Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2017

Nguyễn Hồng Nhung

















Nguyễn Hồng Nhung
(28/9/1953 Hà Nam)
Nhà văn, Nhà thơ, Dịch giả
Giải thưởng văn hóa Phan Chu Trinh 2017
bộ môn Dịch thuật











Phút thăng hoa cùng Phan Nguyên
6/1/2017









TIỂU SỬ TÓM TẮT 

Nguyễn Hồng Nhung Sinh: 28-9-1953
Quê quán: Thanh Liêm – Hà Nam 
Từ nhỏ sống ở Hà Nội cùng cha mẹ, có 5 anh chị em, học lớp chuyên Văn của Sở Giáo dục Hà Nội, tốt nghiệp lớp 10 tại trường Lý Thường Kiệt B-Hà nội. 
Sau đó đi du học tại Hungary từ 1972-1978, tốt nghiệp khoa Văn học và Ngôn ngữ Hungary tại trường Đại học Tổng Hợp Budapest ELTE- Hungary.
Từ năm 1979-1989: là cán bộ nghiên cứu tại Viện Xã Hội học thuộc Ủy ban KHXHVN
Từ 1990 đến nay: định cư tại Hungary. Hiện đang dạy tiếng Việt tại Viện Đông Nam Á của trường Đại học Tổng hợp Budapest ELTE –Hungary. 











Dịch phẩm mới nhất



2017




















Nguyễn Hồng Nhung thời sinh viên







Mảnh vỡ Babel



Một mảnh vỡ Babel
dấu trong hàng cây xanh mát,
ngôi nhà mềm mại, ngói đỏ
tường vàng,
từ điển xếp hàng trang
nghiêm như lính,
giá sách ngập tràn trăn trở
nhân gian.


Một mảnh vỡ Babel
gọi những con mọt sách từ bốn phương
những nền văn hóa tỏa lan
từ chia tay lần cuối
ngôn ngữ cội nguồn.


Mang đến đây trái tim thắp
lửa trời
vầng trán suy tư
nỗi thống khổ đi tìm vàng
ước nguyện trẻ thơ
mở bí ẩn kho tàng ngôn ngữ.


Thuở xa xưa ta rời tháp Babel
khi tổ tiên thôi chung hành 
trang chữ cái
giấc mơ đoàn tụ
dệt thảm chữ Hy lạp, Latin…
vẫn khát vọng không nguôi
về lại
mái nhà chung chữ nghĩa


để một ngày đến xứ sở vua
Attila
dự cuộc chơi kiếm tìm ngữ nghĩa
từ một mảnh vỡ Babel…


Một mảnh vỡ Babel
dấu trong hàng cây xanh mát,
ngôi nhà mềm mại, ngói đỏ 
tường vàng,
từ điển xếp hàng trang 
nghiêm như lính,
giá sách ngập tràn trăn trở 
nhân gian…


Nguyễn Hồng Nhung
(Nhà Dịch thuật Hungari. 2009. 07. 25)












Dịch phẩm

Văn học Hungary







1
Nếu tôi là người lớn
Yanikovszky Éva
NXB Kim Đồng. 1986










2
Phép lịch sự hàng ngày
Halák László
NXB Thanh niên. 1989
(tái bản lần thứ 8: 2008)












3

Lời cỏ cây
Márai Sándor
Trung tâm văn hóa Đông-Tây. 2007












4
Những ngọn nến cháy tàn
Márai Sándor
Trung tâm văn hóa Đông-Tây. 2008












5
Truyện cổ dân gian Hungary
Nhã Nam, Hà Nội 2008











6

Tập truyện ngắn
Csáth Géza
Nxb Thanh niên. 2009














7
Câu chuyện vô hình và đảo
Hamvas Béla
(2013, 2014, 2016)

*
Những lá thư của Rilke










8
Một giọt từ sự đọa đày

Hamvas Béla
(2014, 2016)













9
Minh triết thiêng liêng
trọn bộ 3 tập









Hamvas Béla
(2016)








LỜI GIỚI THIỆU CỦA BÙI VĂN NAM SƠN:
TIẾNG GỌI TỪ “THỜI TRỤC”



Thật là một cơ duyên hiếm hoi khi người đọc Việt Nam được thưởng thức một công trình dịch thuật đồ sộ về một tác phẩm lừng danh trước cả những người sử dụng các sinh ngữ quốc tế quen thuộc như Anh, Pháp, Đức v.v.

Bản dịch ra các sinh ngữ nói trên của bộ Scientia Sacra (“Minh triết thiêng liêng”) của Hamvas Béla gồm ba tập, theo chỗ chúng tôi được biết, mới đang ở dạng bản thảo, chưa được công bố chính thức và trọn vẹn. Gọi là cơ duyên thiết nghĩ không sai, bởi nếu không có dịch giả Nguyễn Hồng Nhung, sống và làm việc lâu năm tại Hungary, am tường tiếng Hung, làm vị… “nữ thần Hermes” giữa hai bờ ngôn ngữ, ắt người đọc chúng ta không có được may mắn ấy!

Từ nhiều năm nay, bên cạnh việc dịch nhiều tác giả khác của nền văn học Hungary, Hồng Nhung dành thời gian và tâm lực để giới thiệu Hamvas Béla cho người đọc Việt Nam một cách có hệ thống và đầy thẩm quyền, bây giờ chị thấy đủ điều kiện để đi vào Scienta Sacra, được xem là opus magnum của Hamvas Béla.

Là người đọc, thoạt đầu, chúng ta không khỏi có đôi chút ngỡ ngàng khi nghe tên Hamvas Béla, một tác giả hầu như khá xa lạ, nhưng rồi sẽ kinh ngạc, say mê trước những áng văn tuyệt tác, huyền ảo của ông và lại thấy thật gần gũi, thân thiết.

Càng kinh ngạc hơn khi được thưởng thức văn dịch tiếng Việt trôi chảy và mượt mà hiếm có từ một dịch giả sống xa quê hương nhiều năm. Không có một công phu “hàm dưỡng” đặc biệt nào đó, ắt khó có thể có một cuộc tao ngộ lạ thường và đẹp đẽ như thế giữa hai ngòi bút, hai tâm hồn như có sự ước hẹn từ thuở nào!

“Bí mật” ấy dường như được giải tỏ phần nào khi ta đọc những dòng lai láng: “ghi chép khi đọc và dịch Hamvas Béla” của Hồng Nhung. Thật hiếm có một dịch giả nào yêu mến và say sưa đối với tác giả “của mình” đến như thế! “Mình có cảm giác giống một sinh viên sắp vào đại học khi chuẩn bị dịch sách của ông, không hiểu có làm nổi không đây, nhưng chắc chắn phải miệt mài, miệt mài… vậy thôi. Nhưng rất thích là tự dưng thấy chẳng có gì quan trọng nữa, chỉ muốn vùi tâm huyết vào dịch Hamvas thôi”… “Đọc Hamvas, bất kỳ lúc nào có thể, bất kỳ ở đâu, bất kỳ trạng thái thời gian, khoảnh khắc nào… Bác Hamvas hiện lên như một người đàn ông dịu dàng, nhẫn nại và chăm chú, đợi Nguyễn Hồng Nhung xong mọi việc ngớ ngẩn, sau đó bắt đầu ngồi xuống và hai người mở sách ra cùng chìm ngập vào đó…” “Có cảm giác mỗi ngày sống bây giờ sẽ rất thiếu thốn, nếu không đọc Hamvas. Bởi vì ông làm mình hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời này; đời sống mở ra vô tận trước mắt, nhưng lại theo một trật tự rõ ràng, từ trên xuống dưới, hiểu từ điều nọ, sang điều kia, hết sức sáng sủa, lôgíc và giản dị. Từ ngày đọc và dịch Hamvas, thấy mình thanh lọc. Bứt dần dần những điều thừa, sửa lại những điều hiểu sai, làm sáng sủa những điều trước kia mù mờ”.

Đọc Hamvas Béla, Hồng Nhung “cảm ơn Thượng Đế đã cho ta biết tiếng Hung!”, vì với Hồng Nhung, tiếng Hung - ngôn ngữ “mẹ đẻ” thứ hai - “(thêm một lần nữa khẳng định!) đúng là tiếng của các THÁNH. Từ một từ gốc (chính xác vô cùng) kết cấu thêm các đuôi để thành những từ khác cũng chính xác vô cùng.

Ví dụ: từ Rend - trật tự - chỉ một cái đã có sẵn, vô tận. Thêm đuôi: szer (chỉ những cái gì là công cụ, nhân tạo) thành ra từ: Rendszer - Hệ thống. Hamvas viết: khi mất ý thức về trật tự, người ta phải tạo ra hệ thống, nhìn từ gốc của Hung: rend-rendszer thấy và hiểu ngay ra ý này, tuyệt!”.

Nhưng, tất nhiên phải là tiếng Hung qua sự chưng cất của Hamvas Béla, được Hồng Nhung cảm nhận sâu sắc như “quá trình luyện vàng”: “Không thể thiếu được linh hồn của Hamvas Béla trong những ngày này - triết gia tâm linh quá đổi vĩ đại trong nền văn hóa Hung. Ông làm cho tôi có cảm giác, cứ đọc thêm một trang sách của ông là một ngày mình ngập sâu thêm chút nữa trong thế giới của ánh sáng vũ trụ huyền diệu, vì ông chỉ ngay ra cốt lõi của sự vật, hết sức nguyên thủy, hết sức tất nhiên, như chính là nó, không thể khác được, như nhạc của Beethoven đập ngay vào trực giác, khiến tôi biết ngay mình đang cảm nhận cái gì”.

Càng thấy dễ chia sẻ với Hồng Nhung sự “ngây ngất trong cảm giác hạnh phúc” trước “thế giới của Hamvas ấm áp, thư giản, tinh khôi, giống hệt cảm giác chui vào chăn đệm mùa đông thơm tho sạch sẽ, hứa hẹn một giấc ngủ ngon lành tự nó đến bằng đôi chân hay đôi cánh của nó, ta chỉ việc mỉm cười, và từ từ thiếp đi…”, thì càng thấy khó khi được dịch giả tin cậy giao cho việc viết đôi giòng giới thiệu bộ sách khổng lồ này.

Khó khăn thứ nhất, tất nhiên là rào cản ngôn ngữ khi người giới thiệu không đọc được tiếng Hung từ trong nguyên bản. Nhưng, sự chặt chẽ, trau chuốt của bản dịch cho ta sự yên tâm về chất lượng của nó. Thế còn tác giả xa lạ và nhất là nội dung phong phú, phức tạp và nghiêm trọng của tác phẩm?

Quả là một thách thức không dễ vượt qua đối với một người tự biết chỗ đứng khiêm tốn của mình, không khác mấy với cảm nhận của chính dịch giả: “có thể khối tri thức khổng lồ mà Hamvas đưa ra khiến mình đuổi theo không kịp những suy nghĩ của ông, vì mỗi một ý tưởng lại liên quan đến một khối lượng tri thức khác, khiến mình phải dừng lại”.

