Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

Phạm Quốc Bảo











Phạm Quốc Bảo

(1943 - ......) Vĩnh Phúc Yên, Bắc phần.

Nguyên quán Nam Định
Nhà văn, nhà báo
Nguyên Tổng giám đốc báo Người Việt tại Quận Cam, California











Tiểu sử tóm tắt

-1954 từ Hà Nội di cư vào Nam
-1967: tốt nghiệp ban Triết, Văn khoa Sàigòn.
- 1966-1967: Chủ nhiệm kiêm Chủ bút nguyệt san ĐỐI THOẠI.
- 1982 - hiện nay: trong ban Chủ biên nhật báo Người Việt...

- 1997: Thỉnh giảng cho các lớp SSEAL 50C & 51C, UCLA; đề tài: “ Cutural Activities Prevailing in Vietnamese-American Communities in Western USA: A Cursory Look ”
- 1999: Diễn giả trong The First International Vietnamese Youth Conference, Melbourne, Australia.
- 2000- 2014: Giảng viên các khóa hằng năm của TAVIET-LCS ( The Association of Vietnamese Language & Culture School of Southern California)
- 2005: Diễn giả của The 4th. International Vietnamese Youth Conference tại Sydney, Australia. Đề tài: “Ý niệm Dân chủ trong tư tưởng Phan Chu Trinh”...












Cảm ơn anh Phan Nguyên, một nghệ thuật mới, lý thú
Little Saigon June 19/2017













Phạm Quốc Bảo lúc trẻ








Bài viết mới nhất










Thơ Trịnh Công Sơn & Bùi Giáng
Vui vầy thế sự.
* Phạm Quốc Bảo. 

“Kìa xem mọi thứ đều thay đổi
Còn lại nhân gian một chút tình”

Hôm nọ, sẵn dịp sọan từ 8 tủ sách trong nhà để lựa ra một số dự định sẽ tặng lại cho thư viện của Viện Việt Học hay thư viện của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (VHM our pride), tôi tình cờ nhìn thấy cuốn CHỚP BIỂN, Thơ Bùi Giáng, gia đình ông đã in vào năm 1996 để kỷ niệm 70 năm sinh của tác giả này và do anh Bùi Vịnh tặng cho tôi. Ngay ở trang mở đầu đã đề:

“Em đi từ tỉnh mộng đầu
Một mình anh ở mang sầu trăm năm”
Hai câu thơ này của Bùi Giáng chợt khiến tôi liên tưởng nhớ ra quãng đời mà ông đưa vợ con vào sống ở vùng núi đồi hẻo lánh Trung Phước (Quảng Nam), rồi vợ con của ông mất tại đấy và ông đã bỏ về xuôi[1] … Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng một nỗi bi thiết bung ra lan tràn và trùm lấp không gian, khiến tôi cảm thấy khó thở, tôi tần ngần bỏ tập thơ xuống, không còn muốn đọc tiếp nữa ... 
Nhưng cũng ngay sau đó, lẩn thẩn thế nào tôi lại tình cờ thấy tập thơ HÁN TỰ HÀI CÚ[2] được xếp sẵn cạnh đấy trong tủ sách. Mở ra, tôi mới từ từ nhớ lại rằng tập thơ này có một quá trình thực hiện khá là ly kỳ: Ban đầu Hán Tự Hài Cú do ba nhân vật viết chung là Bùi Giáng - Trịnh Công Sơn và Ngô Văn Tao, được xuất bản vào năm 1994. Sau đấy bốn năm, Bùi Giáng mất (1926 – 7.10.1998); và rồi Trịnh Công Sơn cũng rời khỏi cõi đời (28. 2. 1939 - 1.4. 2001), còn Ngô Văn Tao côi cút một mình ở lại, ông liền cho in lại lần nữa cuốn này vào giữa năm 2001, để “duy trì một nguồn thơ và tiếc thương tình bạn”, Ngô Văn Tao viết vậy. 
Tôi có được cuốn này là do ông Ngô Văn Tao tặng, đề mùng 6 tháng 1 năm 2004. Hồi ấy, cách đây trên 14 năm, tôi không đồng ý lắm ở cái tựa đề Hán Tự Hài Cú [3]. Tuy nhiên khi đọc vào sâu thì tâm tư tôi lại miên man cảm nhận đến từng suy tư lẫn tư tưởng của ba tác giả này. Tự nhiên tôi thấy xúc động ở cái mối thâm tình mà ba người bạn này đã thể hiện qua thơ văn trao đổi qua lại giữa họ. Rồi sẵn hứng, tôi đã liền viết ra một số câu thơ chêm vào đấy. Bởi lúc ấy tôi nghĩ, đây là một cách thế nhằm chia xẻ mấy lời lẽ chung vui cùng những nhân vật mà tôi đã từng được quen biết, dù mỗi cá nhân một cách thế sống khác hẳn nhau nhưng đã cùng trải qua một thời gian gặp gỡ nhau tại Miền Nam Việt Nam trước Bẩy Lăm …

Bằng hữu hiện diện trong đời sống.
Cuốn Hán Tự Hài Cú này độc đáo ở chỗ là một tập thơ chung của ba người, khiến tâm tình tôi bung mở ra một không khí sống động vốn đã từng bao trùm rất nhiều những dấu chỉ về tình bằng hữu trong thơ văn và đời sống của lịch sử con người. Tôi chỉ xin liệt kê ra đây bốn dấu mốc đáng kể mà tôi còn nhớ được:


Đầu tiên là Khổng Tử ( 551- 478 trước Tây Lịch) có nói: “Học hỏi mà thường xuyên thực tập trong đời sống hằng ngày, há chẳng vui thích trong lòng sao? Bạn hữu từ phương xa đến chơi, há chẳng vui vầy hào hứng lắm sao?..” [4]
Cái thâm tình bằng hữu ấy khi chuyển sang đến nhân vật Lý Bạch (701-762) thì quả là đã trở thành một trong vài tố chất cấu tạo thành con người của nhà thơ độc đáo này: Từ bài Nguyệt Hạ Độc Chước( Dưới trăng chuốc rượu một mình), ông nhân cách hóa vầng trăng thành bạn mình, tới giai thọai đang say rượu ông nhìn thấy ánh trăng lung linh trên mặt nước mà tưởng rằng đấy là người bằng xương bằng thịt nên ông nhẩy xuống ôm lấy vầng trăng, khiến phải chết chìm... Tuy nhiên đến bài Ức Đông Sơn, Lý Bạch mô tả rằng Đông Sơn là quê nhà của nhà thơ, ông đã rời nơi ấy lên kinh đô trên đường lăn lộn tiến thân, kiếm tìm danh lợi, ông đã trôi nổi giữa chốn phồn hoa, vui vầy với không biết bao nhiêu bạn hữu đủ mọi hạng ngừơi, để rồi đến một hôm bắt đầu hả cơn mê đắm lợi danh, ông chợt nhớ về miền quê cũ kia mà man mác tự vấn lòng mình, chua xót nhớ đến cảnh cũ người xưa mà tự hỏi về cội hoa tường vi, vầng mây trắng lẫn mảnh trăng sáng thuở ấy bây giờ có còn như ngày trước hay chăng:


“ Bất hướng Đông Sơn cửu
Từơng vi kỷ độ hoa
Bạch vân hòan tự tán
Minh nguyệt lạc thùy gia?”

“ Lâu rồi chẳng lại Đông Sơn
Tường vi nọ mấy lần đơm hoa rồi?
Mây trắng vẫn tạn mạn trôi?
Và vầng trăng tỏ rụng rơi nhà nào?”

Sang đến Việt Nam ta, riềng mối bằng hữu với văn chương cũng thâm thúy như vậy, nhưng ít đi cách thức phải nhân cách hóa thiên nhiên-vũ trụ-vạn vật mà đậm chất nhân bản, thâm tình của người với người hơn.Có thể nói rằng tình bằng hữu trong văn chương Việt Nam đặc sắc ở chỗ giao tình thâm trọng trong đời sống hơn bất cứ một văn thơ của dân tộc nào khác. 
Chẳng thế mà một Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (19.05.1889 – 07.06.1939), chỉ riêng nhà thơ này thôi là đã thể hiện khá độc đáo đối với bằng hữu của ông: Từ các giai thọai như ông quí bạn đến độ “ngông”, ông đã ngang nhiên trồng luôn cây húng ngay bên cạnh bàn nhậu cho tiện bè bạn dùng làm gia vị để cùng ăn uống vui vầy với nhau! Rồi theo ông tuyển chọn, 4 điều kiện ăn ngon thì bạn hữu cùng ngồi ăn với nhau là điều thứ nhì, chỉ sau điều kiện chính là thức ăn ngon mà thôi!...Đến ngay trong những tác phẩm nổi danh, ông đã có hẳn một bài “ Thư gửi người tình không quen biết”[5], mở đầu bằng bốn câu theo thể thơ 7 chữ (thất ngôn):

“Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết bức thư này gửi đến ai
Non nước xa khơi tình bỡ ngỡ
Ai tri âm đó? nhận mà coi …” 

Theo trí nhớ của cá nhân tôi thì trong lịch sử văn chương của thế giới chưa chắc đã có được bao nhiêu tác giả viết ra mấy bài thơ có nội dung như vậy!
Xa hơn nữa trong văn học sử Việt Nam, Nguyễn Du( 03.01.1765 - 16.09. 1820) kia, nổi danh bậc nhất là tác phẩm Truyện Kiều. Thế mà đến nay người ta đã tìm thấy được cả tới năm sáu nguyên bản tác phẩm này khác nhau bằng chữ Nôm. Sự kiện này còn đang được sôi nổi thảo luận, nhưng điểm cốt lõi mà ai ai trong chúng ta đều công nhận sự thật này chứng tỏ rằng Nguyễn Du bao giờ cũng vẫn là tác giả chính của tác phẩm Truyện Kiều, nhưng bên cạnh đấy đương nhiên không thể phủ nhận được là đã có những đóng góp tích cực nhằm hòan thiện tác phẩm ấy theo truyền thống “văn dĩ tải đạo”của cả một nhóm bằng hữu văn chương cùng thời với ông, trong ấy ắt phải kể luôn cả những người đã chính tay khắc bản văn lưu trữ lại nữa chứ!...
Mới đây nhất,: Đinh Cường( họa sĩ, 1939 - 2016)), Nguyễn Tường Giang (nhà thơ), Nguyễn Mạnh Hùng(dịch giả) và Đinh Trường Chinh(họa sĩ), họ cùng hiện diện cạnh nhau với những tác phẩm tiêu biểu cùng in trong một cuốn sách có tên là Truyện Tình, Người Việt Books xuất bản đầu năm 2018. Truyện Tình đã biến thành một cái cớ để bạn hữu vui thú với nhau được cụ thể hóa thành tác phẩm lưu lại đây cho chúng ta được thưởng thức.
Riêng tuyển tập có tên là “Những Mảng Rời Lê Tài Điển”, được nhà xuất bản Biển Khơi (Pháp) in và phát hành từ tháng Bẩy năm 2012 nhưng nhờ có duyên mà chỉ đến tay tôi vào 30 tháng Chín – 2018, tuyển tập này theo tôi mới là bằng chứng thật là tiêu biểu cho tình bằng hữu độc đáo của giới văn nghệ Việt: Nội dung cuốn này không những gồm một số bản chụp các tác phẩm điêu khắc và tranh ở thời điểm trên dưới nửa thế kỷ của Lê Tài Điển mà còn hiện diện những bài của 18 tác giả viết về ông; và hơn nữa, tuyển tập này cũng do ông cùng tất cả đến 33 bằng hữu ( nghĩa là cộng thêm15 cá nhân khác nữa đã tích cực đóng góp tinh thần, kỹ thuật và tài chánh) hoàn tất việc thực hiện in ấn – xuất bản. “…Món quà này là chân dung một người bạn, cũng là chân dung của tình bạn, của cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi mong muốn chia sẻ chân dung ấy với các bạn khác và độc giả cùng thời cũng như của tương lai…”[6]

Vui vầy thế sự
Do đấy, tôi chủ động tạm cho in ra đây 11 đọan thơ, mỗi đọan gồm ba phần, phần đầu vốn của Ngô Văn Tao, phần thứ nhì là thơ đối ứng của Bùi Giáng hay của Trịnh Công Sơn. Tất cả được trích từ cuốn “Hán tự hài cú” kể trên; và cuối cùng là mấy lời ngẫu hứng của cá nhân tôi( in chữ nghiêng) góp thêm vào:


1.
Khứ tình, nhân ly biệt
Nguyệt trung hàn quá hệ thu phong
Hồi cố mang mang lệ.

Trăng xanh lạnh buốt nơi này 
tình tan giọt lệ bồi hồi chia tay 
Trịnh Công Sơn(trang 151) 

Tình xa, người đã xa người
lệ ai vẫn buốt lạnh ngời trăng thu.


2.
Phong lạc Hương giang tự
Vi ba lô tước khiếu Xuân Thu
Hưng vong sầu tế vũ.

Chim kêu lạnh bến sông dài
Mưa thưa nhỏ lệ đền đài thịnh suy. 
Trịnh Công Sơn(tr. 152) 

Gió nào lạc bến Hương giang 
mưa sầu như khóc hưng vong thuở nào.


3.
Tiêu, Tương song bỉ ngạn
Ngư phù xích tố ký mai hoa
Kỷ thời tư hận thế.

Cá về gửi gấm mùa xuân
Lòng riêng hoạn nạn ngàn năm nỗi buồn. 
Bùi Giáng(tr. 149) 

Ngàn năm chia cách đôi bờ
riêng hoa mai nở chẳng ngờ hận xưa.


4.
Khai hoa ca yến lạc
trầm tư vọng tưởng vị lai thời
Hoa tàn yến phi lệ.

Chim vui hót, bỗng dưng sầu
Hoa kia thắm nụ thoáng mầu tàn phai.
Ngày mai vọng tưởng làm chi
Sẽ tàn sẽ mất còn gì nữa đâu.
Trịnh Công Sơn(tr. 14)

Giữa tiệc oanh mừng hoa nở.
Nghĩ lúc hoa tàn, lệ ứa đẫm khăn.


5.
Lộ biên hoa vị khai
Thiên thu nhất niệm vi hàm tiếu
Tiểu nữ tự nhiên nhiên 

Bên đường hoa nở chưa ra
Ngàn năm chỉ một sát na vì người
Hoàng mao gái nhỏ nụ cười
Thiên nhiên hàm tiếu vì người vì ta.
Bùi Giáng.(tr. 13)

Bên đường hoa chưa vội nở
như ngàn năm nàng chưa mở nụ cười
Tự nhiên hoa cũng như người.


6.
Thiên biên cô phi hạc
Ðái tự thiên thu thế hận thường
Kim dực mãn nguyệt quang.

Bên trời hạc lẻ loi bay
Thiên thu hận ấy mờ phai cõi người
Cánh vàng nặng ánh trăng soi.
Trịnh Công Sơn.(trang 10)

a/
Bên trời hạc lẻ đường bay
Ngàn năm cánh hận vàng đầy ánh trăng. 

b/ 
Bóng 
Mênh mang cánh hạc bên trời
ngàn năm sân hận chỉ ngời cõi không
cánh vàng rực ánh trăng xuông.


7.
Mỹ Quan Nhân sinh ý
Trầm tư tịch mạc quán từ bi
Vọng tầm tam cú kệ.

Từ bi tịch mạc trầm tư
Vọng tầm câu kệ quán từ nhân sinh.
Bùi Giáng.(tr. 09)

a/
Ðời người từng trải từ bi.
Tầm chương trích cú chẳng bì an nhiên.

b/
Trầm tư khơi lóng tâm trong
còn lo kinh kệ truy tầm làm chi
đời người đắc ý đúng thì.


8.
Ðồng tuyến vô tâm điểm
Khứ thời kim nhật dữ vị lai
Vô thủy lưu vong nghiệp.

Còn, không, vấn nạn nỗi buồn
Nỗi xưa, sau, cũng bàng hoàng lưu vong.
Trịnh Công Sơn.(tr. 11)

An nhiên sống suốt một đời
lòng trong sau trước trọn soi nghiệp phiền.


9.
Thanh lâu ngã kim giả
Ðương nhiên túy tận vong thời thế
Lai hồi ngã tự vong.

Có ta rồi sẽ quên ta
Ruợu lầu xanh uống bỗng xa chuyện đời.
Trịnh Công Sơn.(tr. 15)

Một lần chuốc ruợu lầu xanh
say quên thế sự, quên mình quên ta.


10.
Viên biên hoang lộ đích
Khứ niên lạc diệp ẩn tàng tích
Mai táng cựu nhân tình.

Chôn vùi một mối tình xưa
Lá im lìm ngủ vườn thưa dấu người.
Trịnh Công Sơn.(tr. 17)

Lá rơi năm ngoái mất tăm
vùi luôn tình cũ, khôn tầm người xưa.


11.
Thương hải tang điền thế sự du
Phong lưu nhất mộng hầu
Thăng trầm bạc nhân ảo.

Biển dâu thế sự du du
phong lưu đợi mộng về ru tâm tình
Thăng trầm biến ảo phù sinh.
Bùi Giáng.(tr. 135)

Bể dâu biến cải sự đời.
Sống còn phong thái là đây
mang mang dấu ấn, trước nay chẳng mờ.


Giao tình bằng hữu là sắc tươi của xuân
Ở đây sở dĩ tôi cho in thêm vào mấy phóng bút của riêng tôi, chỉ với mục đích là để nhân dịp xuân về, đánh dấu một sự kiện vui vầy thế sự cùng bằng hữu.
Vốn dĩ tôi cùng Bùi Giáng lẫn Trịnh Công Sơn trước Tháng Tư-1975 đã từng sống bên nhau tại Miền Nam Việt Nam, chúng tôi thường có dịp “bù khú”, giao tình văn nghệ với nhau. Nhưng sau đó, vì biến động của lịch sử nước nhà nên ba chúng tôi đã “ trôi giạt” mỗi người theo một phần số riêng, mỗi cá nhân chúng tôi đã phải bó buộc sống còn theo một cách thế riêng, khác biệt hẳn nhau, đôi khi khác biệt đến độ đối chọi lẫn nhau! Nhưng, dù thế nào đi nữa, còn sống sót hoặc đã kẻ ở người đi, thì ít nhất chúng tôi xem ra cũng vẫn có một điểm duy nhất chung là nội dung suy nghĩ về thế sự đã không hề khác nhau, cụ thể như được biểu lộ ra bằng mấy câu thơ mộc mạc trên đây.
Vì thế mà tôi muốn diễn đạt cái căn bản ý tưởng ấy bằng cách cho đăng lại trong cùng một số câu thơ bên cạnh nhau, như một hình thức thể hiện lên cái sắc xuân muôn thuở của tình bằng hữu./. 
Tháng 11 năm 2018.

* Phạm Quốc Bảo.



Chú thích:
[1] Sự kiện này được ông Bùi Công Luân viết kể lại trong phần của bài“Chị & Anh” có in ở cuốn thơ Chớp Biển.

[2]Trong bài này, tôi xử dụng một số thơ rút ra từ cuốn Hán Tự Hài Cú, nhưng dựa cậy vào mối giao tình văn hữu mà đã không chính thức xin phép trước. Mong tác giả Ngô Văn Tao niệm tình thứ lỗi. 

[3] Hán Tự Hài Cú, dịch nghĩa là Những câu (thơ) ý nhị bằng chữ Hán. Thực ra nội dung cuốn này là những bài thơ bằng các thứ chữ Hán-Việt, Nôm và Việt ngữ..

[4] Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” trích Chương 1 Học Nhi, Luận Ngữ, do Chu Hy (1130-1200) biên soạn và chú giải.

[5]Trong website https://www.thivien.net/T%E1%BA%A3n-%C4%90%C3%A0/author-FOvItidPjMKModgAy49buw; thì tiêu đề này được ghi là:“Thư đưa người tình nhân không quen biết” thuộc cuốn Khối Tình II. Rồi lại “Thư trách người tình nhân không quen biết”và “Thư lại trách người tình nhân không quen biết”thuộc cuốn Khối Tình III.

[6] Trích Lời Giới Thiệu của Phan Thị Trọng Tuyến, trang 08, “tuyển tập Những Mảng Rời Lê Tài Điển, với đóng góp của bạn hữu”

- Bìa của tập thơ CHỚP NGUỒN.

- Bìa của cuốn HÁN TỰ HÀI CÚ.

- Bìa của tuyển tập NHỮNG MẢNG RỜI LÊ TÀI ĐIỂN












Bài Scifaiku

Scifaiku, 
Thơ Hài Cú Khoa Học Giả Tưởng.
* Phạm Quốc Bảo.


Lời ngỏ: Mới đây tình cờ xem trên Internet ở địa chỉ http://www.tapchitho.org/wtho20/pqb.htm thấy được bài “ Scifaiku, Hài cú Khoa Học Giả Tưởng Là Gì?” tôi đã viết ra vào độ tháng 4 / 1999. Nay đọc lại thì tự nhiên thấy là cần sửa chữa và bổ sung vào một số ý tưởng mới vừa nẩy sinh, tôi liền viết lại và cho xuất hiện thêm một lần nữa. Trân trọng.(PQB)

Vốn xuất hiện trong mạng lưới điện toán Internet độ trên ba thập niên nay, môn thơ đã phát triển hết sức nhanh và phong phú ở nhiều thể loại. Nhưng trong số các thể loại đó, có một thể thơ mà năm 1995, chuyên gia điện toán Tom Brinck chính thức hóa gọi là Scifaiku, tức là Science-fiction haiku, thơ hài cú khoa học giả tưởng, tạm gọi là như vậy.

Thể thơ được gọi là Hài cú khoa học giả tưởng, Scifaiku, này có thể nói là đang được ưa chuộng nhất, đến độ sau khi Brinck bỏ công phu để thảo nên Tuyên ngôn của nó (Scifaiku manifesto), rồi ngay sau đó nó còn trở nên diễn đàn thơ với cuộc tuyển lựa hằng năm trên toàn Hoa Kỳ do tờ The Writer’s Digest bảo trợ.

Nhưng tại sao gọi là Thơ Hài cú khoa học giả tưởng? Đã “khoa học giả tưởng” mà còn kèm theo chất “hài cú” nữa thì quả thật là...kích động trí tò mò của chúng ta đấy. 

Tóm lại, cho đến nay, chúng ta có thể biết một cách sơ lược rằng loại thơ Hài cú khoa học giả tưởng Scifaiku này ít nhất gồm ba yếu tố: Thứ nhất, bài thơ phải rất ngắn gọn, cô đọng theo kiểu thơ Hài cú phát xuất từ văn chương Nhật Bản, chữ dùng rất chuốt lọc, có tính chất biểu tượng và thơ mộng. Thứ nhì, diễn tả nội dung ý tưởng liên quan đến vũ trụ. Thứ ba là nội dung đó đã và đang được khoa học ngày nay khám phá ra, tác động không những đến ngũ quan chúng ta, mà cả đầu óc lẫn tâm thần chúng ta; nhiều khi nội dung bài thơ chỉ đề cập đến những gì phát xuất từ liên tưởng mà tưởng tượng ra thôi, chứ chưa có hình thể trong thực tế thường nhật.

Chẳng hạn hai bài thơ sau đây đều chỉ gồm có ba câu thôi. Người viết bài này tạm thời phiên dịch sang việt ngữ:

- Năm ngữ âm, lên bảy rồi trở lại năm ngữ âm:




The bitmapped flowers

wither in the harsh point light

of my 3 D world 
(Roger Cotton)




Những đóa hoa hướng dương

cùng trong một điểm sáng chói lọi

của thế giới ba chiều




- Bốn ngữ âm, bốn ngữ âm rồi kết bằng ba ngữ âm thôi:




Millennia pass

and I just watch

from my jar 
( Tom Brinck)




Thiên niên kỷ qua

tôi vừa thoáng thấy

từ ly trà.




Tuy nhiên, trước khi thực sự trực tiếp giới thiệu một số thơ Hài Cú Khoa Học Giả Tưởng có tính cách tiêu biểu này, chúng ta có lẽ cũng nên điểm xuyết một số ý tưởng vừa nảy sinh của người viết về khái niệm sinh tồn của vũ trụ - vạn vật và của con người...Hay nói một cách khái quát hơn, chúng ta thử điểm phớt qua mấy khả năng sinh tồn và phát triển của con người nói chung dị biệt như thế nào đối với các lòai khác trong vạn vật, nhất là khả năng sáng tạo của con người, nó liên quan khá phức tạp ra sao, đến diễn tiến của hai ngành sinh họat khoa học và văn học nghệ thuật.

