Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Mai Ninh











Mai Ninh

(1950 - ........) Sài Gòn
Tên Thật : Nguyễn Mai Ninh
Nhà Văn. Nhà Nghiên Cứu Khoa Học








Ai xóa được những đường chỉ tay nhăng nhít
Trưa trên sông Sài gòn 26/11/2011





*



Mai Ninh sinh và lớn lên ở Sàigòn. Được học bổng du học của chính phủ Pháp năm 1968. Mười năm sau đã lấy bằng Tiến sĩ Kỹ sư và năm 1982 lấy bằng Tiến sĩ quốc gia về Vật lý. 
Làm nghiên cứu viên khoa học, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia Pháp (CNRS). 
Năm 2010 quyết định nghỉ hưu và rong chơi.
 Mai Ninh đã viết một số bài khoa học đăng trên các Tạp chí trong và ngoài nước. Bắt đầu cầm bút sáng tác văn chương khoảng những năm 1990. Cộng tác với các tạp chí : Kiến Thức Ngày Nay, Tia Sáng, Sông Hương, Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Diễn Đàn...







"... Nếu phần lớn các hành động của con người đều do tình yêu dẫn dắt và chi phối, thì viết, với tôi cũng vì lẽ ấy."
"... là cho những kẻ xa gần đã cho MN nhận biết thêm về hạnh phúc và đau khổ, từ tình yêu giữa người và người, giữa tôi và người "

MN trả lời phỏng vấn Thượng Văn






Tác phẩm mới nhất







Thơ





Hành trình


Giữa giấc ngủ trưa
tôi nhìn thấy bầy ốc đang quặn mình trên đất nẻ
đá thì đỏ
cát thì vàng
lửa mặt trời sa mạc
chỉ có ốc là đen
tóp teo 
thất lạc
những sinh vật nhỏ nhoi hấp hối bò 
chưa thể chết
trên con đường đằng đẵng thiên di
không còn sức động đậy những chiếc râu
để truyền nhau một niềm tin khẩn thiết
ở cuối đầu kia
sau núi cao vực sâu
sẽ tới miền đất hứa
cứu rỗi và hồi sinh
có nước để uống
rau để ăn
hồ để ở

Trong cơn mưa trưa
tôi thấy
chú ốc con nhỏ nhất cuối bầy
ngước mắt thơ ngây
trời thì bao la
ốc thì bé mọn
cuộc hành trình tìm sống hãy còn xa
khát sa mạc đốt thiêu thành ảo ảnh

Chú cúi xuống thầm thì
hình như với tôi
về ở lại và ra đi
về những tiếng kêu bất lực
giữa ao hồ ầm ĩ tiếng xe xúc đất
lấp nước vùi rau
sự sống chìm trong sỏi đá
trong tuyệt vòng của phận người u uất
những tấm biểu ngữ bị xé toang đã đè lên họ hàng nhà ốc
chống đối chôn 
chống đối cướp
đòi trả lại ruộng và ao
rau và nước

Chú ốc con thu nốt hình hài đã teo khô
vào trong vỏ áo của mình
buồn rầu từ biệt
hình như chú nói với tôi
sẽ tái sinh làm cá voi giữa biển



Mai Ninh 
tháng tư, 2013.

















Tác phẩm đã xuất bản












Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất 
(nxb Thời Mới, Canada, 2000)
tập truyện 































Ảo Đăng 
(nxb Hội Nhà văn, 2003)



tập truyện





























Cá Voi Trầm Sát 
(nxb Trẻ, 2004) 
tiểu thuyết

























Cá voi trầm sát - Bi kịch mang gương mặt đàn bà

Ngô Thị Kim Cúc



Chín khúc, chín câu chuyện, chín truyện ngắn, đan cài thành một tiểu thuyết, một giao hưởng cuộc đời, một lịch sử dòng họ, mà dường như phần nào trùng khớp với lịch sử dân tộc. Có rất nhiều thương yêu gắn kết nhưng cũng nhiều đối kháng-chia rẽ, phân rã-ly cách, trốn chạy-luân lạc, cô đơn đến tận cùng.

Tất cả nhân vật đều xưng tôi. Ngôi thứ nhất: cái nhìn từ chính đôi mắt, những bộc lộ từ chính bản ngã, lời xưng tội với chính số mệnh mình. Không ai chính xác hơn tôi về tất cả những gì liên quan đến mình.

Và bao giờ những người đàn bà cũng nhận chịu nhiều nhất. Ba thế hệ đàn bà. Đẹp và đầy nữ tính, tràn trề năng lượng sống, họ bị trừng phạt vì chính những chọn lựa của mình. Công nương Trung Hoa gót sen ba tấc, mồ côi cha mẹ, mười ba tuổi từ kinh đô về Phúc Kiến ở nhờ nhà bác, mười sáu tuổi yêu anh trai con bác, bị đem gả cho một viên chức An Nam, theo chồng về Hà Nội, là vợ quan tuần nhưng bị đối xử như con sen trong gia đình quan án sát cha chồng. Ba con trai chết trẻ, ba con gái nối tiếp cuộc đời đa truân của mẹ. Người thứ nhất sống cho trách nhiệm gia đình, đơn độc tới cuối đời, bởi đã bí mật bán rẻ đời con gái cho lính Nhật ngoài đường khu chứa gái, sau khi bị cướp mất số tiền bán áo nuôi gia đình đói khổ chạy trốn ông bà nội. Người thứ hai yêu đơn phương anh ruột của mình, thất vọng vì anh đi cưới vợ; sau ngày anh chết, lấy chồng nhưng không sinh nở được, ám ảnh mãi mối tình không được phép, không bao giờ có được với chồng cảm giác từng có với anh trai. Người thứ ba, dữ dằn, không khoan nhượng với cả cuộc đời lẫn người thân, nhưng lại chọn cuộc sống yên ấm, lại bị một đòn khác: con trai duy nhất chết bất đắc kỳ tử vì bị xe đâm, sau khi lá thư viết cho cô em con cậu bị cha phát giác.

Đứa con gái là nguyên nhân cái chết ấy, bị buộc trở thành hy vọng của gia đình lớn, đã phải đi du học xa, bỏ lại mối tình học trò với người yêu chiến trận. Đứa con gái thế hệ thứ ba lặp lại bi kịch: trên đất Pháp, Miên đã gặp, đã yêu và sống hết mình với một người cho tới khi khám phá đó chính là người chú thúc bá.