Tuy nhiên, tôi vẫn mạnh dạn viết mấy lời này, bởi tin vào nhận xét ngay sau đó của dịch giả sau khi đã phải “lật nhào cả đống từ điển mọi kiểu lên tìm”: “Nhưng không có cảm giác bị tri thức đánh đố, bởi mọi suy nghĩ của Hamvas hết sức sáng sủa và lôgíc, và nhẹ nhàng, giản dị, có thể lần theo dấu vết chỉ dẫn để tìm ra nguồn, hoặc dừng lại để ngẫm nghĩ và hiểu ông định nói gì”.

Bài viết sau đây cố lần theo “sợi chỉ Arian” hay “vết lông ngỗng Mỵ Châu” như thế để tìm hiểu sơ qua về tác giả và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, hiểu như “ký ức văn hóa” và con đường giải cứu trước “khủng hoảng của thời đại”, trong sự đối chiếu thật khái quát với các nhà tư tưởng đương đại có cùng một mối quan tâm (đặc biệt với Karl Jaspers trong quan niệm của ông về “thời Trục”). 


1. Hamvas Béla (1897-1968): “Kỳ nhân dị sĩ” 

Tôi không tìm được cách gọi nào khác hơn khi tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác và biên khảo dị thường của Hamvas Béla. Một bậc “kỳ nhân”, bởi, một cách âm thầm, ông tự trang bị cho mình một kiến thức quảng bác và thâm sâu hiếm có về hàng chục ngôn ngữ và nhiều nền văn hóa cổ đại. Một “dị sĩ”, bởi ông không chịu đầu hàng số mệnh, kiên trì theo đuổi chí hướng và suy tư của mình đến cùng trong nghịch cảnh cực kỳ khốc liệt của sự bạc đãi và bị cô lập. Một đấng “trượng phu” với tâm hồn và cốt cách của “hiền nhân”!

Đến năm 17 tuổi (1914), ông sống với gia đình tại vùng Bratislava (bấy giờ còn thuộc Hungary), đi học và rồi đi vào cuộc Thế chiến thứ nhất (1914-18) ở mặt trận Nga và Ukraine. Sau nhiều lần bị thương, ông được giải ngũ, nhưng sau chiến tranh, cả gia đình bị trục xuất, vì cha ông - sau hòa ước Trianon - không chịu tuyên thệ trung thành với Slowakei. Gia đình dời về Budapest; ông học đại học, làm ký giả năm 1923, nơi một trong những tòa báo lớn nhất của Budapest. Từ 1927 đến 1948, ông làm thủ thư của Thư viện thành phố. Nhưng, từ 1940, ông nhiều lần bị động viên, lúc đầu tham gia mặt trận Nga, rồi đến 1944 cùng với đơn vị chuyển sang Đức, ông đào ngũ về nhà lẫn tránh. Tháng giêng 1945, một quả bom rơi đúng ngôi nhà ông và phá hủy toàn bộ thư viện gia đình cùng với vô số bản thảo của ông.

Sau chiến tranh, ông lại bắt tay vào việc, hăng say diễn thuyết, chuẩn bị công bố hàng loạt tác phẩm, mong đợi sự hợp tác với György Lukács vừa hồi hương từ Liên Xô. Trái với mong đợi, G. Lukács - sẽ là nhà lãnh đạo văn hóa quan trọng của chế độ mới và là nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tây Âu sau này, nhất là đến “Trường phái Frankfurt” -, vào năm 1948, đã phê phán kịch liệt tác phẩm vừa mới công bố của H. Béla: “Cuộc cách mạng trong nghệ thuật - Trường phái trừu tượng và siêu thực ở Hung”.

Hệ quả của sự phê phán này là Hamvas bị cấm công bố tác phẩm, mất nghề thủ thư, và các thành viên thuộc “trường phái Âu Châu” theo phái trừu tượng và siêu thực cũng bị cấm triển lãm tác phẩm, bắt đầu thời kỳ khó khăn kéo dài đối với Hamvas mãi cho đến khi ông qua đời vào năm 1968.

Từ 1948 đến 1951, Hamvas lui về làm vườn ở Szentendre, một thành phố nhỏ gần Budapest; từ 7.1951, làm thủ kho trong một xí nghiệp cách Budapest hơn trăm cây số. Rồi từ 1954 đến 1962, ông làm thợ phụ ở phía đông Hungary. Trong cảnh lao động vất vả giữa sự ồn ào trần tục, Hamvas dành từng phút giây rảnh rỗi để âm thầm phiên dịch kinh Upanishaden, các tác phẩm thiền học, huyền học Tây tạng hay kinh khải huyền Henoch. Mỗi lần về nhà, ông lại khuân theo sách, và giấu kín những luận văn, tiểu thuyết và các tác phẩm triết học đã biên soạn.

Năm 1964, ông được nghỉ hưu, nhưng vẫn không được công bố tác phẩm. Qua đời ngày 7.11.1968 trong cảnh âm thầm. Bản thảo của ông được chuyền tay dưới dạng bản sao. Từ những năm 70 thế kỷ trước, ngày càng nhiều người biết đến tên tuổi ông, kể cả những người chưa được đọc ông dòng nào. Trong thập kỷ 80, vài tác phẩm lẻ tẻ của ông được công bố. Năm 1985, tiểu thuyết “Karnaval” dày hơn nghìn trang của ông được in dưới dạng bị kiểm duyệt, vẽ nên bức tranh toàn cảnh thật bi tráng về thế kỷ 20. Từ những năm 90, trong bối cảnh chính trị mới mẻ, di cảo khổng lồ của ông được đưa vào kế hoạch xuất bản toàn bộ, còn kéo dài đến ngày nay. Một số tác phẩm của ông đã được dịch sang ngoại ngữ: Đức, Pháp, Ý… và công việc còn đang tiếp tục.

Từ đâu Hamvas Béla có được nghị lực mạnh mẽ để biên soạn và sáng tác như thế trong nghịch cảnh? Từ đâu Hamvas Béla có được sự “tĩnh tâm” để âm thầm theo đuổi “sứ mệnh tinh thần” ông tự đặt ra cho mình? Hãy thử dõi theo hành trình tinh thần của ông từ buổi ban đầu.

Vào thập niên 20, 30 thế kỷ trước, cùng với nhiều trí thức Tây phương, ông chia sẻ sâu sắc cảm thức về sự “khủng hoảng hiện sinh” của con người thời đại. Ngay trong những luận văn đầu tiên, ông nỗ lực tìm hiểu và “lột từng lớp vỏ” của truyền thống văn minh Âu châu. Càng mở rộng chân trời hồi cố, ông càng cảm nhận sâu hơn về những “tiền đề” của nền văn hóa Âu châu.

Khái niệm trung tâm của thế hệ bấy giờ là sự “khủng hoảng”. Hamvas không dừng lại ở nỗ lực giải thích sự khủng hoảng ấy về mặt lịch sử, mà đi tìm những nguồn cội “hiện sinh” của nó. Trong tiếng Hy Lạp, “khủng hoảng” có nghĩa là “quyết định”, “chọn lựa”, “phân ly” và “xung đột”. Xuất phát từ cảm thức về sự phân ly và xa rời nguồn cội cũng đồng thời là nuôi dưỡng niềm khát khao khắc phục sự phân ly ấy. Thuật ngữ yêu thích của ông là tìm về “tư thế căn nguyên của con người” (status absolutus), qua đó hy vọng khám phá ra sự nhất thể nguyên thủy.

Năm 1935, ông thành lập “Nhóm Đảo” ở Budapest, tập hợp nhiều văn, thi sĩ và triết gia (kéo dài đến 1939) với mục đích bảo tồn di sản và tinh thần văn minh Hy Lạp trước nguy cơ đen tối của chủ nghĩa phát xít và cực hữu đang đe dọa truyền thống văn hóa Âu châu. Một thành viên nổi tiếng quốc tế (lúc bấy giờ còn ở Hung) của Nhóm này sẽ là Károly Kérényi, người đi tìm thước cho cái Hiện Đại từ cái Tối Cổ. Giống như Hamvas đang dịch Heraclit, Kérényi cũng mong muốn kết hợp cái phổ quát với cái bộ phận. Cả hai công bố nhiều vựng tập với nhan đề Đảo, trong đó có nhiều luận văn của Hamvas, đặc biệt về các đề tài Hy Lạp.

Tinh thần của các vựng tập này khiến ta nhớ đến các Niên gián Eranos ở Thụy Sĩ, cũng như NXB Antaios của Ernst Jünger sau này. Còn bản thân Nhóm Đảo khiến nhớ đến Nhóm Georg, nhất là Nhóm Chủ Nhật ở Budapest trước Thế Chiến I, bao gồm các tên tuổi như György Lukács, Béla Belázs, Karl Mannheim, Arnold Hauser và Charles Tolnay - phần lớn về sau phải lưu vong.

Tuy nhiên, Nhóm Đảo bị cô lập, không hình thành được một truyền thống lớn, do tình trạng nửa-phong kiến của xã hội Hung giữa hai cuộc thế chiến đã ngăn trở một sự phát triển tinh thần lành mạnh, cũng như do tình trạng ngặt nghèo sau Thế chiến 2. Hungary, trong bối cảnh lịch sử không thuận lợi, không thể đảm nhận được vai trò tự nhiên là chiếc cầu nối Đông-Tây. Ngành phân tâm học đạt trình độ thế giới của Hung trước đó cũng sụp đổ.

Làm sao đổi mới được “trạng thái tinh thần” trì trệ ấy? Theo Hamvas, phải tìm lại nguồn sinh lực đã bị lãng quên và chối bỏ: từ truyền thống cổ xưa được chọn lọc.

Trong chiều hướng ấy, từ đầu những năm 1940, Hamvas bắt đầu công trình đồ sộ dưới tên gọi chung “Đại sảnh của Tiền nhân”, được tiếp tục cho đến những năm 1960. Công trình này bao gồm việc phiên dịch và chú giải những tác phẩm quan trọng nhất từ truyền thống cổ xưa cho người đọc Hung ngày nay.

Thật khó hình dung được kiến văn quảng bá của ông về cổ học và cổ ngữ, khi trực tiếp dịch từ nguyên bản nào là Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, của Trung Hoa cổ đại, Upanischaden, Patanjali, Samkhya của Ấn Độ, Tử thư Tây Tạng, Tử thư Ai Cập Pert Em Heru, Henoch, Soha, Heraklit và Jakob Böhme của Hy Lạp và Đức…

Trong những năm tháng khủng hoảng ác liệt nhất của Châu Âu khói lửa (1943-44), ông bắt đầu biên soạn bộ Scientia sacra (“Minh triết thiêng liêng”) mà ta đang có trong tay, mượn một phần nhan đề từ tác phẩm Symboles de la Science sacrée của René Guénon (1886-1951), nhà siêu hình học Pháp. Ta sẽ trở lại với tác phẩm vĩ đại này ở phần 3; ở đây chỉ ghi nhận rằng: tên gọi Nhóm Đảo quả mang tính biểu trưng cho toàn bộ sự nghiệp của Hamvas: cuộc đời cô độc trên hoang đảo!