“ Nhân Linh ư vạn vật ”, những tiến bộ vượt bực trong 2 thế kỷ qua.
Nếu chịu khó quan sát diễn tiến phát triển sự sống của vũ trụ- vạn vật và suy nghiệm kỹ, thì chúng ta có thể rút ra được hai dẫn giải đại khái như: 
- Trong vũ trụ nói chung, sự phát triển sống còn tự nhiên (gọi tắt là bản năng) của muôn lòai đều giống nhau, theo diễn trình tự nhiên có được từ sức phát triển- triển nở liên tục và vô tận của vũ trụ.
- Chỉ khi lòai người nhờ tích tụ kinh nghiệm và phát kiến riêng mà đột nhiên phát triển vượt bực(cả về thể chất, não bộ - lý trí, tâm tư- tình cảm), khiến những khả năng như nhận biết, ý chí thực thi những sáng tạo, áp dụng dần dần những hiểu biết ấy vào thực tế đời sống của con người,... Những khả năng riêng biệt này đã khiến con người và xã hội loài người tiến bộ mỗi lúc một biến đổi theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân, mỗi lúc một biến đổi nhanh hẳn hơn trước đó. Và cho đến khi chính con người lại cũng nhận ra rằng diễn trình phát triển ấy mỗi bước một thiếu cân bằng một cách hiểm nguy cho sự sống còn , thì con người lại tự biết là phải cố gắng điều chỉnh để không bị quá lố, không mất hẳn đi tính chất tự nhiên cố hữu nằm trong khả năng sinh tồn chung của vũ trụ-vạn vật.
Do đó, trong những gặt hái tinh hoa đặc biệt ấy ở từng bước đột biến của con người, thuộc nội dung của bài này, tôi chỉ muốn đề cập riêng đến khía cạnh liên quan với nhau là khoa học và văn nghệ, hai lãnh vực này đều hiện diện nhờ phát xuất từ kinh nghiệm đời sống và suy tưởng - phát kiến của lòai người. 

Chẳng hạn như dựa vào những phát kiến khoa học kỹ thuật, sự kiện nổi nhất gần đây của tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, chúng ta có thể kể đến nhà văn Pháp Jules Verne viết cuốn “Hai Ngàn Dặm Dưới Đáy Biển” (Vingt mille lieus sous les mers) xuất bản năm 1870 và “Vòng Quanh Thế giới Tám Mươi Ngày”(Le tour du monde en quatre - vingts jours) xuất bản năm 1873. Nghĩa là cách đây trên một thế kỷ rưỡi, trong một chặng phát triển mà người ta tạm gọi là Cách mạng công nghiệp kỹ nghệ lần thứ hai bắt đầu vào khỏang thập niên 1850. Lúc mà nhờ các tiến bộ kinh tế và kỹ thuật, xã hội lòai người có được sự ứng dụng cụ thể vào việc phát triển giao thông bằng tàu thủy và tầu hỏa, xe hơi...chạy bằng máy hơi nước.
Còn khi cuộc cách mạng công nghiệp kỹ nghệ lần thứ ba bắt đầu vào khỏang 1969, con người áp dụng vào đời sống của mình trong xã hội này các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và kỹ thuật số hóa nhờ ứng dụng được sự phát triển các chất bán dẫn vào phát kiến siêu máy tính( thập niên 1960), máy tính cá nhân (1970, 1980) và Internet (1990). Rồi“ ..Cuộc Cách mạng Công nghiệp kỹ nghệ lần thứ Tư hứa hẹn những tiến bộ trong ngành khoa học rô-bốt(robots), xu hướng internet của vạn vật (Internet of Things), dữ liệu lớn (big data), điện thoại di động và công nghệ in 3D...Kỷ nguyên mới của đầu tư, năng suất và mức sống gia tăng không chỉ khả thi mà còn là hoàn toàn có thể xuất hiện với tần suất ngày càng tăng. Tất cả là nhờ vào sự sáng tạo của con người. Nhưng những kỷ nguyên mới này đòi hỏi không chỉ ở khoa học căn bản hay những thành tựu kinh doanh mang tính lý thuyết. Để tạo được sự khác biệt,kỹ thuật công nghệ phải được thích ứng và hòa nhập vào đời sống thường ngày...Quan trọng hơn nữa, lịch sử cho thấy sự đam mê – trong cả lĩnh vực như nghiên cứu, văn nghệ, lẫn thương mại – đều có thể đi trước quá xa thực tế, khiến hiểu biết nói chung của đa số tỷ lệ dân số không thể bắt kịp nữa.”...Những bước tiến của kỹ thuật công nghệ từ lâu đã tạo ra hai luồng phản ứng đối nghịch: Với nhiều người thì đó là sự choáng ngợp trước những khả năng mới, với số khác thì lại là nỗi lo về sự thay đổi tiêu cực. Nhưng hầu hết chúng ta đều thậm chí không nhận thấy điều gì đang diễn ra. Chúng ta vô thức coi sự thay đổi đó như một điều hiển nhiên..[1] 
Một thí dụ cụ thể hiển nhiên và gần đây nhất là trong vòng độ ba mươi năm nay(chính xác là từ 1983), từ khi chiếc cellphone (viết tắt của cellular phone) xuất hiện trên thị trường tiêu thụ tòan cầu cho đến nay thì chiếc cellphone ấy đã phải bị...gần như hết được ưa chuộng nữa, vì chiếc smartphone bây giờ ( bắt đầu từ 2016) chẳng những chỉ để nghe và nói chuyện với nhau không thôi mà còn là một dụng cụ hết sức đa dụng, thiết yếu đến độ trong ngày không hề rời khỏi người xử dụng giây phút nào, bởi nó bao gồm luôn mọi thứ khác thuộc lãnh vực truyền thông, như trao đổi email, text, trữ liệu, bách khoa từ điển, chỉ đường...và thay luôn cả tivi, xem video,clips… lẫn facebook nữa!

Khả năng tưởng tượng của con người ở khoa học và văn nghệ.
Nghĩa là khả năng liên tưởng - tưởng tượng đã phát triển song song trong lịch sử sinh tồn của lòai người, tạo nên những cột mốc cụ thể ở quá trình phát triển khoa học và văn nghệ.
Sau đây chúng ta cũng nên điểm sơ qua mấy chứng tích tiêu biểu nhất của khả năng liên tưởng- tưởng tượng ở hai lãnh vực liên hợp là khoa học và văn chương- trí tuệ.

Chẳng hạn như nhờ vào sự áp dụng những tiến bộ của khoa học vào quá trình tìm hiểu vũ trụ- vạn vật, cho đến nay chúng ta hiểu được rằng vũ trụ vẫn vô tận về bề dầy và bề sâu. Riêng sự hình thành vũ trụ vẫn còn nhiều bí ẩn: Bí ẩn của hố đen( lỗ đen, black hole) vẫn còn kỳ lạ về sức lớn, độ sáng nhất, độ đen nhất, tự quay nhanh nhất và có sức hút mãnh liệt nhất...,vẫn còn đang được tiếp tục khám phá.
Điều này sẽ còn đang tiếp tục xảy ra giữa trí tuệ con người với trí tuệ nhân tạo và mức áp dụng vào thực tế đời sống của xã hội loài người, vào y tế, vào điện năng từ sức nóng của mặt trời và sức gió, vào xe điện và xe tự lái, vào giáo dục, vào việc in ấn 3D, vào nông nghiệp và công việc làm... Nói chung lại, chào mừng bạn đến với cách mạng công nghiệp kỹ nghệ thứ 4. Chào mừng bạn đến với Kỷ Nguyên Tiến Bộ Theo Cấp Số Nhân.
Trong khi đấy, người ta đã chuẩn bị tổ chức du lịch lên sao Hỏa dự trù cho một vài thập niên nữa![2]
Tờ Báo Thế giới (Đức) ngày 07/05/2017 đăng bài “Bảy dự đoán về tương lai loài người của Bill Gates”[3] quan trọng ở chỗ là sẽ thay đổi thế giới trong vòng vài thập niên tới, từ những thiết bị tự động và robot, các nguồn năng lượng tái tạo, cải tiến nông nghiệp để Châu Phi có thể tự túc lương thực, các nước nghèo có thể sẽ xử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến, năm 2019 tòan thế giới sẽ không còn bệnh bại liệt trẻ em(?), đến năm 2035 sẽ không còn nước nghèo nữa(?), và nạn khủng bố sinh học có thể gây ra nạn 33 triệu người chết mỗi năm(!?)

Cùng lúc ấy, tháng Năm 2017, theo bản tin của hãng thông tấn UPI, viện Gallup vừa công bố một kết quả cho thấy rằng tỉ lệ người lớn ở Hoa Kỳ tin là Thượng Đế tạo ra lòai người ở hình dạng như hiện nay, đang giảm xuống đến mức thấp kỷ lục so với năm 1982 : Chỉ có 38% được hỏi đồng ý với quan điểm của Chủ Thuyết Sáng Tạo, 38% tin rằng con người phát triển theo sự hướng dẫn của Thượng Đế, và 19% tin rằng Thượng Đế không có vai trò gì trong sự tiến hóa của lòai người. 
Có nghĩa là lịch trình phát triển tâm linh và khai mở lý trí của con người trong môi trường xã hội cho chúng ta ngày nay nhận ra rằng: Thời đại Phong kiến xưa đi đôi với tư tưởng Phiếm Thần - Đa Thần cổ hủ. Thời đại Quân chủ phát triển song song với tư tưởng Nhất Thần. Còn bây giờ thì sức tiến bộ hiện nay của con người mỗi lúc một tạo cho con người tự tin vào chính mình nhiều hơn bất cứ bao giờ, nhất là mỗi lúc một đẩy lùi sắc mầu mê tín dị đoan vào bóng tối của quá khứ. Nói một cách khác, con người sinh tồn trong xã hội ngày nay mỗi lúc một ý thức được rằng chính con người chù động là trung tâm vũ trụ, và dần dần gạt bỏ được ý niệm thần linh hiện diện ở ngòai con người có thể có quyền năng chi phối được con người, khác nào chấp nhận chỉ có cái TÂM duy nhất của con người là chính, như Tất-đạt-đa Cồ-đàm( Siddhartha Gautama, tức Shakyamuni Buddha, Phật-Thích-Ca mâu-ni) đã vạch rõ ra như thế từ trên hai ngàn rưỡi năm trước đây...
Chẳng hạn vào tháng giêng năm 2001, một ngày trước khi Tổng thống George W. Bush nhậm chức, một báo cáo Quốc Hội của Ủy ban mà đứng đầu là bộ trưởng Quốc phòng tương lai Donald Rumsfeld đã chính thức lên tiếng cảnh cáo và thúc giục việc tái tổ chức quân đội Mỹ bằng ý tưởng nhấn mạnh đến lãnh vực không gian nhằm để bảo vệ hệ thống vệ tinh nhân tạo truyền thông và tình báo của Hoa Kỳ, và nếu cần thì phải có khả năng lọai bỏ được hệ thống vệ tinh nhân tạo của các quốc gia khác. Rồi tháng sáu 2017, Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ ( U.S. House Armed Services committee, HASC) bỏ phiếu thành lập Binh Đòan Không Gian Hoa Kỳ( The United States Space Corps, USSC), một ngành đặc biệt được đặt dưới quyền điều động của Bộ trưởng Không Quân Mỹ, và sẽ là một thành viên trong Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân( the Joint Chiefs of Staff ) nhưng lại được vận hành độc lập với cơ quan NASA và theo ngân sách quốc phòng chung bắt đầu từ năm 2018 [4]....
Và cứ như thế, trong một chuỗi diễn tiến khám phá và áp dụng mới đang xẩy ra này đã kích thích để nẩy sinh ra và phát triển mạnh lọai Thơ Hài Cú Khoa Học Giả Tưởng trên 'nét' ( internet).


Mấy khía cạnh phong phú của thơ lên lưới điện toán:

Trở lại với hai bài thơ tiêu biểu nêu trên, chúng ta nhận ra rằng cái chất hài hước và triết lý truyền thống của thơ Hài cú [ Haiku, bắt đầu xuất hiện vào những thập niên cuối thế kỷ 17 tại Nhật bản, với Matsuo Basho(1644-1694)], như nụ mỉm cười thiền vị, mặc dù ý nhị đã nhạt nhòa bớt đi nhưng ngược lại nguồn thơ hài cú tân tiến này lại còn bao gồm những ý tưởng, những hình ảnh chưa từng có ở hài cú cổ điển. Có lẽ chính Tom Brinck cũng đã nhận ra điều đó, khi ông diễn tả trong nội dung của tuyên ngôn “Scifaiku Manifesto” rằng Scifaiku, thơ hài cú khoa học giả tưởng này “hài cú và không hài cú”.

Đây, chúng ta thử đọc xem rằng có nhận ra được cái tính chất “hài cú mà (và) không hài cú” ở một số thơ của mạng lưới điện toán tiêu biểu dưới đây:




1. Nội dung tình gia đình (nhân bản): Đây là một nội dung rất hiếm có trong thơ Hài cú truyền thống của dân Nhật bản. Sở dĩ trong mạng lưới điện toán lại có nội dung này là vì, rất thực tế, ở tâm tình của giới chuyên viên điện toán: Vì nghề nghiệp, chuyên viên điện toán gần gũi với máy điện toán ngày đêm liên tiếp cả năm, nhiều khi còn thân mật hơn cả vợ chồng con cái của họ nữa. Do đó, trong thoáng chốc nhớ đến con, chuyên viên Lea Deschenes đã diễn tả tâm tình của mình bằng bài thơ sau đây:




Martian reads tabloid:

Two-headed love child. Front page:

Wishes he’d stayed home.




Hắn đọc tờ báo nhỏ:

Trẻ được cưng chiều. Trên trang nhất:

Muốn hắn ở lại nhà.




2. Nội dung kỹ thuật tiên tiến: Nội dung rõ rệt và hoàn toàn khác hẳn, chưa hề có trong thơ Hài cú trước đây. Chẳng hạn:


The cat is missing

Schrodenger’s lab in chaos:

He plots his revenge.
( Lea Deschenes)




Con mèo mất tích

Phòng lép xáo trộn

Hắn tính trả thù




3. Nội dung con người tiếp cận vũ trụ: Nội dung này cũng hết sức mới lạ. Tức là không còn tiếp cận như kiểu thơ Hài cú cổ điển, mà theo một cách thế khác của con người trước vũ trụ, nhưng lại hết sức thi vị. Chẳng hạn:




All the universe

pulls slowly into center:

Alas, the Big Crunch.
(Leslie Gornstein)




Toàn vũ trụ

tiến dần vào trung tâm

Ráu, miếng cắn.




4. Con người trong kỷ nguyên kỹ thuật tân tiến: Nội dung này có thể nói rằng cho đến bây giờ, chiếm đa số lượng thơ của mạng lưới điện toán. Với nội dung này, chúng ta đặc biệt đọc tới hai bài, nội dung như nhau nhưng kỹ thuật khác nhau:




Thể thơ xuôi: Chỉ có hai câu nhưng lại cho xuống thành 3 hàng chữ, mà có chữ bị cắt đôi:




What culture crea-

ted this artifact and why

is that moon now gone?




Văn hóa nào đẻ ra

tuyệt nghệ phẩm này và tại sao

vầng trăng nọ đã xa?


Hoặc trong một bài tiêu biểu khác nữa, nguyên tác vẫn theo tiêu chuẩn hài cú cổ điển nhưng khi chuyển ngữ thì bó buộc người dịch nếu muốn gói trọn nội dung thì phải phá vỡ hình thức( nghĩa là không giữ được đúng ba hàng thơ):



To leave Mars’ death camps,

I gave my brain to the ship

stars taste like champagne.
( Andrew Mc Cann)




Rời trại chết sao hỏa

não tôi phó thác cho phi thuyền

những vì sao nếm chất não tôi

như nhấm nháp sâm banh.




Nói chung lại, thơ Hài Cú của mạng lưới điện toán hết sức giản dị, chính xác, thích ứng với thời đại mới hiện nay (thời đại mở đầu vào kỷ nguyên điện toán), và đương nhiên không hề thiếu chất thơ, thi vị là cái chất quan trọng nhất của thơ, ở bất cứ thời đại nào, và hoàn cảnh nào.

Tóm lại, dù thế nào đi chăng nữa, thơ Hài Cú của mạng lưới điện toán hiện vẫn còn khá mới mẻ nhưng rõ rệt nó đã hiện diện và đang phát triển rất nhanh, theo cấp số nhân.
Và chúng ta gọi thơ của mạng lưới điện toán này là gì? Là thơ hài cú khoa học giả tưởng, thơ hài cú mới, tân hài cú? Là thơ lên lưới? Là thơ điện tử? Thơ tân kỳ?

Riêng bạn, bạn đã nghĩ ra một từ ngữ nào khác chưa, để chỉ loại thơ của mạng lưới điện toán ấy?

- 7 / 2017.

* Phạm Quốc Bảo.
Chú thích:
[1] trích “Mastering the Fourth Industrial Revolution” do Larry Hatheway,viết,,Project Syndicate, 21/01/2016. nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2016/02/14/lam-chu-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu/#sthash.fdtW4JQ3.dpuf)
[2] Sao Hỏa còn gọi là: Hỏa Tinh,(tiếng Anh: Mars) là hành tinh thứ tư tính từ Mặt Trời trong Thái Dương Hệ...Sao Hỏa là một hành tinh đất đá với một khí quyển mỏng, với những đặc điểm trên bề mặt có nét giống với cả các hố va chạm trên Mặt Trăng và các núi lửa, thung lũng, sa mạc và chỏm băng ở cực trên Trái Đất. Chu kỳ tự quay và sự tuần hoàn của các mùa trên Hỏa Tinh khá giống với của Trái Đất do sự nghiêng của trục quay tạo ra...Sao Hỏa có thể dễ dàng nhìn từ Trái Đất bằng mắt thường. Cấp sao biểu kiến của nó đạt giá trị −3,0, chỉ đứng sau so với Sao Mộc, Sao Kim,Mặt Trăng, và Mặt Trời...Bán kính của Sao Hỏa xấp xỉ bằng một nửa bán kính của Trái Đất.Tỷ trọng của nó nhỏ hơn của Trái Đất, với thể tích chỉ bằng 15% thể tích Trái Đất và khối lượng chỉ bằng 11%. Diện tích bề mặt của hành tinh đỏ chỉ hơi nhỏ hơn tổng diện tích đất liền trên Trái Đất... Sao Hỏa cũng là hành tinh có giá trị kích thước, khối lượng và gia tốc hấp dẫn bề mặt ở giữa khi so với Trái Đất và Mặt Trăng (Mặt Trăng có đường kính bằng một nửa của Sao Hỏa, trong khi Trái Đất có đường kính gấp đôi Hỏa Tinh;Trái Đất có khối lượng gấp chín lần khối lượng Sao Hỏa trong khi Mặt Trăng có khối lượng chỉ bằng một phần chín so với Hỏa Tinh). Màu sắc vàng cam của bề mặt Sao Hỏa là do lớp phủ chứa sắt(III) ôxít, thường được gọi là hematit, hay rỉ sét...Những hiểu biết hiện tại về hành tinh ở được—khả năng một thế giới cho sự sống phát triển và duy trì—ưu tiên những hành tinh có nước lỏng tồn tại trên bề mặt của chúng. Điều này trước tiên đòi hỏi quỹ đạo hành tinh nằm trong vùng ở được, mà đối với Mặt Trời hiện nay là vùng mở rộng ngày bên ngoài quỹ đạo Sao Kim đến bán trục lớn của Sao Hỏa...Có thể là nhiệt độ bề mặt Sao Hỏa sẽ tăng từ từ,hơi nước và CO2 hiện tại đang đóng băng dưới regolith bề mặt sẽ giải phóng vào khí quyển tạo nên hiệu ứng nhà kính nung nóng hành tinh cho đến khi nó đạt những điều kiện tương đương với Trái Đất ngày nay,do đó cung cấp nơi trú chân tiềm năng trong tương lai cho sinh vật trên Trái Đất...Cơ quan ESA hi vọng đưa người đặt chân lên Sao Hỏa trong khoảng thời gian 2030 và 2035 ...[ mục “Sao Hỏa” trên Google]
[4] trích mục the United States Space Corps trên Google.
















Bài VKKhoan
Nhân dáng thầy Vũ Khắc Khoan
Phạm Quốc Bảo.

Trước khi cùng nhau chúng ta bắt đầu thưởng thức mấy chi tiết rất đời thường mà khá độc đáo liên quan tới thầy Vũ Khắc Khoan, tôi thấy nên điểm sơ qua vài nét tiêu biểu cái bối cảnh của nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa:
Bắt nguồn từ chủ trương phát xuất ở thời chính phủ Trần Trọng Kim(17 tháng Tư đến 25 tháng Tám năm 1945), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa ( VNCH, từ cuối năm 1954 đến tháng Tư năm 1975) đã được áp dụng phổ cập và phát triển tại lãnh thổ Miền Nam Việt Nam rõ rệt nhất là ở bốn yếu tố chính:

- Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết)Việt (tức Việt ngữ) là quốc ngữ, đồng thời Việt hóa và phổ thông hóa nền giáo dục Việt ngữ rộng khắp lãnh thổ [1].Chẳng hạn Việt ngữ đã là ngôn ngữ chính và duy nhất được giảng dạy từ vườn trẻ- mẫu giáo lên các bậc tiểu và trung học. Chẳng hạn cụ thể là ở phân khoa Văn Khoa sàigòn, trước năm 1963 vẫn hiện diện song song hai hệ thống Dự Bị Pháp giảng dạy bằng Pháp ngữ và Dự Bị Việt giảng dạy bằng Việt ngữ, nhưng sau năm đó Dự Bị Pháp không còn nữa, duy nhất chỉ còn Dự Bị Việt cho đủ mọi môn chuyên khoa mà thôi.
- Bốn cấp từ vườn trẻ - mẫu giáo lên đến tiểu-trung và đại học công tư đều được khuyến khích rộng mở ở khắp mọi vùng đất nước, nơi nào có thể, cho tòan dân. Do đó sĩ số học sinh-sinh viên cũng như số lượng giáo viên- giáo sư cứ được bổ túc liên tục mà tăng gấp bội lên theo cấp số nhân ở từng niên học. Các môn học ở các cấp cũng được cố gắng cập nhật theo tầm mức tân tiến chung trên thế giới mà bớt hoặc thêm vào từng năm. Chẳng hạn về công tác điều chỉnh, chúng ta có thể kể đến việc lọai bỏ đi lớp Tiếp Liên (lớp học cuối của cấp tiểu học), và ở trung học đệ nhị cấp đã dẹp đi Ban D (ban cổ ngữ, học Hán Văn và La Tinh)... Còn việc bổ túc các ngành học, chúng ta có thể kể sự kiện thêm môn Tân Tóan Học cho lớp 12 ban B (ban chuyên Tóan, lớp chót của trung học đệ nhị cấp) bắt đầu từ niên học 1970-71. Trên cấp đại học, chúng ta cụ thể ghi nhận hai sự kiện: Ở phân khoa Khoa Học sàigòn, từ niện học 1961 trở về trước,lớp P.C.B (viết tắt của Physique-Chimie-Biologie animale) vốn là chứng chỉ Lý-Hóa-Sinh của văn bằng cấp cử nhân Khoa Học mà cũng là lớp Dự bị Y Khoa, nhưng sang niên học 1962-63, lớp P.C.B. vẫn là một chứng chỉ thuộc hệ thống trường Khoa Học, còn Dự Bị Y Khoa lại bắt đầu có tên riêng, A.P.M.(viết tắt của Année Préparatoire de Médecine) [2]. Trong khi ấy, phân khoa Văn Khoa sàigòn niên học 1964- 65, ban Triết học chia ra thành hai phân ban, Triết học tây phương và Triết học đông phương...
- Sách giáo khoa thì được Trung Tâm Học Liệu của bộ Quốc Gia Giáo Dục chính thức xuất bản cho từng cấp học, nhưng nhiều nhất phải kể là vô số những tài liệu tiểu luận và luyện thi mọi môn học các cấp đã được các giáo sư chuyên ngành thi nhau soạn, xuất bản và phân phối rộng khắp.
- Các kỳ thi những văn bằng Tiểu Học, Trung Học Đệ Nhất Cấp (dẹp đi vào năm 1967), Tú Tài I ( dẹp đi bằng nghị định chính thức vào năm 1973) dần dần được lược bỏ. Chỉ còn một kỳ thi tốt nghiệp ban Trung Học( mà trước kia gọi là kỳ thi Tú Tài Hai) và được bắt đầu thử nghiệm áp dụng thi viết cho một số môn học theo hình thức Trắc Nghiệm IBM ( nôm na gọi là thi ABC khoanh, để có thể chấm điểm thật nhanh gọn bằng máy điện tóan), vào kỳ thi giữa năm 1974..
Những yếu tố đại để nêu trên tiêu biểu minh chứng cho mục tiêu giáo dục đã được kiên trì liên tục áp dụng vào thực tế theo nhu cầu đời sống và theo đà dân số phát triển ở xã hội Miền Nam Việt Nam, dựa trên ba châm ngôn căn bản cốt lõi là Nhân Bản- Dân Tộc- Khai Phóng.

* Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò:
Nhưng dù sao, trong mỗi giai đọan chuyển đổi của nền giáo dục như thế cũng đều có những sự kiện bất cập. Như chương trình giáo dục thời tôi theo học bậc trung học VNCH có một điểm lạ ở chỗ Quốc văn( tức là Việt văn) các lớp Đệ Tứ (lớp 9 bây giờ), Đệ Nhị (lớp 11) thì học Kim văn; còn các lớp Đệ Ngũ (Lớp 8) và Đệ Tam (Lớp 10) lại phải học tòan Cổ văn. 
Cổ văn tức là các lọai văn được sáng tác từ xa xưa, câu chữ các cụ dùng trong quá khứ bao nhiêu thế kỷ trước của dân tộc ta bây giờ đã không còn thông dụng trong xã hội ngày nay nữa. Lại thêm văn chương cổ vốn được chủ trương “văn dĩ tái đạo” tức là các cụ viết văn chương với mục đích chuyên chở những đạo lý ở đời (nhưng nội dung của những đạo lý ấy hầu hết là nhắc lại những ý tưởng của sách vở xưa để lại một cách lý thuyết mà chứa đựng rất ít tư tưởng mới sáng tạo được rút ra từ kinh nghiệm sống thực tế trong đời sống cụ thể của các cụ); và những câu những chữ của thứ văn chương được gọi là ‘bác học’ ấy thường bao gồm nhiều điển tích mà muốn hiểu thấu đáo câu văn của các cụ đã viết ra thì phải thuộc nằm lòng những câu chuyện chứa đựng trong các điển tích ấy! 
Quí vị độc giả hãy thử nghĩ lại xem: Học sinh mới lớn, tuổi trung bình từ 14-16, chúng tôi mới chỉ là những thiếu niên ở cái tuổi đang “nhổ giò”, cái tuổi “ăn ít khi thấy no, lo chưa bao giờ kỹ”cả, thế mà phải “nhá” những thứ văn chương xưa cũ chứa đựng quá nhiều điển tích (chuyện xưa tích cũ, bên ta lẫn bên Trung Hoa), đọc lên nghe đã trúc trắc rồi, nói chi đến vấn đề có thể dễ tạo nên niềm thích thú học hỏi sao nổi!
Cho nên một hiện tượng thường xuyên phổ biến diễn ra là trên bàn thầy đang diễn đọc cuốn thơ nôm Truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu (1822- 1888), chẳng hạn đến đọan tả nhân vật Lục Vân Tiên giữa đường ra tay đánh dẹp bọn cướp để cứu Kiều Nguyệt Nga: Khi nàng Kiều Nguyệt Nga tính bước xuống xe lạy tạ ơn, thì chàng họ Lục(vốn theo quan niệm cổ điển “nam nữ thọ thọ bất thân”) vội ngăn lại mà thốt lên rằng:
“ Thôi thôi ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai”
Ở dưới mấy hàng ghế cuối lớp, nhóm học sinh tinh nghịch một cách ‘nhất quỷ- nhì ma- thứ ba học trò’ cũng liền đọc lên mấy câu vè bình dân mà ngòai xã hội lúc ấy người ta thường “lẩy”:
“Vân Tiên cõng mẹ chạy ra

Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạy dzô!” 
Thế đấy...
Và Việt văn lớp Đệ Tam C hồi tôi học do thầy Vũ Khắc Khoan đảm trách.

* Bóng dáng thầy qua tiểu sử. 
Từ những tài liệu trong Google, có thể tóm tắt tiểu sử của thầy Vũ Khắc Khoan bằng mấy đọan sau: “...Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà-nội, là học trò trường Bưởi. Lên đại học, ông theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao đẳng Canh nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang nghề dạy học, dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà-nội; đồng thời ông hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông, hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953). Giao thừa có thể coi là vở kịch có nội dung đề cập đến tính chất phi lý đầu tiên của Việt Nam.

Ngay từ thời còn là sinh viên y khoa, Vũ Khắc Khoan đã đạo diễn những vở Thế Chiến quốc và Nửa đêm truyền hịch của Trần Tử Anh, trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Ông viết và dựng kịch bản đầu tay Trường ca Mông Cổ, tác phẩm làm nền cho vở Thành Cát Tư Hãn (1961) sau này. Năm 1952, vừa dựng vừa diễn vở Thằng Cuội ngồi gốc cây đa tại Nhà Hát Lớn. 1954 di cư vào Nam, Vũ Khắc Khoan cộng tác với nhật báo Tự Do, dựng lại nhóm Quan Điểm (với Nghiêm Xuân Hồng và Mặc Đỗ). Ngòai ra ông còn dạy sử, văn chương và văn học sử tại các trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An ở Sài-gòn. Từ 1962 ông lên dạy đại học. Chủ trương nguyệt san Vấn Đề cùng với Mai Thảo, ông dạy và làm giám đốc Kịch nghệ tại trường Quốc Gia Âm Nhạc ở Sài-gòn.

Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, ông dạy Pháp văn tại đại học Minnesota trong hai năm, cộng tác với tờ Đất Mới (của Thanh Nam) và tờ Văn của Mai Thảo. Cuối đời ông sáng tác Đọc kinh (1990), Đoản văn xa nước (1995), và hai bài thơ văn xuôi: Berceuse en pluie mineure (Ru em theo gam mưa thứ) và Le petit oiseau, la petite branche et le printemps (Con chim nhỏ, cành cây nhỏ và mùa xuân) và viết một số tác phẩm chưa hoàn tất: Như truyện dài Bướm đêm và kịch Ngọa triều. Vũ Khắc Khoan mất tại Minnesota ngày 12/9/1986 vì ung thư...”[3]

* Chung quanh bóng dáng kịch tác giả Vũ Khắc Khoan
Phải nói ngay rằng cho đến bây giờ, 75 tuổi, tôi vẫn đặc biệt hãnh diện là đã có thời được học thầy. 
Trước tiên, những chi tiết và những nhận xét về hành trạng văn nghệ của cuộc đời ông thì trong Google và quá nhiều tác giả khác đã viết ra rồi[4], không cần thêm thắt gì ở đây nữa. Chỉ xin kể ra ở đây mấy hình bóng của ông khá sừng sững trong trí nhớ của cá nhân tôi, với những kỷ niệm có liên quan tới nhiều bạn hữu của tôi mà đa số họ nay cũng đã ra đi khỏi cõi đời này.
Chẳng hạn vào đầu thập niên 1960, thầy Vũ Khắc Khoan đang dạy trong bộ môn kịch ở trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ-Sàigòn. Lúc ấy tôi mới bắt đầu rời bậc trung học & cũng không học bất cứ một môn nào ở trường ấy, nhưng lại thường xuyên đến sân khấu của ấy để được tham dự những buổi hòa nhạc, nhất là để được thưởng thức những vở kịch do thầy dàn dựng và các môn sinh của thầy thủ những vai cốt cán chính.

Những vở kịch như Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa, Nghêu Sò Ốc Hến, vở chèo Quan Âm Thị Kính.... Nếu tôi nhớ không lầm thì những vở kịch này đều được thầy điều động ít nhất là một lần tại sân khấu trường Quốc Gia Âm Nhạc& Kịch Nghệ tọa lạc tại góc đường Nguyễn Du sàigòn, và do những diễn viên kịch như Hà Bay, Vũ Hạ... Họ vừa tốt nghiệp những năm trước và sau 1965, họ đảm trách phần trình diễn một cách xuất sắc, gây được tiếng vang cho ngành kịch nghệ của trường này. Nay Hà Bay đã mất hay chưa, cư ngụ hiện tại ở đâu, tôi không rõ. Nhưng Vũ Hạ thì sau tháng Tư năm 75 anh đã sang định cư tại miền Nam Cali,đi học lại và tốt nghiệp kỹ sư,làm ăn sinh sống rất mực thước.Trong hai thập niên 1980 và 90, thỉnh thỏang chúng tôi tình cờ gặp nhau ở những tiệm sách cũ thuộc các cửa hàng như Goodwill hay Salvation Army. Và rồi anh cũng đã ra đi ở lớp tuổi 60, cách đây trên một thập niên.

Riêng vở Thành Cát Tư Hãn tôi nhớ là đã được cho diễn hai lần tại trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ và một lần trên viện Đại Học Đà Lạt. Trong đó, vai Thành cát Tư Hãn đều do Trần Quang thủ diễn, còn Phạm Thanh Nhàn và Vũ Hạ đóng vai Sơn Ca; nhưng khi vở này được cho diễn trên Đà Lạt thì lại do Đinh Ngọc Mô đảm nhiệm vai Sơn Ca,và được khán thính giả khen là xuất sắc. 
Trần Quang, theo như lời anh tiết lộ thì anh sinh ra bên Lào, người to lớn, bệ vệ trong vai Thành Cát Tư Hãn nhưng hồi ấy anh phát âm tiếng Việt hơi trớt; sau này nhờ liên tục chịu khó tập luyện, giọng nói của anh đã chuẩn hẳn và anh nổi tiếng hơn nữa khi sang làm diễn viên điện ảnh.
Phạm Thanh Nhàn, hồi năm 1975 anh sang tị nạn sớm ở Mỹ và chưa có cơ hội trở lại ngành diễn kịch thì đã qua đời trong tai nạn khi đi câu cá tại Long Beach vào khỏang cuối năm 1979 đầu 1980.

Còn Đinh Ngọc Mô, sau khi tốt nghiệp khóa Đại học Sư Phạm ĐàLạt, anh trở thành một trong vài người điều khiển nổi tiếng cho chương trình truyền hình Đố Vui Để Học của Trung Tâm Học Liệu ở mấy năm cuối thập niên 1960, sau anh được cho đi du học. Vào năm 1982, vừa sang định cư ở Nam Cali chưa đầy một năm là tôi đã nghe tin Mô đột ngột qua đời bên Canada [4] 


* Bóng dáng thầy từ mấy kỷ niệm còn nhớ được
- Một dáng đời thường.
Những niên học cuối thập niên 1950, hiện tượng 'cúp cua' (trốn học) không hiểu tại sao lại thành phổ biến đến độ khá quen thuộc đối với học trò, nhất là các học sinh thuộc 3 lớp đệ nhị cấp ( lớp 10, 11 và 12), ở Chu Văn An Sàigòn. Hiện tượng trốn học đi chơi đương nhiên là không “phải đạo” rồi, bằng chứng rằng hiện tượng này xem ra rất ít xảy ra ở lớp học sinh trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, ngôi trường đã vì nhu cầu và cũng vì tuân theo chỉ thị của bộ Quốc Gia Giáo Dục mà phải chịu 'san sẻ' mấy dãy nhà để xe cùng cả tòa nhà vốn dành làm khu nội trú cho học sinh từ tỉnh lên học, để sửa sang lại và thành lập ra trường Chu Văn Anh ở năm sáu niên khóa đầu kể từ năm 1954. 
Xét cho cùng, hiện tượng trốn học thường xảy ra như vậy cũng là do nhiều nguyên nhân. 
Đầu tiên phải thành thật mà thú nhận rằng học sinh CVA xem ra kỷ luật không được duy trì nghiêm minh như vốn đã là truyền thống sinh họat học đường ở bên trường Pétrus Ký ngay cạnh đó. Trong nguyên nhân này cần phải liệt kê 2 yếu tố khác nữa,tôi nghĩ có liên quan đến sinh họat học vấn có thể nói là dễ dãi và cởi mở mà ban quản trị trường Chu Văn An sàigòn hồi ấy đã thực hiện: 
* Kể từ niên khóa 1954- 55, từ lớp Đệ Thất ( lớp 6) trở lên thì thường học sinh sàn sàn nhau 11 tuổi nhưng chúng tôi vẫn học chung với các anh chị lớn hơn, có khi tuổi họ đã 17. Lý do là bộ Quốc Gia Giáo Dục hồi đó đặc biệt cho phép học sinh nào di cư từ Bắc vào mà không có thân nhân đều được ghi danh vào học ở bất cứ lớp nào ở trường di cư Chu Văn An sàigòn.
* Và nếu tôi nhớ không lầm thì suốt những niên khóa trong thập niên 1950 ấy, học sinh nào thi nhẩy ( tức đang học lớp Đệ Ngũ- lớp 8 - cuối năm thi bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, hay đang học lớp Đệ Tam - lớp 10- cuối năm thi Tú Tài I) mà đậu thì chẳng những không bị “bắt lỗi” mà còn được cho phép học tiếp lên lớp trên, ở niên khóa kế tiếp!
Thứ đến là phát xuất từ hệ thống thi cử của thời ấy: Trước thời chúng tôi,cho đến đầu thập niên 1950, ở bậc tiểu học cũng còn có kỳ thi bằng Sơ Học Yếu Lược ở cuối năm lớp Ba, rồi hết năm Lớp Nhất ( tức lớp Năm sau này) phải tốt nghiệp bằng Tiểu Học, và gay go hơn nữa là phải thi tuyển vào Lớp Đệ Thất (tức lớp Sáu), đậu mới được vào học trường Trung Học công lập ( nghĩa là không phải đóng học phí, mà nếu học xuất sắc lại còn được hưởng học bổng nữa!). Học hết năm Đệ Tứ ( tức lớp Chín), phải qua kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp mới được lên học ở ba năm đệ nhị cấp Trung Học. Cho nên khi lên học lớp Đệ Tam, tâm lý hầu hết đều ra vẻ mình là học sinh lớp lớn nhất trường rồi! Hơn nữa, các môn học phụ (Khi thi thì các môn phụ đều hệ số 1, và hầu hết không phải thi viết, chỉ vào Vấn Đáp thôi), học sinh các lớp đệ nhị cấp (tức Đệ Nhị,lớp 11, cuối năm thi bằng Tú Tài I và lớp Đệ Nhất, lớp12, cuối năm thi bằng Tú Tài II) thường vừa không coi trọng lại vừa chẳng chịu chú tâm học các môn phụ cho lắm; đến giờ các môn ấy trong tuần vẫn thường là thời gian học sinh bỏ học trốn đi chơi nhiều nhất.
Và phải nói rằng thời đại chúng tôi, trốn học thường ra chỉ như một hình thức nhằm thỏa mãn ý thích tự do của con trẻ là chính: Bỏ học trong lớp hầu hết chỉ vì đã bàn tính với nhau là dự trù đi xem ciné (movies) các rạp chiếu phim hay mà cũ như Lê Lợi hay Vĩnh Lợi, 2 đồng một vé, với một ly cối nước mía 1 đồng ( thoang thoảng thơm mùi vài giọt tắc, chanh hay cam)! Ngòai ra trốn học cũng chỉ rủ nhau đạp xe vào lang thang trong Sở Thú hay vườn BờRô là cùng...
Tôi nhớ có lần anh Đỗ Quí Tòan thổ lộ đại khái là cũng có học một năm Đệ Tam do thầy Khoan dạy môn Sử. Rồi anh nhắc đến một kỷ niệm mà trên 60 năm rồi còn sót lại trong ký ức của anh:
Trong một buổi học, anh và một người bạn 'cúp cua', hai chàng đang lang thang chưa biết đi đâu chơi là thích nhất... bất chợt nhìn thấy thầy Khoan đứng vẩn vơ trên một vỉa hè. Trong bụng lo sợ vì chuyện trốn học đi chơi mà chẳng may bị thầy bắt gặp...,hai 'chàng' ban đầu khá bối rối, tiến thóai lưỡng nan, chưa biết phải phản ứng thế nào.. Thì đã bị thầy nhìn thấy hai cậu học trò của mình còn đang lớ ngớ, ông bèn vẫy gọi... Và cuối cùng hai chàng cũng gắng gượng líu ríu đến cúi đầu chào. Ngòai mặt thầy vẫn tỉnh bơ như không, ông móc thuốc lá ra hút và thuận miệng thổ lộ rằng đang đi đến đây thì chiếc VéloSolex của thầy bị dính đinh, xẹp bánh xe, phải ghé vào vá lốp mà lục trong túi thì không có đến một đồng bạc nào!...Kết cuộc là hai trò chung nhau cho thầy vay để thanh tóan...Và thế là bữa cúp cua ấy, hai chàng phải ..giải khát chung một ly nước mía, thanh thanh vì có pha thêm ít nước trái quất vừa chua chua vừa thơm thơm!

- “Con lạy thầy!”
Những năm học trung học thời chúng tôi, đa số tuổi trung bình từ 11 đến 18, cái hạn tuổi trổ mã của đời người, nghĩa là ở cái tuổi mà cơ thể lẫn trí tuệ phát triển mạnh nhất của một cá nhân, người ta thường gọi tắt là cái tuổi” nhổ giò”. Ở tuổi này thường có huynh hướng xung động, phá phách mà phần đông không hề có một chủ ý nào cả, nhưng rõ rệt là nghịch ngợm ra trò. Tục ngữ ta có câu “ Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Trong lớp thế nào cũng có vài ba anh học sinh phá nghịch nhất. Và đi dạy thì mỗi một thầy cô cũng đều có cách thức đối phó khác nhau, tùy theo tâm tính và kinh nghiệm: Thường thì quát mắng, hay bắt lên phòng giám thị để có thể bị phạt cuối tuần phải lên trường học bài dưới sự kiểm sóat của các thầy giám thị...Nhưng cũng có trường hợp là thầy giận dữ bỏ lớp ngang không dạy nữa; và cũng đặc biệt có những thầy cô giáo trẻ mới vào nghề, bối rối đến độ đứng chết trân giữa lớp mà chẩy nước mắt!

Riêng thầy Vũ Khắc Khoan, tôi đã được chứng kiến, ông có một thái độ 'trị' học trò phá nghịch một cách khá độc đáo mà tôi chưa thấy thầy cô nào áp dụng trong thời tôi học trung học:

Buổi đó, trong hai giờ thầy Khoan dạy, thỉnh thỏang có vài 'cậu' lén nghịch như thường lệ, nhưng riêng một 'cậu' ngồi dẫy bàn giữa ở cuối lớp thì nghịch ngợm luôn chân luôn tay. Thế mà thầy vẫn tỉnh bơ như không biết đến: Tướng thầy vốn to bề ngang, mái tóc bồng bềnh theo bước đi như cái bờm sư tử, đôi mắt thường đỏ của thầy hướng lên trần lớp và miệng thầy vẫn say sưa giảng... Đến khi trống báo hết giờ, cậu vua nghịch kia là người phóng nhanh nhất và định ra khỏi lớp đầu tiên, thì bị thầy Khoan đứng ngăn ngay ở cửa ra vào: 
- Này. Anh theo tôi!

Không hề ngờ là bị thầy chặn lại như vậy, cậu ta miệng ú ớ: 
- Thưa Thầy...con...
- Anh ra sân 'pạc co' [5] với tôi!
Ngớ mặt ra không hiểu gì cả, cậu ta chết trân!
- Hết giờ học rồi thì tôi với anh hòan tòan bình đẳng. Chúng ta phải giải quyết vấn đề này với nhau một cách sòng phẳng. 
- Ơ...
- Nếu anh đấu thắng thì đến giờ tôi dạy, anh muốn nghịch gì cũng được.Còn nếu anh thua thì tôi chỉ yêu cầu, giờ tôi phụ trách, anh không được phá nữa, để tôi dạy và những anh em khác học. Đồng ý?

- Thưa thầy...con...
- Anh cởi áo ra!
- Con đâu dám!
- Anh nhất định phải đấu tay đôi với tôi lần này!
- Con lạy thầy...
- Đây có đầy đủ bạn cùng lớp anh chứng kiến, nhá...
- Dạ... Xin thầy tha cho con. Từ nay con không dám thế nữa!

- “Xin lỗi anh nhá”
Lớp tôi theo học, có một cậu từ Bắc di cư vào Nam, gia đình đông con nên nghèo đến độ nếu không học được trường công lập thì... xem ra phải thất học. Mấy năm dưới các lớp Đệ Nhất cấp, cậu ta chuyên môn đầu húi gần trọc là để lâu cả tháng mới phải cắt tóc một lần, đặc biệt nhất là áo cậu ta mặc đều là lọai vải dù của quân đội Liên Hiệp Pháp còn sót lại,vốn không được trắng mà ngả mầu vàng, nên bạn trong lớp đặt cho cậu ta cái hỗn danh“ Không Không Hòa Thượng”.Cái hỗn danh này kéo dài cho đến hết lớp Đệ Tam mới dần dần mất đi. Số là sau khi đậu được bằng Trung Học Đệ Nhất cấp, cậu ta xin được chân kèm vài đứa trẻ ba buổi tối một tuần, mỗi buổi hai tiếng, tháng được trả 200 đồng tiền VNCH hồi ấy. Lần đầu lĩnh lương tòan giấy 5 đồng, cậu ta đem về bầy kín lên chiếc bàn học rộng thước rưỡi- dài hai thước để mà... ngắm cho thỏa thích! Rồi cậu ta đi may hai bộ áo popeline trắng cụt tay- quần kaki Nam Định nhuộm xanh da trời, chỉ mất có một trăm rưởi đồng bạc!

Một hôm đang đạp xe đạp đi học, gặp trời mưa như xối xả, chưa kịp kiếm chỗ trú thì chiếc xe Peugeot 203 rẽ vào sát bên để anh bạn cùng lớp (hiện là con của một dân biểu Đệ Nhất Cộng Hòa ) vẫy chào một cái...chơi vậy thôi! Nhưng khi chiếc xe hơi băng ra giữa đường thì đã để hai vết bùn từ bánh xe văng lại suốt dọc trên mặt áo trắng trước ngực cậu học trò đạp xe đạp. Đến trường, cậu ta vội cởi áo ra giặt và phơi ngay ở khung cửa sổ lớp.
Trống đến giờ học. Mới bước vào lớp, thầy Khoan thấy ngay một anh học sinh ngang nhiên mặc áo lót. Tự nhiên nổi nóng, thầy quát:

- Anh kia! Ra khỏi lớp ngay!
Cậu học trò lúng túng, ngượng ngùng vì không ngờ bị thầy đuổi, líu ríu tuân theo...
Độ mười lăm phút sau, thầy Khoan mở cửa lớp ra: 

- Chết rồi! Có phải anh vừa giặt áo bẩn rồi treo ở cửa sổ kia không?
Đang chịu đứng lớ ngớ run trong cơn gió lạnh từ cơn mưa thổi tới, cậu học trò lập cập xác nhận:

- Dạ...
- Thế sao anh không nói rõ cho tôi biết?
- Dạ thưa...
- Vào đi, không ốm ra bây giờ!... Tôi xin lỗi anh nhá!
* Phạm Quốc Bảo.

Chú thích:
[1] “Mùng 5 tháng Chín năm 1956: Hội Nghị Thống Nhất Ngôn Ngữ khai mạc tại trụ sở bộ Giáo dục…”trích trang 201, Hai Mươi Năm Qua, 1945-1964, Việc Từng Ngày, tác giả Đoàn Thêm
[2]có thể xem thêm vào chi tiết ở truyện ngắn “ Racoto Féringa”, trong tuyển tập Hốt Một Thang , Việt Hưng xuất bản năm 2006.
[3] Xin xem chi tiết thêm về nhân vật Vũ Khắc Khoan trong các bài tiêu biểu khác, như:
[4] có thể xem thêm bài tôi Khóc Đinh Ngọc Mô(14-7-1982), trang 79, trong cuốn Thơ, Hai Mươi Năm, Việt Hưng xuất bản, 2002.
[5] “parcorps”: Đấu tay đôi.