Không quá kỹ thuật, tác giả Mai Ninh hầu như chỉ kể lại những ký ức đòi đoạn, về cuộc đời bị nguyền của những người đàn bà trong gia đình. Vì sao bi kịch cứ tìm đến họ? Miên đã cố tìm cách lý giải: "...Nếu tình yêu đã đến mức độ này, có phải chăng chính vì nó phát sinh từ một hòa trộn mật thiết, tận cùng, một hòa trộn từ máu thịt ?". Không ai trả lời được. Miên đã xâu chuỗi các sự việc, đã quay phim và chiếu lại những gương mặt người thân, như là cách để giải thoát chính mình.

Tên các chương sách đã bộc lộ điều tác giả nhắm tới: Ngày ngâu đổ, Ngược dòng, Cỏ ám, Nến trong kẽ liếp, Sao rơi về đất... Chương Cỏ ám, với nhân vật Phượng, có lẽ là chương đớn đau nhất của người đàn bà với tình yêu không được phép. Phượng đã không đổi thay gì được đời mình sau khi lấy chồng, kể cả sau khi anh trai đã chết. Chị phải vin vào một lời nguyền bởi không biết phải tránh trớ ra sao: "Định mệnh cuối cùng đã hoàn tất lời nguyền hay lời nguyền dẫn dắt định mệnh?". Nhưng Phượng vẫn không đi xa nổi con đường tàu mà từ đó anh trai đã ra đi, cho dù tất cả đã vuột qua, kể cả đời người: "Cứ nhắm mắt, con tàu lại rúc từng hồi còi dài và tôi thấy mình đứng cạnh đường rầy, hai bên bờ giờ trắng bạc cỏ lau".

Âm hưởng của tiểu thuyết là cái gì đó rất đau, một nỗi đau xưa cũ, lẩn khuất trong những con người của một thời chưa qua: cái đẹp bạc mệnh, lung linh giúp cho tâm linh con người không biến mất. "Nó không kiếm ra cách nào khác hơn là dùng chính thân xác mình để đương đầu với cái chết và mất mát tận cùng. Ngớp lên những tiếng thở, hét ra những tiếng kêu, oằn lên những vùng thịt, tống ra máu me sâu thẳm, tất cả phải chăng là để thay tiếng khóc đã không thể bật ra trước quan tài?". Hành động của đứa con gái thế hệ thứ tư trước cái chết của mẹ nuôi hình như khiến Miên rút ra được điều gì đó cho chính mình: "Phải chăng sau khi chạm đến đáy sâu của cô đơn và thất lạc, con người mới có khả năng trồi lên, hòa nhập lại cuộc đời, cho dù không còn là chính mình ngày trước?”.

Điều đáng nói sau cùng về tập sách: đây là tiểu thuyết đầu tay của một nữ tiến sĩ vật lý đang làm việc tại Pháp, sau tập truyện ngắn (Ảo đăng) cũng in ở Việt Nam vào năm trước.

Ngô Thị Kim Cúc

thanhnien/TinTuc/VanHoa/VanHoc/2004/7/26
















Dậy Đi, Rối ơi 
(nxb Phụ Nữ, 2010)
tập truyện

































Tập truyện và ký in chung với tác giả Mạch Nha và Cổ Ngư
(nxb Văn Mới, Hoa Kỳ, 2008)





































Áo hoa Sương núi




Mười năm trước tôi đến vùng tây bắc này, cũng một mùa đông. Trời rét buốt nhưng nắng chan hoà trên con đường từ nhà ga xe lửa lên núi. Mười năm nghĩ cho cùng chẳng mấy xa, nhưng lại thấy sao dạo ấy mình và bạn thơ trẻ không ngờ. Cả bọn hăm hở, ngồi sau xe ôm leo dốc trong khí lạnh căm căm, cười đùa không dứt. Bây giờ, sương mù che khuất núi non, bờ ruộng, thác suối. Sương cũng làm chùng nặng thêm cái mệt sau một đêm tàu hỏa ren rét nghiến đường rầy, không thể nào thiếp ngủ. Ước mơ ánh trời sớm hửng lên, xem núi có già hơn theo người đã mỏi. Chỉ mong bắt gặp một người Dao hay Tày từ thung lũng đi lên với chiếc cần tre lủng lẳng dăm con cá suối. Chẳng cần chi nhiều, chục con cá nhỏ nhoi ngọt ngào đã đủ để nhắm với cốc rượu San Nùng đắng nồng hương thuốc bắc, cho qua rét cắt ngày đông. 

Chiếc xe hơi rồi cũng bò lên tới con đường chính của thị trấn. Tôi hạ kính, ngó tìm căn nhà có lan can màu xanh là nơi đã ở đó mấy đêm cuối năm xưa. Nhưng chẳng thấy dấu tích gì, ngay cả hiệu ăn thấp chũm mà sáu người chúng tôi đã vào đó nếm cá suối nướng. Chủ quán đẩy bản nhạc “Trường Sơn đông Trường Sơn tây” chạy suốt từ đầu đến hết bữa. Chợt ngạc nhiên nhận ra mình đang lóng ngóng đi tìm dấu vết kỷ niệm chứ chẳng ngắm nhìn những người dân tộc trong áo quần màu sắc, vốn là cái quyến rũ nhất với khách phương xa. Họ lăng quăng từ vỉa hè này sang vỉa hè kia, chập chờn bao quanh du khách. Các màu áo sặc sỡ chỉ được thắp sáng lên trong lớp sương dầy khi có đèn pha xe hơi chạy qua. Con đường dường như đã được mở rộng, xe cộ ngược xuôi bấm còi ồn ả. Các quán ăn chen nhau hai bên bờ lề trơn trượt đẫm sương. Mới năm nào con phố còn thưa thớt dăm tiệm cà phê và cơm bình dân. Bây giờ phần đông mang những cái tên ngoại quốc rất kêu, Anh Pháp đủ cả. Bảng hiệu huỳnh quang màu mè nhấp nháy, thực đơn với các thức ăn tây phương dựng treo cùng khắp.

