tình nói cho nhiều rồi cũng vậy
Trăm năm dài rồi sẽ đụng ngàn năm
Tất cả sẽ qua đi điều gì còn ở lại
Một đóa hoa quỳ trong cõi trăm năm
Đại lãn
Lúc tuyệt nhất là lúc chờ sung rụng
Nằm lơ mơ trên ghế dựa ngoài hiên
Con chim sâu, mày nhắm mắt lim dim
Rồi mới hót mới thật là ríu rít
Tôi dẹp sách vì sách là lá mít
Không ngọt bùi bằng một củ khoai lang
Không nhẹ nhàng như nghĩ ngợi lan man
Không thảng thốt như vừa nghe gió hát
Bậc thánh triết là những tay biếng nhác
Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh
Kết bạn bè cùng cây cỏ vô minh
Rất chán ghét những trò chơi thế sự
Trò thế sự khiến con người mệt lử
Khiến con người quên ý nghĩa du sinh
Quên trăm năm trong cảnh giới hữu tình
Là tặng vật đất trời kia gửi biếu
Và vĩ nhân là những tay láo lếu
Như ta đây chờ sung rụng ngoài hiên.
Người hoa khôi áo rách
Rồi một hôm gió bấc có ai ngờ
Ai lãng đãng ngờ chi cơn gió bấc
Cây bạch đàn trước cửa nhà em đang còn hay đã mất
Sao anh hình dung như có vết thương
Đang loang ra trong vũng nước vô thường
Truyền tín hiệu đến ngậm ngùi vô tận
Anh có nghe chuyện đời em lận đận
Những chuyến đi buôn những chuyến xe đò
Tiếng nói sau lưng lời chua chát nhỏ to
Dòng lệ em khô nhưng vẫn là dòng lệ mặn
Đã qua chưa ôi cái thời đăng đẳng
Đứng bên kia sông cũng ngó thấy điêu tàn
Băng giá chuyển mình băng giá mau tan
Tiếc câu thơ anh không đủ làm cho đời em ấm cúng
Tiếc loài người bày ra xích xiềng huyễn mộng
Đến nỗi quên mình là hạt giống vô biên
Câu chuyện tình như ngọn gió miên miên
Thổi ấm Kinh Thi thổi lạnh hồn Kinh Dịch
Tha lỗi cho ta
Tiếc mày không gặp tao ngày trước
Ta cho mày say quất cần câu
Rượu bia bốn chục chai đồ bỏ
Uống từ chạng vạng suốt đêm thâu
Thành phố giới nghiêm ta ngất ngưỡng
Một mình huýt sáo một mình nghe
Theo sau còn có vầng trăng lạnh
Cao tiếng cười buông tiếng chửi thề
Thời đó là thời ta chấp hết
Lửng lơ hoài trên chiếc đu quay
Ðời mình như ly rượu cạn
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày
Thời đó là thời ta bất xá
Sẵn sàng chia khổ với anh em
Hơi cay, đạn khói, dùi ba trắc
Bước cũng không lui trước bạo quyền
Bây giờ ta đã thành ti tiểu
Uốn vào khuôn khổ cuộc đời kia
Loanh quanh trong chiếc chuồng vuông chật
Sống đủ trăm năm kiếp ngựa què.
Chuyện hai bố con tôi
Cái ngu đần của kẻ thông minh
Là Cái đó chính là Cái đó
Bố qua đời đúng năm năm
Tôi viết bài thơ này
Để tâm sự cùng một người khuất núi
Thuở sinh tiền
Ông rất thương tôi
Và tôi rất thương ông
Nhưng hai chúng tôi
Đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy
Bi kịch của bố con tôi
Là bi kịch của hai thằng tây đen
Cùng đi kiếm con mèo đen
Trong đêm đen mù mịt
Các vị thánh hiền thời xưa
Bảo thế giới loài người
Giống như chiếc đuôi cong
Của loài chó
Chúng ta là những đứa trẻ con
Chổng khu vuốt chiếc đuôi này cho thẳng
Vuốt cho thẳng rồi
Thả tay ra là nó cong trở lại
Nếu mỗi chúng ta có làm điều gì tốt đẹp
Chẳng qua là để phát huy một tấm lòng son
Còn trái đất cứ ngày đêm sáng tối
Thịnh đã rồi suy
Suy rồi lại thịnh
Bố ơi bố đã ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bệnh
Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm lòng son
Thành hay bại chỉ là chuyện vặt.
Diệu âm
Mắt người như cánh hoa sen xanh
Mắt của rừng nai mắt của tình
Một sáng ta về ngây ngất nhớ
Âm thầm thu phát những âm thanh
Đi câu
Ta thích ngồi câu bên bờ sông
Để cho tâm trí được phiêu bồng
Cá chẳng đớp mồi càng thích thú
Miễn là câu được đám mây bông
Điều bình thường
Có những điều bình thường ở trong cái phi thường
Anh chẳng dám khinh thường những điều vụn vặt
Khi con gà nhường thức ăn cho bầy con
Anh chợt hiểu tình gia đình rất thật
Giai nhân và sách vở
Ta đọc ba ngàn quyển sách
Xong rồi chẳng nhớ điều chi
Ta chỉ nhìn em một cái
Sao mà nhớ đến mê si
Hoàng hậu
Các bà hoàng hậu nghìn xưa
Rủ nhau ra chợ bán mua phiêu bồng
Khổ đau non nước chập chồng
Các bà hoàng hậu phập phồng bán mua
Kẻ chịu chơi
Ta đứa trẻ chơi đùa cùng nhật nguyệt
Nằm lim dim bên bãi cỏ bờ sông
Thấy thương yêu một thế giới đại đồng
Con cá nhỏ đớp vầng trăng ẩn hiện
Qua sông
Một sáng phiêu bồng qua bên sông
Bỗng nhiên hiểu Phật cũng đau lòng
Phật cũng khổ như người khốn khổ
Cúi đầu quay lại bên này sông
Một ngày nhàn rỗi
Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà-phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về.
Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba nghìn thế giới cũng chưa to.
Tháng giêng ngồi quán quán thu phong
Gió Nhạn Môn quan thổi chạnh lòng
Chuyện cũ nghe đau hồn tứ xứ
Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong.
Bày ra một ván cờ thiên cổ
Thua trận nhà ngươi cứ trả tiền
Mẹ nó, tiền ta đi hớt tóc
Gặp ngày xúi quẩy thua như điên.
Tóc ơi ngươi cứ tha hồ mọc
Xanh tốt như mùa xuân thảo nguyên
Từ Hải nhờ râu nên mới quạo
Thua cờ tớ bỗng đẹp trai thêm.
Lạng quạng ra bờ sông ngó nước
Trên trời dưới đất gặp ông câu
Ta câu con đú, ngươi câu đẻn
Chung một tâm hồn tất gặp nhau.
Khi gã Yêu Ly đâm Khánh Kỵ
Là đâm chảy máu trái tim mình
Sông Mường Mán không dung hào kiệt
Muôn đời bóng núi đứng chênh vênh.
Tháng giêng có kẻ đi tìm cúc
Nhưng cõi đời không có Cúc Hoa
Thấy đám phù bình trên mặt nước
Biết mình đi lộn nẻo bao la.
Những khuôn mặt những người xuân nữ
Phiêu bồng vĩnh cửu lẫn phù du
Yêu rất khó vô tình cũng khó
Khánh đa tình sợ nhất mùa thu.
Ghé thăm ông bạn trồng cây thuốc
Mời nhau một chén rượu trường sinh
Bát cơm tân khổ mười năm ấy
Câu chuyện năm năm khiến giật mình
Nằm dưới gốc cây nhìn cánh bạc
Dường như mặt đất tiết mùi hương
Ngủ thẳng một lèo nay mới dậy
Dường như mình cũng mộng hoàng lương.
Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.
THỔ CÚC
1.
Cúc vàng sân ga
Con tầu mất hút
Tiếng còi trong ta
Nhoi nhói dội về
Cùng gió nồm
Đau buốt.
2.
Lắng nghe hồn hoa
Loài cây tịch tịnh
Cây có nói gì đâu
Mà nở ra con bướm sầu
3.
Cúc mọc lên từ đất
Đất là mẹ của ngàn hoa
Thy sỹ hồn nhiên đi qua
Mĩm cười chào cánh hoa thổ cúc
4.
Kẻ làm thơ chết đi
Sẽ biến thành hoa cỏ
Chờ những cơn mưa nhỏ
Biến thành hạt vô vi
TÀ CÚ SƠN *
Phiêu bồng núi lẫn trong mây
Có cô thiếu nữ loay hoay hái đào
Ở trong những hạt mưa rào
Sáng nghìn con mắt nhìn vào chữ Tâm.
*Núi Tà Cú: có tượng Phật nằm dài 49m-
ở Hàm Thuận Nam-Bình Thuận.
CỔ THẠCH TỰ*
Đá xưa ngựa hý vang lừng
Âm vang đánh thức khu rừng Thệ Đa
Phật vừa gần, Phật vừa xa
Tiếng chuông Cổ Thạch vỡ oà nhân gian.
* Cổ Thạch tự: Chùa Cổ Thạch tức chùa Hang
có bãi đá màu độc đáo - thuộcTuy Phong - Bình Thuận
Nguyễn Bắc Sơn:
ÂM ĐIỆU NHẬP THẦN VÀ TÌNH THƠ VỪA HỆ LỤY VỪA THANH THOÁT
trong thơ Nguyễn Thị Liên Tâm
Hãy điểm xuyết qua một vài bài thơ trong tập Người đàn bà trong đêm dạ lan - một tập thơ đầy đặn với ngôn từ trang nhã, ý tứ tinh tế; lục bát nhẹ nhàng mà nghiêm nhặt đúng là lục bát; thơ văn xuôi bàng bạc, luân chuyển đúng là thơ văn xuôi.
Anh nói: " Mùa trăng hờ hững quá!"
Em cười: "Trăng mờ ảo như anh và em"
Nửa bờ hư, nửa bờ thực...(Mùa trăng hư thực)
Bài Mùa trăng hư thực ẩn hiện sự ảo hóa của tình yêu. Ngón tay chỉ mặt trăng dĩ nhiên không phải là mặt trăng, mà mặt trăng chúng ta đang nhìn thấy cũng không phải là mặt trăng hiện thực trong thiên văn học hiện đại. Điều này ai cũng biết. Và ai cũng biết "tình yêu và hận thù đều nằm trong cơn tuý mộng"; nhưng thật là kỳ diệu và cũng thật là kỳ lạ - ai cũng thích ngắm trăng và ai cũng thích tình yêu. Những người say tình, say trăng rất giống những người "say rượu". Lúc trăng tròn là lúc có nhiều người say nhất và lại là lúc có nhiều người tri kiến chân thiện mỹ nhất.