Tác phẫm đã xuất bản









1
Chiến Tranh Và Tuổi Trẻ Phương Tây
tuyển tập thư, dịch, Hồng Lĩnh, Sài gòn 1969






2
Năm Dài Tình Yêu
truyện dài, dịch, Hồng Lĩnh, Sài gòn 1969






3
Vực Hồng
truyện dài, (bút hiệu Phạm Hà Quân)
Thoại Ngọc Hầu, Sài gòn 1975






4
Cùm Đỏ
truyện ký, Người Việt, cali 1983






5
Cõi Mộng Du
truyện dài tập 1, Người Việt, Cali 1984






6
Đời Từng Mảnh
(Cõi Mộng Du tập II) Người Việt, Cali 1985






7
Dâu Bể
tuyển tập, Người Việt, Cali 1096






8
Mười Ngảy Du Ký
Việt Báo Washington DC, 1987






9
Gọi Bình Minh
truyện dài, Người Việt, Cali 1989






10
Người Việt Tại Đông Âu Và Vấn Đề Việt Nam
biên khảo, Việt Hưng, Cali 1990






11
Huynh Đệ Tương Tàn
biên khảo, dịch, Thế Giới, Cali 1991






12
Bây Giờ Nhật Bản Biết nói Không
biên khảo, dịch, Khai Sáng, Cali 1992






13
Dấu Vết Văn Hóa Việt Trên Đường Bắc Mỹ
biên khảo I và II, Việt Hưng, Cali 1995






14
Hồng Nhan Xuân
tuyển tập, Việt Hưng, Cali 2002






15
Thơ, Hai Mươi Năm
Việt Hưng, Cali 2002






16
Độc Lập Mỹ - Độc Lập Ta
tuyển tập, Việt Hưng, Cali 2004






17
Hốt Một Thang
tuyển tập, Việt Hưng, Cali 2006






18
Hương Đêm
tuyển tập, Little Saigon Cali 2008






19
Khuất Rồi Mấy Bóng Chim Di
tuyển tập, Người Việt, Cali 2010






20
Nhục Vinh
tuyển tập, Người Việt, Cali 2010






21
Tâm Tình Một Nẻo Quê Chung
tuyển tập, Người Việt, Bolsa 2015






PHẠM QUỐC BẢO VÀ VÒNG TRÒN LẤP LÁNH YÊU THƯƠNG



Nguyễn Thị Khánh Minh





Khi đọc xong phần 1 cuốn sách Tâm Tình Một Nẻo Quê Chung* (TTMNQC) của Nhà Văn Phạm Quốc Bảo, gấp sách lại, tôi chợt chú ý đến hình bìa. Ba giọt nước rơi xuống mặt nước tạo nên những vòng tròn lan tỏa đồng tâm. Có thể liên tưởng vô số ẩn dụ của ba hạt nước. Riêng tôi, từ nội dung cuốn sách TTMNQC, tôi lại ví von nó như Trời Đất và Con Người. Và tâm điểm trên mặt nước kia, không khác chi một cái nhân, đó là Gia Đình, rồi nhịp nhàng lan ra những vòng tròn nhân quần, xã hội… Cái nhân ấy càng mạnh khỏe, gắn bó, tốt đẹp, nhân ái, thì sẽ càng tác động hiệu quả vào những mối tương quan trong xã hội - con người với con người- từ đấy phát sinh lòng tương ái đến muôn loài cùng đang sống trên trái đất này, tôi tin thế, và niềm trân trọng của tác giả về gia đình đã khiến tôi càng tin hơn, như thế.


Tôi nhớ đến câu của Mẹ Teresa, Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình (tudiendanhngon.vn). Hãy nghĩ đến sức mạnh của nó, mỗi người yêu thương gia đình mình, biết được giá trị của nó thì sẽ biết quí tình của tha nhân, biết quí thì sẽ không sinh lòng xúc phạm. Mẹ Teresa muốn ta học được lòng nhân ái từ tình gia đình để bảo vệ thế giới này.

Trong phần 1 của tập sách, qua những e-mails trao đổi giữa cha mẹ và các con, toát ra tình thương trong những điều bày tỏ, cả trong sự dạy dỗ khuyên bảo, tôi nghiệm ra được một điều, cái gì làm cho con cái tin cậy và chịu nói chuyện với chúng ta? Đó chính là lòng yêu thương, bao dung, không mô phạm một cách cứng nhắc, tôn trọng ý kiến của chúng, và biết khen khi chúng đã làm điều gì đúng, cũng cần tính kiên nhẫn vì điều này không phải ngày một ngày hai mà có được. Một khi trẻ đã tin rồi thì chúng rất tự nhiên bày tỏ, như các con của tác giả. Có phải vì nhờ ông đã sống, nhìn ra tầm quan trọng của nền móng gia đình, trong đó yêu thương và bao dung là những viên gạch quyết định?
Và tác giả cũng xác quyết, để tạo không khí cho gia đình đúng nghĩa là một mái ấm thì, nhu cầu tâm sự là ưu tiên số một (tr.21). Suốt phần 1, qua những thư giữa ông và các con, ta thấy họ đã áp dụng được điều ấy đến mức, nếu không muốn nói là, tuyệt vời! Họ tâm sự với nhau tất cả mọi khía cạnh trong đời sống, việc làm, tình cảm riêng tư, nhân sinh quan…, điều này vô hình chung lại vẽ ra cho người đọc thấy được bức tranh khác biệt trong suy nghĩ và nếp sống của người trong nước và ở đây. Khác biệt để rồi dung hòa. Ở trang 23, tác giả đã ngỏ, “đọc vào cuốn sách mà quí vị có thể nhận ra trong này được một vài trường hợp tương tự như quí vị đã từng trải qua, hoặc quí vị nghiệm ra ở đây những gì có thể đáp ứng với tâm tình của quí vị, chia sẻ vài cảm xúc dù rất riêng tư nhỏ nhặt của quí vị… hay ít ra những trao đổi tâm tình của cuốn sách này nếu chỉ khiến cho quí vị thích thú trong giây lát một cách thanh thản thôi, thì đấy cũng là mong ước của tôi vậy.” Một ước mong rất đơn sơ giản dị khiêm cung.
Một tấm lòng nhân ái khiến tôi ngưỡng mộ, những đứa con của ông bà là do ông bà đã nhận nuôi, bảo trợ. Họ còn ở trong nước. Họ yêu quí và tin cậy phải chăng đó là do sức mạnh của lòng nhân ái của bậc cha mẹ mà họ có duyên được gặp gỡ trong đời? Từ điều đó khiến ông sảng khoái dí dỏm rằng, trong những bận rộn ấy “nhà tôi” như “thăng hoa” và người hưởng phước lộc lại chính là ông vì “happy wife, happy life” (tr.16). Trái của hoa nhân ái thật ngọt ngào và làm cuộc sống người ta có ý nghĩa đến thế.
Hãy nghe lời viết của người con, “Mỗi năm tết đến con lại nghĩ đến tuổi tác và sức khỏe của ba mẹ mà không biết làm sao hết…làm sao con giữ mãi ba mẹ lúc nào cũng tươi trẻ, minh mẫn. Con thật sự không thích tết đến… Nhạc sĩ Trần Long Ẩn có bài Mừng Tuổi Mẹ, ba mẹ hãy nghe cùng con để hiểu con thật sự “khó khăn” như thế nào!” (tr.82) Một câu mà bất cứ cha mẹ nào nghe thì cũng thấy như được nạp thêm năng lượng sống vậy.
Người đọc chắc sẽ như tôi, thích thú khi được, như thể trong một chiều thu đẹp, ngồi trước hiên nhà, ông bưng ra một chiếc hộp cũ kỹ và giở từng tờ thư của những đứa con yêu quí rồi thầm thì đọc cho bạn nghe… Rồi bạn sẽ cùng mỉm cười với những điều nhỏ nhặt nhất của cuộc sống gia đình, rồi bạn sẽ nhận ra, ôi những điều làm ta thanh thản hạnh phúc lại là những điều vô cùng đơn giản. Bạn sẽ thấy ông nở nụ cười sung sướng khi được chia sẻ cùng bạn. Và bạn sẽ chợt thấy chiếc lá thu đang rơi xuống kia nó làm bạn rung động biết bao nhiêu. Đó không phải là nhịp hỗ tương khi cùng nhau tâm sự hay sao!
Cũng từ nhu cầu tâm sự là ưu tiên số một, tác giả đã áp dụng vào tình huynh đệ, trong phần 2, những buổi nói chuyện với em trai, qua đó ông đã phác thảo được gần như toàn cảnh nếp sống văn hóa của người Việt, trong tâm trạng của người con dân ly hương, tha thiết muốn bảo tồn gìn giữ nếp nhà. Này, khách đến chơi nhà, không trà thì bánh…, miếng trầu là đầu câu chuyện, ông bà ta tiếp khách là thế, “anh sắp sẵn trà đợi em đến đây” (tr.132), nếu bạn là người em, bạn có thấy ấm áp vì câu nói ấy không? Rồi miên man nghe ông anh giải thích, trồng trà ở Việt Nam, pha trà, hồn trà… Trong thời đầy căng thẳng này, có một buổi thong dong nghe người anh cả trầm trầm kể chuyện như vậy thật như níu lại được chút thời gian. Biết được cái cần thiết “…(bởi mỗi năm chỉ có vài ngày giỗ kỵ…) để cho con cháu có dịp… nhận biết và gắn bó nhau qua mối liên hệ gia đình thân thuộc nội ngoại…, để chúng nó được tự nhiên gặp gỡ… chuyện trò, trao đổi những kinh nghiệm học hành, cởi mở tâm tình mà làm quen dần với vấn đề giao tế rộng ra ngoài xã hội…” (tr.138). Tôi cũng đồng ý đấy là nếp mà những gia đình ở đây nên để ý và ráng duy trì, một nét đẹp của văn hóa Việt giúp các con chúng ta ý thức được việc nhớ đến ông bà tổ tiên qua những ngày giỗ tết, mà trong cuộc sống tất bật đã cản trở rất nhiều những cuộc sum họp đại gia đình. Từ câu chuyện văn hóa, ông cũng đã phác thảo một cách tổng quát lịch sử Việt Nam, đặc biệt là thời huyền sử, nhắc nhở chỉ với tâm niệm Chim có tổ, người có tông, câu ông đã dùng để làm tiêu đề cho đoạn này, với tiêu chí đó đã khiến ông có một cái nhìn vị tha, “… đương nhiên đầy rẫy những sai khác… Nhưng nếu nếp văn hóa ấy luôn được bồi đắp một cách tích cực thì những sai khác sẽ tự động được điều chỉnh…” (tr.151). Tức là để bảo vệ Tổ và Tông ấy, nên chăng dùng văn hóa dân tộc, dùng nếp nhà để điều hòa những sai trái, xung đột? Nhìn rộng ra trong khung cảnh thế giới hiện nay, những nhà hòa bình đều kêu gọi giải quyết những tranh chấp trên bàn hội nghị chứ không phải nơi chiến trường. Cũng với ý như câu nói của mẹ Teresa ở trên. Hãy nhân lên lòng yêu thương gia đình để khắp nơi hứng được bóng mát của nó.

Và để sắp xếp lại kỷ cương cho một xã hội bời bời đạo đức như trong nước hiện nay, dường như ông muốn nương tựa vào Nguồn, tôi cảm thấy trong lòng những con chữ ở đây có gì đó man mác, bâng khuâng khi ông nhắc đến câu thơ của Huyền Không, “mái chùa che chở hồn dân tộc / nếp sống muôn đời của tổ tông” (tr.151). Hồn dân tộc… Tự nhiên tôi có chút băn khoăn và buồn bã…
Ở phần 1 tác giả cho người đọc ấm áp theo hương bếp lửa yêu thương của tình gia đình.
Phần 2, nơi mà “Ai đưa ta đến chốn đây…” tác giả ngồi ôn lại và thẩm định những giá trị văn hóa Việt Nam trong tâm trạng của một kẻ ly hương, vừa chọn nơi định cư mới là nhà vừa nhắc nhau giữ gìn truyền thống. Thiết nghĩ một nhắc nhở là một góp phần giữ gìn di sản văn hóa dân tộc, đó là điều mà chúng ta chí ít còn có thể tự hào. Ở đây thấy thật rõ tâm tư của tác giả, vừa khắc khoải vừa mong mỏi đến thiết tha, bảo tồn nếp sống văn hóa Việt, mà ông cho rằng đó là một “quê chung” cho bất cứ người Việt nào đang sống ở bất cứ đâu trên trái đất này. Mới hiểu được tâm ý của ông khi dùng câu thơ của Huy Cận, Tâm Tình Một Nẻo Quê Chung làm đề tựa cho cuốn sách mình.

Ở phần 3, như Nhà văn Phạm Kim đã nhận xét trong bài giới thiệu tác phẩm mới “… Phần 3 lại sôi nổi hẳn lên, dàn trải tấm lòng văn chương của một nhà văn… tác giả thể hiện tấm lòng thiết tha với bạn, với đời sống văn chương…” (Quán Văn-Người Việt Sep 30, 2015)
Vâng, vòng tròn yêu thương của Phạm Quốc Bảo còn lấp lánh vòng tay của bạn hữu. Với giọng đầy hoài niệm, ông nhắc đến những ngày tháng cũ, thời gian mà ông được bay nhảy chia sẻ với bạn hữu, vui đoàn tụ hay mất mát chia ly, đều với nhiệt huyết tuổi trẻ. Còn bây giờ… có một câu làm tôi rất cảm động, “… cái cảm nhận về chính tôi cũng mang một màu sắc hiu hắt trong tâm tưởng của chính mình…” để rồi ông đẩy đến mấy câu thơ của Tản Đà, “Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà / Đường xa người vắng bóng chiều tà / Một rẫy lau cao làn gió chạy / Mấy cây thưa lá sắc vàng pha /…” (tr.240) Có phải tâm trạng ông nhớ về bạn, tìm về nương náu trong tình bạn cũng giống như đang trở về thăm nhà nơi quê xa dưới làn mây trắng kia? Một tình cảm thật đẹp, quyến luyến đến dằng dặc. Buồn thật xa vắng mà cũng gần gũi như một sớm mai thức dậy giật mình lau trắng trong tay… (Trịnh Công Sơn) Chả vậy mà ông đã thố lộ, “… bạn hữu đối với cá nhân tôi xưa nay vẫn được mỗi lúc mỗi trân quí hơn lên, bổ túc cho cái vòng thân mật bản thân bên cạnh gia đình của mình… đối với tôi bạn hữu là một niềm hạnh phúc vô biên…”(tr.198-199), chỉ đôi ba phút giây với bạn thân mà đã chạm được tới vô biên nhịp đập của hạnh phúc ấy rồi… Hãy đi bên cạnh và trở thành bạn của tôi (Albert Camus). Cõi vô biên ấy là cái không gian Bên Cạnh mình, nơi, có người bạn…

Và. Không phải tình cờ, tập sách này được khép lại bởi Phần Phụ Lục trong đó có bài phỏng vấn blogger Người Buôn Gió của ký giả Hà Giang. Có chủ ý của tác giả đấy. Bởi ở đây ta lại thấy ánh lấp lánh của tình phụ tử, tình gia đình.Tôi lại nói thêm một lần nữa, cái tình ấy là cái nhân của mọi tương quan trong xã hội. Cái tình ấy là ánh sáng khiến cho mọi suy nghĩ và hành động có được từ tâm. Cái tình ấy là mũi tên yêu thương chỉ đường cho ta đi để ta biết rõ nơi thanh bình kia, ta đến…
Xin đọc những lời của Người Buôn Gió, “…một hôm tôi nhìn con tôi đang nằm, nó mủm mỉm, nó cười…” (tr.269) “…tôi nghĩ bây giờ mình sinh con mình ra rồi, và xã hội nó như thế này, để cho con mình nó tồn tại, thì mình dạy cho con mình cái gì?…” (tr.270) “…Sau đó tôi nghĩ mình không phải là muốn truyền bá tư tưởng, mà chỉ muốn nhân rộng suy nghĩ của một người cha, muốn những điều tốt cho con mình, cho thế hệ sau, nhân rộng nó đi khắp nơi, thì tôi chọn cái tên Người Buôn Gió, tức là tôi mong muốn cái tình cảm của một người cha, trách nhiệm với người con, với xã hội được nhân rộng…” (tr.271)

Rõ ràng nhờ ánh sáng của tình gia đình đã đưa blogger này đi đến việc dùng ngòi bút của mình với mong muốn cải cách xã hội cho tốt đẹp hơn. Đây là một minh chứng cho nhân sinh quan của Nhà Văn Phạm Quốc Bảo qua những tâm tình của ông trong tập sách này.
Khởi đi từ đẹp đẽ của tình gia đình với yêu thương và bao dung, ông muốn gửi lời nhắn nhủ, hãy trọn vẹn từng phút giây hưởng hạnh phúc từ những điều nhỏ nhặt gần gũi trong tầm tay, rồi ra ta sẽ được sống trong tâm ac lạc do lòng Nhân Ái mang lại. Nhân Ái, như những vòng tròn trên mặt nước kia nó sẽ lan tỏa ra xa, xa mãi, nhưng vẫn đồng tâm quanh ánh lấp lánh yêu thương ấy.


Santa Ana, Ngày 9 tháng 10, 2015
Nguyễn thị Khánh Minh


* Tâm Tình Một Nẻo Quê Chung, Văn, tác phẩm mới của Nhà Văn Phạm Quốc Bảo, Người Việt Books xuất bản tại Hoa Kỳ, 2015.













Ảnh: Trần Triết
















Nhục Vinh



“Nhục vinh vinh nhục đối đầu
cho ta sống trọn trước sau một đời.
Nếu toàn mạc mặt đãi bôi
thì ai trân trọng đắp bồi mãi đây? ”

Phạm Quốc Bảo.


- Ông có phải tên Nam không?
- A..Nhìn khuôn mặt ông, tôi thấy ngờ ngợ.
- Có lẽ cũng phải trên bốn mươi năm rồi, chúng ta chưa gặp lại nhau..Hưng. Hưng ‘tốc’ đây!
- Ối! Thật không thể ngờ.
- Tôi già đến độ chẳng nhận ra được sao?
- Gớm! Làm cứ như ‘ông’ lớn hơn tôi nhiều lắm vậy. Có điều, lẽ ra chúng ta đã phải gặp lại nhau trong gần ba chục năm nay rồi chứ! Thế mà..
- Lẽ ra là vậy. Nhưng từ ngày qua đây, tôi cứ chết rí mãi ở một thị trấn nhỏ vùng đông- bắc. Xin lỗi trước: Quả thật, thâm tâm tôi cũng không muốn gặp mặt bất cứ ai là bạn cũ trước Bảy Lăm.
- Nhưng còn bây giờ?
- Về hưu rồi. Con cháu thì vì công ăn việc làm và tâm tình của chúng mà tứ tán khắp nơi. Vợ tôi nhất định đòi về ở dưới Nam Cali này để được gần gũi anh chị em, họ hàng...Anh có gì bận bịu ngay bây giờ không?
- Chẳng có gì gấp cả.
- Thì mình vào cái quán kia, nhâm nhi với nhau một ly cà phê?... Sao, bạn sang năm nào?
- Sau Bẩy Lăm tôi ở tù trên năm năm, ốm xuýt chết một năm rưỡi họ mới thả ra. Rồi gặp may, chỉ vài tháng sau là vượt biển thoát. Sang đây và định cư tại vùng này luôn từ giữa 81 đến giờ.
- Việc làm ăn vẫn ổn chứ?
- Đại khái là sống được: Về hưu trên một năm nay rồi nhưng may mắn là hiện vẫn còn được làm bốn tiếng mỗi ngày, để thêm chút ít chi dụng hằng tháng, và lại có cơ hội hoạt động đều đặn hằng ngày, cho thể xác đỡ lười biếng mà tâm trí bớt phải bấn bíu vẩn vơ.
- Tôi cũng vậy: Làm việc thiện nguyện, tuần mấy ngày và mỗi ngày vài giờ.
- Việc thiện nguyện của cộng đồng à?
- Không. Thiện nguyện chuyên môn cho hãng của Mỹ…Mà này, anh vừa nói đến cộng đồng. ..Nhưng mới gặp lại nhau, tôi đã vội hỏi han vào chi tiết thì hơi kỳ. Tuy nhiên, vì đang nôn nóng trong lòng và cũng cậy vào tình thân cũ từ thời cuối 1950 đầu 1960, tôi có thắc mắc điểm này. Nếu có gì khiến cho anh không vừa lòng lắm, xin bỏ qua cho.
- Được rồi. Chúng mình đã vốn quý trọng cái thuở còn là học trò với nhau. Hơn nữa, về già thì tình bằng hữu tôi lại càng thấy cần thiết hơn bao giờ.
- Thêm nữa: anh sống ngay tại đây lâu rồi thì chắc thông suốt hơn tôi nhiều. Điều tôi muốn hiểu rằng khi đề cập đến bất cứ ai là người có một chút tiếng tăm, trước đây hay hiện giờ, người ta hầu hết đều tỏ ra chỉ muốn bươi móc để chê bai, để bêu rếu. Tại sao vậy? 
- Mới chân ướt chân ráo sang bên miền Tây Nam này tái định cư, gặp phải hiện tượng này, anh chắc thấy hơi ngán ngẩm chứ gì?
- E ngại thì đúng hơn.
- Đã từ lâu, bạn hữu sống ở những tiểu bang xa về đây chơi, họ vẫn thường bầy tỏ với tôi cái cảm tưởng đại khái như ‘ông’ cả. Xem ra đúng là có nhiều tiêu cực hơn ở bề mặt sinh hoạt cộng đồng này nói chung. Tuy nhiên, nhân dịp anh hỏi thì tôi cũng muốn trình bầy cho có lớp lang để chúng ta dễ thông hiểu một cách hợp lý và chấp nhận được. Như vầy nhá. Đầu tiên, đây là xứ tự do, chính chúng ta đây ai cũng là những người đều đang vừa sống lại vừa phải học hỏi để tôn trọng và thực thi tự do - dân chủ - nhân quyền ngay trong đời sống hằng ngày của chính mình. Nếu đồng ý về cái căn bản này, chúng ta đương nhiên phải chấp nhận ý kiến của bất cứ ai khác, cho dù những ý kiến ấy trái ngược hẳn lại với chủ kiến của mình.
- Nhưng đối với những ý kiến mà nội dung chỉ có tính cách mạ lỵ thì sao?
- Theo tôi, đại khái có mấy trường hợp thường gặp về những ý kiến có tính cách bêu rếu: Một là họ vốn mang tâm trạng uất ức dồn nén từ quãng đời quá khứ của từng cá nhân một mà nay gặp dịp là họ nói năng vung vãi, cho hả. Hai là xuất phát từ tâm lý muốn ‘làm nổi’, họ phát biểu lung tung nên lộ rõ căn bản thiếu hiểu biết một cách chín chắn của chính cá nhân họ. Ba là những người‘thừa nước đục thả câu’, họ nêu ý kiến vì sẵn có ẩn ý hay bị chi phối bởi một mục đích riêng nào đó, chỉ nhằm gây ‘hoả mù’ dư luận. Khi phân biệt và xếp loại được như vậy là chúng ta dễ dàng bình tĩnh để có nhận định chính xác được ngay(1).
- Anh dẫn giải có lý đó. Nhưng rõ rệt là trong một năm sang đây sinh sống, tôi thấy số lượng ý kiến có tính cách bêu rếu vẫn trội hơn hẳn.
- Đúng. Và như thế ít nhất là phía có ý kiến đúng đắn bị ‘lép vế’, không đủ khả năng tạo thế cân bằng cho dư luận, nói chung. Có nghĩa là cái mặt tiêu cực của cộng đồng chúng ta còn nặng nề quá. Có nghĩa là còn quá nhiều những mặc cảm đè nặng trong tâm tư của đa số chúng ta mà chưa giải tỏa được bao nhiêu, để làm nổi bật lên cái viễn kiến đúng đắn, cái hành trình gồm nhiều giai đoạn trong cuộc đấu tranh cho tự do-dân chủ và nhân quyền của chúng ta, của dân tộc Việt ta ...
- Ồ. Không ngờ mới được gặp lại nhau mà anh đã khơi đúng được manh mối khúc mắc này. Hẳn là anh đã có suy nghĩ kỹ từ trước rồi.
- Ai cũng có thể suy nghĩ chín chắn được cả, anh ạ. Nhưng tôi cho rằng vấn đề ở đây là suy nghĩ theo chiều hướng nào, với mục đích gì.
- Phải. Thật tình tôi thú vị và muốn được gặp anh lại, càng sớm càng tốt. Vì có một số ấm ức mà cả mấy chục năm nay tôi tự mình chưa thể giải toả nổi.
- Chẳng gặp được nhau thì thôi, chứ đã gặp được rồi thì phải gặp dài dài, không thì trễ mất. Chúng ta đang về già cả rồi, ghi nhớ gì thì cứ cùn nhụt đi mà mau quên lắm!
- Tuần sau, được không?
- Sao không! Trao đổi số phôn đi, rồi thủng thẳng hẹn lại cho chắc ăn.