Bỗng mắt dán vào một bà già người Dao đeo khuyên bạc to gần bằng nửa khuôn mặt hóp heo, kéo hai dái tai trĩu xuống cằm, đứng ngay lề đường. Xe dạt qua, sát ô kính. Ánh mắt đậm và cái nhíu mày kia rất cá biệt và chẳng thể không nhận ra. Muốn mở cửa, nhảy xuống xe để hỏi có phải bà ấy đã có mặt trong nhóm ca hát đêm nào, và còn nhớ một phụ nữ người Kinh nhỏ nhắn, hay cười, đã qua đây mười năm trước. Bà còn nhớ S. chăng? S. đã hồn nhiên đưa cả đám đàn bà Dao Tày Ráy chân trần trên mặt đất cứng buốt cái lạnh ba độ trong chiều mùa đông năm ấy, vào chợ mua cho họ tất cả mười lăm đôi dép, giục mang ngay vào chân. S. còn muốn mua cả giầy lẫn vớ nhưng bà bán hàng ngăn lại. Vậy mà chỉ hơn mười phút, sau khi S. đã trở lên căn phòng nhà trọ thì từ ban công tôi nhìn xuống, đoàn phụ nữ đang hí hửng lon ton chân đất cầm dép trong tay, chạy trở vào chợ, bán lại cho chủ sạp giầy. S. chẳng thể nào ngờ, những con người ấy sợ đói hơn sợ lạnh, chỉ cần tiền, gạo và cá. Họ không quen mang giầy dép, dù mỗi ngày cuốc bộ bao cây số từ bản xa đến đây, trên mặt đường băng giá.

Mười năm sau, người đàn bà vẫn thế, quả táo vốn sẵn cằn teo quá đỗi nên chẳng thể quắt queo hơn. Không ngờ vừa xuống xe, đã thấy bà ta chờ ở cửa quán ăn, rủ tối nay ra công viên nghe bà hát, khoe rằng mình có thể ca cả cải lương. Bạn tôi nói sẽ ra chợ, tối nay là phiên Chợ Tình. Bà chu môi, giơ ngón tay xua xua :

- Hết chợ, hết tình rồi, dỏm đó. No good, sir. 

Rồi tự động gỡ chiếc kiềng lủng lẳng mấy quả chuông đeo vào cổ tôi, khen đẹp rối rít. Tôi cười tháo ra, trả lại. Bà bảo ngay : 

- Lấy rẻ mà, mười đô thôi, madam. 

Tôi phải lắc đầu mấy lần, bà mới chịu bỏ đi, tóm ngay một người khách khác. Nhìn ra xa, chẳng thấy được bóng núi, tôi thoắt gọi thầm : S. ơi, người đàn bà S. từng đi bên cạnh, nói chuyện hỏi thăm và lắng nghe giọng hát ngọt ngào, người mà S. dịu dàng thương cảm suốt mấy ngày đông dạo ấy đã như con phố này, không còn dấu tích gì của bao năm trước. 

Khách sạn bây giờ mọc túa hai bên đường, đủ hạng đủ sao, người ra người vào. Nhóm này đôi người ngồi chờ xe xuống núi. Đám kia vừa đổ bộ, ồn ào hành lý, đợi phiếu ăn sáng. Chẳng như ngày xưa, ngoài một khách sạn năm sao đồ sộ trên triền đồi có xe riêng đưa rước, chỉ có vài phòng trọ đơn sơ. Bọn du- khách- xe- ôm chúng tôi đành trú lại trong hai căn phòng trên lầu một ngôi nhà nhỏ hẹp. Vợ chồng chủ nhà cam đoan sẽ có lò sưởi và chăn ấm ban đêm. Nhưng đến tối, muối sương đọng mờ khung cửa kính nhỏ xíu, người vợ đem lên mỗi phòng một bếp lò ba chân bằng đất nung, có vài cục than cháy đỏ. Chưa kịp hỏi làm sao đủ sưởi qua đêm thì cô ta đã biến mất dưới chân cầu thang. Suốt tối cũng chẳng thấy họ đâu. Chợ Tình không họp, chúng tôi theo S. ra công viên nghe hát. Trở về, S. lạnh cóng chân tay. Lục lọi dưới lầu tìm được chỗ chủ nhà cất than, vội vàng đem lên bỏ vào mớ tro còn âm ỉ, lại kéo bếp để dưới gầm giường cho thêm ấm. Suốt đêm khí lạnh len qua khe cửa hở, tôi chập chờn co chân, rụt cổ, cố thu mình nằm gọn trong tấm chăn ngắn ngủn. May thay, cũng nhờ khe cửa ấy mà người mong manh như S. đã không chết ngạt vì khói than. Trời chưa kịp sáng, tôi nghe tiếng S. rên mơ hồ. Chóng mặt, khó thở, cố ngồi dậy tôi hoảng hốt thấy S. lả trên giường. Thế mà khi nắng lên S. đã tỉnh, lại leo đồi xuống bản. Bước theo những tấm váy rực màu lay động trong nắng tươi vừa tách màn sương xám. Chúng tôi cùng họ về nhà, xem đàn ông chạm kiềng căng trống, phụ nữ dệt vải thêu khăn, đan mây trên thềm. Họ vừa làm việc vừa cười đùa chòng ghẹo nhau, cả cho con bú. Nhịp sống chậm rãi, yên ả giữa núi rừng. Bây giờ khác hẳn, tôi không tìm ra một hàng hiên có người ngồi nhuộm chỉ, thêu may như mười năm xưa, dù đã đi qua vài thôn bản. 

Tôi đã vậy, bạn ở xa đến VN lần đầu càng thắc mắc hơn. Câu hỏi đã được trả lời khi chúng tôi đến thăm một gia đình vốn cố cựu ở phố núi này. Nghe đâu chủ nhân tham gia vào việc tổ chức, phát triển văn hoá du lịch địa phương. Ông hãnh diện gật gù khi tôi bảo khuôn mặt, đời sống nơi đây đã thay đổi đến chóng mặt. Miệng nhếch cười, ngước mắt về các người bạn của tôi, ông khoe khách tham quan tăng vùn vụt, nhất là ngoại quốc. Một trong mấy bạn ấy hỏi : 

- Nếu muốn xem người dân tộc hành nghề thủ công mỹ nghệ thì đến đâu, cả ngày chúng tôi đã đi sâu vào nhiều làng xóm nhưng không thấy? Sao hiếm vậy ? 

Chủ nhà cho biết ngày nay đã khác, địa phương đã dựng được vài cơ sở sản xuất các thứ hàng ấy rồi và đang nghiên cứu phương án thành lập những cửa hàng qui mô, một loại hợp tác xã vừa trưng bày sản phẩm, ngành nghề, vừa bán luôn cho khách những món hàng mà chất lượng được bảo đảm. Ông lại nhìn bạn tôi, nháy mắt :
- Như thế, có phải dễ chịu hơn không ? Quí vị sẽ không bị đám đàn bà con nít kia đi theo nài nỉ mua cái này cái kia. Nhất là chúng tôi sẽ kén chọn, gom về đó những người dệt đẹp, khảm khéo để biểu diễn tại chỗ, khỏi phải lùng lội vào các bản xa. Tiện quá đi chứ !” 

