Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Tô Hoài (1920 -2014)











Tô Hoài
tên thật: Nguyễn Sen
bút hiệu khác:
Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa,
Phạm Hòa v.v
(27/9/1920 Hà Đông - 6/7/2014 Hà Nội)
Hưởng thọ 94 tuổi

Nhà văn













Tiểu sử


Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Nhưng ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.

Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được độc giả chú ý qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng cũng có được tập Truyện Tây Bắc nổi tiếng với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác.Tính đến nay, ông đã có hơn 100 tác phẩm (theo nhà thơ Trần Đăng Khao là 215 tác phẩm?) thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận v.v

Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.










Tô Hoài thời chiến khu Việt Bắc












Tác phẩm tiêu biểu






Truyện dài Dế Mèn phiêu lưu ký được ông viết xong vào tháng 12 năm 1941 tại Nghĩa Đô, ngoại ô Hà Nội khi đó. Đây là tác phẩm rất nổi tiếng của ông dành cho thiếu nhi.


Dế Mèn phiêu lưu kí
 
O chuột

(1942)



O Chuột

Trong nhà, trừ người, chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ về mặt bộ, mặt thuỷ. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn để đánh hơi, để hỏi han và để mắng những người lạ đi tơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng hắn lội xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt mấy tiếng còi, hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được việc. ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèm, ủng oẳng, sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình hắn lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên. Con mèo rất khác. Mèo lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quí phái và trưởng giả. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghe gớm lắm. Có phải thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu tợn. Nhưng ngoài cái vỏ ngoài chưa thể đủ để nói rõ được bề trong. Biết đâu, mèo ta không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại hiền lành cũng nên?

Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây rộng, ở làng Nghĩa Ðô, cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng...
Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều. Cái bộ lông mèo mướp thực là dị kỳ. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trộn rất nhỏ, hoà hợp lại thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ mịt như có tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vấn một chút bụi tro. Ngắm thì không đẹp mắt, nhưng nếu sờ tay vào, nó muốt như sờ tay trên tấm nhung tơ.
Hai mắt mèo tròn và quắc như hai hòn bi ve để dưới ánh mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như môi son hồng của các cô con gái đương thì. Ðàn bà không ưa cái mũi đỏ ấy. Người ta bảo mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng nhắc như ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch, đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt trụi cả đôi hàng ria xuôm đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, nó lại trổ ra như thường.
Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn ngủ hoài, cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng thanh, dáng lâng, đẹp biết bao! Lúc bấy giờ, cái thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.
Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù gù. Ðể đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi rà rà thâu canh như người trương tuần. Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là một người rong chơi lông bông.
Chẳng có những bác trông mặt thì ra dáng đăm chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ định nào.
Gã ngồi đấy, ở trên mặt dại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôi chân sau gấp lại, y như lối ngồi xổm. Ðôi mắt nhìn xa sôi... Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên gãi mép, cũng như người ta đưa tay lên vuốt râu cho nó oai vậy. Trời đã xế chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang, tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái, lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng khơi, người ta kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt sạt đụng vào thành giếng đá. Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định sao, hắn leo tót ngay lên, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau điệp trắng, rồi lại tụt xuống, rồi đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoan khoái một điều mà hắn thường nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét tư lự.
Y ngồi vào thì lì bên bếp tro. y nghiêng mang tai để rũi vào một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cần gãi.
Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì không thấy động gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện có mắc bồ hóng đen xạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.
Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại, bước từng bước rất nhẹ về phía đống củi. Ðống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp, vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện cho quân gian núp náu.
Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được một tiếng động nhỏ. Ðã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên một đống củi. Ðấy là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất tinh ranh, hễ tha được một hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.
Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. ý giả mèo ta tin rằng giống mình giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết điều mà lại hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai bề trên.
Hai cái tai mèo mướp hơi động đậy. ấy là khi anh hết sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai lừa tý hon. Cái vòng tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.
Gã khum hai chân trước xuống nhìn vào gầm đống củi. Rõ ràng gã trông thấy một chiếc đuôi nhỏ và dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Ðúng cái đuôi chuột. Gã nép về một bên, thon người lại. Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ đừ, hiền hậu hàng ngày. Y quời quời cái chân. Sau y biết làm thế hấp tấp quá. Phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.
Lại có tiếng rúc rích ở trong. à có hai thằng chuột rửng mỡ đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng mèo!
Tuy cáu nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn để chờ cơ hội tốt đến. Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại chạy ra tận ngoài. Thò cái mõm nhọn ngửi xung quanh. Lộn tiết, gã mèo đã toan chộp, nhưng chuột lại ngay vào mất. Con mèo lại yên lặng, chịu khó ngồi rình.
Bóng tối chùm xuống mau nhẹ. Vừa với nhọ mặt người, bây giờ đã đêm hẳn. Ðêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đầu đường. Một mảnh sáng nhờn nhợt in trước sân bếp. Trên nhà, người đã quẹt diêm để châm sáng đèn cho trẻ học. Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc.
Hai chú chuột ở trong gần đống củi hẳn thấy trời tối rồi thì muốn ra ngoài chơi lắm. Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cửi quanh năm mà không chết ấy, bữa nay chắc đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã thấy nó rên gừ gừ ở trên đầu ông đầu rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác một cái gì ăn thì hay quá.
Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra đống củi đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe choé.
Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng một ngón chân người lớn ta. Ðấy là hai con chuộc nhắt. Chuột nhắt bé hơn chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt bát hơn nhiều. Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu - cứ vác cái mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt, rè rè. Hễ hơi có cái gì đáng sợ là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Ðã thế còn chậm và không biết leo tường, leo cột, chỉ luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ chuột đó. Không phải là ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa "Hôi như chuột chù" - nhưng người ta chỉ ưa có tiếng kêu "chuúc...chuuuúc...". Các cụ ta nói: " ấy chuột chù bảo: túc, túc, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài".
Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm chúng xinh xinh vừa phải. Về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng, chúng leo vun vút, chúng chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hoá.
Thoạt thấy bọn đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp mừng khấp khởi. Nhưng rồi chàng chán đớ ra ngay. Nó tưởng chuột chiếc to tát thế nào, chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt tép ranh ấy thì nó đã bước từ nãy, không phải tốn công, tốn sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực cũng tại cái tính lười nhác cố hữu chả muốn cất đại công trình mà được chỉ có một tí ti kết quả đó thôi.
Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Ðùa một mảy vậy. Nghĩ vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế rồi vươn hai chân ra chộp cả hai bóng đen ngọ nguậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí...i...". Một con thoát được, còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và doạ dẫm. Chú chuột khốn nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và sắc của ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ ếch đại vương lấy một bàn tay mà vỗ vào vai.
Chú chuột nhắt bị mèo tha ra đến cửa bếp và được thả xuống đấy. Mèo không hề chú ý đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường chàng ta ví mình như một người anh hùng cái thế, có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống, còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng. Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn mà gã cũng không thả chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và loài chuột là loài đáng ghét lắm.
Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh nhân sự từ nẫy giờ mới lại hoàn hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng, dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột chàng ràng ra nhìn gã. Chỉ ti hí mắt lươn mà ranh thượng hạng.
Bỗng, thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng chàng mèo vẫn nhanh hơn. Chàng vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi chao! Chàng ta mới chộp cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chíi...chíi..." rầm cả lên.
Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu khiển qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng, giả vờ để yên chú ra đấy. Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi không nhúc nhích.
Nhưng chính ra chuột vẫn rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Ðể hễ khác ý là chuột lại chuồn biến. Còn mèo, mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo giương oai thả lỏng và chắc chắn chẳng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.
Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng cũng không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi lên một tí, đã túm được dễ dàng. Mãi rồi con chuột hoá mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.
Khi đó, trong đống củi, bõng lại có tiếng rúc rích. Lại có tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy mà chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho chúng chết một mẻ, nhưng mèo vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Ðã thế, phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ làm như sắp lăn ngay vào chiến tranh với những quân thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay. Song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngắt tiếng là chúng nó lại "chiií...." rầm rầm. Làm điệu như xỉ vả bác mèo.
Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên như chết vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất dài đầy ánh trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng bóng tối dầy ra, mà tìm thấy chú chuột nhắt tí hon.
Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra cũng chẳng tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng chíi...chíi quái ác, rất khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.
Chàng mèo mướp - mà chàng nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế. Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay chạy trốn được. Ðời đời, cái giống chuột nhắt tai quái cứ làm rức tai loài mèo.
Suốt đêm hôm đó, gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ làm ta rối đầu và ngứa mắt quá.
Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột.
 









 

Nhà nghèo


Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa.
Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này:
Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi:
- Gái ơi!
Không có tiếng đáp. Chị réo:
- Ơ ơi… Gái … ơi ơi … Gái …
Vẫn im. Chị lại réo:
- Ơ ơi … Gái … Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi!
Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra:
- Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không?
Chị không im. Chị nói thêm:
- Người ta gọi nó mà cũng cấm hả?
Chưa thôi, chị lại đay:
- Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì!
Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời! thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày “đằng ấy” người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng:
- Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra độ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có…
Anh cũng không biết “đừng có” thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng:
- Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem.
Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó khóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoạt sau mông, ra điều nghe ngóng.
Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù dẫn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chẩy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phết đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu.
Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu loa:
- Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao.
Cáu, anh Duyện văng:
- Ừ, ông chửi cha con què đấy.
Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng:
- Ối thiên địa trời đất ơi! ối cha ơi! ối mẹ ơi! tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bẩy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường.
Tôi buộc bụng nuôi con… hu … hu …
- Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều ….
- Ối ông cả bà lớn ơi! … A bấy lâu tôi nằm (ở) với … chó đấy a …
Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi.
- Chó này!
Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ:
- Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi!
Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát:
- Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông xau. Những của nợ kia, ông xửa chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày.
Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh “choeng” một tiếng xuống đất.
- Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi.
Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào:
- Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ!
Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi.
Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn:
- À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem.
- Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh.
- Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt….
Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tìm lửa, vội kêu chóe:
- Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà… Thằng Duyện nó đốt nhà … Nó …
Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà.
Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi.
- Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem.
Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn.
Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhũng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện.
Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đất sáng ngời. Mầu lá cây xanh mướt. Nhũng con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh.
Bấy giờ khắp làng bầy ra một cảnh lạ mắt. ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. ở tay mỗi người cầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp.
à, trời vừa mưa xong. ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen những con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhưng chúng lớn hơn nhái, da dê bóng mỡ, thân hình có chạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn.
Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu.
Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng gặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái rỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào gầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt.
Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra ráng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà.
Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng súu đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình.
Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh.
Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói:
- Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem…
Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng được rằng lúc nẫy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: “Tiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đáy”. Rồi anh gọi:
- Ớ! Gái!….
ở trong sân, vợ anh nói với ra:
- Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con!
Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phía có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lưng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần. Rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi.
Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn tháy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại.
Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra. Thương ơi! bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về.

Tô Hoài, Bến Ray, Tháng Chạp 1942











Truyện Tây Bắc

(1953)


Vợ chồng A phủ


Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa.

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều , đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.
Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm người nhà quan thống lý.
(1) Tổ chức cai trị của đế quốc Pháp trước đặt chức thống lý cho bọn chức việc người Mông, cũng như chánh tổng, lý trưởng ở xuôi, phía ở làng Thái.

Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho nhà chủ nợ một nương ngô. Ðến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mỵ đã lớn, Mỵ là con gái đầu lòng. Thống lý đến bảo bố Mỵ: - Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mỵ bảo bố rằng:
- Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách.
Trai đứng chắn cả chân vách đầu buồng Mỵ.
Một đêm, khuya Mỵ nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hẹn của người yêu. Mỵ hồi hộp lặng lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ. Một ngón đeo nhẫn. Người yêu Mỵ đeo nhẫn ngón tay ấy. Mỵ nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay bắt Mỵ bước ra.
Mỵ vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mỵ rồi bịt mắt cõng Mỵ đi.
Sáng hôm sau, Mỵ mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lý. Họ nhốt Mỵ vào buồng.
Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn nhảy múa.
A Sử đến nhà bố Mỵ.
A Sử nói:
- Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi. Bây giờ tôi đến cho bố biết. Tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi .
Rồi A Sử về. Ông lão nhớ câu nói của thống lý dạo trước; cho con gái về nhà thống lý thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi.
Có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc.
Một hôm, Mỵ trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mỵ quì, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mỵ cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!
(1) người Mông có tục cướp vợ trai gái yêu nhau, bằng lòng nhau (có khi chỉ anh con trai muốn lấy người con gái giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà hiếm). Người con trai giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến nhà người yêu, bí mật "cướp" đi. Hôm sau, người trai trở lại báo tin cho bố người gái ấy là tôi đã cướp được con gái ông làm vợ. Thế là phong tục bắt bố phải nhận lời. Cưới lối "cướp" như thế, người trai mất rất ít tiền.
Thường mùa xuân ăn Tết, con trai hay đi "cướp" vợ. Ðó là phong tục vui, thanh niên rất thích. Bây giờ vẫn thường xảy ra.
Mỵ chỉ bưng mặt khóc. Mỵ ném nắm lá ngón xuống đất. Nắm lá ngón Mỵ đã đi tìm hái trong rừng. Mỵ vẫn giấu trong áo. Thế là Mỵ không đành lòng chết. Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ.
Mỵ lại trở lại nhà thống lý.
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không còn nghĩ đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.
Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong sách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. ở buồng Mỵ nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Ðến bao giờ chết thì thôi.
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những những lều quanh nương để sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ, cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể ngày tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa xuân xuống, đi vỡ nương mới. (1) một thứ thuốc độc Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ.
Nhưng trong các làng Mông Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tím man mát. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi.

"Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy. Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mỵ cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi hết.
Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nay Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ, Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chì thấy nước mặt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

" Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi..."