*

- Quán này tương đối sạch sẽ, yên tĩnh. Hai đứa mình ăn sáng với nhau, và thong thả chuyện trò.
- Này, tôi hỏi thật nhá: Sang được đây cả trên ba mươi lăm năm nay rồi mà sao cậu lại trốn biệt luôn vậy? Thỉnh thoảng gặp bạn cũ thời trung học, ai cũng bặt tin của cậu cả. Cứ tưởng là...
- Tôi đã mất hút trên cõi đời này rồi. Phải không?
- Thì đại khái bằng hữu đều nghĩ vậy.
- Anh cứ thử hồi tưởng lại xem: Trưa ba mươi tháng Tư, đang lênh đênh trên biển Đông mênh mông, nghe thấy lệnh đầu hàng ở SàiGòn loan qua làn sóng vang vang, ai nấy đều lặng người đi. Thế rồi tầu cập vào Subic Bay, hải cảng Mỹ thuê dài hạn của Phi Luật Tân, hát bài Quốc ca lần cuối trong nước mắt tức tưởi để hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống, mới được bước vào đất đảo của người ta. Cái tâm trạng tủi nhục ấy đã hun hút dính theo tôi từ đó cho đến giờ, không hề nguôi ngoai (2).
- Và cứ thế, cậu sống lẩn khuất mãi trong cái xã hội Mỹ mênh mông này?
- Rồi đến nay, vì hoàn cảnh gia đình, tôi mới bất đắc dĩ dọn về để cư ngụ trong khu vực dân cư tập trung nhất của cộng đồng Mỹ gốc Việt, là đây.
- Còn tôi, tôi ở lại đi tù thì có khác gì cậu đâu. Đó là thời gian một hai năm đầu lặn ngụp trong mặc cảm ô nhục, từ chuyện đói rét triền miên ám ảnh đến những hành hạ của tâm trí hằng ngày...Nhưng may mắn là sau đó thì chính con người của mình nó dần dần tỉnh trí lại, và thực tế cuộc sống tù đầy đã đánh thức nhận định của mình. Tôi mới vỡ nghĩa ra rằng cá nhân mình, gia đình mình và ngoài xã hội suốt hai mươi năm Miền Nam Việt Nam của mình cái gì cũng đều đã phát triển, mặc dù phát triển một cách rất ư là ỳ ạch nhưng rõ rệt là chúng ta đã phát triển một cách tự do hơn hẳn họ, phát triển thành một căn bản văn hóa vững chắc. Mình thua họ chỉ vì ở cái thế chiến lược quốc tế nó xếp đặt với nhau như vậy, nó vượt khỏi sức lực đề kháng của dân miền Nam lúc đó; nhưng xét vào sâu những khiếm khuyết chi tiết hơn nữa thì các chính phủ ở miền Nam V.N. đã không giúp dân chúng hiểu rõ được thực chất của Cộng sản và nhất là bản chất của con người miền Nam mình nói chung xưa nay vốn sẵn không thể dối gạt và tàn nhẫn vô nhân như họ được. Ngoài ra, mình còn thấu hiểu thêm được rằng dân Miền Nam sau 75 mới khốn khó, chứ trên hai muơi năm trước đó dân chúng Miền Bắc đã phải khốn đốn triền miên hơn thế nhiều rồi, trong một cái xã hội bị bưng bít mà người dân thì luôn quằn quại chìm đắm vào bầu môi sinh ô nhiễm đến cùng cực.. Và nếu cái xã hội cứ đang vận hành như bây giờ ở trong nước thì cả dân tộc Việt Nam ta ắt phải chịu khốn nạn mãi, cho đến khi mất luôn đi cái đặc chất của nòi giống Việt!
- Cho nên người ta mới tìm đủ mọi cách rời khỏi nước?
- Đúng.
- Thế mà ra đuợc ngoài này rồi, cộng đồng tị nạn người Việt ta trên ba mươi lăm năm nay đầu óc chả khá gì hơn xưa.
- Đầu óc muốn khá ra thì cũng phải nỗ lực tích cực dài hạn để mà học hỏi, rồi cũng phải tự mình dám can đảm biến đổi lấy mình, theo chiều hướng muốn mình phải đoàng hoàng hơn, muốn mình được hiểu biết đúng đắn hơn, trong bối cảnh tiến bộ chung của thế giới ngoài này chứ.
- Với mục tiêu như thế thì tôi thấy từ mốc điểm Ba mươi tháng Tư 75 tới giờ là gần bốn mươi năm rồi, đầu óc chúng ta chả tiến bộ được bao nhiêu.
- Rời khỏi đất nước với hai bàn tay trắng và mọi điều kiện sống trong hoàn cảnh tái định cư, chúng ta đều phải bắt đầu lại từ số không. Như vậy theo anh, ta phải làm gì trước tiên?
- Dĩ nhiên là phải đâm đầu vào kiếm sống trước đã!
- Hẳn vậy. Và cho đến ngày nay, cơm ăn áo mặc đã thư thả rồi, vấn đề cư trú tạm ổn rồi thì.. thì làm gì nữa?
- Chắc anh muốn nói ‘phú chi’ rồi mới đến ‘giáo chi’?
- Xin lỗi bạn, tôi thường suy xét từ thực tế: Đói rã họng thì việc cụ thể trước hết là phải kiếm được gì bỏ vào bụng cái đã. Sau đó rồi mới thong thả nhìn ngó chung quanh, học hỏi và suy nghĩ, tự xét.Theo tôi dự liệu, muốn có một đời sống vật chất tạm ổn thì đòi hỏi nỗ lực và thời hạn nhiều lắm là một thập niên, nhưng còn muốn đổi mới được cả tư tưởng và quan niệm cho phù hợp với bước tiến của xã hội mới thì việc đầu tiên là phải dần dần tự gột rửa những mặc cảm của thân phận mình trước đã rồi sau đó là tái lập viễn kiến, hoạch định đường hướng cho các thế hệ mai sau... Như vậy tối thiểu cần tới gấp nhiều lần hơn thế nữa về mức kiên trì và thời gian. Anh nghĩ sao?
- Về vận hành đổi mới thì vật chất bao giờ cũng là mở đầu và dễ biến chuyển hơn nhiều so với những gì trừu tượng, thuộc về lãnh vực tư tưởng, ý niệm và quan niệm.
- Và thực tế vận hành này cũng là phù hợp với nhu cầu mỗi lúc một rõ ra, của đời sống chúng ta ở ngoài này, trong gần bốn mươi năm chúng ta thành lập cộng đồng gốc Việt ở đây. Rồi trên dự trình tiến bộ thì chỉ khi có sự hiện diện lớn mạnh của những cộng đồng gốc Việt ngoài nước để hỗ trợ và tác động hữu hiệu thì dân Việt trong nước lúc ấy mới vững lòng hừng chí mà trực tiếp vùng lên, đánh dấu một vận hội mới, tạo cơ hội và thúc đẩy tòan thể chúng ta tích cực tìm ra được con đường trường tồn mới cho dân tộc trong tương lai.
- Nói như vậy tức là anh mặc nhiên đồng ý chấp nhận cứ để cái trò chỉ thích mạ lỵ người khác như đang diễn ra ở cộng đồng này, hiện nay?
- Theo tôi nghĩ, cậu nên phân biệt cho rõ: Đấy là mấy hiện tượng thiếu tự trọng, thiếu hiểu biết, chỉ đưa đến tác dụng bêu rếu cộng đồng. Nhưng mấy hiện tượng ấy lại rất cần thể hiện ra cho hết đi, cho hả hơi đi. Còn bên cạnh đó là những hoạt động tích cực xây dựng của cộng đồng.
- Chứng cớ ở đâu mà anh có thể khẳng quyết là vậy?
- Cộng đồng nào mà chả bao gồm cả những yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Có điều dân cư của cộng đồng ấy có biết tự tìm cách phát triển những yếu tố tích cực (chẳng hạn như đầu óc cởi mở, khoan dung, cầu tiến), đồng thời cũng phải nỗ lực làm thui chột đi những yếu tố tiêu cực (chẳng hạn như thái độ thiếu hiểu biết, quan niệm cực đoan quá khích) của cộng đồng mình, hay không. Và cụ thể nhất là cậu có biết được cộng đồng di dân nào ở lịch sử xã hội Mỹ này mà trên ba mươi lăm năm lại xây dựng và phát triển mọi mặt được nhanh chóng như cộng đồng gốc Việt mình hiện nay chăng?
- Ồ...Về điểm này, trong nhất thời tôi phải đồng ý với anh. 
- Cộng đồng nào mà chẳng thường xuyên xẩy ra những lộn xộn, trở ngại,. Anh chỉ ra cho tôi đi! Vấn đề là chúng ta có dám thẳng thắn vạch trần ra được những sai sót ấy, một cách chi tiết ngọn nguồn, để mà tự tìm được phương cách điều chỉnh và sửa chữa. Hay là chúng ta chỉ chủ tâm kể lể để chê trách dè bỉu, thậm chí để hạ nhục người khác mà thôi?
- Rồi. Bây giờ lấy sự kiện cụ thể, như lần bầu cử bán kỳ(3), thứ Ba, ngày mùng 2 tháng 11 năm nay (2010) đây, cá nhân anh nghĩ sao?
- Chắc cậu muốn nói rằng có nhiều ứng viên gốc Việt, nhiều hẳn hơn trước đây, nhưng số lượng đắc cử lại quá khiêm nhường? 
- Là vậy.
- Nhận xét tổng quát, và trong nhất thời, của cá nhân tôi thì đầu tiên là chưa bao giờ lại nhiều ứng viên trẻ, hầu hết thuộc thế hệ một rưỡi và hai của cộng đồng gốc Việt, đến như vậy. Tức là nhân cuộc bầu cử bán kỳ năm nay, hai thế hệ này rõ rệt là bầy tỏ được sự tự tin và muốn chứng tỏ sức mạnh của họ trên bước đường xông xáo vào sinh hoạt chính trị chính dòng của xã hội Mỹ. Hai nữa, mặc dù tỷ lệ đi bầu của dân cư gốc Việt vẫn còn khiêm nhường nhưng hầu hết cử tri gốc Việt đã thêm nhiều người có tư thế độc lập, tỏ ra khá sáng suốt và nghiêm chỉnh khi quyết định bằng lá phiếu của họ. Đây là hai điểm đáng mừng.
- Nhưng sao đa số lại thất cử?(4)
- Theo tôi, thất cử là do sự chuẩn bị chưa đúng mức cần và đủ của họ về tư thế, về bề dày hoạt động cụ thể hữu hiệu trong quá khứ cho nhu cầu của dân cư ở địa hạt bầu cử. Họ còn yếu kém về sự hiểu biết chính xác các thành phần cử tri của họ, về tính chuyên nghiệp hoạt động chính trị trong xã hội Mỹ; họ thủ đắc những trò ‘ma giáo’ nhiều hơn là đường lối tranh cử một cách đường hoàng mà khôn ngoan. Nói chung, chính đa số chúng ta còn chưa cởi mở đủ, để thi hành đúng, về nếp sinh hoạt dân chủ của xã hội này.
- Cộng đồng ta thất bại rõ...
- Xin phép. Cách phát biểu kiểu chọc giận của cậu vừa không đưa ra những luận cứ rõ rệt mà lại vừa khiến cho người nghe dễ hiểu lầm là cậu chỉ muốn khơi khơi chỉ trích một cách bá vơ. Tôi phải nói thẳng như vậy, vì tôi biết cậu không để bụng giận gì tôi.
- Đúng rồi. Nhưng ý của cậu thì sao?
- Tôi cho rằng các cụ ta xưa nay nói rất đúng, trong trường hợp này: Thất bại là mẹ thành công. Cộng đồng của chúng ta đang trong giai đoạn tập dượt để thực sự tham gia vào dòng chính. Có nghĩa là yếu kém của các ứng viên lẫn của cử tri gốc Việt lộ ra ở lần bầu cử bán kỳ này nếu đuợc xem như những bài học, thì chúng ta phải chịu khó phân tích để biết thật rõ đến ngọn nguồn những thiếu sót của chính mình mà tìm cách điều chỉnh và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Nếu đuợc như vậy, tôi nghĩ trong mùa bầu cử chính vào hai năm nữa, kết quả sẽ phải khá hơn.

*

- Cảm ơn sự thông cảm mà bạn kiên nhẫn để nói chuyện với tôi. Nhưng có lẽ bạn cũng thấy rằng cách phát biểu của tôi có chiều hướng như muốn dè bỉu người khác, phải không?
- Có vẻ như vậy.
- Nhờ những lời dẫn giải chân thành vừa qua của bạn, tôi tự xét thấy là bản thân tôi xưa nay quen ôm nặng một nỗi ấm ức nên khi đưa ra những nhận xét đều ra vẻ gay gắt mà ‘vơ đũa cả nắm’. Bạn có thể giúp tôi bằng cách thẳng thắn phân tích thêm vào sâu hơn chút nữa chăng?
- Tôi cho là cậu thực sự còn bị ám ảnh quá nặng nề bởi cái hận ô nhục từ sự kiện Ba Mươi Tháng Tư Bẩy Lăm, khi cùng với những người đồng cảnh ngộ hát lên bản Quốc Ca trong lúc hạ xuống lá cờ vàng ba sọc đỏ trên chiếc tầu di tản năm xưa.
- Ờ..
- Thời điểm Ba Mươi Tháng Tư, tất cả chúng ta đều mang mối hận ô nhục đó cả. Có điều, mỗi hoàn cảnh mỗi khác.
- Thế mà xem ra bạn đã dẹp bỏ được rồi đấy?
- Thành thật mà nói, nếu thực sự được như cậu vừa nhận xét thì tôi hết sức mừng... Có điều, tôi nhìn lại lịch sử dân tộc mình thì thấy rằng trên mười thế kỷ dân tộc ta bị người phương Bắc liên tiếp đô hộ, thế mà sau đó với các nhà Ngô-Đinh-Tiền Lê -Hậu Lý- Trần...,các triều đại này đã xác lập được nền tự chủ kéo dài cho đến gần mười thế kỷ kế tiếp, là nhờ ở đâu? Cậu có nghĩ ra không ? Còn theo tôi thì nhờ ở rất nhiều yếu tố quật cường của dân Việt chúng ta từ thuở ấy.
Chẳng hạn như suốt thời kỳ ấy, đã có liên tục không biết bao nhiêu những cuộc vùng dậy đòi độc lập của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng Bố Cái Đại Vương, Lý Bôn, Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục Dạ Trạch Vương, Mai Hắc Đế, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ.(5) Những cuộc vùng dậy này là một diễn trình tập dượt, biết bao nhiêu tiền nhân đã phải nhảy vào chỗ chết để mong tìm ra đường sống còn, để nỗ lực vượt thắng cái nỗi nhục bị đô hộ mà hướng tới niềm vinh dự khi thành tựu được nền độc lập tự chủ của dân tộc.
Chẳng hạn như nước Việt ta thuở ấy hiện diện song song với chữ viết và tiếng nói của người Trung Hoa bó buộc dân ta phải sử dụng, trong khi tiếng Việt vẫn còn được dân ta ăn nói thường ngày và phổ cập rộng khắp trong dân gian bằng những ca dao-tục ngữ và truyện cổ tích, bằng mọi hình thái của văn chương truyền khẩu như hát ru, hát rong, hát xẩm, các điệu hò, quan họ, ca kịch...Vì thế đến thời độc lập sau này, nhờ vào cái vốn tiếng Việt sẵn có ấy, thì cái nếp quật cường kia mới đủ sức thúc đẩy giới trí thức chịu khó sáng tác ra chữ Nôm (hình thành từ gốc là chữ viết Trung Hoa). Rồi khi mấy vị linh mục ngoại quốc đến truyền đạo Ky Tô giáo họ đã dựa vào mẫu tự La Tinh mà phiên âm ra tiếng Việt để viết thành kinh thánh Việt ngữ đầu tiên cho lớp giáo dân tân tòng đọc, từ độ thế kỷ thứ 15, 16. Cái sáng tác mới mẻ này của mấy ông cố đạo đã phù hợp với chiều hướng phát triển chung của dân Việt ta hồi ấy. Chính nhờ thế mà chữ Việt viết theo mẫu tự La tinh ấy được dân ta tự động phổ biến mà cứ thế loan truyền, cứ thế mà biến đổi, điều chỉnh và phát triển mãi: Khi người Pháp sang xâm chiếm nước ta vào giữa thế kỷ 19, họ thiết lập nền tảng đô hộ mới, thì dĩ nhiên là họ đã đưa ra rất nhiều những điều khắt khe trù dập; nhưng trong đó lại có cả sự kiện bãi bỏ các kỳ thi Nho học và chính thức hoá cho việc sử dụng chữ Việt viết theo mẫu tự La tinh ở khắp nước, vào cuối thế kỷ19 đầu thế kỷ 20. Loại chữ viết này lúc ấy mới có dịp thuận tiện (thuận tiện là do chính dân ta muốn sử dụng) mà trở thành chữ Quốc ngữ áp dụng rộng khắp và liên tục phát triển cho đến tận bây giờ. Theo tôi nhận xét: Ông cha chúng ta thuở ấy nếu đầu óc không sáng suốt mà cứ bo bo quá khích thì đã chắc gì chúng ta ngày nay có thể sử dụng phổ biến được lọai chữ Quốc ngữ viết và đọc theo mẫu tự La tinh!
Tóm lại, như trên là những điểm chính yếu và căn bản nhất mà tôi có thể thổ lộ ra đây với cậu. Và lẽ dĩ nhiên còn nhiều điều khác nữa, nhưng trong nhất thời chúng ta chưa soi rọi đủ để mà thấy hết được... Tuy nhiên, tôi mong cậu hiểu rằng muốn lấy lại được độc lập khi hội đủ điều kiện thì trên một ngàn năm bị Bắc thuộc, tổ tiên chúng ta đã phải kiên trì nuôi dưỡng mầm tự chủ và luôn phát triển cho bằng được, bằng đủ mọi cách, để liên tục tạo thành cái nếp sống văn hoá riêng biệt của dân tộc. Nghĩa là ông cha tổ tiên ta đã nghiền ngẫm, nghiền nát nỗi nhục hận bị đô hộ cho nó tiêu hoá đi trong nỗ lực xây dựng cái nền móng tự chủ, nghĩa là chính các ngài đã chủ động vùng đứng dậy bao nhiêu lần để kiên trì tìm đến vinh quang khi giành giật lại được hình thức độc lập dân tộc. Nghĩa là nhờ vào cái nhục ngụp lặn mãi cả trên một nghìn năm Bắc thuộc đó, tổ tiên chúng ta mới kiếm ra đuợc cái vinh độc lập cho dân tộc. Theo tôi, như vậy là các cụ đã vốn sẵn tự chủ, không để nỗi nhục dìm mình xuống đất đen, mà biết biến cái nhục thành niềm vinh quang cho dân tộc được trường tồn một cách xứng đáng. Tôi cho,Việt tức là vượt. Ít nhất lịch sử dân tộc Việt ta đã thủ đắc được tính chất cốt lõi ấy.

*

- Thế nhưng bây giờ?
- Bây giờ, trong bước tiến bộ chung của nhân loại, dân tộc ta với biến cố Tháng Tư 1975 dù muốn hay không thì cũng đã bắt buộc phải bước sang một thế sống còn mới. Nhờ vào những điều kiện mới được sống ở ngoài này, 'hít thở' trong một môi sinh cởi mở tự do nhất của loài người hiện nay, nên chúng ta có thể dễ khách quan “ôn cố” để “tri tân” hơn.
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn chúng ta nhìn lại hoàn cảnh của thế giới vào những thập niên đầu thế kỷ 20, cuộc cọ sát của luồng tư tưởng thăng tiến, và nhờ mức tiến bộ của kinh tế- khoa học- kỹ thuật áp dụng vào xã hội loài người mà hai cuộc thế chiến I và II đã loại bỏ đi cái chủ trương 'duy dân tộc' (đứng đầu là Đức và Nhật), và đồng thời lại đẻ ra hai khối tư bản-cộng sản đua nhau thi thố để phân thắng bại. Đến đầu thập niên 1990, phe tư bản tồn tại được, nhờ vào cốt lõi vấn đề là luôn luôn biết điều chỉnh việc thực thi ý niệm tự do-dân chủ thăng tiến một cách cụ thể vào hoàn cảnh xã hội.
- Còn hoàn cảnh đất nước và dân tộc mình?
- Vị trí địa dư của nước Việt ta từ xưa đến nay vẫn là nơi chốn tranh chấp ảnh hưởng của quốc tế: Lãnh địa lẫn dân số thì nhỏ bé ít oi nên suốt dòng lịch sử cứ chiến tranh liên miên, dứt ngoại xâm lại nội chiến, hiếm khi được an bình để tập luyện quen thành cái nếp kiến thiết xây dựng, tự lực tự cường. Đấy, cứ xem như từ đầu thế kỷ 20 trở đi, hết là thuộc địa của Pháp thì lại bị du vào cuộc nội chiến vì chủ thuyết ngoại lai, cho đến bây giờ cái đuôi rơi rớt lại của ảo tưởng chủ nghĩa vẫn còn phá ruỗng đi cả cái xã hội trong nước...Trong hoàn cảnh hiện nay của dân tộc, chúng ta lại bắt buộc phải nỗ lực tìm cho ra đựơc những khả năng sống còn mới cho dòng giống Việt. Chúng ta có nối gót tổ tiên, bằng cách thực hiện được nội dung ý nghĩa ‘vượt thoát’ hay không, là vấn đề của chung chúng ta hiện nay.- Mỗi người trong chúng ta, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng gốcViệt đều có thể nhìn ra và thủ đắc được những khả năng mới ấy..nhưng mở đầu vẫn phải là tự xét, tự nhận rõ ra chính mình đã.
- Bạn nói mông lung quá, làm tôi hoang mang, mất định hướng...
- Xin lỗi. Tôi chia xẻ với cậu, chẳng qua chỉ có thể đề cập được một đôi điều ‘nhìn ngắm’ của riêng mình.
- Bạn nhìn thấy những gì?
- Thực ra tôi nhìn thấy khá nhiều điều. Nhưng vẫn còn rất nhiều chỗ cần phải được từ tốn suy nghĩ sâu rộng để bổ túc một cách lớp lang lại.
- Bạn cứ nói ra đi. Chắc chắn là rất có ích, mà ít nhất là đủ khiến cho tôi lên tinh thần trước đã.
- Tôi chỉ muốn thổ lộ: Sau vài năm đầu tâm tư còn bối rối ở trong tù, tôi dần dần tỉnh trí và nhận rõ ra rằng về mọi phương diện, từ căn bản học thức- hiểu biết lẫn nếp sinh hoạt- làm việc thì bọn tù miền Nam của mình đều hơn xa hẳn đội ngũ những người cai quản mình. Nghĩa là tóm lại họ đúng lẽ ra nên học hỏi ở chúng ta, hơn là chúng ta phải học hỏi ở họ. Cái thực tế nó trái khoáy vậy đấy! Thế mà trong hòan cảnh lúc ấy, họ đã ‘cả vú lấp miệng em’ áp đặt những cái nếp sống đã rẫy đầy sai lạc từ căn bản của họ cho bọn tù chúng tôi. Nói một cách rõ ràng: họ và mình là hai xã hội sống và theo đuổi hai hệ thống giá trị khác biệt hẳn nhau. Thế mà họ cứ đinh ninh rằng họ cần phải ‘hướng dẫn’và ‘dạy dỗ’ chúng tôi rập theo một khuôn mẫu ‘tuyệt đối hoàn thiện’ mà họ đang nhắm mắt làm theo. Họ chẳng hiểu là cái khuôn mẫu tuyệt đối hoàn thiện đó chỉ có trong ảo tưởng, mà thực chất họ chỉ là tự dối trá và lừa đảo người khác để tạo thành một cái nếp phổ biến trong xã hội đã bị họ độc đoán cai trị: Hằng ngày chứng minh hiển hiện ra trước mắt là cả họ (lớp người cai tù) lẫn bọn mình ở tù đều đói khổ như nhau, đều quay quắt như nhau, trong cái hũ nút, bị chơi trò bánh vẽ! Nghĩa là cả hai cùng bị lừa như nhau, cả hai đều đáng được cứu vớt như nhau!..Nhưng mà ai lại có khả năng cứu vớt được chúng ta? Xin thưa: Lịch sử dân tộc, nhất là sử Việt cận và hiện đại đã rành rành cho thấy rõ rằng những người có thể cứu vớt ấy không thể là ai khác, ngoài chính chúng ta. Chúng ta đây chính là anh, tôi và cả họ nữa! Chính chúng ta có biết phải tự cứu xét lại mình chưa? Để chính chúng ta phải học hỏi và thực thi những gì cần và đủ mà tự chủ, để mà tự cứu lấy mình sống còn!
- Kỳ lạ nhỉ...
- Thế đấy! Và cứ thế, tôi nhẩn nha cứu xét lại: Xã hội miền Nam dưới chế độ VNCH trước 75 đương nhiên là có quá nhiều thứ sai lạc của một xã hội đang nỗ lực gột rửa những nếp sống phong kiến- quân chủ, nhưng ngược lại,trong khi phải chịu đựng chống đỡ một cuộc chiến tự vệ mà còn biết gia sức xây dựng cho được cái căn bản của một xã hội bước đầu chập chững theo chiều hướng dân chủ-tự do, với bốn hệ thống phát triển sao cho phổ cập khắp miền Nam Việt Nam thời bấy giờ: Giáo dục công tư phổ thông từ cấp vườn trẻ mẫu giáo lên đến đại học; y tế quốc dân từ y- nha- dược tá lên tới y-nha-dược sĩ các cấp, từ thị thành về tới nông thôn; quản trị hành chánh từ thư ký lên đến cấp trưởng các ngành sinh hoạt trong xã hội, từ quản trị phường khóm lên đến tỉnh thành, được huấn luyện và thi hành đâu vào đó; và cuối cùng là cái nếp đạo đức sống và giao tế của người dân dù cư trú ở bất cứ một nơi chốn nào, thành thị hay nông thôn, miền cao hay miền xuôi lẫn đảo và lãnh hải, trong đất nước miền Nam Việt Nam. 
Trong khi đó ở miền Bắc, cũng hai mươi năm ấy, họ đã thiết lập một hệ thống xã hội khác hẳn, từ độc tài đảng trị với cả một hệ thống tuyên truyền bưng bít: Kháng chiến chống ngoại xâm Mỹ-Ngụy, khiến dân chúng cứ thế mà sống khốn cùng trong cái lý tưởng ảo ấy mà phổ cập cái tâm lý hai mặt tồn tại lừa đảo lẫn nhau một cách bệnh hoạn thành nếp, thành một xã hội con người sống trong đó chỉ như con vật phản xạ vô điều kiện. Hơn ai hết, họ cần phải có đủ điều kiện và cơ may để tự mình thức tỉnh mà tự cứu lấy mình.
- Cậu nghĩ vậy sao?
- Thì thế! Ra sống ở ngoài này gần ba mươi năm nay, tôi rút ra được kinh nghiệm là thế hệ di tản thứ nhất của nguời gốc Việt đã nỗ lực xây dựng một cộng đồng lớn mạnh đến như ngày nay thì đầu tiên, chúng ta phải biết hãnh diện vào những thành quả mà chúng ta đã đạt được.Ngay cả đến cái nỗ lực cứu trợ thân nhân và đồng bào khốn khó trong nước suốt ba mươi lăm năm nay đều phát xuất từ tính chất nhân đạo mà chúng ta lâu nay lại vẫn thường ‘gấu ó’ với nhau nhưng lại rõ rệt không ai dám hành động một cách dứt khoát một chiều được. Bởi chúng ta luôn sống trong tình người..