Trong khi ông tiếp tục rung đùi và các bạn mình đưa mắt ngó nhau chẳng biết nói gì, thì tôi nhớ lại mấy cửa tiệm to lớn, rộng có khi gần ngàn thước vuông, một thứ siêu thị triển lãm đầy đủ các đồ mỹ nghệ thủ công mà trên đường tham quan bác tài đã dừng xe lại, kêu vào xem. Ở đó, chúng tôi đứng nhìn những người thợ đẽo đá, nặn tượng. Ở đó khách tha hồ ngắm các cô thiếu nữ áo dài tha thướt, ngồi xếp hàng yên lặng thêu lụa, không khác gì một bức tranh. Ở đó khách được mời uống cốc trà xanh cùng với những lời mời mọc mua hàng hấp dẫn. Dĩ nhiên, như thế có hơn, rất tiện, như ông ta nói. Nhưng sao chỉ vài giây thôi, tôi lại tiếc ngẩn ngơ hình ảnh mấy cô gái năm nào vừa ròn rã kháo chuyện với chúng tôi vừa thoăn thoắt vuốt kéo những sợi chỉ màu. Ghép được một viền thêu đầy hoa văn lên thân áo là đứng dậy ướm ngay lên ngực, quay một vòng, cười toe hỏi người chung quanh rằng có đẹp hay không? 

Ừ, cô người Dao ơi, quá đẹp, để cô mặc ngày cưới chồng hay sao? Chồng sẽ đem về lễ cưới mấy con trâu? Mà hôm nay, cô đang dệt manh thổ cẩm nơi nào, tìm hoài chẳng thấy? 

Cũng trên một sườn đồi nắng trưa vừa xoá tan sương núi, cây rừng chung quanh trổ những bông hoa gì từng chùm trắng óng ánh trời. Chúng tôi đang hỏi nhau có biết tên hoa, thì chợt vọng sau lưng giọng hát trong veo tươi tắn chen lẫn tiếng chim. S. quay ngay người, trố mắt : Nhìn kìa, xinh không! 

Từ sau tảng đá, một cô gái dân tộc gùi đứa bé nhỏ xíu sau lưng vừa đi vừa hát. Thực ra cô không đi mà đang nhảy chân sáo giữa các bụi hoa tụm cỏ. Khi lại gần, mặt cô trắng hồng sáng rỡ, hai vành môi hồng ngậm một chiếc lá non xanh. Cô ngừng lại, giương mắt ngó chúng tôi nhưng không nói gì. Đứa nhỏ đội mũ vải đỏ tròn xoe có gắn lục lạc. Nó mở hai lòng mắt nhãn huyền ngơ ngác. Cô gái còn rất trẻ và cũng có màu mắt trong vắt như thế. Chúng tôi cùng chào, tôi hỏi : 

- Em ở xa không ?

Cô ta lắc đầu không nói, nhưng đưa tay chỉ xuống chân núi thấp thoáng một vài nóc nhà sàn. 

- Ở tuốt dưới ấy ? Xa thế mà cõng em lên tận đây dạo chơi à ? 

Đứa trẻ xem chừng chẳng thích đứng yên, cất tiếng o oe. Nhưng cô gái không dỗ nó, cúi xuống nhặt viên đá vẽ những ô vuông ngang dọc, rồi nhảy lò cò ô này qua ô nọ. Bé con lắc lư theo, nín khóc. 

Đột nhiên cô ngừng, quay nhìn chúng tôi, mở miệng, cánh lá giữa môi hờ hững rơi bám trên ngực áo. Tiếng Kinh hơi ngọng :
- Không phải em đâu, con đấy !
Cả bọn chẳng đừng được, thốt kêu :
- Úi trời, em mấy tuổi đã có con ?
- Mười bốn.
- Sao cưới chồng sớm thế ?
Cô nhỏ bình thản đáp :
- Tại nó đem cho bố mẹ con tâu.
- Nó ? Chồng em ?
- Ừ, nó.
- Thế em có đi học không ?
Lần này chẳng trả lời ngay, cô cúi người ngắt một chiếc lá khác, định cho vào miệng, nhưng nghĩ sao lại thôi, ngoái cổ ngó đứa bé, mặt trầm hẳn xuống :
- Bây giờ không được học nữa. Cho tâu ăn và đưa nó đi chơi.
Một người trong bọn buột miệng :
- Thế lấy chồng có thích không ?
Mấy người đàn bà chúng tôi chưa kịp lườm anh ta thì cô gái đã đáp tỉnh bơ :
- Nó về nhà là ngủ. Nó khóc nhè, cũng ngủ. Nó không cho tiền.
Phải vài giây chúng tôi mới hiểu rằng từ chồng tới con, ai cô cũng gọi là ‘‘nó’’ cả.
- Thế em muốn nó đưa tiền để làm gì ?
Và cả bọn ngạc nhiên khi người mẹ mười bốn tuổi, gương mặt mịn màng sáng nét thơ ngây đáp ngay :
- Tậu tâu. Tậu tâu trả lại nó, rồi đi học.
Anh bạn bật cười :
- Tuyệt vời, con trâu ! Cái giá của tự do.
Gom một số tiền trong túi, chúng tôi đưa cho cô bảo mua sữa cho con. Cô cuốn tròn lại, đút vào giữa ngực áo, rồi chẳng nói thêm câu gì, cô xốc gùi cất bước. Chúng tôi chào với theo, cô gái chẳng quay lại, tiếp tục co một chân rồi chụm hai chân nhảy lò cò. Cái đầu tròn đội mũ hoa của đứa bé như quả bóng đỏ tưng tưng dưới nắng trời trong suốt. 

Sau mấy tháng hè cằn khô bỏng lửa, mùa rét năm nay tràn từ bắc xuống căn cắt thịt da. Nó khiến con trâu đột nhiên có chỗ đứng trong thông tin báo chí hằng ngày. Tuy người ta ít nói về số người qua đời vì đói lạnh hơn là về số trâu bò đã chết cóng, nhưng các tường thuật và hình ảnh những đứa trẻ trên miền sương núi tôi từng đi qua cho thấy chúng phải gồng mình thế nào trong giá rét, đã khiến lòng người tái buốt hơn. Như một A Sính, mong manh trong chiếc áo vải đứt nút không thể cài kín cổ, treo mình ngang sườn đồi để hái lá về cho con vật quí giá nhất của gia đình được đầy bụng. Có mỗi tấm chăn cũng phải hi sinh đem đắp cho trâu, bằng không nó sẽ chết. Và không thiếu các em nhỏ khác ở bản này thôn nọ đầu trần, áo quần đơn sơ, nhọc nhằn bụng rỗng tê cóng tay chân, phải đường xa đi xin trấu về giữ ấm cho con trâu đang nằm trong chuồng. Ai đó bảo rằng lắm khi súc vật còn sướng hơn người. 