Lại đọc thêm bài Hắt bóng:
Ao lạnh/ Sen tàn/ Thu hắt hiu
Gió lay/ Rèm động/ Ngả nghiêng chiều
Trả người sương khói về đông giá
Mượn bóng trăng gầy khóc tịch liêu.
Cái âm điệu, cái chất nhạc thơ, nhịp thơ trong bài Hắt bóng của nữ sĩ Nguyễn Thị Liên Tâm, nói theo Ho‘e'lderlin - người thi sĩ hiền minh của nước Đức - là âm điệu thiêng liêng của vũ trụ, là nhịp điệu của vận động thiên hà, và vì tâm thức miền sâu của các thi sĩ bẩm sinh đều là tâm thức vũ trụ. Phải chăng là âm điệu nhập thần? Đột nhiên, chúng tôi chợt nhớ lại câu thơ xưa nhưng quên mất tên tác giả: "Cổ nhân bất kiến kim thời nguyệt/ Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân".
Lục bát tình; lại thật khéo hài hòa giữa luật, âm và vận:
Mùa thu gánh lá về rừng
Đưa tay, chạm cánh... rưng rưng... hoa gầy
Chiều đi, ráng đỏ chân mây
Tóc dài rối lược, đêm...đầy...bóng đêm (Chạm cánh hoa gầy)
Lại thử ngâm nga một vài câu trong Tình yêu phỉ thuý:
Con chim phỉ bay đi đâu, đi đâu
Để con chim thuý buồn da buồn diết
Núi rừng thẳm xanh đâu phải dòng sông thao thiết
Mà sao như lắm thác lắm ghềnh
Bài thơ cũng mang một âm điệu rất riêng của Nguyễn Thị Liên Tâm, không lẫn với âm điệu thơ người khác. Âm hưởng bài thơ thật buồn, buồn sâu lắng, nỗi buồn mà các nhà thơ viết trong Kinh Dịch: "Cô âm bất sinh, độc dương bất trưởng, nhất âm hợp nhất, dương chi vị đạo".
Với Đêm dạ lan - linh hồn của cả tập thơ, hấp lực khiến tôi phải đọc và ghi lại trọn vẹn cả bài:
Người đàn bà cứa mình vào đêm
Đêm bật ra tiếng thở dài. Trống vắng.
Con thạch sùng tặc lưỡi sầu đêm
Người đàn bà nhớ thương một thời hoa phấn.
Căn phòng vẫn ngọt ngào mùi dạ lan
Gió thu vẫn mơn man lùa vào khe cửa
Người đàn bà giấu trái tim hừng hực lửa
Mơ hoài một ánh trăng di.
Người đi. Hoa tàn. Vẫn cứ mãi đi
Đêm, chí có ánh trăng khi mờ khi tỏ
Người đàn bà thả hồn theo ánh trăng về nơi cuối phố.
Nơi có một người. Ngày xưa.
Bài Đêm dạ lan là một bài thơ toàn bích. Đọc một lần, thấy lòng buồn dịu nhẹ. Rồi đọc lần thứ hai, thứ ba... lại thấy mang mang thiên cổ sầu. Ai cắt nghĩa được tình yêu. Nữ sĩ Nguyễn Thị Liên Tâm là một thi sĩ bẩm sinh. Hình ảnh "người đàn bà" xuất hiện nhiều trong thơ như một sự xẻ chia về thân phận. Môt tình thơ vừa rất đỗi hệ lụy vừa rất đổi thanh thoát: Trời sinh thi sĩ làm gì?/ Để thơ hội thoại huyền vi chư thần.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn
(Chiến tranh Việt Nam và tôi)
Tham khảo thêm về nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn
Đọc lại thơ Miền Nam, ba mươi năm sau ngày chiến tranh kết liễu:
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui.
Đây là một đoạn thơ Nguyễn Bắc Sơn đã từng làm xao xuyến dư luận khi xuất hiện trên báo giới Sài Gòn khoảng 1970, như trên tuần báo Khởi Hành của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều người đọc, nhất là giới thanh niên, ngạc nhiên và sảng khoái trước những lời thơ ngang tàng, bi tráng, ý thơ u uất, kiêu bạc, bất cần đời. Câu thơ phơi trải tâm trạng một lớp thanh niên Miền Nam, vào thời điểm quyết định của chiến tranh — và từ đó — làm chứng từ cho một khía cạnh của cuộc chiến kéo dài non hai mươi năm.