Đồng thời phải công nhận là các cộng đồng gốc Việt chúng ta đã và đang là sức sống bổ túc cho cộng đồng Việt trong nước, ở những khả năng sống còn mới của dân tộc trong tương lai, như về kiến thức hiểu biết luôn được cập nhật, cũng như về nếp sống tôn trọng những nguyên tắc tự do-dân chủ-nhân quyền, những tiêu chuẩn đạo đức sống cởi mở ra để phù hợp với bước tiến bộ chung của loài người hiện nay. 
- Nhưng sao vẫn còn tồn đọng quá nhiều trở ngại thế?
- Đó là cậu muốn đề cập tới phương diện tiêu cực, mà vì tâm tư vẫn còn mắc dính với cái mối nhục hận xưa cũ kia khiến chúng ta chưa thực sự hoàn toàn cởi mở được chính con người của mình để thênh thang nhẹ nhõm tiến về phía trước. 
- Và kết quả cuộc bầu cử...
- Trên mười năm nay, mỗi lúc thế hệ một rưỡi và hai của người Việt tỵ nạn chúng ta đã và đang dần dần thay thế chúng ta ở mọi ngành sinh hoạt của cộng đồng. Nhất là nỗ lực gia nhập vào chính dòng của xã hội này, mà đồng thời họ cũng không quên tìm hiểu sâu xa về di sản dân tộc Việt, về những sự kiện lịch sử cận đại là nguyên nhân khiến họ hiện diện đời sống ở tại đây. Cho nên cái thành tựu phần nào giới hạn của kết quả bầu cử bán kỳ vừa qua chỉ là bề mặt thể hiện sự thiếu chuẩn bị cần và đủ của họ. Chính họ cần phải phân tích cho kỹ để mà điều chỉnh kịp thời cho kỳ bầu cử chính vào hai năm sắp tới đây.
- Còn trách nhiệm của lớp già chúng ta vẫn có chứ?
- Sao không! Tuy nhiên lớp già chúng ta cũng đừng khư khư cái kiểu cứ đòi trực tiếp tiếp tục ‘chèo chống’ dùm họ. Họ thực sự chẳng cần mình lắm đâu! Vả chăng phải để họ có làm có hưởng thì có chịu, giá trị điều chỉnh của chính họ mới thoả đáng. Bây giờ là thời thế của họ mà!
- Mấy anh già sáu bẩy mươi tuổi trở lên như tụi mình thực sự nên về hưu cả sao?
- Ấy. Lớp già mình thì cứ mở miệng ra là bảo tôi hưu trí rồi. Thế mà thực tế cho thấy, chính tâm lý già lại hay sốt nóng hơn bất cứ lớp tuổi nào khác, cứ thích nhẩy xổ vào việc của người ta đang chăm chú làm, rồi bô bô lên rằng hãy làm gâm gấp lên chứ, đến khi không còn tôi nữa thì lấy ai ra đây để mà ‘chỉ bảo’ cho mấy anh mấy chị! Gớm. Mấy người già vẫn không thực sự biết và sống như đúng với cái tuổi tác của mình, cứ cố chơi trò ‘độc đoán’, khó mà cởi bỏ đi được lắm.
- Thế ta chọn thái độ đứng ngoài à?
- Ta tuổi già rồi ví như con dao phay, sử dụng cách gì cũng đuợc. Miễn là làm sao trong giới hạn sức khoẻ và vị thế của mình cho phép, và còn phải tùy theo chuyên môn của mình mà trợ giúp. Điểm quan trọng là mình có thực sự biết người ta cần ở mình cái gì và mình có thể làm được gì. Hay ít nhất thì mấy người già như chúng ta chả cần 'gồng' lên làm gì cho mệt, cứ sống khỏe mạnh mà an nhiên thanh thản, cũng đủ là một tấm gương cần và đủ rồi đấy! *
- Cũng như câu chuyện tâm sự ngày hôm nay, bạn trợ giúp cho tôi khá sâu xa.
- Bạn ơi. Tụi mình thân thiết cũ gặp nhau, vui vầy chia xẻ với nhau là chính, nói chi chuyện giúp đỡ. May mà cậu còn thẳng thắn tâm sự, tôi đỡ khổ, chứ không lại mang tiếng ‘dạy đời’. Sướng ích gì!
- Tình thật: Bạn ‘mở mắt’ cho tôi mấy điểm quan trọng lắm…
- Cậu có còn nhớ không: Hồi xưa cùng học, cậu thường xuyên chỉ cho tôi môn toán đấy sao?
- Thuở đó tôi giỏi Toán nhất lớp. Không biết sao mà bây giờ tôi lại bị u mê ám chướng hơn cậu xa thế nhỉ!
- Riêng cá nhân thì tôi thấy, có lẽ nhờ mấy chục năm nay cuộc sống cứ dồn mãi mình vào chân tường, tôi cứ phải cố công suy tư mà vỡ nghĩa ra được vài phần.
- Hiểu được như cậu, tôi thấy sống đời nhẹ nhõm hẳn.
- Ấy, đúng thế. Cân nặng cơ thể của bọn già chúng ta bắt buộc phải ‘nhẹ nhõm’ hơn hồi xuân trẻ chứ!
- Ha. Ha. Phải vậy, phải vậy!
- Đùa với cậu một câu, cho giảm căng thẳng đấy thôi.
- Nhưng cậu đùa thế mà vẫn ý nhị: Ở cái tuổi này, muốn sống thoải mái, theo tôi, phải luôn tự sửa mình. Cụ thể mà nói về cơ thể chúng ta thì bắt buộc phải ăn ít đi, ăn thành nhiều bữa nhỏ, tập thể dục hít thở thường ngày và ngủ say nhiều hơn trước. Có vậy may ra mới khá được. Nói tóm lại, dù đã lớn tuổi nhưng trên bước đường thăng tiến, hãy sống thoải mái, thưởng thức trọn vẹn từng hoàn cảnh sống của mình.
- Và cuối cùng, vẫn là phải biết đùa cợt nữa đấy, cậu ạ.


Phạm Quốc Bảo.


Chú thích:

(1) Xin đọc thêm Bài viết không có tựa của Joyce Anne Nguyen đã đăng trong BNS QUÁNVĂN số 156 ra ngày thứ Tư 10 tháng11.2010, trên NVOnline ; www.người-việt.com.

(2) Mới nhất đây là tại Nhà Thờ Kiếng (thành phố Garden Grove, Nam Cali.), chiều hôm chủ nhật, 22 tháng Tư. 2012, hàng ngàn người họp mặt như một cách đại diện cho độ 30 ngàn đồng bào tị nạn đầu tiên rời khỏi Việt Nam vào này 30 tháng Tư 1975 ,chính thức bầy tỏ lòng tri ân của họ đối với những chiến sĩ của 30 chiếc tầu chiến của Hải Quân QLVNCH và của chiến hạm USS Kirk thuộc Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, đã giúp họ di tản an toàn đến Phi Luật Tân. Đây là lần gặp mặt thứ nhì , buổi họp mặt có tên “ Việtnamese American, The Lucky Few” được tổ chức bởi Federal Asian Pacific American Council Southwest( FAPAC-SW).
(3) Cuộc bầu cử bán kỳ (bầu cử giữa kỳ, midterm election). 

(4) Số ứng viên gốc Việt trên toàn nước Mỹ độ 31, so với dân số gốc Việt độ trên 2 triệu thì quá ít ; riêng tại địa phương Quận Cam là 19, đắc cử 7 cho đủ mọi chức vụ: Tỷ lệ thành tựu này được gần 30% thì so ra, không phải là ít! Đặc biệt sau lần bầu cử bán kỳ này cộng đồng gốc Việt trên toàn nước Mỹ không còn ghế dân biểu liên bang nữa, dân biểu tiểu bang chỉ còn1(ông Hubert Võ bên Houston, Texas) so với 2 trước đây; tức là một bước lùi đáng kể. Nhưng được cái là vẫn đạt 3 trên tổng cộng 5 ghế Nghị viên thành phố Westminster, Little Sàigòn. Đấy là chưa bàn sâu vào những yếu tố như đảng phái (Cộng Hoà, Dân Chủ), đoàn thể ,tỷ lệ cử tri gốc Việt độc lập ...Những yếu tố này đã thay đổi nhiều so với các lần bầu và ứng cử trước đây.

(5) Theo Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn, Thư Lâm Ấn Quán, 15-07-1960, Tủ sách Sử học của Đại Nam tái xuất bản tại hải ngoại: Từ năm 207 trước Tây lịch đến năm 939 sau TL, dân Việt bị phương Bắc đô hộ liên tục bốn năm lần cả thảy.

Trích từ cuốn Nhục Vinh











Ảnh: Trần Triết





“Tuồng ảo hóa đã bầy ra đó”
* Phạm Quốc Bảo

Cảm ơn HQBảo đã kể chuyện, khiến tôi viết được truyện này.


Mấy năm vừa qua, vợ chồng tôi có dịp hưởng ngày lễ Độc Lập Mỹ ngay tại nhà: Con cháu đều tụ họp về, ăn uống vui chơi thỏa thích…, giống như vào dịp Tết Việt Nam vậy.

Nói cho ngay: Vào cuối thập niên 1970, khi đại gia đình tôi may mắn vượt biển bằng thuyền thành công. Ở trại tỵ nạn trên nửa năm, được một cơ sở tôn giáo bảo trợ, đại gia đình tôi gồm cha-mẹ anh chị em bên tôi – bên vợ lẫn vài đứa con đứa cháu tổng cộng cả trên ba chục ‘mạng’ về định cư cùng một nơi, nơi này là Richland, Tri-cities, cách Seattle bốn giờ lái xe về phía đông, qua một dãy núi đồi luôn luôn xanh um cây cỏ và đường lái xe ngoằn nghèo nhưng khá rộng rãi, thơ mộng.. Nên cứ thế mà những ai lớn tuổi trong đại gia đình chúng tôi đều lần lượt kiếm được việc làm tại đây luôn. Rồi mười mấy hai chục năm sau đấy, con cháu học xong đại học ra đi làm thì chúng tòan cư trú ở những nơi khác: Chúng nó như những con chim ra ràng, đã bay đi xa rồi thì hiếm khi muốn quay về ở lại chốn cũ. Nói sự thật, nơi vợ chồng tôi đang định cư lại yên bình vì khá khuất nẻo mà khí hậu sa mạc, nóng thì nắng cháy nung người, lạnh thì cũng lạnh đến cắt da.., nhưng khốn nỗi được cái công việc luôn dễ kiếm và bao giờ cũng ngon lành, từ luơng bổng đến phong cách làm việc thư thả; hơn nữa, luôn có khu nhà mới xây lên, hết sức tiện nghi; còn lúc cần muốn đi đâu thì mấy tiếng trên máy bay là xong! Do đó cho nên dù con cháu chúng tôi lẫn gia đình anh em bên tôi bây giờ đều đã cư trú tại những thành phố có cộng đồng Việt đông và luôn có ý rủ rê chúng tôi xuống ‘núi’ đi, thế mà vợ chồng tôi tuổi đã ngòai bẩy mươi rồi vẫn cứ còn ngại ngần cái chuyện giọn nhà giọn cửa.. và cứ thế nấn ná mãi ở đây cho đến bây giờ. Thêm nữa, trên mười năm nay, cứ đến Tết ta là vợ chồng tôi đều có dự trù về ở duới Nam và Bắc Cali ít nhất một tuần lễ. Rồi mấy năm rồi con cháu tỏ ra thương tình vợ chồng tôi lui cui, nên chúng sắp xếp gắng bảo nhau, lễ Độc lập Mỹ là kéo về ở với bố mẹ đôi ba ngày…

Riêng năm nay, ngày mùng 4 tháng 7 -2011 rơi đúng vào thứ Hai đầu tuần nên được nghỉ đến 3 ngày liền, long weekend, nhưng lũ trẻ đều thông báo là bận, không về được, khiến tôi băn khoăn cả tuần lễ trước đấy: Vợ chồng chúng tôi đều được nghỉ hết mà cứ loay hoay với nhau ở nhà suốt ba ngày thì nản và.. uổng thì giờ lắm. May sao thứ tư tuần trước, vợ chồng ông bạn nhà ở thị xã kế cận gọi phôn và gợi ý rủ vợ chồng tôi về Seattle bằng xe hơi (anh bạn tuổi tác cũng bẩy bó rồi nhưng vốn còn nhanh nhẹn, lái xe hăng lắm!), để cùng chung được gặp gỡ và bù khú với mấy cặp bạn hữu khác ở ngòai đó, cho bõ một kỳ nghỉ lễ lớn của xứ này. Hỏi ý của ‘bà ấy’ cho hợp lệ theo thủ tục thông thường (Sự thật là như vậy, vì bà xã tôi khi càng lớn tuổi càng tỏ ra năng động hơn tôi nhiều!), và tôi báo cho anh bạn là OK.

Thế là chiều thứ sáu lên đường, tối đến Seattle là chúng tôi nhập tiệc với mấy cặp thân hữu ngòai quán hàng, như vậy để đỡ phần chuẩn bị cực khổ và rình rang cho mọi nguời. Khuya về nhà bạn mệt, ngả lưng xuống là tôi làm một giấc thật êm! Sáng 7 giờ thức giấc nhưng đã hẹn 10 giờ đến nhà một cặp khác, tán dóc và ăn uống lai rai, nghĩa là không giới hạn giờ giấc, vẫn vì mục đích để mọi người được thỏai mái tối đa…

Đến cỡ trên một giờ trưa, cơn mưa lắc rắc từ sáng tạnh hồi nào chẳng một ai hay, và bóng nắng vàng uơm đã trải rộng ở không gian trên thảm cỏ sát cánh rừng sau nhà… Tôi bỗng nghe tiếng ai nói như lệnh vỡ từ ngòai cổng. Hai cặp mới bước vào, trong ấy nổi bật lên một người đàn ông cao lớn dềnh dàng mà da ngăm ngăm đen: Tiếng nói oang oang phát ra từ nguời này. Đúng là chưa thấy mặt đã nghe tiếng! Tôi nhủ thầm trong bụng thế, và bắt đầu chú ý đến con người mới tới này…




1. Lỡ

– Tôi là Lỡ. Còn tên anh?

– Bảo.

– Anh bạn thế nào với chủ nhà?

– Bạn thời còn học ngành kỹ sư với nhau. Còn anh?

– Bạn cùng săn thú rừng. Hôm nay quí vị sẽ thưởng thức cái món thịt nai hai chúng tôi săn được cách đây mấy tuần.

– Là cái đùi nai bọc vải anh vừa đưa đến?

– Đúng. Tôi mới hun khói tuần trước.

– Anh sẽ cho chúng tôi ăn món nai gì nào?

– Theo tôi ra sân sau, là anh biết liền.

– Thế anh không ‘bật mí’ trước được sao?

– Ậy. Tôi lỡ hứa là sẽ làm một món lạ, nhưng cho đến giờ vẫn chưa nghĩ ra… Và có anh góp ý thêm vào, không chừng biết đâu tôi lại đuợc khen là đã chọn làm được món ngon để tiếp bạn hữu bữa nay.

– Nhưng anh tính làm món ăn chơi hay món nhậu?

– Ăn chơi mà vẫn nhậu được, mới hay chứ! Anh nghĩ sao?

– Ồ.. Các bà thì ăn chơi nhiều hơn là nhậu. Còn bọn đàn ông tụi mình thì đa số lại thích lai rai.

– Phải! Thế anh đã nghĩ ra món nào chưa?

– Chợt tôi liên tưởng đến món bò lụi.

– Hay đấy.

– Nhưng nai lụi, tôi nghĩ phải là thịt nai tươi để có thể nuớng trên than hồng rồi cầm dao đâm vào, thịt từ bên trong lòi ra khỏi da…

– Hòan toàn chính xác!

– Còn đây là đùi nai đã hun khói rồi… Và ăn món này đòi hỏi rất nhiều các lọai rau và gia vị như ớt, tỏi nữa.

– Xong. Đồ bỏ! Về nhà tôi lấy đùi nai tươi, và tiện tạt qua chợ mua rau với gia vị thêm vào. Anh đi với tôi?

– Có cần tôi đi theo không?

– Tôi bắt đầu thích nói chuyện với anh rồi!

“Tôi gốc dân BàNi, Phan Rang. Nói tiếng Mã lai từ nhỏ. Đến 7 tuổi mới đi học chữ Việt nên suốt những năm học tiểu học, tôi cứ luôn lầm lộn giữa hai nếp văn hóa: Một đàng sống theo tập tục dân tộc BàNi trong xóm bản. Một đàng tiếp xúc với lũ bạn cùng lớp trong trường học lẫn ngòai xã hội Việt ở địa phương. 15 tuổi, khi đơn vị đồng minh Đại hàn lo an ninh ở vùng Phan Rang, tôi được giới thiệu đi làm thông dịch cho họ, tiền bạc rủng rỉnh, tiêu xài vung vít. Đó là thời gian tôi cảm thấy tự do thỏai mái nhất đời tôi. Nhưng mấy năm sau, tôi lại thấy chán và đăng vào Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ, oai hơn! Đuợc huấn luyện xong, tôi vào tóan Biệt Kích chuyên đánh tỉa Việt Cộng trong vùng cao nguyên Đắc Lắc. Cho tới lúc Mỹ rút, tôi đang làm trung đội trưởng, chuyển sang giữ lon Trung úy của một đại đội Biệt Động Quân Biên Phòng QLVNCH, tiếp tục nổi tiếng đánh giặc. Vì thế khi tháng Tư 1975, đi tù bị trù ẻo nặng, Tôi trốn trại một cách dễ dàng và giúp cho các tóan du kích H’Mông cho tới khi bắt liên lạc lại được với LLĐB Mỹ, rồi đưa người H’Mông sang Thái Lan, đi định cư tại North Carolina. Xong công tác này, tôi vẫn theo LLĐB Mỹ nhưng lần này lại đi thực hiện các trận biệt kích cho kế họach nhằm diệt đường dây di chuyển ma túy ở các xứ Nam Mỹ, rồi phục vụ thiện nguyện công tác cứu đói bên Phi Châu. Năm 2005, tôi 55 tuổi, đơn vị bảo nếu tôi về hưu thì tính ra tôi ba chục năm trong quân ngũ nên được hưởng 80% lương và nhiều lợi lộc khác trong chế độ hưu bổng. Tôi gốc núi rừng, liền chọn cư trú tại Seattle này… ”

– Vậy anh là người sướng quá rồi, còn muốn gì hơn nữa!

– Anh nói thế nào ấy. Cá nhân tôi chả thấy sướng ở đâu, chỉ thấy đời mình luôn luôn lỡ dở!

– Nghe anh kể, tôi suy ra thì đời anh xuôi róoc đấy chứ.

– Xuôi cái giống mẹ gì! Ngược không à! Đây nhá: Gốc tổ tiên ở mãi đẩu đâu, đến đời tôi thì chẳng có dịp truy cứu nữa, mà lại sinh ra ở cái hóc bò tó Phan Rang, mang dòng tộc BàNi, phát ngôn bằng tiếng trọ trẹ giữa một xã hội tòan nói thứ tiếng Việt, khiến mình cảm thấy tự nhiên bị du vào cảnh sống ở trong cái kẹt nhỏ xíu, cựa quậy một chút cũng không được. Có phải lỡ bộ không! Bởi thế mới phải tập nói tiếng Việt cho thông, nhưng lại sống nhờ vào cái nghề thông dịch viên cho dân BàNi của chính mình! Rồi đang đánh giặc giỏi thì Tháng Tư 75 xảy ra, lại bị giặc bắt mình vào làm tù của nó. Trốn thóat sau đó nhưng cứ thế mà lưu lạc khắp nơi cùng chốn; trong khi thực bụng mình nào có muốn phải rời khỏi đất nước Việt Nam ấy đâu chớ! Đấy. Nguyên mấy chuyện ấy thôi, anh đã thấy rằng đời tôi từ cái lỡ này chuyển sang cái lỡ khác.

– Bây giờ chắc anh ổn định rồi?

– Ấy. Chưa hết. 55 tuổi là trai già, quá lỡ làng rồi chứ gì. Vậy mà tôi lại may mắn bắt được một bà chịu sống với mình.Thế mà một năm sau,phát giác ra thì tiền bạc bay đi đâu mất cả!Hóa ra bà ta mê cờ bạc, thua sạch.Vừa buồn vừa bực cái cuộc đời mình… Mà bà vợ của tôi, bà ấy cũng vì lỡ mê cờ bạc từ hồi nảo hồi nào rồi. Còn nhìn lại cái đời khỉ gió của mình, tôi nghiệm ra rằng thôi, đã lỡ rồi cho lỡ luôn: Mình lấy cái lý nào để ép bà ấy phải sống theo mình chứ. Tôi liền phủi tay, cho đứt bà ta căn nhà đang sống, mình cuốn gói vào cabine ở trong rừng cho chắc ăn! Anh thấy chưa: Tôi với bất cứ những gì gặp trong đời này thì cũng vậy, từ lỡ tới lỡ!Tòan lỡ với lỡ, không à.