Sa mù, màu áo màu hoa và thiên nhiên hư ảo bồng bềnh mây khói liệu đủ quyến dụ, để khách đã qua đây quên bớt những bận lòng ? Để mỉm môi cười khi nhớ lại giọng hát và những bước chân sáo lăng quăng trẻ nhỏ của cô gái gùi con năm nào. Nhưng cô có thật hồn nhiên thế không, chẳng phải lòng cô vẫn canh cánh nỗi niềm về một con trâu giá mà có được đấy sao ? 

(Tháng chạp Canh Dần) 
















Thơ































Dịch
































Điểm sách, phim































Truyện ngắn



(Mai Ninh & Nguyễn Hương)



















Phỏng vấn













Mai Ninh phỏng vấn Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng

Nguyễn Thị Hoàng, Người Yêu Của Đấng Trời.


Trong các nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước 75, Nguyễn Thị Hoàng mang trên thân định mệnh một cuốn tiểu thuyết. Chưa một nhà văn Việt nào được các thế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Vòng Tay Học Trò, thập niên 60, đã biểu trưng tâm tình nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương ‘‘hiện sinh’’, trong tình yêu và trước xã hội, với khao khát một cách sống độc lập. Từ Vòng Tay Học Trò đến nay đã gần 40 năm, Nguyễn Thị Hoàng trở lại tiểu thuyết với tác phẩm Người Yêu Của Đấng Trời. Bài phỏng vấn dưới đây, thực hiện qua điện thư, sẽ giúp bạn đọc phần nào biết thêm mối tương quan được tác giả xem như một ánh chớp của tâm thức, trong cuộc đi tìm và bắt gặp, giữa Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời. 


1.

MN: Từ nhiều năm nay, ngoài Nhật Ký Của Im Lặng, ít hoặc hầu như không thấy xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn Việt Nam trong lẫn ngoài nước, xin chị cho độc giả Hợp Lưu biết lí do của sự vắng mặt này.

NTH: Rất cám ơn câu hỏi đã minh định được tình thế của NTH: không thấy xuất hiện tác phẩm của NTH trên văn đàn VN Trong lẫn Ngoài nước. Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.



2.

MN: Cho đến nay tác giả Nguyễn Thị Hoàng đã cho ra đời bao nhiêu tiểu thuyết? kể cả tác phẩm đã hoặc chưa xuất bản. Chị quan niệm thế nào về một tiểu thuyết hay? Nó chỉ cần quyến rũ người đọc, hay nhất thiết phải chuyên chở một tư tưởng?



Cũng xin chị cho biết, những nguyên tắc cùng cảm nhận khác biệt nào đã có khi chị viết tiểu thuyết thay vì các thể loại khác, chẳng hạn như truyện ngắn, tùy bút, ký.

NTH: Chỉ mới cho đến hôm nay thôi, trên 30 cuốn đã xuất bản, khoảng 10 thì chưa (gồm những thể loại khác tiểu thuyết). Chỉ là những dấu chân đã qua, dù vẫn trên đường. Nhiều để làm gì, chỉ cần ba, vẫn chưa có mặt.



Thế nào là một tiểu thuyết hay thì có thể đáp gọn trong vài chữ, có thể thuyết trình trong một lần nói huyên thuyên, ở đây vẫn chỉ góp ý chìu theo câu hỏi:



Hiếm có một tiểu thuyết nào đáp ứng được mọi thể loại và đẳng cấp độc giả. Tính quyến rũ, nếu có, chỉ cho một phần nào trong tất cả độc giả. Yếu tố quyến rũ chỉ là một phần trong toàn thể những yếu tố khác quyết định giá trị tác phẩm; còn tùy cái gì làm nên sự quyến rũ.



Tiểu thuyết chuyên chở tư tưởng, chất liệu cần thiết để đắp xây hay phá hủy; nhưng tư tưởng lại không chuyên chở được tiểu thuyết - đương nhiên không thể là yếu tố chính để “làm hay” mà động lực tồn tại qua không gian và thời gian. Một cuốn sách hay do tư tưởng thì không là tiểu thuyết mà luận thuyết. Một tiểu thuyết hay hội tụ nhiều yếu tố, cách thế cảm nhận suy nghĩ trước tự thân và ngoại giới của tác giả, được thể hiện trình bày nó chân thực hồn nhiên như hít thở. Nên nếu phải hít thở theo nhịp điệu nào đó thì chỉ là bài tập thể thao không còn tự do sáng tạo. Nếu người viết có xúc động để sáng tạo thì người đọc mới xúc động được sáng tạo ấy.

Là một tác phẩm văn chương, nên văn chương vẫn là yếu tố tiên quyết. Ngôn ngữ âm điệu, cách sử dụng, như kiếm báu, dẫu rèn đúc hay lưu truyền thì hiệu lực không do chính nó mà từ kiếm khí, cách khác, là cung cách thể hiện một hiện thể.

Tiểu thuyết hay khi người đọc mỗi một và tất cả dẫu khác xa nhau, đều tìm thấy một phần mình muốn, thích, cần sống không có được trong đời sống. Qua tiểu thuyết, người đọc sống lấymình bằng xúc động và đồng cảm với tác giả.

Sự quyến rũ, ở vật thể hay phi vật thể là hiệu quả của chất chứa và phóng tỏa một nội thể đã sống lấy tận cùng nó.

Về nguyên tắc và cảm nhận khi viết tiểu thuyết thì, một dàn dựng không công phu nhưng phức tạp uyển chuyển theo chủ ý hay chủ đích riêng, giữa các sự kiện nhân vật bối cảnh có thực cùng mức độ và khả năng (hoặc tài năng) phóng hóa nó để mỗi sinh vật thể được là như thế khi nó chưa là hoặc không bao giờ là như thế. Chỉ có xúc động của mỗi nhân vật mà tác giả hóa thân hay nhập vai tùy lúc là có thật. Riêng đối thoại và diễn tả về những trạng thái ấy thì hay hay dở tùy theo khả năng vận dụng tính đạo diễn của tác giả. Cách của NTH, chỉ khi cảm nhận được tận cùng (xúc động hay chấn động tận đáy thẳm linh hồn) đến rơi vỡ nước mắt (đôi khi nước mắt trên môi và nụ cười trong mắt) về một vẻ đẹp (không phải chỉ beauté esthétique1!), lòng đau hay niềm yêu thì khởi sinh sáng tạo như một ứa tràn hồn nhiên không ngăn cấm, không hạn chế.