A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mỵ nói. Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
Trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mỵ rút thêm cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói tay Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỵ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mỵ đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!" Mỵ vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mỵ không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gò vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi.
Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.
Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mỵ. Mỵ không thể biết.
Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuổi con ngựa của chồng. Mỵ chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mỵ sợ quá, Mỵ cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây chói xiết lại, đau đứt từng mảnh thịt.
Có tiếng xôn xao phía ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. Thống lý Pá Tra xuống ngựa vứt cương cho "thị sống" (một chức việc đi hầu thống lý như người làm mõ thời trước) dắt ngựa vào tàu. Nghe như bọn họ khiêng theo con lợn, hoặc một người phải trói, vừa vứt huỵnh xuống đất, cứ thở phò phò. A Sử chệnh choạng vào buồng. áo rách toạch một mảnh vai. Cái khăn xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống quanh trán. A Sử nằm lăn ra giường. Thống lý Pá Tra bước vào. Theo sau thống lý, một lũ "thống quán" (Một chức việc như phó lý) "xéo phải" (như trưởng thôn) và bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống lý.
Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mỵ phải trói đứng trong cột. Nhưng cũng không ai để ý. Họ xúm lại quanh giường A Sử.
Pá Tra, tay vẫn cầm cái roi ngựa, lại từ từ đi ra. Mỵ nhắm mặt lại, không dám nhìn. Mỵ chỉ nghe hình như có tiếng ông thống lý gọi người ra ngoài. Mỵ hé nhìn ra, thấy chị dâu bước tới. Người chị dâu ấy chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống. Người chị dâu đến cởi chói cho Mỵ. Sợi dây gai bắp chân vừa lỏng ra, Mỵ ngã sụp xuống. Chị dâu khẽ nói vào tai Mỵ:
- Mỵ! đi hái thuốc cho chồng mày.
Mỵ quên cả đau đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được. Mỵ phải ôm vai chị dâu. hai người khổ sở dìu nhau bước ra. Vào rừng tìm lá thuốc, Mỵ nghe nói lại, mới biết A Sử đi chơi bị đánh vỡ đầu.
Nửa đêm qua, A Sử vào làng tìm đến đám tiếng sáo, tiếng khèn. Nhiều chàng trai làng ấy vào các làng khác, chơi quay, thổi sáo suốt ngày, chập tối vừa tan xong chầu rượu trong nhà, bây giờ vẫn còn chưa chịu tan về. Lúc A Sử và chúng bạn kéo đến, không còn ai chơi trong nhà. Nhưng người ra người vào còn dập dìu quanh ngõ.
A Sử đứng ngoài, tức lắm. Nó bàn với lũ khác, doạ đánh bọn trai lạ bám quanh nhà, khiến bọn A Sử bị vướng không thể vào được.
Bọn A Sử ném vào vách. Ông bố trong nhà ra chửi. Vẫn ném. Ông lão vào trong cửa, bắn ra hai phát súng. Thế là tan những đám hẹn.
Nhưng cũng chưa người trai nào vội về. Họ tản vào các nhà quen trong xóm. Ðợi sáng mai lại lên sân đánh pao với con gái trong xóm.
Bọn A Sử cũng không chịu để cánh kia yên. Sáng sớm, khi họ vừa ra đầu ngõ, bọn A Sử đã kéo đến gây sự. A Sử đi trước, nạm vòng bạc rủ xuống tua chỉ xanh đỏ, chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo. A Sử hùng hổ bước ra. Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao.
- Lũ phá đám ta hôm qua đây rồi.
- A Phủ đâu! A phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con quay thẳng vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Người làng nghe tiếng hò hét đổ ra. Bọn trai làng lạ tản hết lên rừng. Mấy người đuổi đón đầu A Phủ.
A Phủ bị bắt sống, trói gô chân tay lại. Vừa lúc thống lý Pá Tra tới. Chúng nó xọc ngang cái gậy, khiêng A Phủ mang về ném xuống giữa nhà thống lý.
Mỵ đi hái được lá thuốc về, thấy trong nhà càng đông hơn lúc nãy. Ngoài sân, dưới gốc đào lại buộc thêm mấy con ngựa lạ.
Mỵ đi cửa sau vào, lé mặt nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà. Mỵ đoán đấy là A Phủ.
Bọn chức việc cả vùng Hồng Ngài đến nhà thống lý dự đám kiện.
Các lý dịch, quan làng thống quán, xéo phải, đội mũ quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo đến xử kiện và ăn cỗ.
Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn. Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp. Cả những người chức việc bên làng A Phủ cũng tới. Chỉ bọn trai làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ, vì họ bị gọi sang hầu kiện. Bọn chức việc nằm dài cả trên khay đèn.
Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục người hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra. Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến người khác, lại người khác, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự kiện.
Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng và đi bên ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.
Một loạt người vừa hút xong, Pá Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất giọng lè nhè gọi:
- Thằng A Phủ ra đây.
A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ.
A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá...
Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, kể, chửi , lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.
Trong buồng bên cạnh, Mỵ cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dầu cho A Sử. Lúc nào Mỵ mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mỵ lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mỵ. Mỵ choàng thức, lại nhặt nắm lá thuốc xoa đều đều trên lưng chồng.
Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến ghỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.
Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người chẳng biết từ bao giờ, ngủ ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan làng thật tình, các quan làng còn một tiệc ăn cỗ nữa.
Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xoè bày lên mặt tráp, rồi nói:
- Thằng A Phủ kia, mày đánh người thì làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đông, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Ðời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay.
A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.
Con lợn vừa bắt về cho A Phủ thết làng ăn vạ đã kêu eng éc ngoài sân. Ðếm tiền rồi, A Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa.
A Phủ đứng lên cầm con dao, chân đau bước tập tễnh, cùng với trai làng ra chọc tiết làm thịt lợn hầu làng.
Trong nhà, thuốc phiện vẫn hút rào rào.
Thế là từ đấy A Phủ phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. Ðốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. A Phủ đương tuổi sức lực. Ði làm hay đi săn cái gì cũng phăng phăng. Không còn có lúc nào trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn trở về làm gì bên ấy.
A Phủ cũng không phải người bên ấy. Bố mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắn Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại có một mình A Phủ. Có người làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp.
A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Ði làm cho nhà người, lần lữa mùa này sang mùa khác. Chẳng bao lâu A Phủ đã lớn, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.
A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng nhiều cô mê. Nhiều người nói: "Ðứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin, mà A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, A Phủ không thể lấy nổi vợ.
Tuy nhiên, đang tuổi chơi, trong ngày tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ. A Phủ cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng.
Vì thế sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài.
Một năm kia, phải khi đang đốt rừng. Hổ gấu từng đàn ra phá nương, bắt mất nhiều bò ngựa. Nhà thống lý lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trước cửa, đầy lưng bò đứng chen chân trong cột cửa, và dê, chó, lợn nằm quanh nhà. Ngày nào cũng lũ lượt hàng mấy chục con đi nương ăn. Bây giờ gặp khi rừng đói, mỗi lần bò ngựa đi nương, A Phủ phải ở lại trong rừng.
A Phủ ở lều hàng tháng ngoài nương. Ðêm đến, dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ quanh lều.
Mấy ngày A Phủ mê mải đi bẫy dím, không đếm được ngựa. Hôm ấy vào rừng thấy vết chân hổ. A Phủ vội phóng ngựa chạy vờn quanh đàn, dồn chúng quấn lại để đếm. A Phủ đếm lại mấy lần. Thiếu một con bò. A Phủ nhào vào rừng, lần theo lốt chân hổ, tìm được con bò đã bị hổ ăn thịt, chỉ còn lại một nửa mình nằm ngay dưới cây thông cụt.
A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: "Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được".
Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra hỏi:
- Mất mấy con bò?
A Phủ trả lời tự nhiên:
- Tôi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được. Con hổ này to lắm.
- Pá Tra hất tay, nói:
- Quân ăn cướp mất bò tao. A Sử đâu! Ðem súng đi lấy con hổ về.
Rồi Pá Tra quay lại, bảo A Phủ:
- Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không bắn được con hổ về thì tao cho mày đứng chết ở đấy.
A Phủ cãi:
- Tôi được con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con bò.
Pá Tra cười:
- Lấy cọc dây mây vào đây!
Không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng. A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây cuốn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu lúc lắc được.
Ðàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi mặt. Không một ai dám hỏi. Cũng không một ai dám nhìn ngang mặt.
Ðến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên tay. Nhưng trời cũng vừa sáng. Pá Tra quảng thêm một vòng tròng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa.
A Sử và lính dõng của thống lý đi đuổi, mấy ngày không lùng bắt được con hổ. Thì cũng mấy ngày A Phủ phải trói đứng góc nhà. Ðằng kia, bếp lò bung ngô cao ngang đầu người vẫn hừng hực đỏ rực. Mỗi hôm hai buổi, người ra người vào ăn uống tấp nập. A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya.
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mỵ dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.
Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay như thế.
Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mỵ phảng phất nghĩ như vậy.
Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ...
Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng "Ði đi..." rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi.
Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung lên, chạy.
Mỵ đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
Mỵ thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mỵ lại vừa thở vừa nói:
- ở đây chết mất,
A Phủ chợt hiểu.
Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.
Hai người đi ròng rã hơn một tháng. Họ truyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. Từ Hồng Ngài xuống qua vùng ruộng ở Mường Quài của người thái, từ Nậm Cất sang Chống Chia, từ Chống Chia qua dốc Lùng Chùng Phủng lại trở về bờ sông Ðà phía giữa châu Phù Yên sang châu Mai Sơn, chỗ đầu mối giao thông của ngoài vùng tự do vào khu du kích của các dân tộc Thái, Dao, Mèo bên kia sông. Rồi họ về trong những làng Mông Ðỏ hẻo lánh vùng Phìa Sa. Xa lắm rồi, thống lý không đuổi được nữa... họ nghĩ thế.
Ròng rã, ăn rau rừng, củ nâu, mộc nhĩ, vừa hết mùa mưa, tới Phìn Sa.
Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý. Người ta ngỡ đấy là hai vợ chồng trong một nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau đi tìm ăn nơi khác.
Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mỵ đã thành vợ chồng.























 
Cát bụi chân ai

(1992)

























Tác phẩm gần đây nhất của ông là Ba người khác. Sách được viết xong năm 1992 nhưng đến 2006 mới được phép in, nội dung viết về thời kỳ cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, đã gây tiếng vang lớn và có thể so sánh với Dế Mèn phiêu lưu ký, "đã mở ra diện mạo mới cho văn chương Việt Nam" trong nền văn học hiện thực.[3][4][5]




Ba người khác
(2006)

1
2
3
4
5












Toạ đàm về Ba người khác của Tô Hoài
 
Sau khi đã giới thiệu toàn văn tham luận của các nhà nghiên cứu phê bình và nhà văn Lại Nguyên Ân, Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Xuân Thạch, Nguyễn Trọng Tân trong tọa đàm về Ba người khác do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức tại trụ sở Viện Văn học ngày 22/12/2006, talawas xin giới thiệu tiếp những ý kiến phát biểu ngắn trong toạ đàm trên. Sau đây là bản lược ghi những ý kiến trên căn cứ vào đĩa ghi âm mà chúng tôi có được.

talawas


Văn Chinh (nhà văn): Không đồng ý với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh về ý kiến ca ngợi nhà văn Tô Hoài dũng cảm. Không có chuyện táo bạo dũng cảm ở đây. Nhà văn Tô Hoài năm nay 87, người Việt Nam nói bảy mươi tuổi thì mắng vua cũng không làm sao. Tô Hoài thì 50 tuổi cũng đã như vậy cho nên đây là vấn đề tự nhiên, giống như tảng đá cuối cùng phải nảy ra Tôn Ngộ Không. Đấy là điều tự nhiên của nhà văn chúng ta.
Về ba nhân vật: Tôi (Bối), Đình, Cự. "Tôi" thì không thể là người khác. Nhưng trong truyện, ta thấy cả tôi (Bối) cũng là người khác, kẻ khác. Tôi nhớ đến cuốn Những con người và những con khác của nhà văn cộng sản Ý Elio Vittorini . Cuối sách nhà văn nói: Đừng thấy tôi là cộng sản mà cho cuốn sách này là cộng sản. Việc tôi là cộng sản là phản ánh cái tôi muốn trở thành, còn cuốn sách nói cái tôi đang là. Và Tô Hoài đang là nhà văn. Thái độ khôn ngoan nhất là phải thấy rằng đây là đại phê bình, tự kiểm điểm vĩ đại của người cộng sản chân chính.
Ba người không biết từ đâu đến: Bối từ Hà Nội, Cự từ "Khu Nem" ra, Đình thì lớt phớt tiểu tư sản phố huyện về, mà làm đảo lộn xã hội, khuynh đảo mọi giá trị cổ truyền của làng quê. Xã hội cũ thu xếp được mọi thứ vào khuôn, tạo nên sự ôn hoà ổn định, thằng cố nông cũng lấy được vợ, cô liệt cũng lấy được chồng, ai cũng có phận cả. Ba kẻ ở đâu đến nhân danh sự tốt đẹp làm đảo lộn cả, làm con tố cha vợ tố chồng. Ba kẻ này không phải ba nhân vật chính mà là đồ "ba láp", là ba người khác, họ không phải chúng ta. Bình tĩnh nhìn lại điều này thì thấy kinh khủng khiếp.
Về bút pháp: Dế mèn đến ba mươi tuổi tôi mới đọc và không thích lắm. Tôi chú ý đến Tô Hoài đầu tiên là truyện ngắn “Một người bạn” nói về một người bạn cũ bây giờ sống ở nước ngoài có bộ râu dài phương Đông thay con khỉ đã chết làm marketing cho nhà hàng. Tôi có lần nói với ông: "Chú viết có kỹ thuật". Ông trừng mắt, có lẽ vì giới nghệ thuật thường mặc cảm định kiến với chữ kỹ thuật. Tôi phải nói rõ: "Chú có 2 gram cảm xúc trong người thì truyền được đến bạn đọc đúng 2 gram cảm xúc, không dính những câu chữ ôi a."
Cũng viết về CCRĐ, nhân vật của Ngô Ngọc Bội hay Dương Thu Hương khôn hơn thời đại, còn nhân vật của Ba người khác rất giống nhân vật của Anatoli Kim (Nhà văn Nga gốc Triều Tiên), một anh nông dân chỉ nhìn từ lưng con người trở xuống, còn bên trên nữa thì anh ta không hiểu. Tôi rất bất ngờ và đặc biệt kính trọng Tô Hoài là ông cho người đàn bà liệt đập đầu vào cối đá, cái cối đá thủng kích thích nhân tính con người, đó là bút pháp hiện đại. Thằng Bối không biết nhưng độc giả biết.
Kết luận: đây là cuốn sách của người cộng sản chân chính. Đã là Tô Hoài của Cát bụi chân ai, Chiều chiều thì phải có Ba người khác.

Châu Diên (nhà văn): Tôi xin có ý kiến về bút pháp của Ba người khác.
Trong tất cả văn phẩm của Tô Hoài xưa nay không có vấn đề tâm lý nhân vật, riêng quyển này thì có vấn đề tâm lý nhân vật. Tất cả các nhân vật đều là những người không biết họ sống thật hay giả dối, có hai vẻ mặt cùng một lúc, không biết là họ lên đồng thật hay giả vờ. Chính vì thế mà Tô Hoài rất tinh tế đặt tên là “ba người khác”, chứ không phải là “ba người ấy”. Đó là chúng ta đấy, chúng ta đương rất cynique, chúng ta đương thấy sai thấy đúng mà cứ lờ lớ lơ, bài học đó vẫn dùng được cho chúng ta trong ngày hôm nay. Ba người khác nói đến sự tha hóa, alienation, chứ không phải là nói cái tôi, ta, địch… Tất cả những cái đó là vô nghĩa, là vật liệu, nhà văn có thể dùng cái này hay cái kia… Tô Hoài dùng để nói đến sự tha hóa của con người, đó mới là cái có ý nghĩa, là sự đóng góp của văn học chứ không phải là đề tài. Đây chưa phải là lịch sử, ta chưa đưa chuyện CCRĐ vào nhà trường, vì vẫn coi là chuyện hiện tại. Không phải là tiểu thuyết lịch sử, lịch sử là phải viết hoang tưởng, hư cấu theo ý mình dựa trên một thời kỳ đã qua, còn đây chưa qua, nhiều người còn sống, tâm lý nhân vật là tâm lý những người đương đại chứ không phải người đã chết. Đóng góp lớn nhất về bút pháp là sự thay đổi từ chỗ không để ý tâm lý nhân vật (“Vợ chồng A Phủ” không có tâm lý, Dế mèn khong có tâm trạng) sang có tâm trạng của những người rất hiện đại. Trạng thái hiện đại của những con người đang sống bây giờ đó là sự tha hóa.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên bình thêm: Ba người khác thì nhiều người nghĩ là ba người sau cải cách, ba anh đội trở lại đời thường, ý kiến của tôi là ba người khác nhập vào và sai khiến họ.

Nguyên An (nhà phê bình): Chắc chắn người ta còn quay lại bàn về cuốn sách này, nó là cảm hứng lịch sử, tiểu thuyết lịch sử. Cái khác những tiểu thuyết lịch sử khác là Tô Hoài coi sự kiện, năm tháng ấy mà người Việt Nam mình trải qua như điểm nhấn, như phép thử, để nói lên rất nhiều điều. Rất rõ sự tàn phá, sự khủng khiếp ghê gớm của những con người tưởng không đâu, khi được gom lại và giao một việc đã tạo ra sức mạnh tàn phá ghê gớm, sự tàn phá phá vỡ cấu trúc lịch sử, phá vỡ cấu trúc làng xã, phá vỡ không gian văn hóa, phá vỡ truyền thống. Có thể nói đây là một trong những cuốn đáng kể nhất về đề tài CCRĐ. Những cuốn khác cũng nói lên sự tàn phá, sự giả trá đến mức cạn kiệt phi luân của những người đi làm cải cách, nhưng khác những cuốn kia ở chỗ bác Tô Hoài nhấn mạnh cái khía cạnh tình dục, bản năng. Điều ấy có thể thông cảm được nhưng có điều nó nhơ nhớp quá, phi luân quá, viết khiếp quá.
Hiện đại hay không hiện đại, mới hay không mới, nhà văn cứ viết theo sự hiểu biết, cảm hứng, khát vọng của mình. Là tiểu thuyết lịch sử hay phong tục, đó chẳng qua là do cách nhìn khác nhau của các nhà phê bình thôi. Tô Hoài mô tả và phản tỉnh, tự kêu lên, tự hét lên cho mọi người biết ở nước ta có một thời đớn đau như vậy, tàn bạo như vậy, bi thương như vậy.

Lê Sơn (dịch giả): Tôi là người ở Trung Quốc từ năm 13 tuổi, được chứng kiến "thổ cải" ở bên đó. Tôi thấy Ba người khác tái hiện được bầu không khí cải cách ruộng đất của nước ta nó giống y xì Trung Quốc, còn hơn Trung Quốc. Tôi được đọc hồi ký của một ông cựu trưởng ban tuyên giáo trong đó có nói đến "10 nỗi đau của cụ Hồ". Cụ Hồ chỉ là muốn giảm tô thôi, nhưng do sức ép của Trung Quốc bắt phải làm CCRĐ, sau hậu quả đó cụ Hồ khóc.
Đây là một trong những đỉnh cao của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tái hiện không khí tâm lý của những người trong cuộc. Đây là lời sám hối và tiếng kêu. Người đọc thấy cũng có mình ở trong đó. Ba người khác là chúng ta và mặt khác của chúng ta.

Phan Thị Thanh Nhàn (nhà thơ): Trong Ba người khác có đến ba nhân vật đều dâm ô cả, như thế thì nặng quá, liều lượng như thế thì hơi quá.