Không chỉ theo nghĩa chính trị, vì ông tin rằng trong nền văn hóa Âu Châu, bản thân “tinh thần” đã trở nên một ốc đảo, và nhiệm vụ quan trọng nhất, với ông, là “canh giữ” nó để không bị chìm đắm nốt. Muốn thế, cần có một lý giải mới, triệt để về “Tinh thần”.

“Mới”, theo ông, là so với thực trạng tinh thần của Âu Châu đang ngày càng đồng dạng hóa, đồng phục hóa và cơ giới hóa; nhưng không hề “mới” khi tiếp cận trở lại với truyền thống và cách lý giải cổ đại. Hamvas nhìn về phía trước - trong viễn tượng “giải thoát” khỏi hiện đại suy đồi - bằng cách hướng về phía sau, ngay cả về thời tiền sử.

Hạt nhân tư tưởng của Hamvas bây giờ là sự “tỉnh thức”. Tỉnh thức là tiền đề cho sự đón nhận truyền thống, bởi đặc điểm chủ yếu của hiện tại - ông gọi là “hiện tại khải huyền” - chính là sự thiếu vắng tiền đề ấy! Sự ngu độn của “hiện tại khải huyền” không phải là yếu kém về tri thức và trí tuệ, trái lại, là sự dư thừa đến mức bệnh hoạn! Đặc điểm của sự ngu độn ấy là chỉ biết lắng nghe “ý thức” như là kẻ đối thoại duy nhất và độc quyền, cắt đứt mối dây liên kết lành mạnh với những gì ở đàng sau và ở dưới ý thức.

Ta nhớ đến nhận định của C. G. Jung: “Trong cuộc sống bị khóa kín thì sự tỉnh thức cũng bị khóa kín. Sự tỉnh thức bị khóa kín và chìm đắm này được tâm lý học mới đây gọi là cái vô-thức. Vô thức là cơ quan tỉnh thức của tâm hồn con người. Đó là năng lực tiếp cận với tồn tại siêu nhiên, không hiện ra trong thực tại. Các nhà tâm lý học không bao giờ hết ngạc nhiên rằng cái vô thức nhận biết tất cả, thẩm định từng hoạt động, chống cự, cổ vũ, hướng dẫn, cảnh giới, khuyên bảo, can ngăn, khêu gợi, nhận biết từng rung động của đời người, luôn quan sát từ khoảng xa vô hạn, ghi nhận những sự biến của số phận, thấu hiểu chúng một cách chắc chắn, không nhầm lẫn theo cách siêu hình học, nghĩa là xem nhẹ những ảo tượng của cái gọi là thế giới bên ngoài, xem chúng là không thực sự hiện hữu. Cái vô thức là sự tỉnh thức của con người mang sử tính. Nó cũng là cái thường xuyên phán xét lý trí và những việc làm của lý tính”.

Từ hiện tại-khải huyền tìm về truyền thống để vươn tới “giải thoát vĩnh cửu”, nhưng tất nhiên, nơi Hamvas, không đồng nghĩa với sùng tín tôn giáo theo nghĩa định chế, mà như là công việc của riêng cá nhân mỗi người: “tôi không có tín ngưỡng - ông viết trong Một giọt đọa đày -, nhưng lạ thay, mỗi một kinh nghiệm lớn, mang tính quyết định cả đời tôi lại mang tính tín ngưỡng”.

Cảm thức “tín ngưỡng” của Hamvas - hiểu như “lôgíc nghịch lý và Tồn tại” - lắng sâu trong kinh nghiệm nội tâm: “Tôi đi giật lùi từ giữa thế kỷ trước đến Cách mạng Pháp, rồi đến thời khai minh, đến thuyết duy lý, thuyết nhân văn, thông qua thời Trung cổ đến tận Hy Lạp, Ai Cập, Hêbrơ, người nguyên thủy. Đến đâu tôi cũng gặp sự khủng hoảng, nhưng mỗi cuộc khủng hoảng lại chỉ ra một cái gì nằm sâu hơn nữa. Điểm đen nằm xa, càng xa hơn nữa. Tôi phạm phải lỗi lầm tiêu biểu của Âu Châu là đi tìm điểm đen ở bên ngoài mình, mặc dù nó nằm ngay ở bên trong tôi”.

Trong bộ tiểu thuyết khổng lồ Karnaval từ đầu những năm 1950 hay bộ tiểu luận đồ sộ ba tập Patmos được viết trong vòng bảy năm (1959-66) đến công trình triết học Scientia sacra, ta thấy thấm đẫm những trải nghiệm nội tâm: vẫn đứng vững trong nỗi cô đơn cùng cực, đúng như tên gọi Patmos, nơi vị tông đồ là Thánh Joan bị lưu đày - Hamvas cũng có hòn đảo Patmos trong nội tâm mình để từ nó ngắm nhìn lịch sử và cả những gì có trước và nằm bên ngoài lịch sử.

Với Hamvas, kinh nghiệm nội tâm không phải là sự chiếm hữu mà là tham dự, hay đúng hơn, là “đắm mình” vào trong cái nền tảng - được Parmenides gọi là Tồn tại, như là cái nền tảng của tất cả: không có ranh giới và không lấy cái tồn tại riêng lẻ nào khác làm nền tảng (cái Ungrund/vô căn) theo cách gọi của Jacob Böhme.

Nhóm Đảo, cùng thời với những Heidegger, Jaspers, Berdyaev…, tự hỏi đâu là những nguồn cội tinh thần nay tuy không còn hiển hiện, nhưng ở bề sâu, vẫn còn đầy sức sống, có thể được tiếp cận và khai quật cho yêu cầu khắc phục khủng hoảng của hiện tại. Theo cách nhìn của Hamvas, “hiện tại-khải huyền” tiền giả định một “thời hoàng kim”, nơi đó ta có thể tìm thấy “hình ảnh nguyên thủy” (Urbild), theo nghĩa đích thực là meta ta physica: phía bên kia hay phía sau giới tự nhiên. Điều kiện cần cho nhận thức về cái “nguyên tượng” ấy không gì khác hơn là sự tỉnh thức vừa nói trên đây.

Trong rất nhiều trường hợp, như nơi Heidegger, Jaspers, Hamvas Béla…, việc đi tìm cái “nguyên tượng” ấy không nhằm thỏa mãn sự tò mò hay thể hiện sự uyên bác sử học, mà là lựa chọn cá nhân như điểm xuất phát mang đậm tính triết học. Trong bối cảnh phức tạp của thế giới như một “ngôi làng toàn cầu” hiện nay, vấn đề này càng mang tính thời sự và cần được tiếp thu, phát triển trong khung cảnh rộng lớn của cuộc đối thoại liên-văn hóa cũng như trước thách thức của “sự xung đột giữa các nền văn minh” trong quan niệm gây nhiều tranh cãi của Samuel. P. Huntington.

Trong khuôn khổ hạn hẹp của Lời giới thiệu, trước hết, chúng ta thử lược qua quan niệm của Karl Jaspers về “thời Trục” (Achsenzeit/axial Age) như là phiên bản đối chiếu với quan niệm của Hamvas Béla trong “Minh triết thiêng liêng”.


2. Karl Jaspers và “Thời Trục”

Trong khi Martin Heidegger tìm về căn nguyên tư tưởng trong triết học Hy Lạp cổ đại trước Socrates thì Karl Japsers, cùng với số ít các triết gia đương thời khác, có ý thức sâu sắc về sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền văn hóa, sớm hướng đến các nền văn hóa ngoài Âu Châu với viễn tượng so sánh - chứ không phải chỉ cộng dồn - trong sự trình bày về lịch sử triết học.

Trải nghiệm đau buồn về sự tàn phá của Châu Âu trong Thế Chiến 2 càng làm sâu sắc hơn ý thức ấy, thôi thúc Jaspers viết tác phẩm “Về nguồn gốc và mục tiêu của lịch sử”( ). Điểm quy chiếu khả tín - bên ngoài viễn tượng dân tộc và lấy Châu Âu làm trung tâm theo thói quen -, với Jaspers, chính là khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 2 trước công nguyên (được ông mệnh danh là “Thời Trục”).

Bản thân việc đặt tên ấy cũng đã đi ngược lại truyền thống Âu Châu - Kitô giáo quen lấy việc ra đời của đức Jêsu-Kitô như là “trục” của lịch sử thế giới. Dưới cái nhìn của Jaspers, trong khoảng thời gian sáu thế kỷ ấy, có thể nhận ra một sự đột phá về ý thức lịch sử “trong cả ba thế giới”, tạo nên khuôn khổ chung cho con người chúng ta ngày nay( ).

Tư liệu lịch sử về cả ba thế giới cổ đại (Tây phương, Ấn Độ và Trung Hoa) cho thấy những sự phát triển gần như đồng thời một cách đáng ngạc nhiên qua một số tên tuổi được Jaspers điểm lại: “Ở Trung Hoa là Khổng Tử và Lão Tử và sự ra đời của mọi xu hướng của triết học Trung Quốc cổ đại như Mặc Tử, Trang Tử, Liệt Tử và nhiều người khác trong “bách gia chư tử”; ở Ấn Độ là sự ra đời của Upanischads, đức Phật cùng với mọi “phương án” triết học từ hoài nghi, thuyết duy vật cho tới phái ngụy biện và thuyết hư vô. Ở Iran, là Zarathoustra với cuộc đấu tranh giữa thiện và ác; ở Palestina là những tiên tri từ Elias, Jesaias, Jeremias cho đến Deuterojesaias. Ở Hy Lạp là Homer, các triết gia Parmenides, Heraklit, Plato, rồi các nhà bi kịch, Thukydides và Archimèdes”( ).

Đặc trưng chung và nổi bật của cả “ba thế giới” là việc “con người có ý thức” về Tồn tại nói chung, về chính mình lẫn những giới hạn của mình. Con người trải nghiệm sự đáng sợ của thế giới và sự bất lực của chính mình. Con người đặt những câu hỏi triệt để. Trước hố thẳm, con người vươn lên sự giải phóng và giải thoát. Vừa ý thức về những giới hạn của mình, con người vừa đề ra những mục tiêu cao vời nhất. Họ trải nghiệm sự tuyệt đối vô-điều kiện trong bề sâu của tự ngã và trong sự sáng rõ của sự siêu việt”( ).