Tiểu thuyết là thế giới tác giả sống lấy mình nơi mỗi một nhân vật, hoặc ít ra là sống với, một thể hiện hoàn toàn tự do về mọi nỗi niềm và cách thế, vô điều kiện, hoặc điều kiện duy nhất: mình có đáng là như thế hay không.

Truyện ngắn lại khác, cần súc tích, bao gồm, trọn vẹn và bắt buộc hạn chế, vì kiến trúc sự kiện lẫn nhân vật, vì ý tưởng xoay quanh một trục thèse2 nào đó cho một lãnh vực của nhân sinh. Nó cần chuyên chở; nhắn gửi một thái độ, một quan niệm, tối thiểu là một ý kiến, xao xuyến nào đó của tác giả về một vấn đề hay một hiện tượng, một tình trạng.

Thời này, tự do được tuyên dương nên người ta cứ viết gì tùy thích, xong gọi là ngắn vì không dài, tùy bút vì không chủ đề, ký vì chỉ muốn nhận mà không phải tốn hao gì cả.

3.
MN: Hợp Lưu số này được hân hạnh giới thiệu một chương trích từ tiểu thuyết ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ chưa đăng báo cũng chưa xuất bản của chị, và theo ghi chú ở Lời Ngỏ thì chị đã khởi đầu cách đây 13 năm. Đây là một tác phẩm mà trong đó chị đã luận giải những tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. MN đọc thấy hai đoạn như sau :

‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’

…..

‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’

Như thế, phải chăng có sự mâu thuẫn? : Linh hồn tình yêu tìm nhau trong đáy thẳm của im lặng và bóng tối, vậy là đã tin có tình yêu, rồi sau đó lại hoài nghi, hơn cả hoài nghi nữa, một xác tín, là nó không bao giờ có thực.

Theo chị Hoàng, Chúa chưa từng yêu? Vì sao lại phong quang cho ‘‘Trái tim chưa yêu’’ này bằng một vòng nguyệt quế ?

NTH: Nếu đọc hết toàn bộ gồm những chương khi chưa cắt xén trong sách lẫn những đoạn đã tháo gỡ bớt thì NYCĐT không luận giải gì, lại càng không có ý thiết lập tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. Tình yêu nơi đây, dẫu thế nào, chỉ là ngọn lửa sưởi ấm soi sáng, phản chiếu tính cách của một siêu thể trên đường đi và đến. Cũng không luận giải một tôn giáo mà chỉ là cách thế nhìn ngắm, xao xuyến đối với một biểu tượng, một hiệu lực, của một kẻ (tác giả) không phải tín đồ Thiên chúa giáo, lại càng không đọc, hiểu gì về tôn giáo này. Còn Con Người thì không phải con người nói chung, mà Con Người viết hoa nào đó trên hành trình chuyển hóa và thắng vượt để trở thành.

Mâu thuẫn, nếu có thì từ phía nhìn khách quan. Thuần túy chủ quan của tác giả (chép lại cảm nhận mình hơn là luận giải một vấn đề), trên những dòng này của Lời Ngỏ, mỗi câu đều có định ý riêng. “Trên tình yêu không bao giờ có thật của chúng ta”, ý nghĩ của người viết khi nói với một con người. Có thể chỉ là với một cái bóng, nguồn cơn của đối thoại. Một ý niệm trừu tượng, một đối thể không có thật, tình yêu vì vậy cũng không bao giờ có thật trong trạng huống này. Nhưng nếu mà yêu, người viết hay nhân vật hay bất kỳ ai, nếu đã yêu đến mức tan nát cả chân như thể tánh mình thì xứng đáng với một khổ hình trừu tượng tuyệt vời: búa kim cương đóng đinh vàng (MN này, đinh vàng thì vô khối, nhưng biết tìm đâu ra búa kim cương?), chỉ là một giọt máu từ vết thương vĩnh cửu này sẽ nối truyền đời đời sự sống. Trong phạm vi lời này, chuyện này là như thế. Còn tình yêu có thật hay không bao giờ có thật, như một định lý phổ quát, thì là một chủ đề khác. (Khi nào HL hay diễn đàn nào cần, xin cứ gọi, sẽ thưa sau). Tất cả đều là trừu tượng, chỉ niềm đau không cùng tận là có thật. Niềm đau hơn cả sự chết. Sự chết chỉ là một hơi thở, niềm đau thì không cùng tận. Chẳng phải thế giới cũng đang đau không cùng tận bằng chính tay con người đóng gõ đó sao?

Chúa chưa từng yêu? Chúa, Jésus thật, đã từng yêu hay chưa làm sao một con người trong khoảng cách không gian thời gian và mọi điều kiện khác lại có thể biết được Chúa đã từng yêu chưa? Điều ấy ngoài Chúa ra không một ai được biết đúng, đôi khi kể cả trời.

Nhưng hai điều cần được nói ra: nhân vật (vì là trong tiểu thuyết) Chúa trong cảm niệm của người viết, giữ mình trọn vẹn thánh tính trên hành trình đi và đến, không tiếp nhận ở mình với mình, mình với người khác cái gọi là tình yêu hạ giới, dẫu đến như thế nào, dành mình cho tình- yêu- tuyệt- đối-không- cùng- tận đối với trần gian. Một vòng hoa nguyệt quế ( chiến thắng, thắng vươt) cho một thánh tính, vầng hương nơi một bông hoa, hay bông hoa cho một vầng hương, sao lại không?

4.
MN:Tin rằng Chúa chưa yêu, hay giả là Chúa có yêu nhưng đó là tình yêu biển trời bao la, tình yêu cho mọi nhân loài, và dựa theo cả cốt truyện, nếu bây giờ độc giả cho rằng tựa cuốn tiểu thuyết này nên là ‘‘Người Yêu Đấng Trời’’, như thế sẽ thích hợp hơn ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ thì tác giả Nguyễn Thị Hoàng nghĩ sao ?


NTH: Sách chưa được in lại phải giải thích một điều trong sách thì thật… chưa từng có. Đành vậy, biết sao hơn trong tình thế cũng chưa từng có này.