– Nghe bầy tỏ, tôi cảm thấy cái lối nhìn đời của anh thật lạ đấy..

– Lạ cái con mẹ họ gì đâu, anh! Đó là cách để tôi có thể chấp nhận đời mình…

– Thế mới là lạ.

– Chán quá đi, bố già ơi… Thôi bây giờ đến chuyện của anh. Nghe nói năm nay đã quá bẩy mươi tuổi rồi mà anh vẫn cặm cụi đi làm. Sao ngu dại thế!

– Ậy… Cũng vì lỡ tham công tiếc việc đó thôi.

- A! Anh chơi kiểu ‘gậy ông đập lưng ông’ với tôi hả?

– Đừng có gây. Mất vui đi. Bởi thú thật: Anh làm tôi liên tưởng tới cuộc đời của chính tôi đấy!

– Cuộc đời anh là của anh. Cuộc đời tôi luôn luôn vẫn chỉ là của tôi.

– Đương nhiên. Nhưng theo tôi ngó ngàng: Những cái khác nhau giữa hai cuộc đời, anh và tôi, dường như chỉ là hình thức, ngòai da. Còn hòan cảnh, phần số và cách thế đối xử thì có gì là khác nhau đâu..

– Đó dù sao cũng là chiều hướng lý giải của anh. Chứ rốt cuộc, tôi và anh cũng chỉ như đứng ở hai đầu sông ngó nhau mà so sánh đó thôi… Có điều, mới gặp nhau, tôi lỡ hứng quá mà buột miệng bảo rằng anh ‘ngu dại’, anh không tỏ vẻ gì giận tôi..

– Tôi hành xử không theo như anh nghĩ thì anh phải bảo tôi là ngu dại chứ. Đúng lý như thế, tại sao tôi lại phải giận anh được nhỉ!.. Hơn nữa, anh rất thật tình, nghĩ gì nói nấy, không thớ lợ, không sợ mất lòng.

– Ăn nói một cách bổ bả, ngổ ngáo như tôi, xưa nay ít ai chịu bình tâm mà bỏ qua được như anh.

– Cũng tùy.. Nhưng trao đổi với nhau, tôi nghĩ tốt nhất vẫn là cái sự thật lòng với nhau.

– Thật lòng với nhau? Họa hiếm… Xưa kia người ta có chuộng sự thật lòng với nhau không, anh nhỉ?

– Phải sóat xét lại cho cẩn thận mới trả lời một cách thỏa đáng được. Tuy nhiên, tôi còn nhớ, trước đây cả sáu thế kỷ, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng bảo“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao.. ” Thực tế theo tiểu sử thì cụ đã rũ áo từ quan, về ở ẩn, tu tâm dưỡng tính, dạy học và cố vấn giúp đời. Danh tiếng của cụ mới truyền mãi đến bây giờ. Thế mà cụ vẫn tự nhận là mình dại. Nhờ vậy, chúng ta mới hiểu một cách sâu xa rằng Dại khôn gì cũng do chính mình chọn, mình ưng mà sống theo là được hơn cả!

- Anh vốn là dân sính chữ nghĩa. Sẵn đây tôi nhờ anh nhá: Hãy diễn tả dùm cuộc đời tôi bằng một vài câu, được không?

- Nhất thời anh hỏi, tôi xin tạm diễn đạt là:

“Ta đã lỡ chân bước vào trần thế

rồi cứ được thể lỡ mãi đi thôi

nhưng luôn tâm niệm giữ lời

thì thầm nhân ái đất trời nào quên”




2. Phường tuồng

Chàng ta sà ngay vào chiếc ghế còn trống cạnh tôi.

– Tôi nghe không rõ: Anh tên gì? Lôi hay Lỗi? Tôi lên tiếng thắc mắc.

– Lôi hay Lỗi gì cũng là tên tôi cả!

Đúng lúc ấy, một bà bắt đầu cất giọng karaoké, nên tôi ghé sang anh ta nói nhỏ lại:

– Ồ.. lạ nhỉ?

– Đúng! Có hơi Lạ… Nhưng với tôi thì cũng chẳng có gì là lạ cả?

Giọng anh ta nói cứ lơ lớ: Những dấu sắc-huyền-hỏi-ngã- nặng anh ta phát âm nghe không rõ hẳn ra được cái âm nào một cách sắc nét cho tai nghe của tôi. Tôi đáp cho có:

– Vậy sao?

– Vậy đó. Thực ra tên thật ban đầu của tôi là Lòi, dấu huyền nhá. Lòi! Vì tôi răng lòi xỉ, người miền Bắc gọi là răng mái hiên, người Nam kêu bằng răng hô, đó.

– Tên bố mẹ đặt cho anh đó sao?

– Không. Bạn cùng tóan đội với tôi kêu tôi Lòi, nên tôi khai luôn trong giấy tờ là Lòi.

– Còn Lôi?

– Là Thiên Lôi, chỉ đâu đi đó, bảo gì đánh đó!

– Nhưng đâu có Lồi, phải không?

– Có chứ. Anh nhìn xem: Tôi có cặp mắt lồi và mồm lúc nào cũng lắp bắp nói liên hồi, không bao giờ muốn im cả, trừ khi ngủ và ‘đi đoong’! Bạn đồng đội nhiều lúc cũng bảo tôi tên Lồi nữa!

– Còn có là Lội không?

– Có: Suốt đời tôi đều lội cả! Lội sông lội suối, lội rừng lội núi, lội xình lội biển.. Thậm chí lội khắp nước Việt Nam, sang đến Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Trung Hoa… rồi cứ thế mà lội tuốt sang bên Mỹ luôn. Sang đến bên đây rồi vẫn chưa hết phải lội, tôi còn được( hay ‘bị’ cũng vậy) người ta cho sang Phi Châu, sang Nam Mỹ lội tiếp!

– Còn bây giờ anh về hưu rồi chứ?

– Rồi..

– Thì còn ai bắt anh lội nữa đâu?

– Người ta không bắt tôi lội nữa thì chính tôi chọn cái nghề lội!

– Anh đang lội gì?

– Tôi chuyên lội rừng đi săn..

– Quả thiệt anh rất lạ.. Thế còn cái tên Lỗi?

– A!Đến bây giờ tôi mới hiểu được,tôi phải thực tên là Lỗi mới đúng:Tôi làm cái gì cũng là do lỗi tại chính tôi cả!

– Hay quá…

– Cái thằng tôi suốt đời lỗi mà có hay ho gì!

– Xin lỗi. Tôi vội quá nên nói không đúng ý lắm. Tôi muốn nói rằng anh là một nhân vật có một số cái tên lạ lùng nhất!

– Tôi có bao giờ muốn có những cái tên tục quỉ quái ấy đâu!

– Anh không muốn, nhưng cuộc đời của anh tự nó khắc tạc thành những cái tên ấy.

– À! Anh nói ra tôi mới để ý thấy… Mà quả như vậy thật nhỉ!

– Nội mấy cái tên gọi của anh đã quá là đặc biệt rồi.. Xin lỗi trước, nếu anh không muốn cho biết thì cũng không sao. Nhưng tôi rất thắc mắc: Anh gốc thuộc người nào?

– Tôi dân Bà Na.

“ .. Tổ tiên tôi thờ ông Thánh Quang Trung Nguyễn Huệ. Cha tôi là lính Ngự Lâm Quân nhiệm vụ lo việc cai quản khu Hòang Triều Cương Thổ ở Buôn Ma Thuột. Còn tôi thì mới 15 tuổi khai thành 18 để được tuyển đi học khóa đầu tiên cán bộ Thượng trên Pleiku, năm 1966, mãn khóa là được chọn theo tóan hướng dẫn và thông dịch viên cho Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ họat động ở ngã tư biên giới Việt-Căm Bốt-Lào-Thái Lan rồi về huấn luyện cho các tóan Biệt động H’Mông chuyên phụ trách việc kiểm sóat các đường dây chuyển lậu Á phiện tại khu vực Tam giác Vàng. Sau 1975, vì tình hình và chế độ của các nuớc tại Đông Nam Á thay đổi, tôi theo dân quân H’Mông sang định cư ở tiểu bang North Carolina mấy năm, rồi lại được chuyển theo nhóm người này về khai khẩn nông trại ở vùng Fresno, miền Trung Cali một thời gian nữa. Đến khi nhu cầu đòi hỏi các tóan Mũ Xanh sang Nam Mỹ để ngăn chặn phong trào trồng và phân phối bất hợp pháp cần sa, tôi có tham dự việc bắt giữ ông Noriega của nước Panama. Sau đó, tôi lại được tuyển vào tóan hỗ trợ các đòan chuyên viên y tế – giáo dục – xã hội thiện nguyện Hoa Kỳ sang giúp xây dựng hạ tầng cơ sở bên mấy xứ Phi Châu. Đến năm 2005, tuổi trên giấy tờ tôi đã gần 60 và mặc dù chính bản thân tôi không bao giờ muốn chấm dứt cuộc đời di chuyển liên tục ấy, nhưng người ta nhất định cho tôi về hưu, bằng cách cấp nhà cấp lương hằng tháng cho sống ở Seattle này. Tuy nhiên nhà đó lương đó tôi cũng chỉ để cho vợ con hưởng, riêng tôi chỉ một cái cabine trong rừng và chiếc xe mobil-home di chuyển đó đây… ”

– Với tập quán của suốt đời, tôi thấy mình chỉ lỗ thôi: Khởi thủy ý định của tôi là chỉ muốn rời khỏi buôn làng, tôi đã tìm mọi cách để vào lính. Đó là cái ‘lỡ’ đầu tiên của tôi, kéo dài cho đến bây giờ; và ngay cả sau này nữa, tôi thấy mình chỉ từ cái lỡ này sang cái lỡ khác…

– Đó là cách anh nghĩ. Chứ theo tôi nghĩ thì anh đâu có ‘lỗ vốn’.

– Tôi có vốn đâu để mà lỗ!

– Thế anh chọn cho anh họ là gì?

Chàng ta lẳng lặng móc ví ra và đưa cho tôi xem cái thẻ căn cước Mỹ, Drive License: Tôi thấy chàng ta họ Nguyễn.

– Anh chọn họ này, cũng là một ‘cái lỡ’ nữa, phải không?

– Đúng.

– Và như vậy anh có cho là ‘lỗ’ không?

– À. Cái họ tôi chọn thì không hề ‘lỗ’ đâu ạ. Đó là cái vốn liếng từ ông cha tổ tiên tôi để lại mà!

Nghe chàng ta ăn nói một cách chắc nịch như vậy, tôi bắt đầu le lói thấy thật sự có một cái gì đó khá kỳ lạ ở trong con ngừơi anh ta. Tôi ngẫm nghĩ, trong khi anh chàng cứ tiếp tục phát ngôn khơi khơi:

– Được sang đến bên đây, và hồi giữa thập niên 1980, người ta cho tôi khai nhập tịch Mỹ, tôi đã suy nghĩ rằng mình từ Việt Nam ra đi, mà suốt cuộc đời mình đều chỉ phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ, nghĩa là đã ‘lỡ’ như vậy rồi thì mình nhất định phải chọn một cái họ gốc Việt chứ. Anh xem tôi nghĩ thế có phải chăng?


– Cái sự kiện anh cho là anh phải chọn cái họ của gốc Việt Nam, và anh cho đấy là cái gốc từ ông cha tổ tiên của anh, tôi chưa suy nghĩ kỹ để lạm bàn đến vội. Vì.. dù sao thì quyết định này ít nhiều bị chi phối bởi yếu tố chủ quan của riêng anh. Còn cái điều mà anh bảo là anh chỉ làm việc trong quân ngũ của LLĐB Mỹ thôi, thì.. cũng đúng như thế. Nhưng anh đã làm những công việc cụ thể nào, cho những đối tượng là ai, thì theo tôi điểm này mới thực là quan trọng. Và như anh vừa kể, tôi thấy là anh đã trực tiếp phục vụ cho quyền lợi của những nhóm người H’Mông, những nhóm dân cư lâu đời ở vùng Đông Nam Á châu; rồi tiếp theo sau đó anh vẫn tiếp tục phục vụ cho những dân tộc mở rộng ra hơn nữa, nghĩa là cho quyền sống hợp với quan niệm chung hiện nay của những dân tộc đang trên đà phát triển khác ở trên thế giới. Nói chung, mục đích công việc của anh là phục vụ quyền sống của con người trên trái đất này.

– Vậy mà khi làm việc trong LLĐB Mỹ, tôi lại cứ liên tưởng đến đòan quân Lê Dương thời Pháp thuộc xưa do các bậc ông cha tôi trước đây thường nói đến…

– Anh nên phân biệt rõ rằng Lê Dương là đội quân có thực chất chỉ là bọn lính đánh thuê, nghĩa là chỉ phục vụ cho chế độ Pháp thuộc địa ngày xưa ở Việt Nam mà thôi. Và nội dung ý nghĩa của chủ nghĩa đế quốc nửa thế kỷ trở về trước nó khác với bây giờ. Mấy thập niên trở lại đây, dựa vào sự áp dụng những phát kiến khoa học-kỹ thuật vào tiến trình phục vụ đời sống con người, xã hội lòai người đã mở rộng ‘biên cương’ cho các lãnh thổ, các quốc gia.. khiến các dân tộc xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Do đó, xét vào cụ thể thì LLĐB Mỹ ngòai nhiệm vụ phục vụ cho quyền lợi và sự hiện diện của quân đội Mỹ tại chiến cuộc Việt Nam, tôi thấy dù sao họ cũng đồng thời còn thi hành những công tác có tính cách nhân đạo, nghĩa là thật sự có lợi ích chung khác nữa. Như những gì mà anh đã thực hiện dứơi quyền họ hồi đó.

– Như vậy, công việc tôi đã làm trong thời dưới quyền điều khiển của LLĐB Mỹ không hẳn giống như những ai đã từng phục vụ trong đội quân Lê Dương của Thực dân Pháp sao?

- Theo như anh kể và theo sự hiểu biết của tôi, anh vô tình đã gặp may mắn trong nhiệm vụ của thời mà anh làm việc với LLĐB Mỹ đấy!

– Ồ… nhờ anh giải thích, tôi mới thấy là mình đã chỉ hiểu theo cái mặt khác về sự phục vụ của mình…

– Tôi xin xác nhận rằng anh đã hiểu sai khác chỉ một phần nào đó thôi, chứ không sai biệt hòan tòan.

– Nói chuyện với anh, bắt đầu tôi thấy.. thú vị.

– Vậy hả? Nếu anh thích, cứ tiếp tục.

– Bây giờ tôi hỏi thực anh: Tôi chọn lấy họ NGUYỄN, tức là tôi muốn chọn cái gốc mà ông cha tôi đã theo. Anh nghĩ thế nào?

– Anh người gốc dân BàNa, anh có biết dân tộc Việt Nam là gồm cả trăm giống dân khác nhau hợp lại mà thành hay không?

– Có… Nhưng có khác gì dân Mỹ ở đây đâu!

– Đúng. Tuy nhiên anh có biết rằng một cách cụ thể trải dài theo lịch sử, tất cả các giống dân sinh sống trên dải sông núi hình chữ S ngày nay đều đã đóng góp công sức vào một tiến trình hết sức là lâu dài trong việc tạo thành dân tộc Việt? Và ở vào mỗi giai đọan lịch sử Việt Nam, họ cũng đã từng thực sự góp công góp xương máu trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ cái lãnh thổ đất nuớc ấy?

– Mung lung cao xa quá! Anh giản dị đưa ra một vài thí dụ cụ thể, tôi mới hiểu được chớ.

– Thì chính anh cho biết, cha anh trước kia vốn là lính Ngự Lâm Quân thời vua Bảo Đại…

– Nhưng tôi cũng đã đọc được quá nhiều tài liệu bảo rằng vua Bảo Đại nhu nhuợc quá. Ông ta suốt đời chịu ảnh hưởng Pháp, chỉ ở bên Pháp và chết cũng chôn luôn ở bên ấy.

– Điểm đầu tiên chúng ta hiểu rằng đó chỉ là vì hòan cảnh của cá nhân ông ấy, trong cái bối cảnh lịch sử của dân tộc ta thời đại ấy… Tuy nhiên, quan trọng nhất là anh có đọc thì phải biết phân biệt: Lịch sử của một dân tộc khác hẳn so với những tài liệu nhằm nêu lên những chi tiết thiếu khách quan, chỉ muốn bóp méo sự thật. Chẳng hạn ông Bảo Đại hành vi cá nhân của ông ấy như thế nào và ông ấy có làm gì đúng hay sai trái đối với dân với nước, tất cả đều phải đuợc cứu xét một cách hòan tòan chính xác và khách quan, theo sử liệu. Nghĩa là phải đặt ông ta ở vai trò vua một nước, trong bối cảnh lịch sử của giai đọan ấy mà xét. Chứ chúng ta không thể để bị ảnh hưởng bởi những chi tiết bàn ra tán vào của bất cứ ai, bất cứ bài viết nào chỉ nêu lên những yếu tố tiêu cực riêng hoặc giả chỉ kể ra một chiều tòan là những gì để tâng bốc cá nhân ông ta…

– Còn vua Quang Trung suốt một đời chiến trận, không thua một trận nào. Anh hùng đến vậy mà cuộc đời lại quá ngắn ngủi. Thật uổng!

- Anh nhắc tôi mới nhớ lại rằng suốt dòng sử Việt, trừ kỷ nguyên Hùng Vương vẫn còn nằm trong huyền sử không kể, dân tộc ta có được một giai đọan nào yên bình trên năm mươi năm đâu! Nghĩa là chẳng có một thời đại nào ổn định dài hạn, trải dài qua vài ba thế hệ sống để có đuợc cái nền nếp xã hội, để có đủ thời gian yên bình cho các nhân tài thi thố thực nghiệm đủ dài mà phát triển cái khả năng sáng tạo tư tưởng đâu. Suốt dòng sử Việt, các nhân tài nào may mắn thì cũng chỉ kịp thi hành nhiệm vụ bảo vệ sức sống trường tồn của dân tộc, trong ngắn hạn. Họ chỉ đủ sức thi thố trực tiếp tài cán cho việc giữ nước…

– Thế trong sách sử ghi lại, anh có thấy chỗ nào nói đến những công trạng giữ nước của các dòng giống dân cư thiểu số nào, ngòai dân người kinh ra?..

– Theo tôi, đọc sử sách, chúng ta phải tỉnh táo mà phát giác ra những chi tiết ngầm chứa đựng trong những sự kiện mà vì nhiều lý do phức tạp đã bị giới hạn khi được tường thuật lại. Lấy một thí dụ cụ thể và tiêu biểu nhất là sự kiện ba lần chống quân phương Bắc xâm lấn nước ta vào những năm cuối thế kỷ 13 dưới các vị vua của triều đại nhà Trần, chúng ta có thể ít nhất đưa ra mấy điểm chính, nếu chỉ đọc phớt qua mà không tinh tế thấu hiểu vào sâu rộng tình huống thì chúng ta sẽ tự lược bỏ đi các chi tiết vô cùng quan hệ nói lên những công trạng của tòan khối dân Việt trong việc chống ngọai xâm, bảo tồn đất nước và dân tộc: Như ba hội nghị Bình Than (năm 1282, thống nhất ý chí của các vương hầu và tướng lãnh), hội nghị Diên Hồng (năm 1284, trưng cầu dân ý nhằm thống nhất ý chí quyết chiến của tầng lớp bô lão trên tòan quốc), và hội nghị Vạn Kiếp (năm 1285, thống nhất chiến lược quân sự của mọi giống dân cư ngụ ở vùng núi và cao nguyên, miền Trung Du lẫn miền đồng bằng của lãnh thổ nước ta thời ấy). Như những cuộc giáp chiến nhuần nhuyễn tài tình bằng chiến thuật du kích của quân dân các dân tộc thiểu số đã đánh tỉa suốt dọc những con đường tiến quân sang và rút quân về của đạo binh Mông Cổ. Tất cả các trận giáp chiến này đã là những mũi tiến công vôcùng hữu hiệu cho nhiệm vụ tiêu hao lực lượng địch, để có thể ‘dứt điểm’ở các trận địa chiến của những cánh quân chính qui đời nhà Trần, trong tòan bộ cuộc chiến chống quân xâm lăng của thời ấy.

- Cảm ơn anh đã giải tỏa cái khúc mắc mà bấy lâu nay tôi cứ mắc míu trong lòng, không sao thấu suốt được.

– Thế anh đã nghĩ gì trước đây?

– Thì tôi đã cho rằng suốt cuộc đời tôi chỉ ‘binh lội’, tôi đã để dĩ lỡ cả cuộc đời mình.. Nghĩa là tôi chỉ là kẻ lông ngông như bọn phường tuồng trong màn kịch đời mà thôi!

– Ấy. Đâu phải chỉ có một mình anh mới như thế. Tôi thấy suốt lịch sử Việt thì hầu hết các nhân tài nước ta đều đã để lộ ra những sai trái, những cái ‘binh lội’ của họ cả!

– Như vậy là anh muốn nói, những nhân tài của dân tộc ta đều ‘cà trớn’ cả sao?

– Anh khuếch đại hơi quá đấy. Tôi đang chú trọng đến vấn đề tìm hiểu con người Việt sống thực, qua hòan cảnh xã hội. Nói một cách khác, tôi chỉ muốn diễn tả rằng nhìn vào sử Việt, ta thấy cái tạm gọi là hòan cảnh của dân tộc ta bị du vào thế bắt buộc phải trui rèn trong chiến tranh liên miên. Và điểm yếu của hòan cảnh đó là chúng ta không ‘đẻ’ đuợc ra những tư tưởng lớn, những vĩ nhân có tầm mức quốc tế; thì đồng thời chúng ta lại có điểm mạnh ở chỗ biết trui rèn mà hiểu thấu được câu “thất bại là mẹ thành công”, tập luyện hòai được sức bật ‘quật cường’ ở mức độ khó dân tộc nào trên thế giới so sánh bằng. Còn tính khí của người mình cũng gồm mấy khả năng vượt trội lên rõ rệt: Bắt chước giỏi nhưng lại lười sáng tạo, ít cơ hội thực hành nền nếp phân tích và tổng hợp ý tưởng nên khó có nhận định sáng suốt và dễ bị thuyết phục về tư tưởng, về tâm lý thì dư thừa mặc cảm tự ti nên dễ bảo thủ và quá khích.

– Nhận xét của anh cho tôi thấy xác thật đúng như con người của chúng ta đang sống thực ngòai đời. Nhưng chưa cho tôi thấy rõ được cái đúng cái sai để mà tránh…

– Đúng – sai để mà tránh thì phải do chính anh suy xét lấy, mới đáp ứng thực sự cho cá nhân anh. Ở đây tôi mới đưa ra cái căn bản nhận định của cá nhân tôi về con người Việt Nam chúng ta, rút ra từ kinh nghiệm sống và từ sử liệu đúng đắn mà thôi.

– Vậy thì ý anh cũng muốn bảo rằng cái chuyện tôi suốt đời chỉ ‘binh lội’ cũng là hiện tượng phổ biến trong con người của dân mình?

– Đại khái là thế… Sau khi tôi lý giải như trên, bây giờ anh thấy có gì khác trước đây chăng?

– Anh chỉ ra cho tôi những liên hệ cụ thể và sâu xa về cỗi nguồn lịch sử, khiến cho tôi sáng ra rằng riêng cái hướng phục vụ của đời tôi nó thực sự có nghĩa lý, chứ không hề vô tình hay may mắn mà có. Đúng không?

– Vậy đấy, tuy nhiên chỉ đúng theo chiều hướng phục vụ cho nhân quần xã hội của một đời người. Nhưng cạnh đó, ưu điểm của anh là anh vốn đã nhìn ra được cái mặt trái những hành vi của anh…

– Chứ chẳng lẽ còn một mặt khác của sự thật nữa sao?