Hà Minh Đức (nguyên Viện trưởng Viện Văn học): Vấn đề cải cách ruộng đất cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong, nó là một đề tài lớn. Ngô Ngọc Bội, Dương Thu Hương… mỗi người có một cách nhìn, có nhiều kiểu nhìn khác nhau, có người là cán bộ chính trị, có người là nạn nhân, có người khách quan. Vấn đề nông dân đánh giá khó lắm.
Tô Hoài có rất nhiều điều kiện viết về đề tài này:
  1. Trực tiếp tham gia phong trào, có cái nhìn bao quát;
  2. Không dính dáng gì các quan hệ giai cấp, nên có cái nhìn khách quan;
  3. Rất am hiểu về nông thôn.
Nông thôn từ trước cách mạng đến nay vẫn thấy anh liên tục khám phá. Tô Hoài có rất nhiều vốn sống về CCRĐ nhưng anh chọn cách thông minh: không viết tự truyện. Nhân vật Bối linh tinh lắm, tự truyện không thể nào viết được.
Nhiều đoạn tả hay, ví dụ cảnh đấu tố, cán bộ thâm nhập ba cùng… Những người tôi quen có đi cải cách thừa nhận cán bộ đội cứ đưa rễ chuỗi ra ổ rơm phát động, phát một lúc là động ngay. Đội cũng chỉ là những chàng trai 30, những chuyện như thế cũng là dễ hiểu.
Không khí trong cuốn này là không khí hiện đại. Tư duy của Tô Hoài hiện đại, cách nghĩ lấy sự thật là cơ bản, không bị rào cản nào cản trở. Ngôn ngữ tự nhiên, mộc mạc. Ngôn ngữ Hồ Xuân Hương trong văn xuôi, cựa quạy.
Có người nói tả làng quê nhếch nhác quá, nhưng nông thôn vô cùng khác nhau, đây là nông thôn của vùng địch vừa rút đi nên có không khí xã hội tan rã, có nhiều yếu tố nhếch nhác, trai gái nhiều…
Cái kết hơi gò, hơi dang dở, không thể nói Tô Hoài nên tìm kết khác, nhưng theo tôi so với tổng thể thì phần kết chưa được ưng ý. Cuốn Ba người khác nhiều điểm rất hay nhưng nhiều điểm trình độ tôi chưa tiếp thu được, có khi phải vài năm nữa.

Văn Giá (nhà phê bình): Tôi có ba ý nhỏ:
  1. Vấn đề tính dục trong tác phẩm: Việc trai gái rủ nhau đi ăn nằm có chỗ như gà, cô Đơm cô Duyên… hình như nói lên ý nghĩa sức sống của con người. Trong thời đói như thế, tan nát như thế, khốn nạn khốn khổ như vậy, đe doạ, trấn áp như vậy mà đêm đêm cứ rủ nhau đi ăn nằm. Mô tả tính dục ở đây có ý nghĩa lớn hơn là sự phê phán cái vô luân: đó là sức sống của con người, lòng ham sống, quyết liệt sống, khẳng định sự sống, khẳng định sức sống của người Việt, của văn hóa làng Việt.
  2. Nhà văn viết giọng điệu bao trùm là cười cợt, như không, vui với nó, đùa với nó, cái nhìn humour hài hước: tức là ông cởi bỏ được mọi thứ ràng buộc, mọi thứ đe nẹt, cởi bỏ luôn trong định kiến của mình và của xã hội, đạt tới cảnh giới hoàn toàn tự tại, không vướng bận một chút gì. Ngòi bút và sức viết hết sức phóng túng, thoải mái, nói ra được hết những gì ông chiêm nghiệm về cuộc đời này. Điều đó rất quan trọng. Các nhà văn của ta viết vẫn rón rén, tính toán ghê lắm, riêng Tô Hoài không còn hãi gì cả, nên ông viết rất vui và rất tưng tửng.
  3. Đám đông người Việt kinh khủng, a dua, nếu không được chèo lái cẩn thận, sẽ phá huỷ, hủy diệt cuộc sống. Khi một đám đông bị hướng dẫn bởi lực lượng tăm tối và phản động nó sẽ có sức hủy diệt sự sống. Cho thấy tầm vóc tác phẩm càng lớn và càng đáng nể.
Ba người khác là một trong những tác phẩm thiết yếu để con người phấn đấu làm người lương thiện, nâng cao chất lượng sống và nhân văn cho con người chúng ta.

Nguyên Ngọc (nhà văn): Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng. Những cuốn khác viết về nông dân là nạn nhân, nhưng đây là lại là thủ phạm. Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội, cả mấy nghìn năm văn hoá (ý của Hoàng Xuân Hãn nói về tác hại của CCRĐ). Xã hội ta bây giờ trở nên thế này một phần là vì cái đó. Văn hoá bị phá vỡ bởi ba cái ông lăng nhăng, làm như đùa như chơi thế thôi, nhưng hoá ra là bi kịch kinh khủng. Có yếu tố đúng là tình huống Kafka, như trò cười, phi lý. Nói là đề tài CCRĐ cũng được, nhưng vượt ra ngoài đề tài. Không chỉ là sự tha hóa của nông thôn, mà là sự tha hóa của xã hội, tầm khái quát lớn. Đề tài cụ thể, nhưng khái quát giai đoạn, một thời bi thảm trong lịch sử của chúng ta.
Về bút pháp, văn học chúng ta còn lâu lắm mới thoát ra bút pháp sử thi. Tô Hoài đã thoát ra từ Cát bụi chân ai, Chiều chiều, nhưng đó là tự truyện, đến Ba người khác mới là hư cấu. Đó là bút pháp hiện đại, mỉa mai, dửng dưng, cười cợt, tạo nên sức mạnh của văn học.
Ở tuổi cao như thế mà anh đã cho ra một tiểu thuyết hàng đầu, xin chúc mừng anh.

Văn Long (nhà thơ): Việc xuất bản sách này là một sự dũng cảm. Dường như khi người ta đủ mạnh người ta mới dám đưa ra những sai lầm của mình. Sau WTO, sau APEC hình như ra cái này dễ dàng hơn. Trung Quốc dám nói về sai lầm CCRĐ, Cách mạng Văn hoá nhưng ta không dám nói. Nay đã có mở ra.
Về nội dung cuốn sách: Với những con người thiếu hiểu biết như thế này thì làm gì mà không mắc sai lầm. Hoàn cảnh dẫn họ đến sai lầm. Tác giả dựng lên được hoàn cảnh ấy.
Cái kết: một động tác có thể là để tự vệ, một cái khôn của tô Hoài để tự vệ chăng? Cho Cự chiêu hồi để chứng tỏ nó là thằng xấu, kẻ xấu từ trong trứng vẫn là xấu, chứ không phải tiêu biểu cho cán bộ ta.

Nhà văn Tô Hoài: Tôi viết nhiều quá, nên tất nhiên nhiều người thích và không thích, viết Ba người khác cũng như những quyển khác, viết xong quyển này rồi lại viết quyển khác. Lúc đầu tôi không chú ý đến nó bằng Chiều chiều là quyển đến nay chưa được in lại. Có lẽ sau quyển này tôi sẽ thử hỏi xem có NXB bản nào in lại Chiều chiều không. Người ta bảo không cho in lại có lý do là vì tôi chửi trường Nguyễn Ái Quốc [1] , nhưng tôi có chửi đâu, tôi đi học trường ấy 2 năm thì tôi viết, thế thôi.
Tôi viết thì nói chung và nói riêng đều viết như thế, bao giờ cũng viết bằng cái thực tế nhất định cộng với một chút mơ màng. Ba người khác cũng thế, tôi chỉ là anh Bối thôi. Anh Bối không biết gì nhưng anh Bối đi cải cách ba lần nên viết được. Tôi đi cải cách ở 3 nơi thuộc Thanh Hóa (Hậu Hiền, Nông Cống, Ba Làng). Mấy nơi như thế, đội của tôi được tiếng là đánh địch giỏi, có thành tích, nên được điều ra Hải Dương vùng tập kết 200 ngày, địch mới rút, không qua giảm tô mà làm ngay cải cách. Nói như thế để thấy được tôi toàn viết về thực tế cộng một cái gì đó mơ màng xung quanh. Nhân vật tôi miêu tả, nhân vật trung tâm cuộc cải cách tôi lấy thực tế từ hai nơi Nông Cống và Hải Dương, hầu như nhân vật, tên và hoạt động rất thật. Có những đoạn, vấn đề tôi gán ghép, ví dụ như phần Đình làm trang trại đại đồng, đoạn trước và sau thời kì cải cách, có đoạn thực tế nhưng tôi vá đáp lại. Cái nhân vật như là Huỳnh Cự, thì sau cải cách rồi, Cự về bộ đội rồi, một hôm tôi nghe đài Sài Gòn nói 2 giờ chiều nay đại tá Huỳnh Cự đi họp chống cộng ở Đài Loan về sẽ nói chuyện, tôi lạ quá. Đến chiều 2 giờ tôi nghe đài Sài Gòn thì đúng là Huỳnh Cự thật, nó vẫn nói "thưa đòm bào". Sau này mới biết trong kháng chiến chống Mỹ có hai nhân vật đầu hàng địch. Thứ nhất là Tám Hà, thằng thứ hai là thằng Huỳnh Cự. Cái đoạn cuối anh Khánh [2] nói nó yếu, tôi cũng chịu là nó yếu, tôi bị thích quá cái sự thực ấy.
Tôi làm toà án nhưng không giết ai, nên sau tôi vẫn về lại Nông Cống, Hải Dương bình thường. Câu chuyện tôi làm toà án cũng lạ lắm, nó như thế này: Khi ta cải cách, đài Sài Gòn rêu rao nói ta vi phạm nhân quyền, CCRĐ giết người không có toà án xét xử gì cả. Lúc đó tôi ở Thanh Hoá, không biết tại sao ông Hồ Viết Thắng [3] (đi Volga mặc quần áo nâu) biết trong đội cải cách ở Thanh Hoá có anh nhà báo nhà văn, thế là tôi được gọi làm chánh án. Tôi sáng tác hàng nghìn khẩu cung (cứ nửa trang một) đem vào nhà tù cho phạm nhân điểm chỉ, ký tên. Tôi sợ họ kiểm tra nhưng rồi cũng không ai kiểm tra việc ấy. Cũng là việc "sáng tác" đó.

Phạm Xuân Nguyên: Vì sao bác đổi tên truyện từ Chuyện ba người thành Ba người khác?

Tô Hoài: Chuyện ba người không được in, tôi chán nên đổi văng mạng, còn cứ đem phân tích thì vẽ vời ra thôi.
Nói tiếp về cái kết: Anh đặc công quê ở Hải Dương giết Huỳnh Cự là chuyện thật tôi được biết. Tôi cải cách cũng hiền lành thôi nên vẫn về Nông Cống, Hải Dương. Năm ngoái năm kia trên báo Tiền Phong đã in ảnh tôi chụp với rễ chuỗi ngày xưa.

Phạm Xuân Nguyên: Còn chuyện quan hệ với rễ chuỗi thì sao?

Tô Hoài: Có khi có có khi không. Có khi ôm ấp rễ chuỗi nhưng nó bảo nó "có tháng". Các cậu ở Hải Dương sau này vẫn giao thiệp với tôi, chính họ kể chuyện cho tôi nghe rằng đặc công giết Huỳnh Cự là người làng ấy. Tóm lại là tôi viết chuyện rất thật, nhưng cũng có đôi chút mơ màng.
Tôi ước ao những vấn đề lớn như về thời kỳ bao cấp nếu có cái ai viết trào phúng kiểu Xuân Tóc Đỏ thì tuyệt vời.

Nguyễn Văn Thành (Viện trưởng Viện Sân khấu) nêu ba câu hỏi:
  1. Thưa bác Tô Hoài, có người nói rằng bác tả rất nhiều về thân xác, tình dục, có phải muốn nói là cải cách ruộng đất chỉ khuấy động phần thú vật trong con người hay không?
  2. Xin bác nói rõ hơn về mối liên quan giữa truyện Ba người khác này với Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Có phải nó nằm trong một chuỗi những sáng tác gần nhau nằm trong cái chung của bác không?
  3. Nếu có người muốn chuyển thể tác phẩm của bác sang sân khấu, điện ảnh, bác có suy nghĩ như thế nào?
Tô Hoài:
  • Về chuyển thể: khó khăn mà cũng không khó khăn, khó là có giả nhiều tiền không?
  • Về tình dục, đấy là quan điểm của tôi chứ không phải chỉ trong Ba người khác . Ví dụ như trong tiểu thuyết Mười năm, viết năm 57, tôi đã tả hai người yêu nhau trong lúc sắp chết đói.
  • Ba người khác chả liên quan gì đến Chiều chiều. Chiều chiều thì tôi đi tu.
Hoàng Minh Tường (nhà văn): Tôi cảm ơn hai người: tác giả Tô Hoài và Nhà xuất bản Đà Nẵng. Từ lâu tôi đã nêu câu hỏi: Tại sao văn học chúng ta thấp kém so với Trung Quốc? Họ đi trước chúng ta 20 năm (Mạc Ngôn, Dư Hoa…). Tôi nghĩ nếu ta viết như Phong nhũ phì đồn (của Mạc Ngôn) thì không thể xuất bản được. Nếu theo cách nhìn của ta thì chắc ĐCS Trung Quốc là phản động. Vậy nếu các nhà văn Trung Quốc tài ba, thì các nhà xuất bản Trung Quốc tài bảy và Ban Văn hoá tư tưởng Trung Quốc tài mười. Nay tôi cũng muốn nói nếu Tô Hoài tài ba thì NXB Đà Nẵng tài bảy và nếu chúng ta chấp nhận Ba người khác này như một cách nhìn lại sòng phẳng lịch sử thì chúng ta tài mười. Và cơ hội hội nhập của ta đã mở.
Cuốn sách thể hiện sự dũng cảm và tư cách công dân của nhà văn Tô Hoài. Nhà văn phải nhìn lại lịch sử, nhìn nhận lại dân chủ, tập làm dân chủ.
Trên trang web của nhà thơ Trần Nhương mới đây có bức tranh nàng Joconde ôm cụ Tô Hoài với dòng chữ "Cát bụi chân ai". Kèm theo đó là bài thơ tặng Tô Hoài:

Chiều chiều, Cát bụi chân ai
Và Ba người khác, Tô Hoài là tư
Tuổi cao sức viết còn dư
Sông Tô cứ chảy từ từ vậy thôi." 
Tôi muốn chữa lại câu cuối thành "Sông Tô vẫn chảy lừ đừ ra khơi", lừ đừ ra khơi thì gớm lắm.

Tô Hoài: Tôi sắp có một tập bút ký, tên là Giấc mộng ông thợ dìu (không phải "thợ rìu")

Bằng Việt (Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội): Những tác phẩm như Ba người khác có ý nghĩa rất lớn: nhìn lại một cách sòng phẳng những sai lầm của chúng ta trong quá khứ. Không chỉ CCRĐ, mà hợp tác hoá nông nghiệp, rồi cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Những cái ấy làm kéo lùi sức sản xuất. Và thậm chí khiến người ta phải nghi ngờ: không biết "đổi mới" bây giờ có thật sự hay không, hay là sau một thời gian lại "đánh" tư sản? Phải dũng cảm nhìn lại sai lầm mới rút ra được bài học cho hiện tại và tương lai.
© 2007 talawas



[1]Trường Đảng cao cấp của ĐCSVN (các chú thích trong bài đều của toà soạn)
[2]Xem tham luận của Nguyễn Xuân Khánh
[3]Bí thư Trung ương Đảng đặc trách CCRĐ












TÔ HOÀI VỚI BA NGƯỜI KHÁC: NHỮNG GÓC NHÌN VỀ CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 
(Đặng Tiến)
(Nguyễn Trọng Tân)

3. Về cuốn Ba người khác của nhà văn Tô Hoài 
(Hà Văn Thùy)
(Đào Hùng)
(Lại Nguyên Ân)
(Phạm Xuân Nguyên)
(Nguyễn Xuân Khánh)
(Nguyễn Hữu Sơn)





















 


Giải thưởng 



Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956
(Truyện Tây bắc)

Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970
(tiểu thuyết Quê nhà)

Giải thưởng của Hội Nhà văn Á-Phi năm 1970
(tiểu thuyết Miền Tây)

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật
(đợt 1 - 1996).
cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.
 

Giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2010





















Tham khảo thêm về nhà văn Tô Hoài






Đặng Tiến
Tổng quan về hồi ký Tô Hoài
Mừng nhà văn chín mươi tuổi




Chiều Chiều 
 
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chìu ruột đau
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chìu
 
 
Chiều chiều nhớ lại. Chiều chiều lại nhớ. Lại nhớ chiều chiều...
 
Chiều Chiều, hồi ký văn học viết xong 1997, xuất bản 1999, là tác  phẩm quan trọng hàng đầu của Tô Hoài, sau khoảng 170 đầu sách, gồm có truyện ngắn, truyện dài, truyện cho thiếu nhi, truyện phim, và khoảng mươi tự truyện kể từ Cỏ Dại, 1944, đến Tự Truyện, 1978, Cát Bụi Chân Ai, 1992,  Sổ Tay Viết Văn, 1977, Những Gương Mặt, 1988,  và mới đây, Ba Người Khác, tiểu thuyết pha lẫn tự truyện, 2006. Những dư địa ký về Hà Nội và nhiều ký sự, du ký...
 