Theo lẽ, thì NYCĐT phải là nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng theo bố cục tổng quát một dàn dựng gồm ba bộ: Ông Chúa, Ông Phật, Ông Người, thì vấn đề (hay tương quan giữa nhân vật và Đấng Trời) không phải ở chính mỗi bậc vị này mà nơi đáp số hay hiệu lực của họ đối với nhân loại. Trong NYCĐT giai đoạn trước có ba nhân vật Jésus, Maria, Madeleine, vai phụ hay doublure3 của J., Angel. Giai đoạn sau là Dominico, Thérèse. Ai làm nên và đem lại hiệu quả nơi trần thế đúng ý Trời thì đó là NYCĐT. (Xin hiểu Trời theo nghĩa là Đại Huyền Lực Vũ Trụ vận hành cuộc Tiến Hóa muôn loài).



Vậy nên, NYCĐT không phải Jésus. Thế thì ai?



5.
MN: ‘‘Không phải Chúa chịu khổ hình, như một biểu tượng cứu chuộc thương đau như cũ, vì con người không còn biết xúc động trước cái đẹp siêu linh hay những giá trị tinh thần tột đỉnh mà bằng một vóc dáng, một thể hiện mới, trên biểu tượng lẫn hành vi, đáp ứng được cơn đói khát đương thời mà con người đang gào la khắp cùng thế giới thì quả thật đó là Chúa trở lại, một Chúa mới của con người đương đại.’’

Đây là tư duy của Bà Nhất, người sơ trưởng trong tu viện, về sự trở lại của Chúa với con người mới. Con người đương đại khác với con người thời Chúa chịu khổ hình ra sao? Con người thời nay không còn những xúc động siêu linh mà chỉ muốn Chúa đáp ứng đòi hỏi của họ? Chị quan niệm như thế?


NTH: Chỉ khi xuyên suốt một tác phẩm (không cắt xén một phần, một chương hoặc dẫu một khúc đoạn nào) mới nắm bắt trọn vẹn được ý định tác giả. Lời của Bà Nhất chỉ là ý kiến dẫn khởi cho hàng loạt những biến chuyển về sau sẽ giải trình ý định ấy. Thời này, thời ấy khác nhau, nhưng con người thời nào cũng đều có xúc động và đức tin, phóng tỏa hay giới hạn tùy thuộc vấn đề và nhu cầu sống từ môi trường quanh đời. Con người đi dạo trong thiên nhiên phóng khoáng sẽ cảm ứng nhanh những quyền phép siêu linh, con người trong thang máy chỉ trông cậy vào cái nút bấm để xuống lên và đôi khi sống chết vì.



Vấn đề là thời này Ý Chúa có được thể hiện nối truyền đúng và do đó hiệu lực có còn trọn vẹn không. Đức tin và khát vọng về cái đẹp mãi mãi tồn lưu nơi con người, nhưng với những nhu cầu khẩn cấp và cay nghiệt hiện thời, con người mong muốn và đợi chờ cái hiệu quả tức thì và hiển nhiên như một công thức hay đáp số giải được mọi bài toán khó. Không phải là một Chúa mới hay Chúa trở lại mà một con người có vóc dáng và tính cách Chúa, nhận ra toàn bộ vấn đề xưa sau, xoay vần và phục sinh lại Ý Chúa.



6.

MN: Vẫn nói về ‘‘xúc động’’, trong chương cuối của tiểu thuyết, Chúa của tác giả Nguyễn Thị Hoàng đề cập và phân biệt tách bạch ‘‘Con người trên trái đất’’ và ‘‘Giống dân trên các hành tinh khác’’ của giải ngân hà. Chúa ở đây, còn cho rằng con người trái đất có thể thua các sắc dân ấy về trí tuệ và nhiều cơ năng khác nhưng hơn hẳn họ ở khả năng kỳ diệu là biết cảm xúc.

Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học hay cũng là do trí tuệ siêu phàm mà Chúa đưa ra luận thuyết ấy? Chúa nói ra những điều đó trên cương vị một con người trái đất hay Đấng Trời bao trùm cả vũ trụ?

NTH: Câu hỏi đã phân định rõ, Chúa của tác giả NTH. Vậy những lời nói ra của Chúa trong tiểu thuyết này không phải là của Chúa Thánh Kinh mà chỉ là những suy nghiệm của người viết. Nếu là nghiên cứu biên khảo thì lời Chúa biên khảo phải đúng là lời Chúa. Trong phạm vi tiểu thuyết, một sáng tạo, hoặc phóng tác, mô phỏng thì cũng như trang phục, vóc dáng, chuyển động, hành xử, lời lẽ một personnage4 có được phép là, của, do, từ, bởi chính người viết không? Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học, trí tuệ siêu phàm. Chủ từ chữ “ dựa” trong câu hỏi hẳn là người viết. NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất “dốt“ và sợ cái gì liên quan đến khoa học. Còn thần học thì lại càng thất thần… học. Về trí tuệ siêu phàm, tắt là siêu trí, hiểu biết vượt trên mức độ và giới hạn trí tuệ bình thường? Nếu chỉ là cách suy nghĩ của người viết thì không trên cương vị nào ngoại trừ một Cõi Không vô cùng tận. Nơi đó có Trời, Đại Huyền Lực vũ trụ.

Bằng cách nào mà như thế? Điều này thuộc về tác giả và không liên quan đến tác phẩm.

7.
MN:Trong Thánh Kinh, Marie-Madeleine trước là một gái làng chơi bị người ném đá. May có Chúa đi qua và nói với đám đông : Ai thấy mình không là kẻ có tội thì được tha hồ ném. Thế là mọi người bỏ đi. Đây là một câu chuyện hay và thuyết phục. Không thấy chị Hoàng đem vào tiểu thuyết?

NTH: Có nghe nói về “ Madeleine bị ném đá”. Vì không đọc thánh kinh (lại dốt!), nên không lấy chuyện này và có thể còn nhiều chuyện hay khác nữa đem vào tiểu thuyết. Điều chính yếu trong NYCĐT là tâm mạch mà không là sự kiện, đúng hơn là giả thuyết về tâm mạch. Mỗi tâm mạch lại phản chiếu tâm mạch khác trong tương quan, theo hướng đích của hành trình chuyển hóa.

8.
MN: MN xin có câu hỏi cuối về tác phẩm, có thể nói là một công trình này của chị. Trong lời ngỏ, chị viết: ‘‘Cái trống rỗng hao hụt hiện lên thay thế vị trí đường nét tuyệt vời của một tác phẩm thành hình.… Để được là tặng phẩm đầu tiên và cuối cùng cho một niềm yêu, cho một nỗi đau, một sự sống khởi đầu từ cái chết.’’

Đó là ý nghĩ trước ánh chớp loé, trước khi viết. Vậy khi tác phẩm đã thành hình, đã viết xong, chị cảm giác ra sao? Đã được hồi sinh? Và có được ở trong tay Chúa?