Đi vào chi tiết, Jaspers nêu năm phương diện khác nhau của Thời Trục, nhưng chúng cần được hiểu trong một tổng thể gắn bó:

1. Sự đột phá về ý thức dựa vào sự phản tư - hay cách lý giải thuần lý về vũ trụ -, qua đó sự phản tư không chỉ hướng đến những giới hạn đã được trải nghiệm mà cả bản thân tư duy: “Từ sự tĩnh lặng của đời sống đã diễn ra sự bùng vỡ, từ sự yên tĩnh của những đối cực chuyển sang sự bất an của những sự đối lập và nghịch lý. Con người không còn khép kín trong chính mình nữa. Họ trở nên xao xuyến, đồng thời khám phá những khả thể mới, vô giới hạn. Từ nay con người có thể nghe và hiểu những gì trước nay không ai tra hỏi và tuyên bố”.

Kết quả lịch sử của quá trình “tinh thần hóa” này là chia tay với thời đại thần thoại “yên tĩnh và hiển nhiên”. “Những quan niệm, phong tục, tập quán ngự trị một cách hiển nhiên, vô-ý thức trước nay “đều bị thẩm định, đặt thành vấn đề, thải hồi… Bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại thần thoại từ phía lý tính và kinh nghiệm được lý tính khai minh (Logos chống lại Mythos). Thế giới thần thoại cổ xưa chìm dần vào “hậu cảnh của cái toàn bộ” và chỉ còn lưu giữ trong tín ngưỡng bình dân, trong khi nỗ lực mới mẻ của tinh thần đã thay đổi cách hiểu của thần thoại, bằng cách xem thần thoại chỉ là dụ ngôn, cải biến nó và thấu hiểu nó ở bề sâu mới mẻ.

2. Động lực của sự phát triển là tiến trình cá nhân hóa mãnh liệt nơi những bậc “vĩ nhân”: “Lần đầu tiên ta có những triết gia. Con người dám đứng thẳng trên đôi chân của mình với tư cách là những cá nhân”. Dù theo những con đường khác nhau, nhưng bây giờ con người “về nội tâm, đối diện với toàn bộ thế giới. Con người phát hiện cái uyên nguyên từ trong chính mình, từ đó con người - cũng như chân lý - tự nâng mình lên. Trong tư duy tư biện, con người vươn đến cái bản thân Tồn tại”.

Những trải nghiệm ấy được phát biểu bằng nhiều cách khác nhau, với sự hàm hồ, khó hiểu không tránh khỏi, do sự khao khát được “giải phóng và giải thoát” theo “mẫu người đích thực” đúng nghĩa. “Trong thời Trục, đã khai mở cái mà về sau sẽ gọi là lý tính và nhân cách. Khoảng cách giữa đỉnh cao của những khả thể làm người và con người đời thường tăng lên. Nhưng, những gì một cá nhân kiệt xuất có thể trở thành, cũng gián tiếp làm chuyển biến tất cả. Việc làm người nói chung đã tiến một bước nhảy vọt”( ).

3. Sự phản tư của những cá nhân kiệt xuất được lan truyền rộng rãi bằng sự truyền thông ngày càng mở rộng nhanh chóng. “Những cuộc đấu tranh tư tưởng bùng phát nhằm thuyết phục người khác, gây nên cảnh gần như hỗn loạn của “bách gia”.

Tiền đề xã hội học của sự truyền thông được tăng cường này là “số lượng tràn ngập của những tiểu quốc và đô thị” trong cả ba thế giới cổ đại, vừa loạn chiến, vừa triển khai sức mạnh và sự giàu có. Sự giao lưu qua lại bên trong ba thế giới thúc đẩy sự vận động của tinh thần; các bậc tôn sư, các giáo chủ bôn tẩu khắp nơi, xây dựng trường phái, tranh cãi và cạnh tranh với nhau về con đường đúng đắn để đi tới chân lý.

4. So sánh với trạng thái tinh thần tĩnh tại của thời đại thần thoại, “trong đó tuy có các thảm họa, nhưng tất cả đều lặp đi lặp lại, bị giới hạn trong những chân trời tĩnh lặng, khiến chúng không thể hiểu nổi và cũng không được nhận thức”, thì bây giờ không chỉ là sự năng động hóa mà còn có cả sự lịch sử hóa của tư duy. Càng có ý thức về những sự căng bức ngày càng gia tăng của giữa những đổi thay nhanh chóng, thì “hiện hữu của con người - với tư cách là lịch sử - trở thành đối tượng của suy tưởng.

Người ta cảm nhận hiện tại như cái gì phi thường, nhưng đồng thời cũng biết rằng một quá khứ dài dằng dặc đã trôi qua. Vừa mới thức tỉnh, con người mang nặng ký ức về quá khứ, tức “ý thức về việc đã sinh ra quá muộn, thậm chí về sự suy đồi và sa đọa”. Tuy nhiên, lịch sử đã được suy tưởng như một “nhất thể toàn bộ”, cho dù đó là thịnh, suy hay tuần hoàn.

5. Một hệ quả khác của việc tương đối hóa chỗ đứng của cá nhân là bắt đầu nhận ra yêu cầu thiết kế không gian chính trị. Người ta muốn “thông qua tri thức, giáo dục, cải cách… để tự tay mình nắm lấy diễn trình của biến cố một cách có chủ đích”; “nhận ra việc con người phải sống chung với nhau, phải được quản lý và cai trị như thế nào. Các tư tưởng cải cách làm chủ hành động.

Các triết gia du hành từ nơi này sang nơi khác để làm thầy, làm nhà cố vấn, bị khinh rẻ hoặc được trọng vọng”. “Có một sự tương đồng về xã hội học giữa sự thất bại của Khổng Tử trong triều đình nước Vệ và của Plato ở Syrakus, giữa môn phái của nho gia và Viện Hàn Lâm của Platon trong việc đào tạo những nhà cai trị tương lai”.

Trong bối cảnh ấy, theo Jaspers, đã hình thành những phạm trù cơ bản cho tư duy và cho các tôn giáo thế giới mà chúng ta thụ hưởng cho đến tận ngày nay. Bắt đầu “cuộc đấu tranh về sự siêu việt của Thần linh tối cao chống lại ma quỷ, cuộc đấu tranh chống lại những ngẫu tượng thần linh giả hiệu từ sự phẫn nộ về đạo đức. Thần tính được tăng cường thông qua việc đạo đức hóa của tôn giáo”.

Trong tư duy mới này, tôn giáo và triết học ngày càng phân ly và trở thành những khu vực tự trị. Kết quả sau cùng của thời Trục, theo Jaspers, là thời kỳ củng cố, trong đó những học thuyết được định hình, trở thành “chuẩn mực của học tập và giáo dục” (Khổng Nho thời Hán, Phật giáo thời Asoka, giáo dục La Mã-Hy Lạp hóa thời Augustin).

Nhưng, ngay cả sau sự suy tàn của các đế chế này, hành động của con người vẫn tiếp tục được tra hỏi. Thái độ tra hỏi ấy đeo đuổi sự phân biệt giữa một bên là các nền văn hóa cổ xưa (như Ai Cập và Babylon) như thể “con người chưa thực sự đi đến với chính mình”, và bên kia là các “dân tộc bán khai” bị tuyệt diệt hoặc bị đồng hóa khi tiếp xúc với thời Trục: “Thời Trục đồng hóa tất cả những thứ còn lại. Từ đó, lịch sử thế giới có được cấu trúc và sự thống nhất duy nhất, kéo dài mãi đến tận ngày nay”. 


Ba kết luận được Jaspers rút ra về ý nghĩa của thời Trục:

- nhân loại ngày nay sống dựa vào những gì đã được sáng tạo và suy tưởng từ thời Trục. Trong mỗi bước phát triển, ta lại hồi tưởng về thời Trục và lấy cảm hứng từ đó. Hiện tượng “phục hưng” như là hồi tưởng và khôi phục về những khả thể của thời Trục” tạo nên tiền đề cho việc cả ba thế giới có thể thấu hiểu nhau một cách sâu xa: “Họ nhìn nhận lẫn nhau khi gặp lại nhau, bất chấp khoảng cách không gian”.

- Nếu nỗ lực “đồng đại hóa” giữa ba thế giới về sau là khiên cưỡng và giả tạo, thì vẫn cần nhấn mạnh thời Trục là sự kiện “có một không hai” trong lịch sử. Chỉ trong thời Trục, ta mới có một sự song hành nói chung về mặt lịch sử phổ quát, chứ không đơn thuần là sự trùng hợp ngẫu nhiên của những hiện tượng đặc thù.

- Do đó, thời Trục là cơ sở cho việc thông hiểu và chấp nhận lẫn nhau giữa các nền văn hóa: “càng lùi xa về thời Trục, ta càng thấy thân thuộc nhau hơn, gần gũi nhau hơn”. Dù dị biệt về đức tin và nhân chủng, chính trải nghiệm của thời Trục (không dựa vào sự khải thị) mới là “lời kêu gọi truyền thông vô giới hạn. Nhìn và hiểu người khác giúp ta hiểu rõ hơn về chính mình để vượt qua sự hẹp hòi của một sử tính tự khép kín, để thực hiện bước nhảy thật xa”, và đó cũng là “phương tiện tốt nhất chống lại sự sai lầm của việc loại trừ và độc tôn chân lý về tôn giáo lẫn thế giới quan hay ý thức hệ”( ). 


3. Thời Trục trong cách nhìn khác của Hamvas Béla

Ta được biết rằng bên cạnh các nhà văn và nhà tư tưởng Nga như Dostoevsky, Tolstoi, Berdjaev, Shestov, Merezhkovsky và Soloviev, Hamvas Béla rất thích đọc Kierkegaard, nhất là Nietzsche, Camus, Heidegger và Jaspers.

Chịu ảnh hưởng của Jaspers, nhưng, trong mối quan tâm đặc biệt đến phạm vi và ý nghĩa của những sự kiện liên quan đến thời Trục – ngay trong những trang mở đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas đã có cách nhìn hoàn toàn khác, dù ông không bao giờ dùng thuật ngữ “Thời Trục”.

Hamvas khiến ta nhớ đến Johan Huizinga, người đã có cách nhìn khác hẳn Jacob Burckhardt( ) về thời Phục Hưng. Hình ảnh quen thuộc về thời Phục Hưng - giai đoạn kết thúc thời Trung Cổ - được định hình như là một khởi đầu mới mẻ, hoành tráng nhờ công trình kinh điển của nhà lịch sử văn hóa Jacob Burkhardt đã bị Huizinga lật ngược lại.

Dưới mắt Huizinga, thời Phục Hưng là sự cáo chung của một thời đại, một thứ “fleur du mal” kiểu Baudelaire, hơn là một sự khởi đầu mới( ). Ở đây cũng thế, hình ảnh thời Trục, nơi Jaspers, được xem như một sự đoạn tuyệt triệt để với quá khứ, được đánh dấu bằng những nhân vật ưu tú, những định chế và những nhãn quan mới mẻ về chất so với thời đại thần thoại. Ngược lại, dưới mắt Hamvas, những tư tưởng lớn của thời Trục không có gì khác với thời đại trước đó.