Và nói chung, kể cả những truyện hư cấu, truyện lịch sử... Tô Hoài viết cái gì thì cũng ra... tự truyện. Anh nhẩn nha kể hết chuyện này sang chuyện khác , mỗi tác phẩm đều mang đến cho người đọc nhiều kiến thức mới lạ và lý thú. Thậm chí giọng kể mỗi lần mỗi khác. Ví dụ mới đây: Ba Người Khác hành văn hoàn toàn xa lạ với những tác phẩm trước đây. Cát Bụi Chân Ai đã đem lại  nhiều hiểu biết về văn học, về Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu và nhiều người khác,  một thời đại văn chương chữ nghĩa. Tưởng đến đó là hết chuyện, nhưng Chiều Chiều lại mang lại nhiều ánh sáng mới, rọi chiếu vào một giai đoạn dài và nhiều truân chuyên trong xã hội và văn học từ 1955 đến nay. Ngày nay không thể viết phê bình hay lịch sử văn học mà không đọc đi đọc lại Tô Hoài.

Tô Hoài luôn luôn gửi gấm từng mảng đời thật của mình vào chữ nghĩa, kể cả trong truyện ngắn, truyện dài, và có thể do đó anh không ưa dùng hai chữ tiểu thuyết. Chính Tô Hoài tự nhận điều đó trong hồi ký Một Quãng Đường viết năm 1972: 
« Sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng của tôi, gia đình tôi, làng tôi,  mọi cái của mình, quanh mình. Quê người, Giăng thề, Xóm Giếng ngày xưa, trong đó có những mảnh đời, mảnh tình cỏn con của mình. Còn những chuyện loài vật tưởng như xa lạ kia cũng không ngoài cái rộn ràng hay thầm lặng của khu vườn trước cửa nhà » (Tự Truyện, 1985, tr.272).

Mỗi ký sự của Tô Hoài đều có sắc thái riêng. Ví dụ mảng hồi ký về thủ đô Hà Nội, từ Chuyện Cũ Hà Nội (1986) đến Hà Nội và Hà Nội (1996) đã đem lại những chứng từ sống động về địa dư, lịch sử, phong tục, tiếng nói của thủ đô, và nhà văn Nga Ni-cu-lin đã tinh tế phát hiện ở nhà văn Tô Hoài một nhà dân tộc học. Viết bao nhiêu về thủ đô Hà Nội Tô Hoài vẫn còn  « tình thương chưa đã, mến chưa bưa »  nên thừa mọi cơ hội để tự tình với Hà Nội, từ tiểu thuyết lịch sử Quê Nhà (1970) đến hồi ký Chiều Chiều.

 

 


Tô Hoài - tranh Nguyễn Sáng


Tô Hoài đã viết hàng chục tập du ký, hư cấu hay tự truyện. Chú Dế Mèn đã mở những trang phiêu lưu ký đến khắp các miền đất nước, sang láng giềng Lào, Campuchia, sang các nước Âu Mỹ, Á Phi, mà « đỉnh cao » là núi Kilimangierô, nơi Dế Mèn đã phiêu lưu đến năm 1989 (Chiều Chiều tr. 501). Du ký của Tô Hoài ăm ắp tình người và lúc nào cũng đăm đắm lòng quê.
 
Tiếp theo là hồi ký văn học, đặc biệt là Những Gương Mặt (1988) ghi lại chân dung đậm nét về các tác gia bạn bè từ Nguyễn Bính đến Trần Huyền Trân, đằm thắm tình nghĩa. Nổi tiếng nhất là Cát Bụi Chân Ai (1992) viết sau thời kỳ đổi mới, đã gây tiếng vang lớn. Một mặt vì nó tiết lộ nhiều sự kiện, như thái độ một số nhà văn thời kỳ đàn áp Nhân văn Giai phẩm, mặt khác vì lối viết mới mẻ, ví dụ như những trang về quan hệ đồng tính với Xuân Diệu (1992, tr. 190), những trang nồng nàn tình bạn với Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân qua bao nhiêu sóng gió. Sách được in đi in lại nhiều lần, trong nước và ngoài nước. Khi tái bản, Tô Hoài chăm chút đọc lại và thêm bớt, tuỳ nhu cầu thông tin hay tình hình cho phép. Ví dụ trong Cát Bụi Chân Ai, lần in 1997 trong Tự Truyện, anh ghi rõ tên Hoàng Huế là người năm 1956 đã mỉa mai Nguyễn Tuân «thắt cà vạt đỏ đi khắp năm châu » trên báo Đất Mới. Cũng trong Tự Truyện, ấn bản 1997, Tô Hoài thêm  một chương dài 15 trang cho Nguyễn Hữu Đang (tr. 360-374). Và nói rõ thêm về các nhà văn theo nhóm Trốt kýt (Đệ tứ), như Lam Kiều bút hiệu của Nguyễn Xuân Huy (tr. 282), bây giờ ta mới biết.
 
Như vậy, khi đọc Tô Hoài, dù một tác phẩm in lại, nếu đọc kỹ, chúng ta vẫn thu hoạch được những kiến thức mới và hiểu được thời tiết văn nghệ Việt Nam trong khí hậu chính trị Việt Nam: vào thời điểm nào thì có thể viết được chuyện gì, dù là chuyện tình trai, lúc nào có thể nhắc đến tên ai, dù kẻ ấy là công thần của cách mạng.
 
Điều lý thú khác khi đọc Chiều Chiều là những bí ẩn kia do bản thân Tô Hoài kể ra sau 50 năm sống trong guồng máy, từ chi bộ đến Đảng bộ, Đảng uỷ. Từ những hồ sơ, người đọc biết những gian nan một thời của Đồ Phồn, Trinh Đường, Phan Kế An... và thêm một số chuyện khác. Như về Thế Lữ, chúng ta cho rằng đã biết đầy đủ qua hồi ký của bà Song Kim; về Quang Dũng cũng vậy, qua những trang giới thiệu của Trần Lê Văn; về Lưu Hữu Phước, hồi ký Mai Văn Bộ tưởng là đã đầy đủ chi tiết về chính trị. Nhưng đọc Chiều Chiều của Tô Hoài mới biết thêm nhiều oan khuất không ngờ tới. Và biết thêm về đời sống văn chương của một thời chưa xa vắng. Về  oan khiên đè nặng lên cuộc đời những Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Trần Huyền Trân, và gian nan của Nguyễn Bính (tr. 228). Về Phan Khôi, chúng ta đã đọc nhiều trang phê phán hay ký sự cực đoan, bên này hay bên kia, với  dụng ý ngoài văn chương. Đọc Tô Hoài sẽ bắt gặp nhiều nét bình thường trong đời sống hàng ngày, bên cạnh các ký hoạ về Hoàng Trung Thông hay Phùng Quán.
 
Lại thêm việc tập kết từ miền Nam, năm 1955, « nhiều cán bộ được bố trí ở lại mất tinh thần đã đổ xô xuống tàu, không kiểm soát được, trong khi những người cần đem ra thì bỏ lại. Các trường hợp Lam Giang và Võ Phiến là như vậy » (tr. 209). Võ Phiến công nhận điều này và tỏ vẻ ngạc nhiên: sao Tô Hoài lại biết đến Lam Giang?
 
Ngay về Tô Hoài, theo các tư liệu văn học phổ biến, chúng ta vẫn cho rằng truyện đầu tay của anh là Nước Lên đăng ở Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, năm 1940. Đọc Chiều Chiều mới biết thêm rằng trước đó mấy năm anh đã có Những Chuyện Khó Hiểu đăng trên phụ trang  nhật báo Đông Pháp (tr. 496). Nước Lên là truyện đầu tiên được trả tiền do đó Tô Hoài đã nhiều lần viết « tôi vào nghề bằng truyện ngắn Nước Lên » (Tự Truyện, 1985, tr. 250)  gây ra một sai lầm về thư tịch.

 

- o O o -

 

 
Chiều Chiều là con sông dài, qua bao nhiêu ghềnh thác vẫn tiếp tục xuôi dòng hồi ức.
Hôm nay là đúng 90 năm,  dòng hồi ức của Tô Hoài mà vẫn chưa hò hẹn ngày xuống đồng bằng hay đổ ra biển cả.



 
Vậy Chiều Chiều đã mang lại cho người đọc cảm thụ gì mới? So với các tự truyện trước, Chiều Chiều nặng phần phê phán thời đại mà tác giả đã trải qua; ở các tác phẩm trước, Tô Hoài thường bao che, bào chữa, như là một hồi ký bao cấp. Đến Chiều Chiều, giọng kể nghiêm nghị hơn về đời sống chính trị và văn nghệ ngột ngạt những năm 1955-1970, về những sai lầm trong chính sách Cải cách ruộng đất, về các đợt học tập chiếu lệ ở trường Đảng cao cấp là trường Nguyễn Ái Quốc, về đời sống Hà Nội từ ngày tiếp thu 1954, qua mấy đợt sơ tán, đặc biệt là những ngày nhà văn Tô Hoài, trưởng khu phố (1965-1972) phải đi mai phục «bắt gái điếm» (tr. 294) và «những người giặt xi líp thuê cho gái điếm »  (tr. 288), «bắt những anh Hà Nội, buổi trưa thuê phòng chơi gái» (tr. 290), hay cảnh diệt chuột, bắt mê tín, thậm chí cả việc «trông  nom hơn hai trăm cái hố xí hai ngăn của thành phố »  (tr. 301). Hà Nội thanh lịch của Tô Hoài trong các hồi ký trước, đến Chiều Chiều bỗng sực mùi bẩn thỉu, hôi hám suốt mười trang rất hiện thực mà lần đầu tiên, Tô Hoài đã dành cho «việc ỉa đái của đất Kẻ Chợ »  (tr. 300). Ngôn ngữ này sẽ làm ngạc nhiên nhiều độc giả vì lạ lẫm ở hành văn Tô Hoài, một tác giả hoa mỹ và duy mỹ, có cả một chủ trương về chữ nghĩa, mà từ 1959 anh đã gọi là «chủ nghĩa tiếng nói». Mới đây anh có bài báo:
 « Làm sao cho mỗi chữ là một hạt ngọc trên bản thảo, hạt ngọc mới nhất của ta tìm được, do phong cách văn chương của ta mà có được. Trang sách mà không có «ngọc», trang bản thảo không có chữ thần, không có tinh hoa chữ thì cái hồn tác phẩm, từ tư tưởng đến nhân vật, biết lấy gì mà sống được, không có chữ ngon, chữ bổ nuôi nó, trang viết gầy gùa trống rỗng rồi chết héo » : « Tâm sự về chữ nghĩa »,  trên Tạp chí Văn Học, 12/1998, nhưng bài này viết đã lâu,  đã in trong Sổ Tay Viết Văn (1959).
 
Chữ ỉa, đái không chứng minh, mà cũng không phản bác, «chủ nghĩa tiếng nói» của Tô Hoài; theo tôi, nó chỉ chứng tỏ cụ Tô... bực mình; cụ bất bình về chính sách vệ sinh thời đó, mà phải phớt tỉnh, cho đến Chiều Chiều thì nó bật ra. Sự đời, rồi đến tình người, cụ bực nhiều chuyện lắm; thậm chí cụ gắt gỏng ngay với con sông Tô Lịch « tuyệt vời nhất châu Á » (!) (tr. 267) mà một đời cụ chắt chiu trong trí tưởng: cái tên Tô Hoài còn có nghĩa là hoài vọng sông Tô.
 
Quen giọng Tô Hoài, người đọc nhận ra lúc ngọt lúc chua: ví dụ với Lê Đạt, trong Cát Bụi Chân Ai (1992, tr. 59) kể lại thời Nhân Văn Giai Phẩm và công tác Đảng, anh kể « tôi làm bí thư, Lê Đạt phó bí thư », là ngọt; đến Chiều Chiều (tr. 106) gọi Lê Đạt là «Ông phó bí thư chi bộ cũ của tôi» là chua.

Nhưng ví dụ đậm đà nhất là Như Phong, bạn nối khố với Tô Hoài từ Mặt trận Dân chủ (1943) Văn hoá Cứu Quốc, cùng vào tù ra khám, cùng làm báo Cứu Quốc v.v... Nhưng đến khi đánh Nhân văn Giai phẩm thì Như Phong đánh Tô Hoài rất kỹ, rất ác và rất hỗn như câu  «cái tật làm ra vẻ mình thông minh của Tô Hoài » (Như Phong, Bình luận văn học, 1964, in lại 1977, tr.103, nxb Văn Học, Hà Nội) còn gọi Tô Hoài là «thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt »  (CBCA, tr 117). Nhưng trong Những Gương Mặt, Tô Hoài vẫn có một chương rất đằm thắm cho Như Phong (không rõ năm viết). Tôi rất lấy làm lạ, và có lần gạ hỏi riêng anh: «Thế không giận à ?» Trả lời: «Giận gì? Gặp vẫn đi uống bia ». Tôi cho Tô Hoài là thánh. Nhưng rồi trong Chiều Chiều, anh kể lại thời kỳ đi thực tế (1958) Thanh Đình tay viết kiếm hiệp ba xu một hôm đến đợi Như Phong tại nhà Xuất bản Văn Học, nói: «Tao vào thằng Thạc, tao với thằng Thạc là bạn nối khố, Thạc là tên cúng cơm của Như Phong » (tr. 28); tôi mới hay Tô Hoài không phải là thánh và cũng biết hờn giận như ai. Vì đã gọi một bạn văn bằng «thằng» dù qua lời người khác, cũng là... không ưa thích.

 



-  o O o  -

 

 
Tiếng Việt ta không có một từ chính xác tương đương với chữ humour trong tiếng Pháp, tiếng Anh. Ta tuỳ tiện dùng những chữ hài hước, hóm hỉnh, dí dỏm... Nhưng trí óc Viêt Nam rất giàu uy mua (hay u mặc). Ca dao, tục ngữ, truyện tiếu lâm dân gian chứng tỏ điều đó. Gặp văn học phương Tây, nó phát triển mạnh: truyện Vỡ Đê  từ thời Phạm Duy Tốn là một ví dụ; O Chuột (1943), tập truyện ngắn đầu tay của Tô Hoài là một minh chứng về sau.
 
O Chuột, một hình ảnh ví von,  là phản ngữ của động từ O Mèo thông dụng, là một sáng tạo ngôn từ  tinh quái của Tô Hoài (o nghĩa là tán tỉnh, như trong từ o bế ; mèo đối lập với chuột).  Ngoài Tô Hoài ra, không ai nói: « o chuột ». Nhưng humour, uy mua, không hợp với văn chương cách mạng. Hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trào phúng, hài hước chỉ đích danh đối tượng, nghĩa là đối phương; còn uy mua thì không rõ ám chỉ ai, mà nhất định phải là một lối văn linh tinh, không đáng tin cậy, nhất là trước một đề tài trọng đại. Lấy Như Phong làm ví dụ, khi ông ấy phê phán cuốn Mười Năm (1957): «Tại sao Tô Hoài cứ phải giở giọng pha trò khi nói đến những giờ phút nhiệt tình hay cảm động của quần chúng»  (sđd, tr 132). Khổ thân Tô Hoài, theo cách mạng từ tuổi thiếu niên làm sao dám pha trò, đùa cợt, chế diễu (sđd, tr. 104) với cách mạng? Ấy chỉ là cái uy mua,  u mặc đặc biệt trong giọng văn và trong cách sống, cách nhìn đời. Sáng tác Tô Hoài luân lưu giữa hai bờ phong cách: u hoài và u mặc. Cuộc đời Tô Hoài là Nụ Cười Thương Nhớ: tên một bài thơ Đinh Hùng, cố tri và cố nhân. (Nguyên câu thơ là: Nụ cười thương nhớ nét đan thanh).
 
Giọng văn dí dỏm khiến người đọc dù nghe chuyện về những nhà văn ít tên tuổi như Sao Mai (sinh 1924) cũng không chán: «Tôi lại khoái ông có máu đa tình mà lại chung thuỷ. Léng téng với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới (...)  vừa cai nghiện (...) bằng một liều thuốc dân gian, mạnh và dữ, phi có nghị lực mới cai được (...) Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm các vị phụ nữ... » (tr. 25-27). Tô Hoài không nói rõ là gia hay giảm.
 
Giọng văn có khi đanh lại, như khi nói chuyện quyền thế, cơ hội, tráo trở. Tâm hồn anh thoáng rộng, không cố chấp về luân lý hay chính trị, thậm chí còn bị Như Phong kết tội là hoài nghi chủ nghĩa (!) (Sđd, tr. 132) ; duy có một điều: Tô Hoài tình nghĩa, như đã viết: tình nghĩa cũng trong lẽ sống tự nhiên (tr. 516) và đã tự nhiên thì mãi mãi (tr. 269) ! Và từ đó Tô Hoài không hiểu những thái độ không tình nghĩa; chẳng nhất thiết phải là phản bội hay tráo trở. Nói là nhược điểm cũng được đi.

Trong Cát Bụi Chân Ai, Tô Hoài có thể xởi lởi với một đại tá Huỳnh Cự trở áo (1992, tr. 116), nhưng đến  tiểu thuyết trộn lẫn nhiều hồi ký  Ba Người Khác, viết cùng thời 1992, công bố 2006, chuyên đề về thời Cải Cách Ruộng Đất, Tô Hoài mô tả kỹ càng nhân vật chính, là viên đội trưởng ác ôn tên Cự, về sau sẽ là trung tá Huỳnh Cự hồi chánh tại Miền Nam, giọng Quảng Ngãi oang oang trên đài phát thanh Sài Gòn. (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006, trang 245. Tiểu thuyết kết thúc bằng cái chết của Huỳnh Cự, bị thanh toán tại Sài Gòn trước 1975 với câu  kết mơ hồ «  không biết thực hư như thế nào ». Sự thật là nhân vật vẫn sống  nhiều năm sau đó).