Tâm trạng kia và chứng từ nọ đã được ghi lại trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi xuất bản năm 1972 1 thời đó đã ít người được đọc trực tiếp nguyên tác ; bây giờ dĩ nhiên là tuyệt bản. Năm nay nhiều cơ quan tổ chức kỷ niệm ba mươi năm chấm dứt chiến tranh (1975-2005), tưởng cũng nên đọc lại chứng từ Nguyễn Bắc Sơn. Thì may thay, các bạn ở nước ngoài đã sưu tầm và tái bản tập thơ để tặng biếu bạn bè. Đây là một việc làm cao đẹp, đi từ tình bằng hữu thủy chung và nồng nhiệt đến việc bảo tồn văn học lâu dài, bên ngoài mọi ý đồ chính trị. Thậm chí cái năm 2005 kỷ niệm này có lẽ cũng chỉ là tình cờ so với việc tái bản. Việc làm như thế đáng được giới thiệu rộng rãi và nhiệt thành cổ vũ.2
Nhiều người nhớ đoạn thơ nói trên vì tâm tư một thời đại, nhưng nó tồn tại lâu dài trong tâm thức người đọc là nhờ giá trị nghệ thuật — bên cạnh giá trị lịch sử mà không ai chối cãi. Điển hình cho thi pháp Nguyễn Bắc Sơn là từ vựng: câu đầu trên 7 chữ, đã có 5 từ diễn tả niềm hoang mang trước cuộc sống mỏng manh, bao quanh một chủ từ «ta» phù du hiu hắt ; «mai» là cuộc sống đếm từng ngày ; động từ «đụng» vừa chủ động: có đi mới đụng, vừa thụ động vì có tính cách tình cờ, tai hại ngoài ý muốn: «anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay». Người lính đụng trận như người thường đụng xe, đụng mưa; bình thường, chính xác hơn, người khác sẽ nói: đụng giặc, đụng địch. Nhưng trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không thấy có đối phương. Trong câu sau Sông Mao là một thị trấn nổi danh vì chiến tranh: từ 1955 Sư Đoàn 5, người Nùng đóng ở đó, với khu gia binh di cư vào, và đời sống mang sắc thái riêng, về sau là các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Do đó địa danh Sông Mao, tự nó đã có âm hưởng chiến tranh, và quả thật nơi đấy «có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính» (tr. 11) như lời thơ Nguyễn Bắc Sơn.
Nói phá phách chơi là phách lối chơi, nói cho hả, nói cho đã, chứ Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì Địa phương Quân «hiền khô, lính cậu» thì sức vóc bao nhiêu mà phá phách, nhưng giọng thơ ngang tàng ở đây pha lẫn một ít Lương Sơn Bạc, Tiếu Ngạo Giang Hồ với tính cách lê dương mà tác giả, sinh năm 1944, còn ghi trong ký ức; «đốt tiền» cũng là lối nói ngông, như Nguyễn Bính «tiêu hoang cho đến hết», nhưng chữ «đốt» ngông cuồng, nóng nảy hơn, phục vụ đắc lực cho ý đồ «mua vội một ngày vui» với những âm môi m, v mấp máy và luyến láy, như hấp ta hấp tấp. Tâm tình tác giả buồn vui lẫn lộn, mâu thuẫn: chia sớt nỗi buồn nghĩa là nỗi buồn tràn bờ, nỗi buồn hiện hữu làm căn bản cho cuộc sống. Sau trận đánh còn sống, tự thân nó, chưa phải là niềm vui, cho nên phải đốt tiền để mua vui. Ở một bài thơ khác, tác giả nói rõ:
Một trẻ con mới sinh
Chắc gì là một điều đáng vui
Một người chết
Chắc gì đã là điều đáng tiếc (tr. 25)
Một câu thơ khác, hào sảng, bi tráng hơn:
Đời mình như ly rượu cạn,
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày (tr. 58)
Hắt toẹt là một hình ảnh khinh bạc chưa từng thấy trong thơ Việt Nam.
Đời đáng sống hay không đáng sống là câu hỏi đã ngàn năm của loài người. Nhưng ở mỗi thời điểm nó dấy lên nét bi đát riêng. Vào khoảng 1970 hơi thơ Nguyễn Bắc Sơn tính phi lý và bi kịch đã được chiến tranh, vào giai đoạn cuối, nâng tầm lên cao điểm.
Có nhiều lối nhìn khác nhau về bản chất cuộc chiến, thịnh hành nhất vẫn là lối nhìn từ bên chiến thắng. Đây là cách nhìn của Nguyễn Bắc Sơn:
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc.
Đây là trò chơi súng đạn, sống chết và hai đối thủ xem nhau như cừu thù:
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi..
Đây là kinh nghiệm đánh chác:
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời
Hãy tưởng tượng mình đang đi pic nic
& Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh.
(Trích từ bài Chiến Tranh Việt Nam và Tôi, tr. 38)
Sau cuộc chiến, nhà thơ Cao Tần di tản sang Mỹ, hồi tưởng lại đời lính, cũng chẳng khác chi Nguyễn Bắc Sơn:
Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai
(Cảm Khoái, 1977) 3
Nguyễn Bắc Sơn không lừng khừng triết lý, mà để hồn mình bay bổng ra khỏi nhân gian:
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Khổ thơ này cũng như đoạn «mai ta đụng trận» trích ở đầu bài nằm trong một bài thơ mang tên Mật khu Lê Hồng Phong, một chiến trường ác liệt, chạy dài khoảng 40 cây số dọc biển, từ Phan Thiết đến Phan Ri. Nơi đây, năm 1970 đã xảy ra nhiều cuộc ác chiến — phần nào để giải tỏa bớt sức ép của chiến trường Căm-Pu-Chia vừa mới mở ra. Trước trận Sông Mao này không lâu, thì Thiện Giáo, 1969, cũng là chiến trường ác liệt.