Hệ quả của cách nhìn này là: nếu các tư tưởng của thời Trục không phải là mới mẻ, thì, thay vì nhấn mạnh đến sự đoạn tuyệt, cần phải tiếp cận và xem xét kỹ lưỡng nền “minh triết” tưởng như đã được thay thế trong thời Trục. Câu hỏi về “truyền thống” cần được đặt lại. Vì thế, hầu hết công trình của Hamvas xoay quanh việc tái dựng nền minh triết cổ xưa được bảo tồn trong nhiều “thánh điển” của nhân loại.

Sau cùng, việc đảo ngược viễn tượng nghiên cứu sẽ rọi ánh sáng mới vào Kitô giáo. Nếu với Jaspers, khác với Hegel, sự ra đời của Kitô giáo không thể được xem là bước ngoặt của lịch sử tư tưởng, thì, theo Hamvas, “truyền thống thiêng liêng” của nhân loại là giống nhau ở mọi nơi, và Kitô giáo, do đó, chỉ nói lên việc quay trở lại và tái khẳng định những giá trị của truyền thống.

Dưới đây, ta thử tóm lược những luận điểm chính của Hamvas liên quan đến ba chủ đề nói trên.

Trước hết, theo Hamvas, thời Trục tự nó không phải là một sự phát triển tự tại và tự lập, mà là một triệu chứng: sản phẩm của quá trình hỗn loạn và suy đồi vô tiền khoáng hậu! Nó quả thật là một sự biến có tầm vóc thời đại, nhưng theo nghĩa của sự sụp đổ và phá vỡ trật tự. Khoảng thế kỷ thứ sáu trước công nguyên là “sự hỗn loạn diễn ra trong trật tự của những giá trị thiêng liêng của Tồn tại”, khi lời nói và việc làm bị phân ly, sự hạn độ và sự cân bằng bị thay thế bằng sự quá độ và kiêu mạn.

Thật ra, đây không phải là cách nhìn đặc thù của riêng Hamvas, mà được nhiều nhà nghiên cứu khác về thời Trục chia sẻ. Những lời tiên tri u ám về “thời mạt thế” trong truyền thống Hebrew dầu sao cũng có tính cục bộ, trong khi Hamvas khởi đầu công trình đồ sộ của mình bằng cách trích dẫn sâu rộng về cả ba khuôn mặt tiêu biểu đương thời - cách rất xa nhau về địa lý -, đó là đức Phật, Lão Tử và Heraclitus.

Trong hình thức huyền học, nhiều trích đoạn từ kinh điển Phật giáo cho thấy trải nghiệm về sự đổ vỡ của trật tự truyền thống. Những dòng hàm súc của Lão Tử trong Chương 18 của Đạo đức kinh nói rõ điều ấy: “Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy. Lục thân bất hòa hữu hiếu tử, Quốc gia hỗn loạn hữu trung thần” (Đạo lớn mất, mới có nhân nghĩa; trí tuệ sinh, mới có dối trá; lục thân chẳng hòa, mới có hiếu tử; nước nhà rối loạn, mới có tôi ngay”).

Từ Hy Lạp cổ đại là tiên đoán của Heraklitus về con người thời đại như những kẻ mộng du, đánh dấu một kỷ nguyên của sự mù quáng và ngu muội chưa từng có trước đó. Nhưng, thời đại khủng hoảng cũng mang lại cơ hội: “trong thời gian khủng hoảng giữa hai thời đại, khi con người chưa thực sự đến đàng kia nhưng cũng không còn ở đàng này, thì lại có thể nhìn xa hơn, thoát ra khỏi cái vỏ kén tưởng như đương nhiên của cái tự ngã”.

Trong tác phẩm Patmos về sau, Hamvas triển khai thêm ý này, so sánh những thời kỳ như thế với một thung lũng hẹp, nhấn mạnh đến nguy cơ và tầm quan trọng của chúng.

Và cũng chính điều này lại làm nổi bật sự mới mẻ đích thực của thời Trục. Những tư tưởng của thời đại này, theo Hamvas, không mới, nhưng được phát biểu thật tân kỳ. Hai trong những cách thái mới này giữ vai trò trung tâm: Thánh Điển và Thánh Nhân (được ông gọi là “Chủ thể thiêng liêng”).

Trước đây, việc “truyền đạo” là khẩu truyền, ngăn cấm văn bản. Bây giờ, trước nguy cơ của sự hỗn loạn, đảo lộn trật tự, việc bảo tồn giáo nghĩa dưới hình thức thánh điển trở nên cần thiết. Đồng thời, sự minh triết được hiện thân trong những nhân vật cụ thể: thánh hiền, nhà làm luật, nhà tiên tri, các giáo chủ v.v.

Nói theo thuật ngữ của Michel Foucault, việc “khách thể hóa” nền minh triết thiêng liêng bằng sách vở, thánh điển đi liền với tiến trình “chủ thể hóa”.

Việc này diễn ra trong vòng vài thế hệ: nếu ở Trung Hoa cổ đại, Lão Tử vẫn còn là một khuôn mặt đầy bí ẩn thì Khổng Tử là nhân vật lịch sử cụ thể. Ở Hy Lạp, Orpheus còn thuộc về thế giới thần thoại, Pythagoras nửa thần thoại, nửa lịch sử, thì Heraklitus hoàn toàn là khuôn mặt lịch sử. Những ví dụ như thế có thể tìm thấy khắp nơi, từ Do Thái đến Ấn Độ.

Trật tự được đề xướng trong các thánh điển và truyền thống, theo Hamvas, sở dĩ là linh thiêng vì chúng có tính vĩnh hằng, được truyền thừa một cách đặc biệt, trong khi mọi phát kiến về sau đều có tính phái sinh. Theo đó, trật tự và minh triết đích thực không thể hình thành từ tâm trí phân tích, trừu tượng.

Hamvas phân biệt minh triết uyên nguyên xét sự vật trong sự liên lập và toàn thể, khác cơ bản với ba hoạt động của lý trí tư biện về sau, đó là biện biệt, đòi hỏi được chứng minh và sự hoài nghi. Đặc điểm nổi bật của trật tự đích thực là tuyên bố chứ không chứng minh, bởi nó không cần những chứng minh.

Ông nhắc lại châm ngôn của Vauvenargues: khi một luận cứ cần phải chứng minh, đó là dấu hiệu nghèo nàn của sự phát biểu. Sau cùng, sự hoài nghi - nguyên tắc cơ bản của triết học Descartes, cũng như các nghịch lý của Kant và phép biện chứng của Hegel - đều là phái sinh. Hen panta einai (“Tất cả là Một”) của Heraclitus - được ông nhắc lại nhiều lần - chính là kinh nghiệm nguyên thủy về cái nhất thể vốn là tâm điểm của đức tin, sự tin cậy và trung thành.

Tất nhiên, Hamvas không xem nhẹ sự biện biệt và phê phán của trí tuệ. Ông chỉ muốn nói: chính sự thức nhận và thấu hiểu mới giúp vươn tới trật tự đích thực của sự vật. Rất gần gũi với Heidegger, Hamvas cho rằng thức nhận và thấu hiểu có nghĩa là đặt sự vật trở lại vào đúng chỗ của chúng. Đó là “thức nhận” (recognitive) hơn là “nhận thức” (cognitive)!

Tri thức đích thực, theo cách hiểu này, không dựa vào sự tích lũy những sự kiện rời rạc theo kiểu thực chứng, cũng không phải là sự kết nối vô hồn, cơ giới của “lý trí” khao khát quyền lực. Nói cách khác, “minh triết” vốn không dựa vào “ý thức” - cơ quan của sự mê muội, sững sờ -, mà dựa vào “vidya”, “trí huệ” nói theo truyền thống Ấn Độ cổ đại.

Thức nhận và thấu hiểu trật tự thiêng liêng đòi hỏi sự mẫn cảm và sự hòa hợp. Mẫn cảm không phải là sùng tín mà là mở ngỏ tâm hồn và dịu dàng đón nhận. Sự mẫn cảm được tăng cường khi phát triển trạng thái hòa hợp, hòa âm như trong âm nhạc. Hamvas nhấn mạnh mối quan hệ với âm nhạc, hay thậm chí với âm thanh như là vai trò trung tâm trong việc vun bồi sự mẫn cảm. Nó cũng giải thích tính cách truyền khẩu của truyền thống cổ xưa, ưu tiên cho việc truyền đạt từ miệng đến tai thông qua lời nói sống động của con người. Các kỹ thuật “khổ hạnh” cũng cần thiết để phát triển sự mẫn cảm, không theo nghĩa là sự hành xác cho bằng khôi phục sự thống nhất và hài hòa cho con người đã bị đánh mất chính mình.

Thế nhưng, đi từ cuộc sống hỗn loạn sang cuộc sống có trật tự là rất khó khăn vì nói dễ hơn làm! Tiền đề cho bước chuyển này, như đã nói, là sự tỉnh thức, một ý niệm trung tâm nơi đức Phật và Heraklitus. Hamvas cũng diễn giải lời dặn dò sau cùng của Socrates: “Này Crito, chúng ta còn nợ thần Esculape một con gà trống!” theo nghĩa liên tưởng đến tiếng gà báo thức.

Việc đổ vỡ và đánh mất “trật tự thiêng liêng” được Hamvas minh họa bằng một chuỗi những cặp khái niệm tương phản. Trước hết, là sự tương phản giữa Tồn tại và Đời sống. Tồn tại là vương quốc của sự an hòa và thanh sạch, của niềm vui và ánh sáng, nhất là của sự cân bằng, hài hòa và tiết độ. Trong Tồn tại có trật tự, thứ bậc thiêng liêng được tôn trọng; sự vật ở đúng nơi chốn của chúng, vì thước đo ở đây là Thượng Đế chứ không phải con người. Trật tự này được minh họa sống động nhất bằng pho tượng nổi tiếng về người cầm cương cỗ xe ngựa ở đền Delphi, Hy Lạp. Hamvas cũng tìm thấy hình tượng “người cầm cương cỗ xe ngựa” tương tự trong nhiều truyền thống cổ xưa khác ở Ấn Độ, Ai Cập, La Mã, Peru, Trung Hoa… từ kiến văn thật quảng bác của ông.

Ngược lại, đời sống là thế giới của bon chen, phiền não. Mượn cách nói của Bergson, ông xem Tồn tại là khai mở, còn Đời sống là khép kín, là samsara trong tư tưởng Ấn giáo và ananke trong tư tưởng Hy Lạp. Theo ông, “Đời sống” hiện thân nơi Nietzsche và Goethe, vì cả hai ngợi ca sự phóng dật của cá nhân. Ông đối lập nó với câu nói của Bataille: “toute action fait d’un homme un être fragmentaire” (“Mọi hành động đều biến con người thành một hữu thể vỡ vụn”).