Trong Chiều Chiều Tô Hoài đã gay gắt riêng với Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, vì là, hay dù là, chỗ cố tri trước 1945 (tr.20). Phải chăng vì Hiếu Chân tránh gặp lại Tô Hoài sau 1975, vì chút hào khí tuyệt vọng của con người chiến bại, hay tự cho là như thế. Còn phần Tô Hoài, thì không có vấn đề ấy; như cái lần  đưa đám ma ông Minh Đức, chủ nhà xuất bản, anh đã phải trả lời Nguyễn Tuân : « Trong đầu tôi không có câu hỏi nào về việc như ông hỏi »  (CBCA, 1992, tr. 57). Đây cũng là một câu nói chìa khoá, để tìm hiểu Tô Hoài. Có những câu hỏi Tô Hoài không bao giờ đặt ra. Nguyễn Tuân có vẻ không tin (tr. 57), nhưng mà đúng vậy. Ngược lại, có lúc anh  ấy đặt ra những nghi vấn rất chi là vớ vẩn. Cũng có thể Tô Hoài không biết là Hiếu Chân đã bị bắt và chết trong nhà giam Chí Hoà, 1985. Tôi dừng lại hơi lâu ở trường hợp Hiếu Chân, vì là một biệt lệ, có thể là duy nhất, nhưng có nguy cơ bị khuếch đại và xuyên tạc.
 
Nhân tiện, mong Tô Hoài rà lại về cái chết của Nhượng Tống. Phải chăng ông ấy bị ban ám sát (Việt Minh) khử (tr. 333) như lời Cụ Thắng, hay bị đồng đảng thanh toán, như nhiều nguồn tư liệu đã ghi lại?
 
Giọng văn Tô Hoài cũng có lúc cà kê ở phần sau, khi kể những chuyến đi các nước Á Phi, Nga, Đông Âu, ở giai đoạn mà các chính quyền cộng sản địa phương đang băng hoại. Tô Hoài đi thăm con trai, lao động tại Laixich (tr. 409) mấy năm sau đã tử nạn tại đấy (tr. 521). Một thảm kịch trong đời, nhưng anh chỉ kể sơ lược. Tô Hoài vốn tiết kiệm những chuyện gia đình, riêng tư. Anh chỉ ghi lại những mảng đời tiêu biểu, có liên quan đến xã hội, văn học, và chỉ đề cập đến con người cá nhân khi nó  « mang hình thái trọn vẹn của thân phận làm người »  như lời Montaigne.
 

 

-  o O o  -

 
 
Tâm sự thoáng qua của một người có khi hồi quang cả một thời đại. Như vài ba ngày ngắn ngủi khi Tô Hoài đi xe ôm về thăm lại Xóm Đồng ở Thái Ninh, Thái Bình, nơi anh đã tham gia Cải cách ruộng đất non bốn mươi năm trước (1958-1996).

Chuyến đi ngắn ngày chiếm trọn chương cuối với năm mươi trang cực kỳ súc tích và cảm động, như một chuyến hành hương.

Những gian nan biến mỗi quá quan thành cố quận. Những ân hận biến mỗi kỳ ngộ thành một cố nhân.


Ông Ngãi, nông dân nghèo, có dáng dấp Phan Khôi, người đã cưu mang Tô Hoài, Phùng Quán, thời Cải cách ruộng đất, năm 1958 ngủ giữa bụi tre, bốn mươi năm sau vẫn ngủ giữa bụi tre, trong khi làng xóm thời kinh tế thị trường  « cứ đua nhau mà nhà tầng nhà gác ». Ông Ngãi bình luận : «Ối người đi vay lãi, bán lúa từ lúc vào đòng để làm nhà. Chỉ khác ngày xưa lý trưởng, phó lý giàu có, bây giờ chủ tịch, bí thư, xã đội, dạo trước còn chân chủ nhiệm, kế toán nữa cũng trộm cắp mà nên giàu có cả »  (tr. 535). Chủ nhiệm Sự giàu sụ, thành nghiện thuốc phiện nặng, hai con trai ở tù, con gái   « ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng. Cả mẹ nó ... Bà lão cũng chẳng tha thằng nào. Có thế mới giầu như điên »  (tr. 546). Thái Bình. Lại Thái Bình. Sao Tô Hoài không trở về Xóm Giếng ngày xưa để hạ màn Chiều Chiều, cho bớt não nùng tiếng sương?

Anh trở lại nhà hát Bà Ký Đường trong truyện Nguyễn Khắc Mẫn, nửa thế kỷ về trước, gặp lại Cô Thẹn mười ba, mười lăm tuổi, ngày xưa, bây giờ là bà lão : «Nước mắt bà lão chảy ra, không biết cái nước chết lưu niên ở hai con mắt loà lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên mi, hay là nước mắt (...) Cô Thẹn ngày ấy đây. Bà lão vẫn nắm tay tôi cất giọng phều phào, rè rè 
 

Đến bây giờ mới thấy đây

Mà lòng đã chắc những ngày một hai

 

Câu Kiều này (câu 2282, ĐT) đầu mùa đông 1959, Nguyễn Đình Thi đã ghi sổ lưu niệm bảo tàng L.Tôn-x-Tôi ở Tu La. Mỗi khi mơ màng lại cái chuyến về Thái Bình này, là thật hay chiêm bao. Hai câu lẫy Kiều tình nghĩa kia đã thấy ở Tu La hay đã nghe cô Thẹn, bà cụ Thẹn nghẹn ngào ».
 
Những dòng cuối Chiều Chiều. Giọng Tô Hoài trầm xuống, nghẹn lại. Chấm dứt cuốn Tự Truyện như vậy là tài tình. Hay ở chữ tài. Quý ở cái tình. Chữ tài vẫn quý nhưng không hiếm. Cái tình vừa quý vừa hiếm, càng ngày càng hiếm, có cơ tuyệt chủng.
 

 

-  o O o  -

 

 

Tên sách Chiều Chiều lấy từ ca dao :

           

Chiều Chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai

 
Tô Hoài trích dẫn ở đầu sách, gọi là ca dao cổ. Thật ra nó không cổ, chỉ mới phổ biến hơn trăm năm nay, vì nguyên là một câu thơ của Tương An Quận Vương, con vua Minh Mệnh, kín đáo khóc Hồng Bảo, con trưởng vua Thiệu Trị, là cháu, học trò và bạn tri âm của mình. Hồng Bảo âm mưu tranh ngôi vua với em là Tự Đức nên bị bắt giam và bức tử trong ngục.

 

Nguyên gốc câu thơ là :

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai

 
Đãy gấm là cái hà bao bằng gấm.  Bao là cái đãy, hà là cây sen, vì đãy gồm có hai phần: đãy lớn hình lá sen đựng trầu cau, đãy nhỏ hình bông sen đựng thuốc. Màu sắc tuỳ thuộc đẳng cấp: vua dùng đãy bằng đoạn màu vàng, hoàng thân, như Hồng Bảo dùng đãy bằng gấm màu đỏ (điều) dân thường dùng lụa màu xanh.

Chi tiết nhỏ không quan trọng gì, nhưng tôi vẫn trình với Tô Hoài vì anh ưa thảo luận về chữ nghĩa, trong cái anh gọi là  “chủ nghĩa tiếng nói” (Có lần anh than với tôi: “Ngày xưa còn cụ Hoàng Đạo Thuý, thỉnh thoảng mình còn có người nói chuyện về chữ nghĩa. Bây giờ ông ấy qua đời thì....” Anh có những câu nhẹ nhàng thế thôi, nhưng nghe... phát ớn).

 
Chiều Chiều... Tô Hoài dùng chữ theo ý nghĩa, nhưng còn vì âm vang của nó. Chiều Chiều là hồi ký của người cao tuổi, như Nhớ Nghĩ Chiều Hôm của Đào Duy Anh. Nhưng chỉ hiểu như thế thì chưa tri âm. Vì Tô Hoài rất thích âm vang ấy từ hồi còn trẻ, như là lúc 23 tuổi. Tại Sơn Tây, ngày 20 Juillet 1943, anh đã viết trong Xóm Giếng ngày Xưa :
«Chiều chiều Ly thẩn thơ ra ngoài bờ giếng. Gã muốn nói mãi, nói mãi về những chiều vô tội ấy. Những buổi chiều hoa mộng không bao giờ có thể quên, bởi nó ngây ngất mà chẳng mang một nghĩa gì rõ ràng (...).  Sao không chỉ có những chiều thơ dại ấy trong tất cả một đời người...»
Năm mươi năm sau, 1992, trong Ba Người Khác anh viết:
chiều chiều, tiếng người ta gọi nhau lao xao bên đường làng, rồi một chấm sao hôm lấp lánh lên đằng chân tre, đứa con gái lùi vào giấc ngủ, vào cơn mê mù mịt đời người”( tr 199)
Cơn mê nào mù  mịt đời người ? Có cần bình luận ?
 
Tô Hoài là nhà văn không bao giờ già. Vì con người anh chưa bao giờ trẻ. Tô Hoài miên viễn là  «buổi trưa mùa thu» «Mùa thu có những ngày không sáng, mà cũng không chiều ».  Nhưng vẫn có những chiều chiều. Những chiều chiều mãi mãi trong chúng ta.
Thỉnh thoảng lại hanh hao lên một âm hao u hoài, xa vắng...
Chiều Chiều...
 
 


Orleans, 14/9/1999- 24/9/ 2010.

Cập nhật mừng ngày thượng thọ Tô Hoài lên Chín Mươi,

Trung Thu, 1920 - 2010




 


Tô Hoài và nhà phê bình Đặng Tiến








Tô Hoài / Vương Trí Nhàn









Trần Đăng Khoa: Tô Hoài, tôi rất mê ông!

“Nhà văn Tô Hoài đã giã biệt chúng ta để đi vào cõi không cùng. Đó là một tổn thất không gì bù đắp được”.

Tôi rất mê ông. Mê từ khi mới lẫm chẫm bước chân đến trường. Hồi đó tôi đã có thơ tặng ông, dù chưa từng được nhìn thấy ông ở trong đời thực. Đó là dịp tháng 4/1967, tình cờ tôi đọc được một truyện ngắn viết cho trẻ em của ông. Cái truyện có tên là “Ò... ó... o...”.

Truyện kể một cậu bé ở thành phố, về nghỉ hè ở nhà bà ngoại. Bà sống ở quê. Suốt ngày cậu chạy nhảy, vui chơi với bao trò chơi thú vị mà ở thành phố không có. Mới chập tối, mệt quá, cậu thiếp đi. Ngủ chưa được bao lâu, mắt vẫn cay sè, đã nghe gà gáy inh ỏi. Ngoài cửa nhờ nhờ. Cậu bé nhìn ra, thấy bà vẫn cặm cụi thái lá dâu cho tằm, dì vẫn kì cạch dệt lụa. Chưa có ai đi ngủ cả. Trời mới tối được một lúc. Thế sao gà đã gáy? À, đấy là mấy chú gà nhầm, thấy ánh điện nhà máy bên kia sông hắt sang, gà tưởng sáng nên thi nhau gáy. 


Nhà văn Tô Hoài (Ảnh: An Thành Đạt)


Cái truyện chỉ có thế. Nhà văn Tô Hoài ca ngợi sự đổi mới của nông thôn. Đấy là một chủ đề khá phổ biến trong văn chương Việt Nam những năm sáu mươi. Hồi ấy, tôi rất thích cái truyện ngắn này. Cái truyện gợi cho tôi viết bài thơ “Ò...ó...o...” với nội dung khác hẳn. Nhưng “Ò...ó...o...” là chữ của Tô Hoài.

Trong sách “Tập đọc lớp ba” của chúng tôi thời ấy, tả tiếng gà, người ta lại dùng chữ “cúc cù cu”. Một bài Học thuộc lòng thời ấy thế này: “Cúc cù cu! Cúc cù cu! Sáng rồi đây. Nông dân vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm”... Những bài học thời ấy phải nói là rất nôm na, dễ dãi.

“Cúc cù cu” là tiếng chim bồ câu gù chứ không phải tiếng gà. Nếu lấy tiếng chim bồ câu để báo sáng thì không phổ cập. Vì chỉ những gia đình trung nông trở lên mới nuôi chim bồ câu. Còn với những người nông dân “Vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm” thì chỉ tiếng gà mới gần gũi với họ. “Ò... ó... o...” quả là một đóng góp của Tô Hoài. Tôi lấy mấy chữ ấy của ông. Và để tỏ lòng biết ơn ông, sau tên bài “Ò... ó... o...” tôi đã ghi một dòng rất trang trọng : “Kính tặng chú Tô Hoài”, dù lúc ấy, tôi chưa từng gặp ông, và ông cũng chẳng biết tôi là cái thằng bé nào...

Tô Hoài là một nhà văn lớn, một “người khổng lồ” với số lượng tác phẩm thật đồ sộ. Ông viết đủ các thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn, các bài điểm sách chỉ bằng một... bàn tay trẻ con.

Tô Hoài thực sự là nhà văn chuyên nghiệp. Nghĩa là ông hoàn toàn sống được bằng nghề văn. Ngồi đâu, ông cũng viết được văn, kể cả trong những lúc hội họp. Có người còn kể rằng, trong một hội nghị quốc tế sang trọng, Tô Hoài ngồi ghế chủ tịch đoàn điều hành cuộc họp. Người ta ngạc nhiên khi thấy ông cứ lật sổ viết nhoay nhoáy. Tưởng Tô Hoài ghi biên bản hội nghị. Hoá không phải. Ông đang viết tiểu thuyết. Không ít tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài đã ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt như thế. Ta hiểu vì sao Tô Hoài có được một lượng sách thật đồ sộ: 215 tác phẩm, nhiều hơn gấp đôi số tuổi đã sống trên trần gian của ông. Đó là một con số kỷ lục mà không phải nhà văn lớn nào trên thế giới cũng có thể đạt tới được.

Tô Hoài là nhà văn không có tuổi già. Ở ông không có dấu hiệu của tuổi già. Một trí tuệ tỉnh táo và thông minh đến mức... tinh quái. Ông cũng là trường hợp duy nhất ở Việt Nam: Là một nhà văn lớn, một học giả lớn, với kiến thức khổng lồ, mà trình độ học vấn chỉ ở bậc… Tiểu học. Nói đúng ra, như ông kể với tôi, ông mới chỉ học hết lớp ba rồi đi kiếm sống. Cuộc sống chính là trường học lớn của ông. Ông bảo: “Đã là nhà văn thì phải có nhân vật và chi tiết. Mà chi tiết với nhân vật thì chỉ có ở trong cuộc sống thôi”. Đời sống chính là trường học vĩ đại của Tô Hoài.

Trong đời, may mắn sao, tôi cũng đã có dịp sống cùng Tô Hoài trong suốt nửa tháng ở Nhà Sáng tác Đại Lải, Vĩnh Phúc. Đó là dịp Bộ Giáo dục mời Ban Giám khảo cuộc thi viết về nhà giáo và Nhà trường. Trong Ban Giám khảo, gồm toàn những nhà văn lớn, Tô Hoài cao tuổi nhất, còn tôi lại ít tuổi nhất. Bởi thế, Ban Tổ chức đã xếp tôi ở cùng phòng với ông, để giúp ông những việc lặt vặt.

Tôi cũng rất khoái vì có dịp được chiêm ngưỡng bác… Dế Cụ, cha đẻ của chàng… Dế Mèn. Tôi rất kinh ngạc khi Tô Hoài ngủ rất sớm. Chưa đến tám giờ tối, ông đã ngủ rồi. Ngủ hồn nhiên như một chú bé 14 tuổi. Không ngáy, cũng không trằn trọc như một người già. Ông ngủ thẳng một mạch cho đến ba giờ sáng thì lặng lẽ dậy, rồi đi lại ru như một chú mèo nhung. Ông che đèn để không ảnh hưởng đến người bên cạnh và bắt đầu đọc.

Ông đọc rất nhiều, nhưng toàn đọc báo lá cải và những tờ báo chuyên ngành rất xa với văn chương. Ông bảo, ông không bao giờ xem truyền hình. Chỉ nghe Đài Tiếng nói Việt Nam. Đi đâu, ông cũng mang theo cái đài nhỏ. Vậy mà không biết ông thu nạp kiến thức từ đâu. Chạm đến lĩnh vực nào ông cũng biết và biết rất thấu đáo. Ngay cả những cây cỏ quanh ta, như cây phi lao, rảnh bèo tây, hay cỏ lồng vực, ông có thể nói một cách rành rẽ chúng xuất phát từ đâu, xuất hiện ở Việt Nam bắt đầu từ năm nào?

Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngờ ông hiểu Hà Nội sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là Nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên cứu.

- Không! Tôi không phải là nhà Hà Nội học. – Nhà văn Tô Hoài cười - Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...