Chiều Thiện Giáo hồn mình đầy bóng núi
Con đường mìn ươm vết máu đơm khô
Nhưng nhà thơ «lao đao» vì bị lắc lư trong trực thăng nhiều hơn vì lo toan về chiến cuộc, vẫn thả hồn phiêu lãng:
Đêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay
Đâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc
Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say
Và anh ngờ vực viễn tượng hòa bình — trước sau gì cũng phải đến với hòa hội Paris đang hứa hẹn:
Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể mừng vui khi tiếp rước hòa bình
Đêm đen quá dài nên người quá khác
Không thể nào tin sẽ có bình minh
Hai ông Sơn Trịnh và Sơn Nguyễn, cùng thế hệ, cùng tâm trạng nên có nhiều ý tưởng hao hao. Trịnh Công Sơn, 1968, cũng có hát: đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui? Do đó, Nguyễn Bắc Sơn giữa chiến trận ngâm thơ cùng đại bác, đồng thời cũng lắng nghe:
Chảy trong lòng men nhạc Trịnh Công Sơn
Đêm không ngủ trong những ngày bão táp
Ôi những ngày máu ứa xác quê hương…
Tôi hởi tôi xin đừng chết nhé
Bóng hòa bình thấp thoáng ở miền Nam.
(tr. 45)
Thơ trích từ bài Nhắc đến Ma Lâm, một thị trấn gần Phan Thiết, địa danh nghe ma quái như con sông Ma Hý gần đó:
Buổi chiều uống nước đồng Ma Hý
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh
Câu thơ nghe rờn rợn: Thằng Xuân, thằng Mang Khinh là ai? đồng đội hay đối phương? quan hệ thế nào với tác giả? Chữ “thằng” nghĩa là gì? bắn chết trong hoàn cảnh nào? Ở đây, sao cái chết dễ dàng quá, như trong một bài hát “chết chẳng hẹn hò, chết thật tình cờ, nằm chết như mơ”. Câu hát Sơn Trịnh là một hình ảnh văn học, ví von đúng quy cách, người nghe nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa mà không thắc mắc. Trái với câu thơ Sơn Nguyễn trần trụi, bất ngờ. Bản thân tôi có kinh nghiệm đọc thơ, cảm nhận bi kịch trong câu thơ và nhận diện được câu thơ hay, mặc dù (hoặc bởi vì) không hiểu cặn kẽ ý nghĩa cụ thể của sự kiện được tường thuật. May mắn là được tác giả kể lại câu chuyện. Trong một cuộc hành quân cấp đại đội, anh đi làm thông dịch cho cố vấn Mỹ; đến một con suối thì dừng quân xuống tắm. Mang Khinh là một đồng đội gốc Chăm đứng chơi trên bờ. Xuân là trung đội trưởng, nghe thấy hay nhìn thấy động tĩnh gì đó, bèn lia một tràng đạn về phía khả nghi. Mang Khinh đứng chơi lớ ngớ bên bờ suối lãnh đủ băng đạn. Nhà thơ bơi nhởi trong lòng suối thì không việc gì, bàn luận về tử sinh, trong hai câu tiếp theo:
Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình.
(tr.37)
Bài Thảo Khấu này, câu kết thật hay, bình thường nhưng thấm thía vì nhân đạo, nhưng cũng vì những cái chết phi lý mà Nguyễn Bắc Sơn đã kể ra tưng tửng:
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà
(tr. 37)
Nhạc Trịnh Công Sơn được người đời đặt tên là phản chiến. Nguyễn Bắc Sơn thẳng thừng tự xưng mình như vậy:
Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu (tr. 32)
Bài thơ mang một tiêu đề tiêu biểu: cười lên đi tiếng khóc bi hùng.
Lý do phản chiến thì nhiều: có khi vì lý tưởng hòa bình cao đẹp, có khi vì quan điểm chính trị, có khi vì sợ chết, sợ khổ. Nơi Nguyễn Bắc Sơn có thể còn lý do riêng: thân phụ anh đi kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Có thể ông lại vào Nam chiến đấu, và khách quan, có khả năng là đối tượng trước mũi súng Nguyễn Bắc Sơn, và anh khó bề dễ dàng, an nhiên “nhắm thẳng đầu thù mà bắn” như một khẩu hiệu có từ 1964.
Trong thực tế, ông cụ đã vào Nam chiến đấu “phía bên kia”, cùng trong một địa bàn với con, ở cương vị phó chủ nhiệm cục chính trị quân khu 6. Trung ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa có lẽ cũng biết được nên đã đưa Nguyễn Bắc Sơn ra đơn vị chiến đấu. Sau ngày kết thúc chiến tranh, người cha đã trở về đoàn tụ với gia đình, trên cấp bực đại tá quân đội nhân dân. Ông có bao che cho con cái và bạn bè của con, trong cùng cảnh ngộ, như Lê Mai Lĩnh bị tù cải tạo đến cuối 1983, gần đây còn chân thành kể lại.4
Ông cụ qua đời trong một tai nạn xe hơi đã gây nhiều nghi vấn. Nguyễn Bắc Sơn có làm bài thơ nhớ bố:
Bố tôi qua đời đúng năm năm
Tôi viết thơ này
Để tâm sự cùng người khuất núi
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.
Bố ơi bố đã ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bịnh
Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm lòng son
Thành hay bại chỉ là chuyện vặt.