Các cặp khái niệm khác sẽ làm rõ hơn các phương diện khác nhau của Tồn tại và Đời sống, trong đó quan trọng nhất và gây tranh cãi nhất là sự đối lập giữa “thời hoàng kim” và “thời khải huyền”. Khải huyền trái ngược với “vườn địa đàng”. Nó dành cho sự hiện hữu khép kín, bị cô lập, vỡ vụn. Hiện hữu vỡ vụn (tört trong tiếng Hung) là lĩnh vực của lịch sử (történelem), một “từ nguyên” ý vị! Hậu quả của nhất thể bị vỡ vụn là đánh mất mối quan hệ với cái siêu hình, là thần thánh hóa cái tự ngã cá nhân cô đơn, khép kín, chỉ còn biết phòng vệ, một biểu hiện của kẻ mộng du nơi Heraclitus.

Thời hoàng kim là “vườn địa đàng”, không nhất thiết là trạng thái nguyên thủy có thật của loài người và không phải là đối tượng của tiếc nuối, hoài niệm. Trái lại, “vườn địa đàng” có mặt khắp nơi - chẳng hạn, trong số ít những nghệ phẩm kiệt xuất: tranh của Corot hay Raphael, nhạc của Bach và Beethoven, thi ca của Hölderlin hay Keats, trong Giấc mộng đêm hè…Đó là chỗ quy chiếu cho cuộc sống của chúng ta, và “bất cứ nơi đâu nó xuất hiện, trong một con người hay một tác phẩm, trong một cảnh tượng hay một âm thanh, thì mọi người đều biết rằng đó chính là nơi ta thật sự về nhà”, không còn bơ vơ, lưu lạc trong thế giới xa lạ nữa.

Một sự đối lập khác là giữa con người tâm linh và con người kỵ sĩ. Các đế chế bành trướng bằng những đức tính của người kỵ sĩ, thay vì đi tìm trở lại trật tự vĩnh hằng. Đáng chú ý là hai hình tượng được Hamvas lựa chọn: Plato và Nietzsche. Plato là “con người tâm linh cuối cùng”, sau ông là sự ngự trị của các chiến binh. Nietzsche là người sau cùng ở thời hiện đại đi theo trào lưu này trong não trạng, như là một kỵ sĩ “thoái hóa”, nhưng đồng thời lại mở ra một viễn tượng khác, vượt ra khỏi khuôn khổ cũ. 


4. Tiếng gọi từ thời Trục

Nhiệm vụ đơn giản đặt ra cho các nhà tư tưởng thời Trục (và cũng là cho con người ngày nay), theo Hamvas, là quay trở lại với sự tiết độ, cân bằng và hài hòa. Nói cách khác, là lắng nghe Logos. Điều này không có nghĩa là chỉ biết theo đuổi sự cứu độ hay giải thoát cá nhân, trái lại, là chuyển hóa cả thế giới theo những thước đo của thời hoàng kim. Hamvas dùng ba từ khóa để nắm bắt tính chất của công cuộc này.

Từ thứ nhất là “asha”, có nghĩa là trật tự chân thật và công chính, từ truyền thống Zarathoustra (hay còn gọi là truyền thống Zoroastre). Xin trích một đoạn dài để minh họa: “Asha là bản thể huyền bí, tăng trưởng lên như là hệ quả của mọi lời nói đúng đắn, mọi việc làm thiện hảo, mọi suy tưởng sâu xa nơi bề sâu, trong lòng của thế giới và trong tinh thần của Thượng Đế. Ai yêu thương sâu sắc, người ấy tăng trưởng asha; ai vun bồi một công trình, tác phẩm đẹp đẻ, người ấy tăng trưởng asha; ai chăm sóc mảnh ruộng của mình một cách chí thú, người ấy tăng trưởng asha; ai cầu nguyện từ đáy lòng, người ấy tăng trưởng asha. Còn mọi ý tưởng lời nói, việc làm đen tối, dối lừa, vị kỷ, sai lầm sẽ làm suy giảm asha; asha suy giảm cùng với mọi tội lỗi; vì thế, chính asha quan trọng cho sự sinh tồn của thế giới hơn cả thức ăn và ánh sáng mặt trời”.

Từ thứ hai là “ân sủng” trong truyền thống Hy-La (charis trong tiếng Hy Lạp; gratia trong tiếng Latinh). Từ này cũng đồng nghĩa với asha; hàm nghĩa là việc khai quật và tinh chế vàng ròng vốn bị chôn vùi dưới mặt đất. Đặc biệt hơn, nó gắn liền với hành động cho và nhận, thể hiện thật tiêu biểu trong các họa phẩm bất hủ của các tác giả Plato-mới ở Florenzia thời Phục Hưng, chẳng hạn như bức tranh Primavera của Botticeli hay Ba ân sủng của Raphael.

Cuộc đời đầy ân sủng có nghĩa là cuộc đời luôn bố thí, ban tặng, là nhiệt tâm tận hiến và quên mình, không chỉ trong những thực hành khổ hạnh mà cả trong đời sống ái ân, nói lên khả năng của sự tiếp nhận, mẫn cảm và hài hòa. Bức tranh sơn dầu Ba ân sủng của Raphael cho thấy chu trình trao - nhận - tận hiến chứa chan cho nhau. Một vận động xoắn ốc, ngày càng tăng trưởng và dư dật như thế ngược hẳn với vòng lẩn quẩn của sự ích kỷ và tàn nhẫn đang thống trị ngày nay.

Từ thứ ba là “tình yêu thương”. Chưa bàn nhiều trong phần đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas dành vị trí trung tâm cho “tình yêu thương” ở phần cuối bộ sách, được viết hai mươi năm sau. Ở đây ta đi đến chặng cuối trong hành trình suy tưởng của Hamvas, liên quan đến việc ông nhìn nhận lại về Kitô giáo. 




5. Kitô giáo và truyền thống 



Cũng như nhiều người cùng thế hệ, Hamvas ít có thiện cảm với Kitô giáo hiểu như tôn giáo đã được định chế hóa, ít nhiều xơ cứng, thậm chí thiếu khoan dung như bản thân chế độ “Kitô giáo dân tộc” cai trị Hungary trong thời gian giữa hai cuộc Thế chiến. Ông quay sang đọc Nietzsche của “Kẻ phản-Kitô”. Không phải ngẫu nhiên mà trong phần đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas không bàn đến Kitô giáo, nhưng (có lẽ cũng lại từ Nietzsche?), ông dần dần thay đổi thái độ và suy nghĩ.



Tất nhiên còn có lý do khách quan. Kitô giáo - hiểu theo nghĩa chặt chẽ - là hiện tượng về sau, không thuộc về thời Trục vốn là quan tâm chủ yếu của ông. Như đã nói, Hamvas, như đã nói, không dùng từ “thời Trục”, nhưng dùng cách nói khác: “thời tới ngưỡng” (“liminal”), kết thúc với Plato, và cho rằng từ sau Plato, ta đã sống trong “thời khải huyền”. Việc đánh giá lại Kitô giáo mở ra cho ông viễn tượng mới và niềm hy vọng mới.



Luận điểm ở đây tương đối giản dị. Giáo thuyết Kitô giáo, theo cách nhìn của Hamvas như ta đã biết, không thể hiện điều gì thật sự mới mẻ, vì, về cơ bản, vẫn đồng nhất với các truyền thống thiêng liêng trước đây. Đó là lý do giải thích tính phổ quát và tiềm lực phát triển của nó. Hiểu theo nghĩa ấy, Kitô giáo không phải là một cuộc cách mạng, cho bằng là lời kêu gọi trở lại với trật tự và sự tiết độ trong các truyền thống khác của thời Trục. Nhưng, lời kêu gọi ấy là triệt để, cấp tiến và kiên quyết trước hiểm họa của sự hỗn loạn và đồi bại.



Chỗ đáng nhấn mạnh là thực sự mới mẻ của Kitô giáo chính là tầm quan trọng dành cho “tình yêu thương”, một đặc điểm tuy có nhưng còn khá mờ nhạt trong các truyền thống trước đó. Tình yêu thương trở thành giá trị cốt lõi trong Phúc âm: thế giới do tình yêu thương tạo ra thậm chí còn cao cả hơn sự sáng tạo nguyên thủy.



“Tình yêu thương là thước đo của Tồn tại”, vì nó góp phần chủ yếu để giải quyết sự đồi bại và hỗn loạn. Tình yêu thương giải quyết nghịch lý giữa tự do và cưỡng chế, có thể khôi phục trật tự, bởi bản thân nó có sức mạnh hơn hẳn những thế lực khác. Sức mạnh của tình yêu thương gần gũi với sức mạnh của ân sủng; êm dịu mà không yếu đuối, hân hoan và hạnh phúc chứ không lạnh lùng, khắc nghị và tràn đầy lòng từ mẫn, tha thứ.



Nó là exousia (“quyền năng mềm”) được đề cập nhiều nơi trong Phúc âm (chẳng hạn Mathieu 7, 28-29). Quyền năng ấy tất nhiên dễ bị tổn thương, chê bai hay đả kích, với tất cả sự hung bạo của ác tâm, cái đối nghịch với tình yêu thương. Kết luận sau cùng khá bất ngờ của Hamvas, khác với ngôn từ khá “bi quan” về thời Khải huyền: sức mạnh của tình yêu thương và ân sủng sẽ là vô địch. 





*

* * 





Hai cách tiếp nhận và lý giải của Karl Jaspers và Hamvas Béla về thời Trục thoạt nhìn có vẻ tương phản. Nhưng, như hai mặt sấp ngửa của cùng một đồng tiền, hai lối nhìn càng cho thấy sự phức tạp của một chủ đề học thuật quá rộng lớn và uyên áo mà không ai, kể cả những nhà tư tưởng tầm cỡ như hai ông, có hy vọng tát cạn và nói được lời sau cùng.



Điểm chung đáng ghi nhận là cho thấy sức thu hút không hề giảm sút của chủ đề, sau hàng nghìn năm lịch sử. Thời Trục – với sự hình thành bộ khung tư duy và tín ngưỡng cho toàn nhân loại như nguồn sữa mẹ nguyên sơ nhất, thanh sạch nhất – trước sau vẫn được xem là “thời đại và cấu trúc (để) quy chiếu và tham chiếu” (Referenz- Strukturzeit), để trên cơ sở đó, mở ra triển vọng về một cuộc đại đối thoại liên-văn hóa.



Thêm nữa, cuộc đối thoại ấy có thể góp phần xây dựng một “nền đức lý toàn hoàn vũ” (Weltethos), như tên gọi đề án vĩ đại của Hans Küng, nhà thần học Kitô giáo nhiều ảnh hưởng. Nền “đức lý” như thế nhất thiết phải dựa trên sự hòa đồng và đối thoại liên-tôn giáo theo quan niệm của Küng? Hay phải trên cơ sở thế tục như ý kiến phản bác của nhiều người khác? Quan hệ luôn hết sức căng bức và sâu thẳm giữa cái “divinum” và cái “humanum” phải xử lý và hòa giải như thế nào?