- Nghĩa là không có gì đổi khác ư?

- Có chứ! Nhưng đó là những khu vực ngoại thành và những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt, hay các khu phố mới. Còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tý chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường Hà Nội về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, đầu vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, vỉa hè đầu tiên của Hà Nội đấy. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lý do dùng đá ốp vỉa hè cũng đơn giản, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi- măng. Đi trên đường Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng vẫn là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Hệ thống cống ngầm xưa chỉ đủ phục vụ cho mấy vạn người. Đến bây giờ là 5 – 6 triệu người. Một thằng bé cõng cả một ông Khổng lồ thì điều gì đến tất sẽ đến. Có gì đâu mà lạ. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Marseille. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp, rồi mang sang bán ở ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp còn mở công ty Sacric. Đấy là công ty gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ tấp nập lắm. Đúng là trên bến dưới thuyền.

- Thế còn Hồ Tây bây giờ thì sao?

- Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. Dân Hà Nội không ăn, nên chỉ có ở ao quê.

- Thế còn các khu phố Hà Nội thì sao bác?

- Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên đường, tên phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn đường là nối với các tỉnh khác. Ví như đường Huế nối với Hà Đông, đường Hàng Bột, hay đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. “Khu phố cổ”, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc... Rồi “khu phố cũ” là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nói như cụ Phạm Quỳnh, và dùng chữ của cụ Phạm thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... “Khu phố mới” là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là “khu dưới bãi”, nơi ở của dân cu ly...

- Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?

- Không, từ Yên Phụ đến Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương, Long Biên bây giờ...

- Bác vừa nói đến phố cổ. Tôi thì lại ngờ ngợ rằng, hình như Hà Nội mình, trừ các chùa chiền và Văn Miếu, một công trình kiến trúc có tuổi thọ ngót một ngàn năm, sau được trùng tu, tôn tạo qua rất nhiều đời, còn thì chúng ta không có phố cổ mà chỉ có phố cũ. Bao gồm cả phố cũ xưa ta xây và phố cũ sau này Tây xây. Đó là Ba mươi sáu phố phường xưa và những khu phố có biệt thự Tây như bác vừa nói. Bởi vì những khu phố đó có rất nhiều nhà chỉ xây cách đây chừng hơn một trăm năm thì sao lại gọi là phố cổ được? Ở Nga, có những thành phố cổ như Xuzđan xây dựng cách đây hơn 11 thế kỷ, trong đó có những căn nhà gỗ, tường xếp bằng nguyên cả những cây gỗ, mái cũng lợp gỗ. Trong nhà vẫn còn nguyên cả những đồ đạc có cách chúng ta 1.200 năm. Ở ta, nếu có phố cổ thì đấy chính là Hội An. Một khu phố rất lạ. Kiến trúc khá độc đáo. Hội An có một vùng văn hoá riêng, một bầu không khí cũng rất riêng biệt. Hàng tháng, cứ vào đêm 14 là người ta tắt hết điện, thắp đèn lồng. Những căn nhà gỗ trông rất cổ kính. Vào trong nhà không khí khác hẳn, nhiệt độ cũng mát hẳn. Người ta lấy gió tự nhiên làm điều hoà nhiệt độ cho cả căn nhà. Ở đó không có AIDS, không có kẻ cắp, trấn lột và những kẻ lừa đảo. Tóm lại, những cái xấu, cái hỗn tạp của những đô thị hiện đại không du nhập được vào khu phố cổ này. Người dân sống giữa một bầu không khí trong vắt như ở hồi thế kỷ 17. Ngay cả việc buôn bán của họ cũng rất lạ lùng. Tôi mua một cái quần bò. Bà chủ quán hỏi rất cặn kẽ: "Chú định mặc một lần hay muốn dùng lâu dài? Khi biết tôi thuộc dân "ăn chắc mặc bền", bà chủ quán khuyên tôi nên sang cửa hàng khác. Không xa đâu. Chỉ cách quán bà có ba nhà thôi. Bà bảo đồ của bà không tốt. Chỉ qua vài lần giặt là vải xù ra. Tôi không thấy ở đâu có người bán hàng lạ lùng như thế. Nếu đã mua hàng rồi mà không ưng, hôm sau có thể mang trả lại. Người bán sẽ hoàn lại nguyên tiền, không bớt đi một xu, cũng không hề tỏ vẻ trách móc. Đấy là buôn bán theo lối cổ, ở một thời xã hội còn trong veo. Hà Nội chẳng bao giờ có chuyện như thế...

- Nói Hà Nội không có phố cổ thì cũng không hẳn. – Nhà văn Tô Hoài nói - Hà Nội không có khu phố cổ nhưng có nhà cổ. Ví như nhà số 38 Hàng Đào và 87 Mã Mây. Hai ngôi nhà cổ này đã được Pháp đầu tư tài trợ để bảo tồn. Có thể rất dễ dàng nhận ra nhà cổ. Nhà cổ có hai cửa. Cửa trước dành cho chủ nhà đi. Cửa sau dành cho gia nhân, đầy tớ, hoặc chuyển phân rác và đồ phế thải. Hà Nội xưa có những vùng riêng biệt. “Thành thị” không phải là một từ chung đâu. Đó là hai khu cụ thể. “Thành” là nơi vua quan ở, còn “Thị” là nơi ở của dân chúng, chủ yếu là dân buôn bán, phục vụ cho “Thành”. Vua quan trong thành thỉnh thoảng ra đường, nên thường qui định dân chúng chỉ được ở nhà trệt, không làm nhà gác, hoặc nếu có nhà gác thì không được trổ cửa sổ hoặc làm ban công chìa ra đường, vì vua quan đi ở bên dưới. Không ai được đứng trên đầu vua. Bởi thế, nhà cổ không có ban công hoặc cửa sổ trổ ra đường. Tôi cũng đồng ý với anh Dương Trung Quốc là chúng ta nên xác định rõ đâu là nhà cổ để gìn giữ, trùng tu, còn đâu là những ngôi nhà cũ để cho dân được tôn tạo, nâng cấp, hoặc xây dựng lại. Bởi nhiều nhà tối tăm, xập xệ quá. Thực chất đó là những khu nhà ổ chuột. Đã thế, vệ sinh lại không bảo đảm, vừa ô nhiễm môi trường, vừa làm mất cảnh quan đô thị...

- Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như bác nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ khổng lồ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chẳng hạn?

- Không hẳn thế đâu! - Nhà văn Tô Hoài cười - Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận, rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá huỷ trong những cuộc giao tranh với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn.

- Thế còn những phong tục tập quán ở Hà Nội?

- Hà Nội không có phong tục tập quán gì cả. – Nhà văn Tô Hoài giải thích - Trước đây, Hà Nội là đất nhượng địa cho Tây. Một anh đi ăn cắp chẳng hạn, nếu bị xử ở Hà Nội có thể sẽ rất nhẹ, nhưng nếu xử ở Hà Đông, trong toà án An Nam thì nặng hơn nhiều. Hà Nội theo luật lệ riêng của Tây. Muốn làm gì cũng phải xin phép Tây. Ngay cả việc dạy học tư, cứ có từ năm học sinh trở lên là đã phải xin phép. Muốn có hội hè đình đám là phải tập hợp rồi. Tây rất ngại sự tụ tập của dân chúng. Vì thế đình đám chỉ có thể tổ chức được ở các làng quê. Mà không phải làng quê nào cũng có hội đâu. Hội hè rước xách còn phụ thuộc vào sự tích của các ông Thánh ở làng. Không phải làng nào cũng có ông Thánh, nên không thể cứ rước xách tùm lum được. Làng Nghĩa Đô quê tôi cùng lắm cũng chỉ làm được một đêm chèo.

- Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì bác sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An”?

- Hà Nội do dân tứ phương lập lên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Mà Tô Lịch chỉ còn là một phế tích. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam, rồi nghiên cứu cá tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. Dân Hà Nội là dân tứ chiếng. Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Bất cứ ai cũng có thể về làm Lãnh đạo Hà Nội. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.

- Bác đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...

- Đúng vậy. Chỉ bổ sung thêm mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.

- Xin bác nói rõ hơn được không?

- Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có 5 tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Yersin và tượng Pasteur. Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Tây. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tồi tàn, bẩn thỉu, hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì ông chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng. Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng, Bùi Thị Xuân, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng Trường mang tên Ba Đình. Thật buồn cười. Làm gì có cái đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là nơi có cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc Lập để ghi nhớ ngày 2/9/1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo, mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt.

- Thế còn việc phá bỏ tượng đài?

- Hà Nội cũ rất lắm tượng. Riêng tượng hoành tráng, tượng toàn thân đã có khoảng hơn chục cái. Còn tượng bán thân thì rất nhiều. Nhưng cũng đều là tượng Tây, hoặc tượng những người có công với Tây, được dựng nhân ngày kỷ niệm gì đó của Pháp. Như ở vườn hoa Inđira Ganđi bây giờ, trước đây có tượng toàn thân ông Toàn quyền Paul Bert. Rồi tượng Nữ thần Tự do. Cái tượng người đàn bà giơ cao ngọn đuốc dựng ở Hoa Kỳ, thành một danh thắng của Mỹ, do Pháp tặng ấy, trước đây đã có ở Hà Nội rồi. Dân mình gọi nôm na là tượng Bà đầm xòe. Cái tượng này thoạt đầu đặt trên nóc Tháp Rùa ở giữa hồ Hoàn Kiếm. Sau báo chí Pháp chửi ghê quá. Họ cho rằng cái tượng lớn như thế mà lại đặt chênh vênh trên bốn cái cọc sắt thì không được bề thế và chắc chắn. Thêm nữa để đàn bà trùm váy lên đền miếu là không tôn trọng phong tục tập quán của người bản xứ. Bức tượng được đưa về đặt ở vườn hoa Cửa Nam, gần chỗ bục Công an ở chợ Cửa Nam bây giờ. Còn một bức tượng hoành tráng rất đồ sộ nữa đặt ở vườn hoa Canh Nông, chính là khu vực bây giờ mình đặt tượng Lênin.

- Tôi nghĩ rằng, cụ Trần Văn Lai rất hiểu người Việt và người phương Đông nói chung. Dân mình không mặn mà lắm với tượng đài. Yêu ai, sùng kính ai thì họ lập chùa chiền đền miếu để thờ, rồi còn hương khói cúng tế. Không ai cắm hương dưới chân các bức tượng đá ngoài trời cả. Dân mình là dân có tín ngưỡng. Đình chùa, đền miếu mới chính là "tượng đài" của người Việt. Thần linh phải vô hình, phải âm âm u u thì mới thiêng. Thần linh mà phơi mặt ra giữa thanh thiên bạch nhật thì không còn là thần linh nữa. Còn những bức tượng đá ngoài trời là công trình văn hóa phương Tây, nó hợp với văn hoá tập quán và khí hậu phương Tây. Ở ta bão gió, mưa nắng đều rất dữ dằn, chưa kể chim muông nó đỗ lên, có việc gì mà nó không làm. Vì thế chỉ sau vài năm là tượng sứt sẹo, mốc thếch, trông rất nhem nhuốc. Các nhà quản lý văn hóa rất nên nghiên cứu kỹ tâm lý, quan niệm của dân ta và khí hậu cũng như các điều kiện khác của ta trước khi dựng tượng đài. Bỏ ra hàng trăm tỉ đồng dựng những bức tượng mà dân không đến thì có nên không? Thế còn vườn hoa Canh Nông. Thưa nhà văn Tô Hoài, tại sao lại gọi là vườn hoa Canh Nông?

- Cái tên ấy cũng do dân gọi mà thành. Đơn giản thôi, vì ở đấy có cái tượng rất lớn. Cái tượng này được dựng nhân dịp Pháp kỷ niệm cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Trên đỉnh là một thằng lính Tây và một lính Ta (lính ngụy) cùng chĩa súng bắn vào cột cờ Hà Nội. Dưới là bốn mặt Sĩ, Nông, Công, Thương. Sĩ là ông thầy đồ cắp cái tráp. Công là một anh kéo cái xe cút kít (loại xe một bánh). Thương là một mụ đàn bà te tái gánh đôi quang thúng. Còn Nông là anh thợ cày đang bước sau con trâu. Cái bụng trâu to đùng và anh nông dân đang cày chiềng ra phía đường, nên ai qua cũng thấy. Còn ba mặt Sĩ, Công, Thương chìm trong cây lá và ở phía sau nên nhiều người không biết. Người ta chỉ thấy ở đấy có anh nông dân đang cày nên gọi là vườn hoa Canh Nông. Đằng sau bức tượng là cái đình tám mái, trong có tấm bia đá ghi tên những người Việt có công với mẫu quốc. Cái bia ấy, ông Trần Văn Lai cũng đã cho đập đi. Giờ chỉ còn có mỗi cái đình và một cây đa, trên thân cây đa lại có cây dừa là dấu tích cũ còn lại. Ở Hà Nội có khoảng chục cây chồng lên nhau như thế.

- Bác bảo, Hà Nội về cơ bản vẫn như cũ. Ta chỉ có bổ sung thêm...

- Đúng vậy. Ngoại trừ vùng ngoại ô và những khu mở thêm. Những khu phố ấy rất hiện đại. Còn bên trong, những phố cũ vẫn vậy. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên. Ngay cả những phố cụ Trần Văn Lai đã đặt tên rồi ta cũng có thể điều chỉnh cho hợp lý. Phố Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám dài quá, có thể cắt ra được. Đã có phố Hoàng Hoa Thám rồi thì không nên có phố Yên Thế nữa, hay đã có phố Nguyễn Thái Học rồi thì còn thêm phố Yên Bái nữa làm gì.

Điều nhà văn Tô Hoài nói, không phải không có lý. Đặc biệt là việc xác định lại cho chính xác phố cổ để trùng tu, còn nhà cũ, phố cũ tồi tàn và xuống cấp quá thì để dân tôn tạo, sửa chữa, hay như việc chỉnh lại những dãy phố quá dài. Trong khi đó, phố Nam Cao lại chỉ có vài số nhà, sao gọi là phố được? Mấy khu phố Pháp vẫn để chờ từ thời Pháp kia, mấy năm gần đây cũng đã được đặt thành tên mới: Phố 334 thành phố Cảm Hội, phố 335 là Đống Mác, phố 325 là Thể Giao, phố 332 là Chùa Vua, phố 336 mang tên Lê Gia Định, phố 337 mang tên Đỗ Ngọc Du, phố 339 vẫn mang tên Yên Bái, phố 358 là Núi Trúc, phố 356 là Thanh Bảo. Đã đến lúc chúng ta cũng cần chỉnh lại cho hợp lý.

Ngắm Thủ Đô của chúng ta hôm nay, ta càng thấy nhớ Tô Hoài, một công dân Ưu tú của Thủ Đô. Đúng như lời ông nói, ta cần gìn giữ, tu tạo làm sao để có được một thành phố, một Thủ Đô văn hoá vừa đẹp, vừa hiện đại lại không làm mất đi những vẻ đẹp xưa cũ.

Theo VOV















Tô Hoài và thể hồi ký

 Vương Trí Nhàn

 

Những bước tung hoành
Cuốn hồi ký đầu tiên của Tô Hoài mang tên Cỏ dại ra đời năm ông mới ngoài hai mươi tuổi . Tự truyện , cuốn tiếp theo , in ra khi ông ở tuổi năm mươi . Nếu cuốn thứ nhất đã phát hiện ra khả năng của tác giả trong việc nắm bắt quá khứ ngay khi nó vừa hình thành cũng như khách quan hoá bản thân biến mình thành một đối tượng miêu tả thì cuốn thứ hai cho thấy ông sống kỹ lưỡng biết bao với đời sống quanh mình , từ chuyện riêng tư đến chuyện làm nghề , rồi chuyện hoạt động cách mạng ,cái gì cũng có thể đưa lên trang giấy để trở thành văn chương , sức chứa của đầu óc ông thật hơn người mà sự chi li tỉ mỉ thì lại ít ai bì kịp . Nên lưu ý thêm Tự truyện --- với mấy mảng chính Một chặng đường , Hải Phòng , Những người thợ cửi -- được viết ngay trong những năm chiến tranh , khi mọi người đang viết những Mặt trận trên cao , Họ đã sống và chiến đấu , Đường chúng ta đi , Dấu chân người lính ... Trong cái động có cái tĩnh , dường như trong kho văn chương của tác giả luôn có một góc riêng dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được ông quan niệm như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại .
Tuy nhiên , phải đến khi Cát bụi chân ai ( và tiếp đó Chiều chiều ) ra đời thì ngòi bút hồi ký của Tô Hoài mới thật có dịp tung hoành giữa những chuyện đã sống qua để rồi dựng lên ngồn ngộn một bức tranh hoành tráng . Còn nhớ hồi đó là cuối những năm tám mươi . Mọi người dường như đang phải mò mẫm tự xác định hướng đi của mình trong việc thích ứng với cái thời gọi là kinh tế thị trường . Tô Hoài cũng ở trong số đó . Mà -- mọi người tự hỏi --hình như ông lại là một trong những người đã ăn chịu quá sâu với cái thời bao cấp ấy nữa , ở tuổi bảy mươi liệu ông sẽ xoay sở ra sao hay sẽ chìm vào quá khứ . Lẳng lặng , Cát bụi chân ai được viết , để rồi gây ra nhiều ồn ào khi được trích đăng trên báo Tiền phong và in thành sách . Trong lòng bạn đọc và nhất là trong lòng đồng nghiệp , Tô Hoài như vừa tái sinh để trở lại với cái thời lẫy lừng uy tín . Điều thú vị là ở chỗ cuốn sách để Tô Hoài tự phát hiện lại này là một cuốn sách quay đầu về với cái cũ . Cái đời sống sắp tới chẳng có gì là lạ với tôi . Tôi đã có cái nhìn khác từ lâu rồi . Thời nào thì tôi vẫn cứ là tôi vậy. Có một quá khứ chưa ai biết của tôi bảo đảm cho điều đó ... Tô Hoài không nói hẳn ra song người ta đọc ra trong trang viết của ông những ý tưởng ấy . Cuốn sách kể lại chuyện cũ hoá ra lại là một lời tuyên bố về sự gia nhập của tác giả vào tương lai và như vậy thì mọi sự phân biệt hồi ký với cuộc đời hôm nay chỉ là một sự ước lệ .