(Trích theo Lê Mai Lĩnh, số báo đã dẫn)
Cái chết của Mang Khinh và hoàn cảnh bố con Nguyễn Bắc Sơn nhắc lại một câu chuyện Võ Phiến kể, cũng trong năm 1972, trong đó anh tóm tắt số phận người dân Việt Nam trong ba mươi năm chiến tranh, qua cái chết của hai anh em nhà kia, trong một câu súc tích, ngắn gọn đến tàn nhẫn “kể chết do cối, người chết do câu”5. Câu chuyện như sau: có hai anh em nhà kia, người anh đi dân vệ ở trong đồn, chết vì đạn súng cối bên ngoài nả vào, gọi là “mọt thụt” ; đứa em nhỏ lui cui trong vườn trúng đạn trọng pháo trong đồn “câu” ra. Rồi Võ Phiến thắc mắc: kẻ chết do cối người chết do câu, đố ai biết được giữa địch ấy và ta ấy, có cái gì khác nhau trong “tư tưởng”. Nhưng không phải vì lẽ không tìm được sự khác nhau mà bà con trong làng không giết nhau. (bài đã dẫn).
Võ Phiến là nhà văn chững chạc, lập trường kiên định, không giống Nguyễn Bắc Sơn, kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng ; nhưng cái nhìn về cuộc chiến, trên cơ bản, không khác nhà thơ. Vì vậy, từ 1970, Võ Phiến đã có bài giới thiệu thơ Nguyễn Bắc Sơn trên báo Bách Khoa, số Xuân Canh Tuất, 1970, in lại trong Chúng Ta Qua Cách Viết, 1972. Năm 1994, ở Mỹ, anh còn viết bài ca ngợi thơ mới làm sau này của Nguyễn Bắc Sơn mà dường như anh không quen biết.6
*
Chiến tranh, sau này ta mới biết, để lại những vết thương nan y, trên cơ thể và trong tâm hồn. Không cứ gì ở Việt Nam mà còn hoành hành nhiều nơi khác trên thế giới. Nguyễn Bắc Sơn đã tiên cảm được điều này:
Ta mắc bệnh ung thư thời chiến
Thoi thóp còn một trái tim khô
Sợ hãi con người hơn thú dữ
Nhìn nơi nào cũng thấy hư vô
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
Ta chắc rằng không thể yêu ai
Nhà thương điên nếu còn chỗ trống
Xin chiếc giường cho xác tàn phai.
(tr. 52)
Nhưng rồi chiến tranh kết thúc, nhà thơ vẫn sống bình thường, bên cạnh vợ con, trong ngôi nhà xưa, thành phố cũ là Phan Thiết:
Ta may mắn tay chân lành lặn
Nhưng tâm hồn trống rỗng bơ vơ
Mỗi ngày chữa bệnh bằng ly rượu
Tối nằm đánh vật với cơn mơ. (tr. 51)
Thỉnh thoảng trong đêm mù thác loạn, Nguyễn Bắc Sơn có những cơn khủng hoảng, nghe đâu có nhảy lầu tự tử hụt đôi ba phen. Nhưng thơ anh, như bài Tâm Hồn Trẻ Thơ kể chuyên đi hớt tóc, làm khoảng 1990, vẫn còn hào khí sung mãn, đoạn cuối thanh thản:
Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.
Một đứa trẻ con, một Lão Ngoan Đồng nào đó, hay sao Thiên Đồng đã cứu mạng Nguyễn Bắc Sơn, và giải thoát nhiều người trong mỗi chúng ta.
*
Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, Hàn Mạc Tử nói thế, chắc cũng là cao hứng, nhưng câu thơ gợi lên một chân lý thâm hậu. Thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng như bất cứ dòng thi ca nào đều có cội nguồn, đều đón nhận những mạch nước gần xa. Nguyễn Bắc Sơn suốt đời quanh quẩn trong quê nhà Bình Thuận, hành quân, đánh chác loanh quanh những Sông Lũy, Ma Lâm. Về mặt địa dư nguồn thơ hào sảng, ngang tàng, gần anh nhất là bài thơ Tống Biệt do Phan Khôi trích dẫn của một thi nhân Bình Thuận:
Trái mù u trên núi
Chạy xuống cửa Phan Rang
Ông đi về ngoài nớ
Trong lòng tôi chẳng an.
Bao giờ ông trở vô
Gặp tôi ở giữa đàng
Nắm tay nói chuyện chơi
Uống rượu cười nghênh ngang
Phan Khôi không tiết lộ tên tác giả, đời sau cứ xem như là thơ Phan Khôi, vì giọng thơ ngang tàng giống ông.
Bài thơ tân kỳ, hào hứng ; từ vựng hồn nhiên, mới mẻ, nhịp thơ phóng túng, nhanh nhẹn, khí thơ đi liền một mạch ; thơ làm vào những năm 1930 mà ngày nay ta vẫn thấy mới lạ. Và cái hào khí ở đây không khỏi nhắc ta nhà thơ Bình Thuận Nguyễn Bắc Sơn.
Lần lên xa hơn nữa, theo lịch sử thì thơ cổ Trung Quốc đã có truyền thống trầm hùng, nhiều trước tác về chiến tranh như bài Văn điếu Chiến Trường Cũ của Lý Hoa, đầu đời Đường, nhưng được truyền tụng nhiều nhất là thi phẩm của Phái Biên Tái như Sầm Tham, Cao Thích. Gần Nguyễn Bắc Sơn nhất là bài Lương Châu Từ của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Phỏng dịch:
Rượu hồng đêm ngọc chén lưu ly
Men bốc tỳ bà ngựa dục đi,
Dặm cát say khoèo ai chớ riễu
Những bao chinh chiến những ai về.