Một cách nhìn lưỡng phân, đen trắng rạch ròi về thời Trục dễ dẫn đến yêu sách tuyệt đối của mỗi bên. Nếu xem nhẹ sự khác biệt và tuyệt đối hóa sự tương đồng, ta sẽ rơi vào cách lý giải nặng tính “ý hệ”. Ngược lại, tuyệt đối hóa sự khác biệt sẽ cản trở diễn ngôn và đối thoại. Cuộc đối thoại liên văn hóa, nếu có, ắt phải chấp nhận một phiên bản “mềm” về sự đồng thuận: sự đồng thuận là lý tưởng vươn tới, nhưng không nên đòi hỏi và vội vã khẳng đinh, nhất là trong bối cảnh đầy xung đột của thế giới ngày nay.

Tất nhiên, cần phân biệt hai hình thức của tuyệt đối hóa: hướng ngoại và hướng nội. Tuyệt đối hóa hướng ngoại xem mình là độc quyền chân lý, mặc nhiên xem các cách nhìn khác là sai lầm. Ở đây cần hơn hết lẽ phải của sự khoan dung: con đường của tôi là đúng, nhưng con đường của bạn không vì thế mà nhất thiết phải là sai!

Mặt khác, lại nên đề cao yêu sách tuyệt đối hướng nội: vững tin vào xác tín của mình, không cần nhân nhượng hay tương đối hóa, đồng thời tôn trọng sự xác tín của người khác. Một “phương pháp luận” trong đối thoại liên văn hóa là cần thiết: giữ vững niềm tin, nhưng không gây ra xung đột. “Tranh minh” không nhất thiết phải thành “tranh thắng”, một thông điệp hiền minh, ẩn mật của thời Trục? 

BÙI VĂN NAM SƠN 
Xuân Bính Thân, 2016 


























Hamvas Béla


Tiểu sử nhà triết học, nhà văn hiện đại lớn nhất của Hungary
Hamvas Béla (1897-1968)

Hamvas Béla sinh ngày 23.03. 1897 tại Eperjes (nay thuộc Slovakia) trong một gia đình linh mục thiên chúa giáo. Năm 1898 vì nghề nghiệp của cha, gia đình ông chuyển đến Bratislava.

Năm 1915 sau khi tốt nghiệp trung học Hamvas Béla tình nguyện ra nhập quân đội, sau một năm, bị thương, ông trở về nhà và bắt đầu đọc Kant, Rimbaud, Dostojevski, Schopenhauer, nhưng trước hết ông đọc Nietzsche.

Thời kỳ này ông viết trong tập tiểu luận Patmosz như sau: ”…Tác phẩm Phê phán thời gian của Kierkegaard rơi vào tay tôi. Không xã hội, không nhà nước, không thi ca, không tư tưởng, không tôn giáo, những gì hư hỏng và đầy rẫy dối trá. Đúng vậy, tôi nghĩ. Nhưng điều này cần phải bắt đầu từ một khi nào đấy. Tôi bắt đầu đi tìm chấm đen này. Hạt nguyên tử, hay sự dối trá đầu tiên… Tôi quay trở lại từ giữa thế kỷ đã qua đến cách mạng Pháp, đến thời kỳ ánh sáng, đến chủ nghĩa duy lý, từ thời trung cổ đến những người Hy lạp, đến những người Heber, Ai cập, đến người mông muội. Sự khủng hoảng đâu đâu tôi cũng bắt gặp, nhưng sự khủng hoảng còn nói lên một cái gì đó sâu sắc hơn. Chấm đen này còn ở phía trước, phía trước nữa. Tôi đã vấp phải lỗi lầm đặc thù của người châu Âu, đi tìm chấm đen bên ngoài con người mình, thực ra nó nằm trong bản thân tôi…”

Năm 1919 cha ông vì từ chối không tuyên thệ trung thành với nước Slovakia, nên cả gia đình ông bị đuổi ra khỏi Bratislava, chuyển đến Budapest.

Từ 1919-1923 ông học khoa Hung- Đức tại đại học Pazmany Peter, ông làm nhà báo 3 năm tại báo Tin tức Budapest và Szozat.

Từ 1927-1948 ông làm thủ thư tại thư viện thành phố. Thời gian này ông viết các bài nghiên cứu, tiểu luận, các bài phê bình cho 25 thể loại tạp chí, trong đó có những tạp chí nổi tiếng như Athenaeum, Nyugat.

Hamvas Béla cùng Kerényi Karoly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần lấy từ truyền thống Hy lạp cổ, nhóm này tụ tập rất đông đảo các nhà văn nhà triết học có tên tuổi của Hung như: Szerb Antal, Németh Laszló, Kövendi Dénes, Dobrovits Aladár, Molnár Antal và nhiều người khác.

Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936) nhóm Đảo tan rã sau khi ngã ngũ, một hoạt động cộng đồng tinh thần như thế này không thể thực hiện nổi. Hamvas Béla đã ghi lại những kinh nghiệm cay đắng về chuyện này trong cuốn Hyperion Hungary: „ Tôi ở đây giữa mọi người, trên trái đất này, mọi ý định của tôi đều không có kết quả, mọi từ ngữ của tôi vô ích, mọi kế hoạch của tôi tan vỡ, tôi đã thất bại, không nhận ra tôi, tôi trở nên thừa thãi, và không được chấp nhận.”

Trong những năm 30-40 ông viết gần ba trăm tiểu luận. Đối với ông viết là thực hành joga.

Ông lấy người vợ thứ hai, một bạn đời tinh thần rất quan trọng, bà Kemény Katalin (1909-2004), người sau khi Hamvas Béla mất, đã cùng Dúl Antal, một đại diện của hậu thế rất ngưỡng mộ ông, cùng chăm lo việc xuất bản các tác phẩm của ông.

Trong thời kỳ thế chiến thứ II, Hamvas Béla ba lần bị gọi vào quân ngũ, nhưng không ngăn cản được công việc dịch thuật của ông, như tác phẩm của các tác giả: Lão tử, Böhme, Hêraclit, Khổng tử, Henoch.

Năm 1943-1944 ông viết tập I tác phẩm Scientia Sacra, cuốn sách đánh dấu giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn. Với cuốn sách này, ông ra nhập trường phái truyền thống với những nhân vật ưu tú nhất của thời đại: Julius Evola, René Guénon và Leopold Ziegler. Hamvas Béla cắt nghĩa về truyền thống là sự tồn trường phi thời gian của tinh thần. Tác phẩm của Hamvas -đầu tiên và độc nhất- lập ra một vũ trụ truyền thống, bằng sự tạo dựng nền tảng linh hồn nhận thức ra tinh thần.

Trong thời kỳ chiến tranh, tập tiểu luận triết học đầu tiên ra đời: ”Câu chuyện vô hình”(1943)

Ngay thời đó ông đã bắt đầu một công trình lớn có nhan đề: „ Đại sảnh các vị tiền bối cổ”, kéo dài đến tận những năm 60. Tác phẩm của ông là một công trình dịch thuật những cuốn sách cổ thiêng liêng quan trọng nhất, cùng với những chú thích kèm theo.

Năm 1944 từ mặt trận nước Đức, ông trốn trở về Budapest. Căn nhà trên sườn núi Bada của ông bị trúng bom tan tành thành tro bụi.

Hamvas Béla trong một tiểu luận của tập Slentium đã viết như sau: ”Trong những năm đen tối tôi đã bị mất tất cả của cải vật chất trên thế gian của mình… Một kẻ nào đấy đã tước toàn bộ quyền sở hữu của tôi. Da tôi cũng tuột theo, nhưng thế là tốt… một sự tồn tại kiểu này chỉ có thể thực hiện sau khi thanh toán toàn bộ quyền sở hữu. Hiện thực bắt đầu từ đây.” Từ đó trở đi Hamvas Béla không bao giờ có nhà riêng và ông không bao giờ tích góp sách vở nữa.

Sau chiến tranh những hoạt động tinh thần hết sức đa dạng của ông bắt đầu. Ông biên tập một tuyển tập sách có nhan đề Những nghiên cứu nhỏ của Nhà in Đại học, gồm 30 tác phẩm riêng của Hamvas Béla - đấy là cuốn Một trăm cuốn sách, ông thu thập tài liệu và soạn dịch tác phẩm có tên Anthologia Humana „Minh triết của năm nghìn năm”.

Ông tham gia hoạt động trong Hội Triết học và Mỹ học. Từ 1945 -1948 Hamvas Béla cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập một nhóm trí thức cấp tiến, được gọi là „những buổi trao đổi thứ năm hàng tuần”, với mục đích phanh phui, phân tích và đánh giá toàn bộ các tình huống về tinh thần của thời đại, với sự tham gia của nhiều nhà văn có tên tuổi khác như Varkonyi Nandor, Weores Sandor.

Nhưng đến năm 1948, trong những văn bản tranh luận, nhà triết học Hung lúc bấy giờ nghiêng về triết học maxit Lukacs Gyorgy đã góp phần đình chỉ in cuốn sách Cách mạng trong nghệ thuật của Hamvas Béla viết chung với vợ Kemeny Katalin.

Bắt đầu từ đây Hamvas Béla bị tước tất cả các quyền biên tập, viết và xuất bản tác phẩm. Cũng năm ông bị buộc phải thôi việc và vào danh sách B - những người bị theo dõi gắt gao.

Hamvas Béla buộc phải xin một giấy chứng nhận làm nghề nông, với nơi làm việc là vườn cây của anh rể, từ 1948-1951 ông làm vườn, trồng hoa quả, và cuốn tiểu thuyết được coi là kiệt tác vĩ đại có một không hai của văn học Hung cũng như văn học thế giới Karnevar ra đời trong thời kỳ này. Ngoài ra ông còn viết những tác phẩm nổi tiếng khác như Unicornis, Silencium, cuốn Biên bản bí mật, cuốn Magia sutra.

Từ năm 1951 -1964 ông làm việc tại khu công nghiệp xây dựng –nhà máy nhiệt điện ở Inot, Tiszapalkony, Bokon, tại đây ông làm thủ kho. Bên cạnh công việc thủ kho này, ông học tiếng Heber, Sanskrit, dịch kinh Veda, Sankhya Karik, Sepher Jezirsh, Kathaka upanisad, Buddha…Trong thời gian này Hamvas Béla hoàn thành các tác phẩm: Patmosz, Đại sảnh các vị tiền bối cổ, Szarepta và Đêm giao thừa.

Năm 1964 ông về hưu. Trong ba năm cuối đời Hamvas Béla hoàn thành nốt các tác phẩm khác trong đó có Scientia Sacra tập II nổi tiếng. Ông viết chủ yếu là tiểu luận, một thể loại tự do, như một thí nghiệm thể loại. Mọi sáng tác của ông, kể cả tiểu thuyết đều ở dạng tiểu luận.