Sự nối tiếp của một mạch sáng tác dồi dào
Với tất cả vẻ đa dạng vốn có nó làm nên sự khác nhau của những O chuột ,Quê người , Dế mèn phiêu lưu ký với Vợ chồng A Phủ, Miền Tây , Mười năm ,Quê nhà..., đóng góp của Tô Hoài trong văn xuôi Việt Nam hiện đại vẫn có một sự thống nhất . Nhà văn này không lôi cuốn chúng ta ở những mảng sống bạo liệt hay những nhân vật tầm vóc thổi bùng lên những biến động lớn lao . Mà ông ăn ở những nhận xét tự nhiên về những gì đã gặp , đã trải . Cuộc sống một làng nghèo , đời sống riêng của những người ngoại thành có khôn có dại có vui có buồn ,hoặc những người dân vùng cao chỉ vừa ra khỏi bóng tối âm u của cái xã hội do các loại thống lý phìa tạo cai quản .
Thì hồi ký của Tô Hoài cũng đi theo cái mạch đó . Ơ đây ngòi bút phong tục của tác giả lại có dịp làm việc một cách âm thầm nhưng mẫn cán . Không cần ra vẻ bao quát với tổng hợp gì cả , ông chỉ nhẩn nha ghi lại nhiều chuyện tưởng như riêng tư , ấy vậy mà người ở mãi đâu đâu đọc vào lại thấy có mình trong đó . Đọc lại Cỏ dại rồi lan man đọc sang cả những truyện ngắn truyện dài Tô Hoài viết cùng thời , người ta thấy giữa chúng không có sự phân cách , dường như tất cả những anh Thoại ,anh Quyền Vực ,thày giáo Câu , rồi cô Lụa ,cô Ngây.. kia là những hàng xóm của Tô Hoài , những con gà con ngan được tả trong O chuột là được nuôi trong nhà Tô Hoài , nghĩa là nếu không đưa chúng vào truyện dài truyện ngắn thì không biết chừng có lúc ông sẽ đưa chúng vào hồi ký . Một bộ phim truyền hình làm về Tô Hoài gần đây rất gợi ấn tượng trong cảnh Tô Hoài đi dọc bức tường ngôi nhà của ông ngoại tác giả . Cũ kỹ xù xì nhưng đằm chắc vững chãi, những bức tường như thế tượng trưng cho cái cuộc sống mà Tô Hoài vừa nương tựa vào vừa tìm cách thâm nhập để tìm thấy cảm hứng trong suốt đời viết .
Trong phần đầu Một chặng đường, Tô Hoài có đoạn tả kỹ cái cảnh mình lẽo đẽo đi dọc các chùa từ Trầm vào Trăm Gian vừa kiếm ăn vừa lấy thực tế để viết . Tôi nhớ ngay khi hồi ký mới in ra trên tạp chí Tác phẩm mới cuối năm 1971, đã có người ( không nhớ là Nguyễn Thành Long hay Nguyễn Khải )nhận xét đó là những đoạn rất hay , có điều nó có vẻ không ăn nhập với cả mạch văn và chưa chắc đã là cần cho cuốn hồi ký của một nhà văn nổi tiếng . Nhưng chính đọc Tô Hoài người ta lại không bao giờ quên nổi những mảng đời bơ vơ ấy . Trong Chiều chiều có đoạn tác giả kể lại một ông già với con chó tự bản thân nó đã hoàn chỉnh như một truyện ngắn . Những chi tiết đời thường ở đây là kết quả của một quá trình sống chăm chỉ biết điều không nống việc gì lên quá mức bình thường nhưng không bỏ qua những chi tiết có sức gợi sức liên tưởng . Bí quyết của việc viết văn là gì nếu không phải là biến những chuyện vốn chỉ thuộc về riêng tác giả thành chuyện của những bạn đọc khác nhau .
Tóm lại , đặc điểm thứ nhất của hồi ký Tô Hoài : sống đến đâu viết đến đấy . Thực tế không ở đâu xa , thực tế là ngay chính con người bản thân mình và chung quanh , băn khoăn mà làm gì ,cứ ghi cứ tả cho kỹ là được . Có lần Tô Hoài cho biết :
--- Một thời gian dài , cho tới sau Cách mạng tháng Tám , tôi vẫn theo đuổi một lý luận viển vông như thế này : Đời có gì gò vào truyện đâu người có ai cốt sống cho li kỳ đâu vậy thì viết truyện chẳng cần có truyện tả người càng nhạt càng hay . Tất cả chỉ dựa vào kỹ xảo dùng chữ (Một số kinh nghiệm viết văn của tôi ) .
Tác giả tự nhận đó là thứ lý luận viển vông , song không phải là trong đó không có một phần cái lý riêng : những cái tưởng như nhạt nhẽo mà tả ra được cũng là khó , và biết đâu ở cái chỗ không ai dám đi vào này , người có tài lại dựng nên cả một văn nghiệp .

Giới văn chương nhìn từ bên trong
Nếu như ngoài đời đã không ai tách rời được con người nhà văn với con người bình thường thì trong hồi ký càng là như vậy . Sự hình thành một đời văn bắt đầu sớm hơn rất nhiều so với thời điểm con người cầm bút cho in những trang viết đầu tiên , và có lẽ chính các nhà văn đã thấy rõ điều đó . Vì thế mà nhiều tác giả đã lấy đoạn đời thơ ấu mở đầu cho hồi ký của mình . Trong Đời viết văn của tôi ( Nguyễn Công Hoan ), phần viết gọi là Ảnh hưởng dành hẳn để kể về những ngày đi học khờ dại mà cũng lêu lổng của tác giả , những trang viết cũng hóm nghịch và đầy thú vị như những trang kể về nghề ở các phần sau . Còn Hồi ký ( Đặng Thai Mai ) thì gần như chưa nói gì về con đường tác giả đi sâu vào việc cầm bút cũng như giới trí thức mà tác giả là một thành viên ; ngược lại , lấp đầy mấy trăm trang sách ở đây là sự hình thành của một tính cách trong thuở ban đầu của nó , khi một nền văn hoá tàn lụi còn một nền văn hoá khác lại bắt đầu.
Tuy nhiên , cái mà người ta trông đợi ở một cuốn hồi ký vẫn là cái phần liên quan đến nghề nghiệp của tác giả trên cái nền chung của xã hội mà nghề đó có quan hệ . Có lẽ vì vậy mà trong khi một số cuốn từ điển tiếng Việt thông thường chỉ giải thích hồi ký là kể lại những sự việc đã chứng kiến thì có cuốn nói rõ hơn đây là “ thể văn thuật lại theo thứ tự thời gian những sự việc mà tác giả đã trải qua hoặc chứng kiến một phần nào trong mối liên hệ với thời đại “. ( Nguyễn Văn Đạm Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt ,1998 ) . Nói cụ thể là nếu trước mắt tôi là một nhà văn thì một cách rất tự nhiên khi đọc hồi ký , tôi muốn biết nhà văn ấy đã đến với nghề ra sao , ông ta gửi đăng bài vở ở báo nào đã có sách in ở những nhà xuất bản nào , từ đó quen biết những ai trong giới văn chương , những nhà văn đồng nghiệp đã để lại trong ông những ấn tượng như thế nào . Điều đó lại càng đặt ra với một nhà văn từng trải như Tô Hoài .
Khi mới in ra lần đầu , Cỏ dại chưa được gọi là hồi ký . Lúc cần trích dẫn các nhà nghiên cứu thường chua bên cạnh đầu đề hai chữ lửng lơ hồi ức , nó không hẳn là sự xác định thể loại của tác phẩm .
Đương thời , có một cuốn sách cũng có cách viết gần gũi với Cỏ dại và ra đời trước Cỏ dại ít lâu , đó là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng , thì tác phẩm này lại có khi ghi hẳn hoi là tiểu thuyết ,và điều đó có cái lý riêng của nó . Tại sao như vậy ?
Chẳng những từ trước đến nay không có mà từ nay về sau cũng không có một văn bản nào quy định thế nào là hồi ký và nhất là ai được viết ra nó song người ta vẫn hiểu ngầm với nhau nó là một thể loại hết sức cao quý một cái gì chỉ những nhân vật nổi tiếng trong xã hội mới có quyền viết .
Theo ý nghĩa này , Tự truyện in ra lần đầu 1973 mới được chờ đón như một hồi ký thực sự . Đúng hơn , nó đóng vai trò một nhân tố tổ chức toàn bộ mảng văn xuôi hồi ký của Tô Hoài nói chung , nhờ có nó , mấy thiên hồi ký viết về tuổi thơ của Tô Hoài có thêm lý do tồn tại . So với Cỏ dại , Mùa hạ đến mùa xuân đi , Những người thợ cửi thì mấy trăm trang Một chặng đường ( bộ phận nòng cốt của Tự truyện ) nổi hẳn lên ở phần Tô Hoài hoạt động cách mạng nhất là con người Tô Hoài trong văn chương . Đi vào hậu trường thì bao giờ chẳng vui , nhưng đây là cái vui riêng kiểu Tô Hoài . Đồng thời với việc háo hức làm nghề , ông nhận ra rất nhanh những sự nhếch nhác ở mình và các đồng nghiệp .Trong cái khu vực thiêng liêng này lẫn lộn bao nhiêu cái tầm thường . Nhiều nhân vật quen thuộc trong văn chương như ông Vũ Đình Long rồi Nguyễn Bính , Nam Cao , Nguyễn Huy Tưởng ,Trần Huyền Trân ... hiện ra gần gũi , với tất cả những mưu mẹo kiếm sống , những thành kiến cố chấp cùng nhữngluộm thuộm trong sinh hoạt nhưng lại thực sự là tài hoa là có đóng góp cho văn học . Đến Cát bụi chân ai thì lại càng rõ là Tô Hoài có cái mặt hàng riêng của mình . Trên cái nền chung của đời sống mấy chục năm vừa chiến tranh vừa hoà bình , bao nhiêu cuộc đi bao nhiêu đợt sinh hoạt đợt đấu tranh tư tưởng , hình ảnh một loạt người cầm bút một thời hiện lên với đủ mọi chuyện vui vầy có thê thảm có như những kiếp người xưa nay vẫn vậy .

Cuộc phiêu lưu thầm lặng
Hãy đối mặt với thời gian -- Như nó tìm kiếm chúng ta. Câu thơ đó của Shakespeare được Stefan Zweig dùng làm đề từ cho tập Thế giới hôm qua , nhưng có lẽ là đúng cho cả thể hồi ký nói chung . Nếu không sợ sái có thể bảo đây là thể văn nhiều người viết để chuẩn bị xuống mồ ( Chateaubriand còn gọi hồi ký của mình là Hồi ký từ bên kia thế giới ,viết xong ông đã mang bán nó cho một hội văn học với điều kiện chỉ được phép xuất bản sau khi ông mất) . Nghĩa tử là nghĩa tận , một cái nhìn về quá khứ thường khi được hiểu là đồng nghĩa với một sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật không lấp liếm không e ngại . “Tôi lật con bài của tôi “. Khi nói vậy ,Aragon chỉ diễn ra thành lời cái điều người khác ấp ủ . Riêng đối với tâm lý người Việt Nam thì đòi hỏi lại có phần hơi khác . Nghĩ tới việc viết hồi ký , nhiều người hiểu ngay rằng đấy là một dịp tổng kết đời mình , một dịp tính sổ . Có phải ai cũng có dịp đứng ra mà khái quát về mình đâu ? Nếu biết viết cho đàng hoàng để cho trang viết lên hết tầm vóc của con người mình thì tức là tạo được khuôn mặt riêng trước con mắt của hậu thế . Vậy đấy , trong khi sống và làm việc cho bạn đọc hôm nay thì nhiều người viết đã bắt đầu nghĩ tới việc dựng cho mình một tấm bia đá và tự cho mình cái quyền nói lên tiếng nói cuối cùng . (Chẳng phải ở Việt Nam mà ở nhiều nước vẫn có những nhà văn mắc bệnh tự mê . Với họ , khi viết tự truyện thì không phải chỉ quan tâm tới việc tái hiện quá khứ ...mà là “dựng lên dấu ấn muôn đời của bản thân vượt qua thời gian và ký ức cá nhân” --- dẫn theo Đặng Thị Hạnh Một vài gương mặt văn xuôi Pháp thế kỷ XX -- NXB Đà Nẵng 2000 ; các trích dẫn từ văn học phương Tây nói trong bài đều lấy từ sách này )
Nhưng có lẽ chính cái sự gán cho hồi ký một ý nghĩa quá lớn ấy đã khiến cho mọi người sinh ra ngại ngần , nhiều lần tính chuyện bắt tay viết lại đời mình rồi lại không bao giờ viết nổi .Về phần mình Tô Hoài nghĩ khác . Sẽ chẳng có gì là sai nếu bảo rằng được ông nói tới trong hồi ký này là những cây bút thuộc loại nhân vật chính của một thế kỷ văn chương và bối cảnh câu chuyện ở đây lại là những sự kiện lớn lao cũng tức là cả mảng tài liệu ngổn ngang mà những ai quan tâm đến lịch sử đều muốn biết . Thế nhưng như chính tác giả đã mấy lần gài sẵn “Có lẽ xưa nay văn nghệ văn nghẽo vẫn thế , bảo là cần thì cần lắm mà là thường thì cũng thường thôi “ ( Cát bụi chân ai) hoặc “ Công việc văn nghệ ngày rộng tháng dài có có không không cứ đều phảng phất hiu hiu” ( Chiều chiều ) , sở dĩ tôi viết vì tôi đã sống vơi những chuyện này cả một cuộc đời chứ thực tình mà nói đâu phải là chuyện ghê gớm gì .Cái ý tưởng “ viết hồi ký như vẫn viết văn xuôi “ đã hình thành từ hồi Cỏ dại hoá ra là một sự giải phóng khỏi mọi ràng buộc . Ông không đặt vào sách quá nhiều ý nghĩa như những người khác . Con người vốn không biết sợ là gì này đôi khi lấy ngay cả chính bản thân ra để đùa bỡn .Trong khi mọi người thích đưa ra tiếng nói cuối cùng về đời mình về đời những con người mà mình đã gặp trong đời thì ông chỉ cố nói những điều vừa nghĩ hôm nay đồng thời để ngỏ khả năng mai kia mình có thể nghĩ khác mà mọi người càng có thể nghĩ khác . Có cảm tưởng rằng viết hồi ký với tác giả đầy kinh nghiệm này giống như những bước dò dẫm trên chính quá khứ . Ngay trong trang viết , ông vẫn đang đi tìm . Trước mặt ông là một khối mù mờ , ông đi vào đó với tấm lòng rộng mở . Ngay cả quá khứ của mình cũng vậy , mà hình như càng là quá khứ của mình thì càng như vậy , ông phải mò mẫm , ông phải kiểm chứng , ông phải đuổi bắt . Biết chắc rằng những định kiến hôm qua vẫn chưa buông tha ngòi bút , ông không hề hứa rằng mình nói thực tất cả , ông chỉ cố gắng nói ra điều có thể nói .