Nguyễn Bắc Sơn cũng có tâm tình na ná:
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoáng đã ở phương Tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh Hồn chắc sẽ thành mây bay
(Mật khu Lê Hồng Phong)
Thơ chinh chiến của cổ nhân là thơ quan quyền; ra quân phải có nhạc tỳ bà trên lưng ngựa; rượu thì phải Bồ Đào. Thơ Nguyễn Bắc Sơn là thơ lính, ra quân không đua đòi Mỹ Tửu nhưng phải có “đế Nùng” đặc sản do người Nùng địa phương Sông Mao sản xuất từ các trại gia binh.
Khi tao đi lãnh khẩu phần
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
Chúng mình nhậu để trừ hao
Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
Mùa này gió núi mưa bưng
Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan
Mùa này gió bụi mưa ngàn
Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà (Một Tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân)
Ý thơ bình dị, lời dân dã, nhưng vẫn một giọng ngông nghênh, phúng thế và khắc họa một hình ảnh trong tâm lý thời chiến.
Trong dòng thơ Việt Nam, tác gia gần Nguyễn Bắc Sơn nhất có lẽ là Tú Xương, với lối thơ ông tớp rượu vào ông nói ngông. Tú Xương dùng thể tự sự, tự riễu mình để mô tả thời thế. Lời thơ chua cay, khinh mạn:
Hán tự chẳng biết Hán
Tây tự chảng biết Tây
Quốc ngữ cũng dốt đặc
Thôi thì về đi cày
Trồng khoai rồi trồng đậu
Cấy chiêm lại cấy mùa
Ăn không hết thì bán
Bán đã có Tây mua.
Được tiền thì mua rượu
Rượu say rồi cưỡi trâu
Cưỡi trâu thế mà vững
Có ngã cũng không đau.
Từ cách xử lý cuộc đời, lối nhìn vào xã hội, đến cách sử dụng ngôn ngữ, Tư Xương báo trước một Nguyễn Bắc Sơn, “thằng ta đây”:
Bạn mày nằm nhà thất nghiệp dài
Mẹ già không tính tiền cơm thuốc
Ngày xưa văn nghệ ta mê làm
Cách mệnh còn hăng say vượt bực
Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền
Nhân nghĩa gì gì quên tuốt luốt
Thèm tiền song quả đứa vô tài
Nên thằng ta đây chỉ có nước
Mỗi tuần một vé số mười đồng
Thê thảm ôi làm sao tả được
Hai ta cùng quẩn như thế này
Nhắc làm chi nữa cho tủi nhục
Vậy xem như mình đã chết rồi
Chí lớn mộng to đều đã vứt
Quên trời quên đất quên luôn ta
Dăm đồng rượu trắng cùng say khướt
(Bài Hát Khổ Nhục, tr. 56)
Bạn ở đây là một người lính từ chiến trường về: thất thểu chỉ còn xương với cốt / chinh chiến sao mày không chết tốt.
Trong văn chương truyền thống, tình bạn thường là quan hệ trí thức: tri âm như Bá Nha, Tử Kỳ, tri kỷ như Montaigne, La Boetie, khoa giáp như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê. Dù có phải bưng thúng theo đàn bà, thì Nguyễn Vỹ và Trương Tửu vẫn tự hào về nghề văn nghiệp bút. Gần Nguyễn Bắc Sơn hơn, Hoàng trúc Ly có viết Ngươi bên chân trời đánh giặc mướn / Ta theo cuộc đời đi viết thuê thì hành trạng, hành trang vẫn trí thức.
Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tình bạn không có quy chế xã hội, bạn bè là một lớp bụi đời, bên lề xã hội, bên lề đường chinh chiến, như hạt bụi nằm con gió trớt. Họ là những mảnh vỡ mà cuộc đời vun lại bên nhau:
Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để quàng vai ấm áp cuộc rong chơi
(Mai sau dù có bao giờ, tr. 30)
Thậm chí tình yêu cũng vậy, nó nằm ngoài quy chế văn học dù truyền thống hay lãng mạn, tân thời:
Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em ?
Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đã sa chân
Chuyện tình yêu bẫy chuột này trích từ bài Trên đường tới nhà Xuân Hồng, tức là phu nhân tao khang của nhà thơ từ xưa đến nay.
Trong dòng thơ ngang tàng trước Nguyễn Bắc Sơn phải nhớ Độc Hành Ca của Trần Huyền Trân làm năm 1940:
Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao
& Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang trời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Trong trường phái khí phách giang hồ này Thâm Tâm có bài Tống Biệt Hành nhiều người biết, ông còn những bài Tráng Ca, Vọng Nhân Hành, và nhất là Can Trường Hành, báo hiệu Nguyễn Bắc Sơn
Phiếm du mấy chốc đời như mộng
Ném chén cười cho đã mắt ta
Thà với mãng phu ngoài bến nước
Uống dăm chén rượu, quăng tay thước
Cái sống ngang tàng quen bốc men
Vào thời điểm bài thơ này, 1944, Nguyễn Bính vốn thân thiết với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, đã sáng tác bài Hành Phương Nam nổi tiếng, trong cùng một nguồn thi hứng :
Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Nhưng trong lối thơ chếnh choáng hơi men này, đặc biệt nhất — không phải hay nhất — là bài Gửi Trương Tửu mà Nguyễn Vỹ sáng tác trong cơn say, trộn lẫn văn chương với chả cá.