– Vâng, thưa anh. Theo tôi, chỉ nhận thức đuợc ra cái mặt tích cực như thế thì chưa đủ, chưa hòan tòan diễn đạt được cái con người sống thực của ta: Song song đó, chúng ta còn phải nhìn ra ở mặt khác của vấn đề, nghĩa là bên cạnh những hành động đúng đắn ấy còn biết bao nhiêu những hành vi sai lạc, ‘láo lếu’của con người chúng ta nữa. Vô số những sai trái trong hành trạng của chúng ta đó, như anh vừa gọi là gì nhỉ?.. Ừ, anh lúc nãy gọi là phường tuồng đấy!

– Ủa. Thế thì trước kia tôi chỉ nghĩ mình như thế, cũng đúng sao?

– Không đúng, nếu anh chỉ nhìn thấy đuợc cái mặt ‘phường tuồng’ ấy của anh thôi.

– Tôi hiểu rồi. Cảm ơn anh.

– Còn về phần tôi, tôi cũng phải nói ra lời tôi cảm ơn anh: Anh đã tạo cho tôi một cơ hội hiếm có để tôi dám đề cập thẳng thắn vào cái phần ‘phường tuồng’ vốn cũng đã và còn hiện diện ở trong cuộc đời của chính tôi!



* Phạm Quốc Bảo.
( Trích Nhục Vinh, tuyển tập, Ngươi-ViệtBooks xuất bản, 2012)





Tri âm

* Phạm Quốc Bảo

Nhét miếng thẻ vào lại túi áo và như một phản xạ, tôi nói: “9.2.4.5.3.8.”

“Thank you.”

Từ phòng kiểm soát cách đến cả 400 thước, tiếng trả lời phát ra và truyền qua máy phóng thanh nghe lơ đãng vật vờ. Ðồng thời, cánh cửa sắt được điều khiển bằng vô tuyến điện tử tự động mở. Tôi bước ra khỏi cổng xưởng.

Gió ngoài bãi đậu xe ập lên người, tôi nhắm mắt lại để tận hưởng bầu không khí trống thoáng. Dường như những gai ốc đang nổi lên cùng người, tôi hứng trọn một khoái cảm gây gây. Trong khi tai tôi vẫn còn như nghe hàng dẫy máy tiện khổng lồ chạy suốt ngày đêm ầm ầm vẫn rung động cả không gian, nơi đó tôi đã chúi mũi trung bình mỗi ngày tám tiếng đồng hồ và mới rời khỏi cách chừng năm phút đây thôi. Vừa đi, tôi vung mạnh đôi tay, vặn mình trong gió, và cảm giác như mình vừa được hồi sinh.

“Làm sao đấy?”

Tôi quay sang. Cô Jane Bloomfield cũng thợ tiện, đứng cách tôi ba máy. Cô ta hỏi tôi, tay tra chìa khóa mở cửa xe. Nét mặt cô bình thản đến bất động.

“Tôi đang hạnh phúc.”

“Ồ. Chắc anh đã sẵn có chương trình giải trí cuối tuần?”

“Không hẳn.”

“Hay tối nay anh đi dự tiệc?”

“Cũng không.”

Chưa bước vào xe, cô ta nhìn sang tôi, ánh mắt chờ đợi một giải thích. Nụ cười nửa miệng của cô nhẹ nhàng cởi mở như sẵn sàng muốn cảm thông niềm hạnh phúc đó nơi tôi.

Tôi bối rối đáp cho qua: “À… một thú nào đại khái như vậy.”

Jane nháy mắt tôi một cái, hóm hỉnh mỉm cười:

“Bí mật hả? Mong anh hưởng trọn vẹn. Cuối tuần vui nhá.”

Tôi cũng nháy mắt lại, giơ tay:“Mong cô cũng thế.”

“Cảm ơn.”Jane nổ máy, cho xe chồm tới vọt đi.

Tôi nhẩn nha quay kính cửa xe xuống cho thoáng. Tiếng máy nổ vẫn như xa xôi mơ hồ, lẫn trong tiếng rầm rập của dàn máy tiện còn âm hưởng bên tai. Nhìn quanh, công nhân vẫn rải rác ra khỏi cổng đến bãi đậu xe, rồi từng chiếc vội vã lăn bánh bỏ đi.

Tuần trước, một đợt không khí nóng bức tràn tới đây báo hiệu mùa hè đang đến gần. Ðứng ngoài bãi còn đỡ, chui vào trong xe chỉ muốn đi ngay để gió lùa vào cho bớt thấy ngột ngạt. Nhất là bây giờ, đúng chiều Thứ Sáu nữa. Chắc chắn bờ biển đang lồng lộng gió. Hay những drive-in theater, những vũ trường, những nhà hàng…

Cho xe rời bãi đậu, tôi gia nhập vào dòng xe cộ cuồn cuộn không dứt trên đường phố. Tiếng máy nổ, tiếng còi thúc giục, những giọng nóng nảy chửi rủa tục tĩu hỗn độn quện vào nhau… nhưng trong lòng tôi vẫn hoàn toàn trống rỗng.

oOo


Về đến nhà, thằng con tôi cũng vừa từ phòng tắm bước ra. Mái tóc nó còn nhẫy nước ép xuống trán hợp với đôi mắt đen nhánh long lanh một niềm thích thú tươi mát.

Nỗi vui tự dưng của trẻ thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng xoa dịu mọi bực bội không đâu đã thường quấn quít trong tôi.

Bỗng nhiên muốn nhẩy cẫng lên như nó… nhưng tôi chỉ nói lớn hơn bình thường, khi bước vụt qua mặt con:

“Ðợi bố tí.”

Tôi vặn bông sen hết cỡ. Những tia nước phun mạnh xuống đầu cổ, ngực và lưng. Cách đấm bóp kiểu này khiến tôi đê mê sảng khoái. Sau đó, tấm khăn lông miết trên da mặt và toàn thân làm tôi có cảm tưởng thể xác mình hoàn toàn đổi mới.

Mặc quần áo bước ra, tôi rõ rệt đã trút bỏ được tất cả những gì gọi là vẩn đục trong người.

“Xin phép hai bác đi con.”

Ðang ngồi ngoài trường kỷ xem ti-vi, nghe tiếng tôi dục, Hòa ngước mắt nhìn. Tôi gật đầu để khẳng định và mỉm miệng cười khuyến khích. Nó đứng dậy, đến gần người bạn ở chung nhà, khoanh tay lí nhí:

“Xin phép bác.”

“Ừ, ngoan lắm. Cháu đi chơi với bố hả?”

Miệng Hòa mở hững hờ nhưng tôi không nghe rõ được tiếng ”vâng” của nó phát ra.

“Còn bác gái dưới bếp, con.”

“Thôi, đủ rồi. Ðể cháu nó tự nhiên.”

Hòa vẫn đứng yên như chờ đợi ở tôi. Tuy nhiên, đã có lời của anh bạn rồi, tôi không muốn ép thêm nữa.

“Cám ơn bác đi con.”

“Cám ơn bác.”Hòa nói câu này to nhất nhưng lại thật nhanh, rồi nó chạy biến ra cửa.

“Tôi đi, anh.”

“Vâng. Hai bố con vui nhá.”

“Cám ơn anh.”

Ngồi trong xe, Hòa dè dặt lên tiếng:“Bố coi record của third quarter chưa?”

“Rồi. Một O ba A và hai B. Tạm được. Nhưng môn P.E. vẫn B. Con thấy thế nào?”

“Hôm chạy, con hụt hơi mà vẫn thua tụi nó.” Hòa hậm hực ra mặt.

Tôi trấn an:“Chẳng sao. Nhưng trước khi chạy, con nên chịu khó tập thở, thật sâu thật dài mươi cái như vậy xem sao. Rồi lúc chạy con cố giữ hơi thở thật điều hòa, đừng gấp gáp. Chắc sẽ khá hơn.” “Ðể con thử…”

Liếc sang thấy Hòa còn băn khoăn, tôi bảo:“Bố con mình dạo phố trước nhá.”
“ Dạ.” Mắt Hòa đã ánh lên niềm vui thích. Chân tay nó bắt đầu chộn rộn. Cười thầm, tôi cho xe vào đậu trong một khu thương mại người Việt.

Năm giờ chiều Thứ Sáu, lác đác người đi mua sắm. Hai bố con tôi thả bộ, ngắm nghía các gian hàng. Những tiếng Việt lao xao chào hỏi, cười nói.

Tôi mua cho Hòa thêm một bộ quần áo thể thao, với đôi ba-ta mới khác. Hòa chọn cho Thu, em gái nó, một chiếc áo lụa, còn tôi mua thêm chiếc quần jean cho vợ tôi, tất cả để dành kỳ quà tới gửi về Việt Nam.

Từ tiệm này liên miên sang tiệm khác. Hết một khu đó cũng gần 7 giờ. Hòa đòi ăn phở.

Nó thích món tái gầu ròn như mẹ nó trước đây hồi 75 ở Sài Gòn.

Tám rưỡi, bố con tôi trở về nhà. Hòa hoàn toàn thỏa mãn với buổi chiều nay. Nó sửa soạn đi ngủ.

Tôi ngồi lại ngoài phòng khách, mắt xem một phim đang chiếu trong ti-vi, thỉnh thoảng nói vài câu với anh bạn cùng nhà.

Tự nhiên tôi lại rơi vào tình trạng trống rỗng buồn nản. Gọi điện thoại tới hai người bạn: Một đi chơi cả nhà chưa về, một đã đi ”xuê” tại nhà người bạn khác. Tôi có chợt nghĩ đến xoa mà-chược, chắc cũng vui thú anh em được đêm nay.

Nhưng khung cảnh chiếc bàn vuông với những tiếng lách cách của quân bài xem ra không quyến rũ tôi lúc này. Ngồi chết một chỗ, nghịch ngợm với những ”hoa” những ”chim”, chả giải tỏa được nỗi trống rỗng hiện giờ.

Vào phòng, nhìn Hòa ngủ say sưa, tôi lại càng cảm thấy buồn bã hơn nữa. Qua phòng khách, hững hờ chào vợ chồng anh bạn, tôi ra cửa.

Lái xe ngoài đường vắng, vẫn chưa biết mình đến một nơi nào. Bên đường, đèn màu nhấp nháy. Chính giờ này là lúc người ta mới bắt đầu đi giải trí.

Tôi tạt vào một quán bánh Pháp, nhâm nhi ly cà phê Espresso đặc quánh, mắt lơ đãng nhìn ra người lũ lượt diễu bên ngoài, tai nghe tiếng nói chuyện xôn xao quanh mình.

Một giờ ngồi gậm nhấm nỗi cô đơn mỗi lúc một mênh mang thêm, tôi bỏ đi.

oOo

Miên man lái xe vòng vòng, tôi mới chợt thấy là mình đã hết thuốc hút. Tạt qua tiệm Liquor, mua tạm một báo.

Lững thững đi ra, tôi chợt dừng lại nhìn kỹ: Một anh chàng Mỹ trắng râu tóc xồm xoàm, quần áo xốc xếch, trên lưng đeo mấy bao bị cái to cái nhỏ kềnh càng, chẳng biết từ lúc nào anh đã đứng chắn ngay trước cửa ra vào.

Chân vẫn tiếp tục đi, tôi tự nghĩ: Những trò của mấy anh loại này hiện nay xảy ra rẫy đầy khắp nơi trên nước Mỹ. Nhẹ ra thì xin điếu thuốc, nếu được cho lại xin thêm điếu nữa dắt tai để dành. Nặng hơn chút nữa là xin vài đồng bạc đổ xăng độ đường.

Thậm chí hồi tôi còn bán Donuts ở Chicago: Vừa đậu xe, một chú Mỹ đen bé con cầm ống xịt làm một đống sơn trên mặt kính chỗ ngồi lái. Còn loay hoay chưa biết tính sao thì có anh Mỹ khác lơn tơn đi lại, tay cầm giẻ và hộp acétone, hỏi liền:

“Mày có muốn mất đống sơn kia không? Hai mỹ kim. Ô kê?”

Biết làm sao khác được bấy giờ, tôi đành xùy tiền ra.

Lần khác, tôi bán trạm xăng ở Portland. Một thằng Mỹ to lớn dềnh dàng đi tới dí bó hoa héo quắt vào mũi tôi:

“Mày phải mua cái này.”

Tôi hiểu ý nghĩa ”phải mua” ở bộ mặt đe dọa với đôi mắt trợn trắng của hắn. Tự nhiên, máu ba gai lính tráng cũ nổi lên, tôi cung tay tính quại vỡ mặt hắn rồi ra sao thì ra… nhưng hình ảnh Hòa, lúc đó mới 7 tuổi, nét mặt vui tươi hớn hở hiện ra, khiến tôi cố nến giận. Ngó quanh, góc phố tấp nập người qua kẻ lại mà chả một ai thèm chú ý tới tình trạng của tôi, ngoài mấy tên đen khác đứng gần đó đang nhìn tôi cười nhăn nhở trêu ngươi. Xem cái điệu này cảnh sát có tới nơi thì tôi đã mềm xương mà tiền bạc lại bị lột sạch. Bóp bụng, tôi đành móc ra tờ năm mỹ kim đưa cho hắn.

“Chắc cái này mày cũng chả cần nữa, phải không?”

Nói xong, hắn tự động bỏ đi, tay quơ quơ bó hoa héo.

Sau lần đó, tôi thấm thía cái đơn độc của kẻ mất nước sống lang thang nơi xứ người.

Nỗi đơn độc bơ vơ này không giống với nỗi bùi ngùi cô đơn những buổi say rượu bí tỉ vì bạn bè bỏ xác sau các cuộc hành quân hồi 1975 trở về trước.

Và cuộc sống ở đây cứ đẩy tôi bước tới. Chính tôi cũng muốn luôn luôn lăn xả vào công việc mưu sinh túi bụi, hết thành phố này sang quận khác, hết tỉnh nọ sang đến tiểu bang kia để quên đi nỗi đơn độc của mình.

Có phải tôi nuối tiếc dĩ vãng không? Những năm mòn ghế học đường, những gót giầy đế vẹt biết bao nhiêu nơi trong đời lính hành quân khắp chốn? Quá khứ tôi vàng son gì đâu, với cái lon đại úy và hàng trăm đồng bạn thân cận đã ngã gục. Có chăng là hình ảnh quê hương ám ảnh với một niềm chua xót muốn chín cả tâm hồn…

Tất cả chỉ còn hình ảnh tươi mát ngây thơ của Hòa, con tôi, để tôi có một chút riêng tư níu kéo. Chứ ngoài ra, toàn là trạng thái vất vưởng trong nỗi đơn độc giữa xứ người, trống rỗng mênh mang…

oOo

Hình ảnh và tâm tư hiện ra trong chớp mắt. Tôi đã dừng trước anh chàng râu tóc xồm xoàm đeo vác luộm thuộm túi bị kia. Tôi chờ đợi với tư thế sẵn sàng phòng bị. Anh ta đang nhìn tôi, nhưng thấy tôi dừng lại thì lật đật nghiêng mình ép vào bên cửa để nhường chỗ.

Tưởng mình bị cản đường phiền nhiễu gì đây, tôi hơi khựng lại, rồi mới lách mình qua.

“Anh còn nhớ thơ Hài Cú không?”

Hỏi dứt, chẳng đợi trả lời anh ta liền đọc mấy câu bằng Anh ngữ.

Thú thực, tôi chỉ mang máng biết được Hài Cú là một thể thơ đặc biệt của người Nhật thôi chứ cái hay cái đẹp ở chỗ giản dị trong sáng nội dung phong phú chứa đựng tinh thần Zen gì đó thì tôi chưa thưởng thức được. Bây giờ, bất chợt nghe đọc loại thơ này lõng bõng bằng tiếng Anh bên tai, quả tôi chả hiểu được chút nào ý nhị của bài thơ mà anh ta muốn diễn tả. Bước xuống vỉa hè, tôi quay lại. Ðôi mắt anh ta đang lóng lánh như thích thú, chờ đợi một lời ngợi khen. Tự nhiên tôi cảm thấy ngượng, gượng cười lã chã:

“Tôi là người Việt.”

“A. Việt Nam… Thơ Nguyễn Du.”

Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Cũng không chờ phản ứng, anh ta nhíu mày như cố nhớ:“Và cây đàn chỉ có một dây thôi. Ðàn gì…”

“Ðàn bầu. Ðộc huyền cầm.”Buột miệng, tôi nói ngay.

“A. Ðúng đấy. Duy nhất một dây. Ðộc đáo lắm.”

Tôi hứng thú thực sự.

“Anh có rảnh không?”

“Không bận bịu gì.”

“Anh có thể đến nhà hàng nào đó chứ?”

“Không.”

Tôi hiểu ngay: Với kinh nghiệm chín năm sống trên xứ sở này, mình còn sai lạc về anh chàng đang đứng trước mặt đây.

“Tha lỗi cho tôi.”

“Chẳng sao.”

Anh ta nở nụ cười hồn nhiên. Tôi nhìn quanh. Có một công viên bên kia đường.

“Chúng ta sang bên kia được chứ?”

“Sẵn sàng.”

Vào lại quán, mua một xách sáu hộp bia cùng vài thứ nhắm như đậu phọng rang với khoai chiên ròn, tôi qua đường… và thấy anh ta đã ngồi ngay ngắn trên tấm vải nhựa đang so lại dây đàn của chiếc Tây ban cầm.

“Không có cây đàn một dây của Việt Nam ở đây. Và tôi biết, tôi cũng không đủ khả năng chơi hay như tôi đã từng được nghe. Tuyệt lắm. Nó réo rắt… âm giai theo từng cách nhấn nặng nhẹ. Người nghệ sĩ phải có trình độ thẩm âm thật chính xác và điệu nghệ vô cùng thuần thục mới lột tả được cái diệu dụng của cây đàn độc đáo đó. Hôm nay, tôi muốn bày tỏ với anh sự khâm phục của tôi đối với những nghệ sĩ Việt Nam đã sáng tạo và sử dụng cây đàn một dây đó.”

Miệng anh ta từ tốn nói, mắt nhắm hờ và tay vẫn lướt những ngón trên năm dây đàn của chiếc Tây ban cầm đang ôm chênh chếch đứng trong lòng.Rồi đột nhiên anh gảy liên tiếp lên dây trầm nhất, ngón trỏ của bàn tay trái lướt nhấn trên suốt bậc cung. Mặc dù loại dây ni-lông pha thép âm vào thùng đàn đều khác với dây và thùng của cây độc huyền, điệu láy không được sâu như Ðộc huyền cầm nhưng tôi đã nghe mang máng như tiếng cây đàn một dây được bật lên. Mắt anh ta vẫn nhắm hờ. Cặp lông mày nhíu lại. Mấy âm thanh khác thoát ra. Cặp lông mày anh ta càng ngắn lại, nhăn nhúm một nỗi bực dọc. Rồi mấy âm thanh nữa bật tiếp. Anh lắc mạnh đầu bất mãn… và anh xổ toẹt một đường từ trên xuống dưới cả năm dây khiến tôi giật mình.

Trong khi tôi còn ngơ ngác, anh mở một lon bia, ngửa cổ ực trọn. Âm thanh xổ mạnh đột nhiên ngưng ngang. Anh biến sang điệu nhạc của xứ Tây Ban Nha. Một bên gảy một bên nhấn, hai bàn tay anh điêu luyện lướt lên khắp chiều ngang và dọc của năm dây chiếc Tây ban cầm. Âm thanh dồn dập miên man, sôi sục một sức sống cuồng nhiệt, lôi cuốn tâm hồn tôi cuồn cuộn theo.

Ðoạn nhạc đó vừa chấm dứt, anh lại bước sang lãnh vực nhạc cổ điển Tây Phương. Tôi mù tịt, không biết bài bản tên là gì và của ai nữa. Chỉ nghe thấy những âm thanh lúc thánh thót như tâm hồn mình rỏ xuống từng giọt buồn mênh mang gợi nhớ, lúc reo vui nhịp chân sáo của tuổi thơ, khi thì trầm lắng mênh mang tâm sự, khi thì rầm rập bước quân hành, ầm ầm tiếng bom đạn, sát khí tấn công, chém giết, u buồn, chết chóc… rồi vang tiếng kèn chiến thắng khải hoàn, sôi nổi xây dựng và thênh thang bước chân hướng về tương lai.

Ðoạn nhạc chót trải rộng ra, âm hưởng kéo dài cho đến nét rung nhẹ cuối cùng lẫn vào tiếng côn trùng của công viên…

Tợp thêm một lon bia nữa, đưa cay một miếng khoai chiên, anh ta lên tiếng:“Thấy thế nào?”

Cơn xúc động chưa dứt, tôi thổ lộ tâm sự luôn:

“Anh làm tôi nhớ đến cuộc sống hỗn độn vô vị của tôi bây giờ. Tôi luôn luôn bị bực dọc mơ tưởng về quá khứ của mình. Thuở nhỏ ấu thời vô tư lự xứ tôi. Những chốn thâm nghiêm lăng tẩm cung điện ở Huế, đền đài ở Hà Nội. Những hùng vĩ của Trường Sơn. Những bao la của suốt dọc dài biển Ðông. Tôi còn nhớ đến thời lính tráng xô bồ chém giết đau thương… nhưng không sao, tôi vẫn vững lòng tin là một ngày nào đó tôi sẽ trở về lại xứ sở của tôi. Ðó là mối hy vọng xác quyết trong lòng tôi lúc này.”

Anh ta ha hả cười. Cười rũ rượi. Nước mắt tràn trên má và lấp lánh đọng trên bộ râu xồm xoàm.

“Tôi có gì sái quấy phải không?”Tôi lo ngại hỏi.

Anh ta lắc đầu, chiêu thêm một ngụm bia:“Không. Không… Cuộc đời ở đây vô vị. Phải… Hay lắm.”

“Rồi sao?”

“Tôi muốn đề nghị điều này.”

“Nếu không ngoài khả năng tôi.”

“Chắc chắn. Nhưng anh không được chối từ.”

“Ðồng ý.”

“Anh phải mua cây đàn này với giá năm đồng!”

Vừa nói, anh ta vừa trao cho tôi cây đàn bằng cả hai tay. Tôi nhìn kỹ cây đàn. Những phần lõm trên cung bậc và mặt thùng đàn nhiều chỗ đã tróc sơn, chứng tỏ đàn được sử dụng thường xuyên và lâu đời. Tôi ái ngại, ngập ngừng lên tiếng:

“Nhưng… tôi không biết chơi đàn.”

“Ðiều ấy không quan trọng. Anh phải mua với đúng 5 đồng chẵn. Không hơn không kém. Anh mua mấy thứ này bao nhiêu?”

“Tôi chẳng nhớ nữa.”

“Có biên lai đó chứ?”

“Vứt đi rồi.”

Bỏ tôi đứng lóng ngóng, anh ta qua đường, vào tiệm Liquor rồi trở lại:“Tất cả 4 đồng 75. Anh phải trả thêm 25 xu nữa.”

Như người máy, tôi móc túi đưa 25 xu ra. Anh ta cuốn tấm bạt ni-lông lại cột vào cạnh một túi sách, đeo tất cả lên vai. Trên miệng nở một nụ cười thật tươi tắn và với ánh mắt long lanh thích thú, anh ta nói:“Cảm ơn anh đã cho tôi một buổi tối cuối tuần thật vui, đầy ý nghĩa. Tạm biệt.”

Bắt tay tôi xong, anh ta bỏ đi.

* Phạm Quốc Bảo.

(Trích tập truyện ngắn DÂU BỂ, Việt Hưng xuất bản, 1986)









Văn Bút Cali tháng 6 1988
(hình chụp một số văn hữu sau cuộc bầu Ban Chấp Hành Lâm Thời nhiệm kỳ một năm)

1.Phạm Khắc Hàm, 2.Lê Dình Diểu, 3.Vũ Huy Quang, 4.Nguyễn Hải Hà, 5.Nguyễn Hữu Bào, 6.Cao Xuân Huy, 7.Lưu Đình Vọng, 8.Viên Linh, 9.Nhật Tiến, 10.Đỗ Ngọc Yến, 11.Phạm Quốc Bảo, 12.Nguyễn Mạnh Trinh, 13.Vũ Thùy Hạnh, 14.Giáng Kiều








Lý Kiến Trúc, Nhật Tiến, Nguyễn Hải Hà, Phạm Quốc Bảo








Giảng viên khóa 25 tu nghiệp sư phạm hải ngoại (2014)








Ann Phong, Phan Nguyên, Phạm Quốc Bảo









Phan Nguyên & Phạm Quốc Bảo











Trở về





MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.