Vẻ lung linh chờn vờn của sự thực
Một khía cạnh nữa tạo nên sự hấp dẫn của ngòi bút hồi ký Tô Hoài là ở quan niệm của ông về cái thực , một điều hết sức thiết cốt với hồi ký .
Những ai từng đọc Vợ chồng A Phủ hẳn nhớ một cảnh ở phần mở đầu khi cô Mỵ bị trói .Văn Tô Hoài giỏi tả những cái lửng lơ “Mỵ về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm .Từ năm nào không nhớ cũng không ai nhớ “. “Trong bóng tối , Mỵ đứng im như không biết mình đang bị trói “ . Rồi đến câu “ Buổi sáng âm sâm trong căn nhà nhỏ “ . Âm sâm là gì, nhiều người chỉ mang máng hiểu nhưng cái hồn của cảnh thì lại cảm ngay được và tin chắc rằng cảnh ấy thì phải dùng đến chữ ấy để tả . Cuộc đời hiện ra trong văn xuôi Tô Hoài nói chung của hồi ký Tô Hoài nói riêng thường mờ mờ ảo ảo , mà đến Cát bụi chân ai thì cái mờ mờ ấy đã trở thành một thứ khí hậu của tác phẩm . “Như người ốp đồng không biết đương còn tỉnh hay đã mê “ -- nói về Nguyên Hồng mà như tác giả đang nói về mình . Sự lan man vốn là một cái duyên của văn xuôi Tô Hoài . Song phải thấy sự lan man ấy có liên quan tới cái chất tập mờ của quá khứ và ở chỗ đó Tô Hoài tiếp cận với một quan niệm hiện đại về hiện thực .Chẳng hạn , nhân nói về cuốn tự truyện Vườn bách thảo của Claude Simon , một nhà phê bình Pháp sau khi bảo rằng hồi ký là để “ kể về một cuộc đời “ , ngay lập tức nói thêm rằng “ vốn dĩ cuộc đời đã không bao giờ là một quỹ đạo thẳng tắp có định hướng đều đặn mà là một mớ bòng bong những mẩu đất và những mảnh vụn luôn luôn được trí nhớ tổ chức lại và biến đổi đi “ . Một cách tự nhiên ,Tô Hoài đi gần tới những quan niệm như vậy mà không hay biết .
Trước khi có cuốn Chiều chiều, từ hơn năm chục năm trước , khi đang viết những truyện ngắn đầu tay , Tô Hoài đã mấy lần lấy cảnh chiều hôm để hình dung ra cuộc đời , những là Hết một buổi chiều lại đến Buổi chiều ở trong nhà . Tới Cát bụi chân ai , cái khoảng thời gian nhá nhem chạng vạng này còn trở lại nhiều lần . Những buổi gặp nhau ở cửa hàng cà phê bít tết dốc Hàng Kèn thường bao giờ cũng là vào lúc thành phố lên đèn . Cho đến những dịp ghé vào quán Tiểu Lạc Viên hay các hàng quán trên mạn Hàng Buồm thì thường cũng là sau một ngày dài họp hành mệt nhọc ( lúc này đang trong đợt học tập ở Âp Thái Hà ). Cảnh trời mưa và bóng tối ở đây vốn tiện cho người ta nghĩ ngợi . Có dễ so với những cái sáng tỏ ban ngày thì cái mờ mờ ấy của cuộc sống ban đêm lại thuận tiện hơn cho sự suy nghĩ , trước tiên là làm cho những mảng ký ức sắc nét rõ ràng hơn mà tâm tình trở nên bao la và sâu rộng hơn . Cũng như Nguyễn Tuân , Tô Hoài là người hay hồi tưởng . Hồi tưởng thế nào ? Có lần từ người đàn bà mặt buồn rười rượi trong cửa hàng cà phê Ca, Tô Hoài thấy hao hao như là người con gái ngày xưa ở nhà gác dốc Cổ Ngư mà sáng nào cũng đi học qua . Nhưng ông chỉ dừng lại ở đó . “Không hỏi có phải trước kia nhà bà ở đầu ô Yên Phụ , tôi lặng im cho mình được đinh ninh” . Một lần khác đến nhà bà Lâm bán bánh cuốn . Tiếp ngay cái câu “ Chúng tôi đến ,một tối ở dưới ấp về “, là câu “Lại mưa , mưa tầm tã ướt lướt thướt ánh đèn đường nhoè nhoẹt trời mưa , hay là ta cứ nghĩ ra như thế “ . ( VTN gạch dưới ) . Đúng là một ví dụ về sự phân thân trong con người nhà văn ngay trong lúc viết : Tôi nhớ rằng trong thực tế có chuyện như thế , nhưng cũng không có gì bảo đảm là tôi nhớ chính xác, chẳng qua nó có vẻ nghe được nên không muốn làm phiền mình thêm , thôi xin cứ ghi vào đây . Bởi suy cho cùng ai dám bảo là mình nắm được sự thực ? Mà , ơ hay , làm gì có sự tách biệt rạch ròi giữa cái mà người ta coi là sự thực với những điều tưởng tượng ? Ở một đoạn giữa chương II hồi ký Cát bụi chân ai, Tô Hoài kể lại một câu chuyện thuộc loại bếp núc nghề nghiệp .”Nửa đêm giữa rừng trên cao con suối mơ hồ đưa lại tiếng suối thở dài từ phía Bắc Mê. Chúng tôi ngồi trước đám củi sưởi . Nguyễn Tuân nói : Tớ tức cảnh được hai câu ca dao đem về tặng thằng Nguyên Hồng , thế này nhé Non xanh gõ hòn đá xanh Nửa năm nghe tiếng mõ canh Cổng Giời .Trở về tôi viết Pài Lùng cái ký theo thể kịch đăng báo Văn nghệ đặt hai câu ấy lên đầu bài . Chú thích nghịch ngợm : Ca dao cũ vùng Bắc Mê . Cho nhớ và như Nguyễn Tuân bảo có dùng thì nên như thế “ . Người thích rành mạch hai với hai là bốn hẳn thắc mắc thế ra các bố bịa ra cả ca dao à ? Đúng là bịa thật nhưng có sao đâu , ca dao nào chẳng do bịa mà có , cốt cuối cùng nghe có vẻ ca dao là được . Đấy cái thực trong hồi ký nó cũng tương tự . So với những cuốn hồi ký như một mê cung , hồi ký mà lại khoác áo phản hồi ký , thậm chí “ hoang đường và đầy khiếm khuyết “ của văn học phương Tây hiện đại thì những Một chặng đường, Cát bụi chân ai ,Chiều chiều còn thực chán , nhưng đó không còn là cái thực mà nhiều người vẫn nghĩ .
Nên chú ý một điều là mấy cuốn hồi ký của Tô Hoài ( kể cả những cuốn gần đây ) , trong bản in lần đầu tác giả không ghi rõ thể loại mà bỏ lửng và chỉ về sau các nhà biên tập các nhà báo và nhà nghiên cứu văn học mới bảo nó là hồi ký . Đây không phải là một chuyện sơ ý .Ông muốn để ngỏ mọi chuyện . Nếu nhiều cuốn sách được gọi là tiểu thuyết của ông cũng là hồi ký thì các hồi ký thực sự mà ông đã viết pha phách cả những tưởng tượng có gì là lạ . Hình như Tô Hoài muốn nói “ Viết về đời tôi ư ? Thì bao giờ tôi chẳng lấy đời tôi ra để viết . Lại như bảo đây là chuyện có thực ư ? Vâng thực cả , nhưng chữ thực kia cũng có năm bảy đường mỗi người có một sự thực của riêng mình mà cả những mơ hồ ảo tưởng của người ta rút cuộc rồi cũng thực nốt “.
Về mặt nghệ thuật mà xét ,lối viết lửng lơ cũng mang lại những hiệu quả . Có nhiều người viết cậy tài trong việc nắm bắt thực tế , nhất là đối với những gì mình đã sống qua thì người ta càng tin chắc như đinh đóng cột . Sống trên đời mà quá tự tin nhiều khi đã gây ra cái mà ta hay gọi là chủ quan ,chỉ biết có mình , rất khó chịu . Đến khi cầm bút , cái sự chủ quan này còn có thêm một tác hại nữa là đẻ ra tình trạng áp đặt thuyết lý .Trong khi khả năng bao quát đời sống không là bao , độ rộng của hiểu biết và khả năng hình dung ra một hiện thực có thể có tức sự tưởng tượng đích thực ở mức tầm thường ( kết quả của một sự ù lì kém cỏi cả trong quan sát trực tiếp lẫn khả năng làm giàu mình qua sách vở ) thì ngòi bút chủ quan lại quay ra rao giảng và trình bày nó với mọi người . Sự viết lúc này chỉ là áp đặt cho bạn đọc cái vốn nông cạn sẵn có . Quá trình lao động mà mọi người vẫn quen gọi là sáng tạo bị đơn giản hoá . Nó không giúp cho kẻ cầm bút tự làm giàu thêm ngay trong công việc ( ở đây là viết hồi ký) . Còn cách nghĩ cách viết như của Tô Hoài mang trong nó một tiềm năng lớn. Thực hiện đến đâu còn là do bản lĩnh từng người song nhìn chung nó giống như một sự giải phóng .

Một sự phân thân : trong người có mình
Vậy là sau khi đã có vẻ làm như mọi người rồi thì cách làm của Tô Hoài vẫn cứ có chỗ khác ,và phải nói là khác khá xa , nó khiến cho hồi ký Tô Hoài có một ý vị riêng . Điều này không chỉ đúng với những chi tiết được mang vào tác phẩm mà còn đúng với cách vận dụng thể loại .Tức là trong nghề hồi ký , Cát bụi chân ai là cả một thể nghiệm tưởng ngẫu nhiên mà rất hợp quy luật . Lâu nay cả làng cả xóm nghĩa là cả giới cầm bút Hà Nội đều biết rằng trong đời sống văn học Nguyễn Tuân và Tô Hoài là hai tính cách hai kiểu nhà văn khác nhau . Cái tài của tác giả trong Cát bụi chân ai là tìm được cách viết nhờ đó ngòi bút ông tha hồ tung tảy đụng đâu cũng ra văn . Ông chiếm lĩnh đối tượng , ông tiêu hoá cái kinh nghiệm già nửa đời người cùng sống với cụ Nguyễn trong giới văn nghệ một cách ngon lành , khiến cho người ta cảm thấy rằng đã là Tô Hoài thì phải viết về Nguyễn Tuân , và phải viết như vậy thì mới ra Nguyễn Tuân của Tô Hoài . Tôi kém Nguyễn Tuân mười tuổi . Trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân . Cái câu mở đầu này gợi nhớ câu thơ dịch La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh Ve sầu kêu ve ve , một kiểu có sao nói vậy , hơn nữa có một chút gì như là dùi đục chấm mắm cáy . Sau này rải rác mỗi đoạn một tí ,Tô Hoài còn nhiều lần kỹ càng kể rằng Nguyễn Tuân chê bai mình ra sao , Nguyễn Tuân bảo rằng mình khó chơi, mình không tin được như thế nào .Thế nhưng phải xem đấy là một ngón nghề mà chỉ ai người cao tay trong nghề mới dám vận dụng . Suốt tập hồi ký , Tô Hoài đã chứng minh đầy sức thuyết phục rằng tất cả những Xuân Diệu , Nguyễn Bính , Nguyên Hồng .... và trước tiên Nguyễn Tuân , cái nhân vật Nguyễn kỳ cục ấy , là một phần của cuộc đời ông . Sống ở Yên Dã Đại Từ và đi chiến dịch . Trở về Hà Nội tháng 10/1954 . Lê la qua những quán hàng Hà Nội . Trở lại rừng núi Tây Bắc . Tham gia hỏi cung đám giặc lái Mỹ và đón những cái tết nửa chiến tranh nửa hoà bình ... Trước mọi sự việc , mỗi người có cách phản ứng riêng của mình , người nọ làm nền cho người kia để trong sự so sánh mỗi người lại hiện ra sắc nét hơn .Chẵng những thế khi miêu tả những người khác ấy , Tô Hoài dường như còn muốn nói rằng thật ra những cách nói năng cư xử kia không có gì lạ , mình hoàn toàn cũng có thể nghĩ và làm như vậy . Mọi con đường đi đến bản thân đều đi qua kẻ khác – cái nhận xét đúng cho nhiều tập hồi ký đó lại vừa vặn đúng cho Tô Hoài trong Cát bụi chân ai ,và cái điều nhắn gửi cuối cùng của nhà văn là cái chân lý song đôi , chúng ta mỗi người mỗi tính không ai giống ai mà đồng thời chúng ta lại lồng ghép lên nhau quyến quyện với nhau , hoặc nói như danh từ vật lý ánh xạ vào nhau , tôi có viết hồi ký cho riêng tôi đâu tôi viết cho cả những người sơ thân đã cùng tôi chia sẻ cái cuộc đời lạ lùng này.

Hình ảnh còn lại của một đời văn
So với nhiều nhà văn khác kể cả các cây bút cùng thời với mình ,Tô Hoài nổi lên ở sự viết nhiều viết khoẻ . Ở đây có yếu tố tự nhiên nó là một thứ của trời cho riêng ông (người ta hay nói một thứ bản năng ) , dường như tác giả không cần cố gắng bao nhiêu mà văn chương vẫn cứ miên man không bao giờ hết . Song cần nói thêm trong số nguyên nhân có thể cắt nghĩa sự viết mãi được như thế này có cái nguyên nhân mà một nhà nghiên cứu là Đặng Tiến sau khi đọc Chiều chiều đã nhận xét “ Nói chung , kể cả những truyện hư cấu truyện lịch sử Tô Hoài viết cái gì thì cũng ra tự truyện “ . Tức là viết gì thì Tô Hoài cũng kéo nó gần với mình đặt nó dưới góc nhìn riêng và tiêu hoá nó ,biến nó thành của mình .
Về việc Tô Hoài là người giỏi quan sát thì xưa nay ai cũng đã thấy . Song một số người dừng lại ở đó mà bảo rằng ông nhà văn này hơi thiếu tâm sự , thiếu những điểu ký thác và nâng lên một mức nữa tức là thiếu tư tưởng nghệ thuật . Tô Hoài cũng có lỗi trong chuyện này : Hoặc do quen tay giỏi thích ứng hoặc do mải làm hàng , trong văn ông không khỏi có nhiều trang nhiều đoạn mang tính cách độn , đắp thêm vào , nói lấy được . Thế nhưng nhìn toàn bộ những gì ông đã viết , nhất là đến với mảng văn xuôi đòi hỏi sự xuất hiện trực tiếp của nhà văn là thể hồi ký , thì người ta phải nói ngược lại . Ông có thế giới riêng của mình . Và bàng bạc trên những trang viết là một cách cảm riêng về cuộc đời một niềm tâm sự đau đáu . Hãy nhìn vào một trường hợp như Chiều chiều . Mấy chương đầu đã giỏi trong kể chuyện và miêu tả song phải đến chương cuối kia thì cái triết lý ẩn giấu ở trên mới hiện ra như một ám ảnh và nhiều chi tiết vui vui ở trên tự nhiên hiện ra dưới một ánh sáng lung linh khác hẳn . Hoá ra cuộc đời là vậy , bảo nó có bao nhiêu ý nghĩa thì cũng đúng , mà bảo rằng nó vẩn vơ bèo bọt thì cũng đúng , từ chuyện trên giời dưới bể chuyện bên tây bên tàu đã thế , mà chuyện của một ông lão nhà quê chẳng ra khỏi làng thì cũng là thế . Chẳng phải là trong Cát bụi chân ai ,nhiều chỗ tác giả không muốn giấu mình nữa mà đứng bật dậy phát biểu về sự đời . “ÔI thôi não nùng trần ai “. “Đầu tôi nặng trĩu mưa gió ..”.Đây nữa một câu nằm nhũn nhặn trong Những người thợ cửi “ Ơ sao những chuyện buồn khổ đời người lại hay xảy ra vào lúc chiều chiều như thế này “ . Đời đẹp và buồn , tôi nhớ tới điều tâm sự Tô Hoài nói với tôi trong một buổi tối mùa đông sau khi ngồi với nhau một lúc từ nhà chị Ngọc Trai chúng tôi cùng đi bộ trên đường Hà Nội , Tô Hoài thì rẽ qua Nguyễn Vinh Phúc còn tôi về nhà ở ngõ LêVăn Hưu . Nói gọn lại là đời đẹp và buồn thì cố nhiên nhiều người đã có ý ấy rồi , song ở đây Tô Hoài đã sống cái cảm giác ấy một cách thấm thía và ông biết truyền nó sang người đọc theo cái cách riêng của mình . Và ở chỗ này , nhà văn tưởng chỉ dán mắt nhìn vào các mảnh đời lụn vụn thực ra đã vươn tới cái điều mà các tác giả lớn xưa nay vẫn khái quát .
Một người tự định cho mình nhiệm vụ phải vẽ được thế giới . Suốt nhiều năm dài , ông ta chất đầy chặt không gian những hình ảnh phố phường ,xứ sở ,nhà cửa vật dụng tinh tú và người . Ít lâu trước khi chết ông khám phá ra rằng cái mê cung kiên nhẫn của các đường nét đó vạc nên gương mặt của chính mình.
Nói cách khác :
Một nhà văn tưởng có thể nói được rất nhiều điều ,nhưng cái ông ta để lại được nếu gặp may chỉ là một hình ảnh của chính mình .
Những nhận xét ấy là của H.L.Borges và M.Yourcenar , các nhà văn ở những phương trời xa lạ , nhưng cũng đúng với Tô Hoài . Ông lại như vừa tìm thấy mình trong những năm tuổi già . Dường như cả cuộc đời từng trải đã chuẩn bị cho những trang viết hôm nay của ông . Hồi ký là nơi cả con người tác giả cùng cái triết lý mà ông mơ hồ cảm thấy và đã theo đuổi suốt đời , cả hai có dịp bộc lộ đầy đủ nhất .































Vợ chồng nhà văn Tô Hoài (bà Nguyễn Thị Cúc)


















 
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.