Chúng tôi nghĩ: đặt Nguyễn Bắc Sơn vào một dòng thi ca đã trường lưu, là một cách đánh giá nghiêm chỉnh và thông thoáng một tài thơ được khoanh vùng trong một hoàn cảnh chính trị và xã hội hạn hẹp. Và cũng giúp ích cho người đọc thưởng thức văn chương bên ngoài những chấn động của lịch sử.
*
Vào khoảng 1970, khi thơ Nguyễn Bắc Sơn xuất hiện và gây ngạc nhiên, nhiều người cho rằng có hơi hướm thơ Quang Dũng, có lẽ vì đề tài chiến tranh và lời thơ bi tráng. Nhưng xét kỹ thì không đúng: thơ Quang Dũng lãng mạn và lý tưởng, thơ Nguyễn Bắc Sơn ngược lại, phi lãng mạn và phi lý tưởng. So với các nhà thơ khác, mà chúng tôi vừa trích dẫn, thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng có nét khu biệt, là chất bụi đời, mà nhà thơ tự cho là “du đãng”. Tống Biệt Hành là thơ để đời ; Nguyễn Bắc Sơn là thơ bụi đời. Độc Hành Ca là loại thơ “miếu đền”, Nguyễn Bắc Sơn là thơ lề đường, quán sá. Xã hội, hoàn cảnh Miền Nam thời đó đã tạo một nguồn cảm hứng như thế và chỗ đứng cho một thể loại bất cần đời như thế. Và dư luận thời đó, của những nhà văn tên tuổi có thế lực văn học, lập trường chính trị vững vàng, như Võ Phiến trên Bách Khoa, Chu Tử trên báo Sống, Doãn Quốc Sĩ trên báo Văn, đã đồng loạt hoanh nghênh.8
Sau 1975 Nguyễn Bắc Sơn có bài Một Ngày Nhàn Rỗi:
Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về
Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba nghìn thế giới cũng chưa to
Vẫn một giọng thơ, một cốt cách, một phong thái. Võ Phiến, hai mươi năm sau cuộc chiến, có đủ bình tâm và khoảng cách để nhìn lại thơ văn và tâm tình một thời đại và thông hiểu thấu đáo hiện tượng Nguyễn Bắc Sơn, trước sau như nhất, “cũng cái ngông nghênh ấy” :
“Ngày trước trong chiến tranh, ông kể chuyện chơi trò nổ súng cắc cù rất độc đáo ; ngày nay hòa bình thiên hạ hớt hơ hớt hải lăn xả vào cuộc giành giật đồng tiền, thì ông nói chuyện hớt tóc cạo râu : lại rất độc đáo.
Thành thử giữa ông Nguyễn Bắc Sơn trong chiến tranh và ông Nguyễn Bắc Sơn sau chiến tranh vẫn có một chỗ nhất trí. Tuy hai mà một. Do hoàn cảnh khác nhau nên đề tài câu chuyện khác nhau; nhưng phong thái vẫn một thôi. Phong thái ấy khiến cho thời chiến ông là kẻ phản chiến, thời bình ông thành kẻ phản lao động. Thực ra thơ ông phát biểu về một thái độ sống, không phải chỉ là một thái độ đánh nhau hay một thái độ làm lụng. Sống là nhẹ, không phải chỉ riêng : đánh nhau là giỡn, là nhẹ. Đời không có nghĩa phải quấy. Một khi đời đã không có nghĩa, thì mọi hoạt động ở đời (kể cả chiến tranh) đều vô nghĩa. Hoặc giả nó có được trao cho ý nghĩa thì ông cũng không lý đến. Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ; bắn nhau cắc cụp lỡ có trúng đạn chết tươi cũng là chuyện nhỏ thôi”.(1994) 9
Làm sao mà Võ Phiến có thể viết sành sõi ngon lành như thế về Nguyễn Bắc Sơn? Xin thưa: vì anh tự viết về mình đó thôi. “Đời không có nghĩa phải quấy” là tư tưởng của Võ Phiến, là sợi chỉ xuyên qua nhiều tác phẩm của anh. Nhưng áp dụng vào thơ Nguyễn Bắc Sơn thì đúng boong.
Nói vậy để thấy rằng tâm tình Nguyễn Bắc Sơn gửi gắm qua thơ là phổ biến, là niềm phân vân tự nhiên của nhiều người, của con người trước cuộc sống. Cơn bão lịch sử đã thổi tạt cái bình thường đến chỗ lạ thường, biến thành biệt lệ văn học: sắt đá ồ sao lại nhớ nhà…
Tâm tình ấy được Nguyễn Bắc Sơn diễn đạt bằng một phong cách nghệ thuật tài hoa, vừa hồn nhiên vừa bi tráng. Kinh nghiệm sống chết hằng ngày được thăng hoa qua một thi pháp tươi trẻ mà già dặn.
Tác phẩm Nguyễn Bắc Sơn, bên dưới những chứng từ lịch sử, là những bài thơ hay, trong lối văn “thốn tâm thiên cổ ”.
Tấc lòng lưu vọng ngàn năm.
Orléans, ngày 11/9/2005
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn đang làm dấu hoa tay cho Mượn Dấu Thời Gian
Phan Thiết 2014
Phan Thiết 2014
Nt Nguyễn Thị Liên Tâm, Phan Nguyên, Nguyễn Bắc Sơn
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.