NTH: Công trình nào cũng đòi hỏi nỗ lực và thời gian thực hiện. Dẫu hiệu lực thế nào, tác phẩm này vì thế, không phải là một công trình, mà chỉ như một đoản khúc viết nhanh từ ánh chớp tâm linh. Chỉ khi nghe lắng được Mình, một Mình vắng lặng, riêng tư mà chan chứa, NTH mới viết, đúng hơn là chép ra những lắng nghe ấy. Nếu hiểu chết trong nghĩa lớn, thì mỗi đời trong Cõi Khổ này đã phải chết đi và sống lại biết bao lần, mỗi thể loại vì một nguyên nhân hay động lực khác nhau. Trận hồi sinh ở NTH không phải từ viết hoặc viết xong, mà từ bắt gặp nguồn cơn phát sinh xúc động sáng tạo (tạm gọi là như thế), đôi khi là thực thể, đôi khi trừu tượng, hoặc những phóng hóa trừu tượng đến chỉ là ảo giác phủ trùm long lanh trên thực thể vốn chẳng là gì. Đó là bi kịch lớn của một loài mãi hoài đơn độc, như sơn dương đầu ngàn uống bóng mình dưới suối trăng tan!

Trong tay Chúa ư? Không trong tay mà đối diện, với khoảng cách giữa mặt đất và vòm trời. Không trong tay Chúa. Không trong tay người. Không trong tay một ai, trừ một thứ hình như là Định Mệnh.

9.
MN: Xem như đã hỏi xong về tác phẩm, bây giờ MN xin được phép dấn sang chuyện đời thường. Bằng hữu trong nước hẳn luôn tới chơi với chị, riêng bạn bè từ nước ngoài về, MN biết nhiều người thích đến uống một ly rượu, trò chuyện với Nguyễn Thị Hoàng. MN vẫn còn nhớ vài buổi sáng Saigòn dìu dịu trong không khí những ngày cận Giáng Sinh, ngồi trước cốc cà-phê, thảnh thơi nghe chị nói về những hạt bụi lung linh trong nắng và trong cả con người. Rồi từ con người chung chung đó, chị nói đến con người riêng trong MN, qua cái nhìn của chị. Thú thật, ngoài những phân tích nhằm xem phản ứng người đối diện ra sao ấy của chị, thì cử chỉ, lời nói và cả nét mặt của một nhà văn đã làm cho MN, của một thời mới lớn mê mẩn với’‘Vòng Tay Học Trò’’, vừa bị lôi cuốn vừa ngỡ ngàng, trước một Nguyễn Thị Hoàng ngày nay toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực. Chị Hoàng có thể cho biết cái lực đó đến tự nhiên hay là do luyện tập mới có, được chăng?

NTH: MN đã “nhận ra” được NTH nhưng lại hiểu oan một tính cách (toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực). Tuy nhiên, không biết rõ chữ ma lực dùng trong ý tứ nào của MN. Thông thường thì Ma lực đối nghịch với Phật lực. Nhưng ma lực theo nghĩa một sức cuốn hút kỳ bí thì lại khác. Hoặc hiểu theo kiểu phù thủy yêu tinh thì tình thế trở nên rùng rợn hẳn. Nghĩa nào thì tùy theo ngắm nhìn và cảm nhận mỗi phía, NTH tự hiểu. Mình không nhìn thấy mình được để biết ra sao trong tương quan. Nhưng chỉ trong những tấm gương soi là một đối diện tương đương và tương thông, cái LÀ sâu thẳm và chân thật mới hiện ra hồn nhiên không… diễn xuất.

Cái được gọi là ma lực ấy, tự hiểu chỉ là chút hắt bóng lung linh từ ngọn lửa nén của nội thể âm u một con người tưởng là tung hoành mà kỳ thực đã trọn đời nín sống, nói cách khác, đã chưa và không bao giờ tìm thấy vóc dáng cuộc đời đúng như tính cách và tầm cỡ mình.

10.
MN: Để kết thúc, MN muốn biết, ‘‘Vòng Tay Học Trò’’ bây giờ là gì, với Ngưyễn Thị Hoàng?

Chị có thể kể lại cuốn tiểu thuyết này đã ra đời ra sao, do đâu, đã được đón nhận và chống đối thế nào trên các diễn đàn văn chương Saigòn thời đó?

MN nhớ, sau buổi ấy, khoảng năm 1970, bên Pháp ra cuốn phim ‘‘Mourir d’Aimer’’ (Chết vì Yêu) với Annie Girardot, cùng một đề tài: Một nữ giáo sư yêu cậu học trò trẻ tuổi và bị sự phản kháng mãnh liệt của bố mẹ cậu ta nên đi đến tự vận, cuốn phim rút từ một câu chuyện thật đã gây ra lắm xôn xao, báo động, trong các gia đình và học đường. Ở Việt Nam, có những phản ứng tương tự của phụ huynh học sinh hay không, với cuốn truyện của chị? 

Tấm ảnh chị cho đăng trên Hợp Lưu số này có phải là hình cô giáo Hoàng thuở ấy?


NTH: Đành phải nhắc nhở vài hàng về sự tích VTHT ngày xưa. Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.



Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.



Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.



Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó. Cái nhãn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương hoặc nặng nề hơn.

Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo với học trò (chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được phép, tại sao?

Nên hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.

Nó là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.

Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.

Trên tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.

Khoảng 71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).

Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua. Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái là tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.

NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn còn những gì không bao giờ có thể hết.

Mai Ninh chân thành cám ơn chị Nguyễn Thị Hoàng đã chấp nhận trả lời phỏng vấn này, với những “phóng toả không đắn đo” dù tác phẩm NYCDT chưa được in ra (điều chưa từng có, như lời tác giả); nhất là chị đã cho phép MN được ‘‘chạm đến mối thương tâm’’ không những của một nhà văn mà của một con người, trong nghĩa tròn vẹn nhất.

Caen – Saigòn
(mùa xuân, 2003)

……………….

1: cái đẹp thẩm mỹ
2: luận đề
3: đóng thay vai trò
4: nhân vật
5: giấy mỏng













Tham khảo thêm về nhà văn Mai Ninh














































Hs Phan Nguyên, Nv Mai Ninh, Hs Đinh Cường
Cafe Continental Saigon 2010










Nv Nguyên Hương & Mai Ninh









Phan Nguyên & Mai Ninh
Paris 2000








Mai Ninh
(tại phòng triển lãm tranh Phan Nguyên Papyrus 2000)
ảnh: Phan Nguyên








Trở về 







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.