Ngày 7.10. 1968 ông mất sau một cơn chảy máu não.

Cho đến tận những năm 70 của thế kỷ tác phẩm của Hamvas Béla chủ yêu chỉ lưu truyền dưới dạng bản thảo đánh máy.

Bắt đầu từ những năm 80, dần dần tác phẩm của Hamvas Béla được ra mắt công chúng, nhưng vẫn bị kiểm duyệt, ví dụ tiểu thuyết Karneval (1985) bị cắt xén trước khi được in.

Năm 1990 Hamvas Béla được truy tặng giải thưởng Kossuth.

Ngày nay Hamvas Béla được đánh giá là một trong những nhà văn, nhà triết học xuất sắc nhất trong nền văn hóa Hungary.



Nguyễn Hồng Nhung soạn dịch.
(2009-09-10)













CÁC TÁC PHẨM DỊCH CHƯA IN:




1
Kertész Imre:
”Kinh cầu nguyện Kaddis dành cho đứa trẻ không ra đời” ( Kaddis a meg nem született gyermekért)



2
Marai Sándor:
Khách ở Bolzanó (Vendégjáték Bolzanóban)



3
Szabó Lőrinc:
Thơ tuyển chọn



4
Szerb Antal:
Lữ khách và cõi trăng (Utas és holdvilág)



Nhiều tác phẩm của Hamvas Béla




























Tác phẩm
Nguyễn Hồng Nhung









10
Gái ba mươi
Tập truyện ngắn
Nxb Thanh niên. 2003











11
Hồng nước
Tập thơ
Nxb Thanh niên. 2008










12
Hãy yêu nỗi cô đơn
Tùy bút, thơ
Nxb Thanh niên. 2009


Truyện ngắn









13
Phẩm hoa đêm ngày hương nhủ
Tập thơ
Nxb Thanh niên Hà nội 2010










14
Tấm gương cong

























Nguyễn Hồng Nhung trên Văn Chương Việt
Tổng số bài: 372












Bí ẩn đời sống
(truyện ngắn)



Bảy nhà thông thái
(tiểu luận)









Chết
(thơ)






TẢ TƠI
(truyện ngắn)






Cái gương
(tiểu luận)











Tuổi thu
(tạp văn)


Đơn Độc
(thơ)

Đơn độc
(thơ)













Đợi
(thơ)

Đàn bà
(thơ)



Đêm nhạc jazz
(truyện ngắn)



Anh
(thơ)


Arlequin – Anh Hề
(triết học)

Asa – Điều Thiện
(triết học)





Ba bài thơ
(thơ)





Ba Nguồn
(triết học)












Bình phục
(thơ)



Bóng
(thơ)




Bảy năm
(truyện ngắn)





Bi hài biên tập
(truyện ngắn)



Buốt
(thơ)

Buổi sáng
(thơ)



Các Hình Ảnh Cổ
(triết học)

Các Truyền Thống
(triết học)

Câu Chuyện Tháng Bảy
(truyện ngắn)

Câu chuyện tháng Hai
(truyện ngắn)


Cây táo vàng
(truyện ngắn)

Có lẽ
(thơ)


Có thể lắm
(truyện ngắn)

Có đường đi lên
(tiểu luận)

Cô Độc
(thơ)






Cổ Tích Da Đỏ
(triết học)











Chị của Bố
(truyện ngắn)


Chữ Tháng Sáu
(tạp văn)

Chim sẻ
(truyện ngắn)





Dư vị Ị
(thơ)









(truyện ngắn)


(ký)



Ghi Chép Đầu Thu
(tạp văn)



















Ghi chép szeptember.
(tạp văn)







Giữa
(tạp văn)










Hạ ký
(tạp văn)




Hyperion Hungary (tiếp)
(triết học)

Hưu
(thơ)

Jesse
(truyện ngắn)

Jesse-3
(tạp văn)


Kẻ giết mẹ
(truyện ngắn)







Không đề
(thơ)




Lặng câm
(thơ)



Lay động
(thơ)



Lớp học Tiếng
(truyện ngắn)





Mưa Đêm
(tạp văn)









Mùa
(thơ)

Mùa thu chết
(truyện ngắn)

Mùa xuân
(thơ)





Mi và thượng đế
(tiểu luận)

Mong manh
(thơ)


Năm Đổi Mới Đã Đến
(nhìn ra thế giới)




Nụ cười
(thơ)

Nửa Tháng Bảy
(tạp văn)



Người Đàn Bà
(tạp văn)

Ngày lễ
(thơ)





Ngôn Từ
(tạp văn)


Nghe nhạc
(thơ)








Người Đàn Bà
(triết học)



Nhớ Tigôn
(thơ)

Những áng mây trôi đi
(truyện ngắn)


Nhát đâm cuối cùng
(truyện ngắn)






Niềm vui
(thơ)

Noel
(thơ)



Phục Sinh
(tạp văn)



Quê nhà
(truyện ngắn)

Quả bong bóng lợn
(truyện ngắn)


Rát
(thơ)




Sài gòn và em
(tạp văn)


Sáu mươi
(tạp văn)

Sống
(tạp văn)

Sống
(tiểu luận)


Sự nô lệ
(truyện ngắn)


Sekina
(tiểu luận)





Szepes Maria
(chân dung)




Tự do
(thơ)


Tang
(thơ)


Tách…
(thơ)

Tái Sinh
(thơ)




Tình anh
(thơ)

Tình yêu
(truyện ngắn)





Tặng
(thơ)




Từ duy nhất
(truyện ngắn)

Tử vi Ai Cập
(nghệ thuật)



Thời gian
(tạp văn)





Thời gian
(thơ)



Thu
(thơ)




Thuật luyện vàng
(triết học)









Thơ tình
(thơ)







Trở về nhà
(tạp văn)




Tuyết rơi
(truyện ngắn)

Tuyết Tháng Năm
(tạp văn)

Vẫn tiếp tục…
(tạp văn)






Vô đề
(thơ)

Vô danh
(thơ)

Về bản chất
(tiểu luận)

Viết cuối hè
(tạp văn)





Xanh xao
(thơ)

Xã hội không có cha
(tiểu luận)

Đêm hè Thủ Đô
(tạp văn)




Đọc Noel
(thơ)



























Hãy có tình trong từng con chữ


Duyên dáng, mẫn tiệp, hào phóng, người phụ nữ đã lục tuần này vẫn có sức thu hút, quyến rũ một cách lạ lùng. Tôi lần đầu tiên biết đến chị vì mê Hamvas Bela qua tác phẩm “ Câu chuyện vô hình và đảo” mà chị là dịch giả.

Tuy nhiên, phải đến lần chị về Việt Nam năm 2014, trong sự kiện tọa đàm về “Trinh nữ ma-nơ-canh” của tác giả Lê Anh Hoài. Chị ngồi hàng ghế dưới, áo khoác sẫm mầu và chiếc khăn quàng dài màu sáng duyên dáng, cặp mắt sáng rực với một thần thái đặc biệt. Tôi phát hiện ra đó chính là dịch giả của “Những câu chuyện vô hình và đảo” và những tác phẩm khác nữa của văn học Hungary.

Chúng tôi nhanh chóng quen nhau. Khi đó tôi còn là người phụ trách của Trung tâm văn hóa Heritage Space, đã nhanh chóng đề nghị với chị một cuộc nói chuyện về Hamvas Bela tại Trung tâm. Ơn trời là sau vài trục trặc, talk show được thực hiện và thành công.

Khán giả của chị hôm đó, cũng như trước và những cuộc về sau mà tôi có tham dự, chủ yếu là những người trẻ, những trí thức trẻ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tôi cũng nhìn thấy vẻ mặt hạnh phúc của họ khi được trò chuyện với chị. Họ liên tục đặt ra cho chị những câu hỏi về Hamvas Bela, những vấn đề triết học hấp dẫn họ nhưng không hề dễ hiểu, về công việc và cuộc sống của chị.

Điều làm cho họ (cũng như cho tôi) kinh ngạc chính là sức làm việc phi thường của chị. Ngoài công việc kiếm sống và chăm sóc con cái, mỗi một năm chị dịch hàng nghìn trang với những tác giả khó nhằn nhất của văn chương và triết học xứ này. Đó là chưa kể đến việc hầu như không ngày nào chị không viết, không ghi chép, làm thơ và dịch thơ. Có những ghi chép như một tản văn, hoặc như một tiểu luận văn chương.

Chị thường ngủ sớm vào khoảng 10 giờ, và hôm sau dậy rất sớm. Mở đầu cho một ngày, chị dịch thơ, hoặc làm thơ, hoặc viết một điều gì đấy. Sau đó, chị ăn sáng nhẹ nhàng rồi tập thiền dưới ánh nắng mặt trời trên ban công của ngôi nhà, mà chị bảo, ánh nắng ở đó rất nhẹ, chứ không tràn ngập một cách quá độ như Việt Nam.

Rồi, nếu không phải lên lớp, (chị là giáo viên dạy tiếng Việt tại Đại học Tổng hợp Budapes, và kiếm sống bằng công việc này) chị sẽ bắt đầu công việc dịch thuật. Với chị tất nhiên, đó là một công việc nặng nhọc nhưng vô cùng thú vị. Chỉ khi nào cảm thấy quá tải, chị mới tự cho phép mình trốn khỏi thành phố để một mình lang thang, để lấy lại sức lực và sự cân bằng.

Điều gì khiến chị có thể say mê đến mức, bỏ qua rất nhiều thứ hấp dẫn khác để làm công việc này thế?

Chị bảo, rất buồn cười là từ khi còn là một cô bé con, chị đã mê sách, mê những câu chuyện của Grim, của Andecxen đến nỗi, vào năm lớp bốn, chị tuyên bố với bố mẹ, sau này con sẽ trở thành nhà văn (!). Tất nhiên mọi người đều chỉ coi đó như một câu chuyện của trẻ con, trong khi chị thấy nó hết sức nghiêm túc.

Rồi chị là học sinh chuyên văn của Hà Nội từ lớp bốn đến hết phổ thông. Khi sang Hungary, tất cả lớp sinh viên Việt nam của chị lúc đó đều được phân công học ngành xây dựng để khi hết chiến tranh, trở về xây dựng đất nước. May sao, sứ quán “”xem xét lại” chị và một số bạn học trong đó có nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Trương Đăng Dung, bạn đồng môn, được chuyển sang học ngành Ngôn ngữ và Văn học Hungary.

Tuy nhiên cuộc đời với những thăng trầm, biến cố, những khó khăn của đất nước, của cá nhân đã kéo một Nguyễn Hồng Nhung nồng nhiệt, tự tin rời xa những mơ ước của mình, lặn ngụp trong cái bể dâu đau thương của đời người như biết bao những số phận Việt Nam xa xứ khác, mặc cho trong lòng không ngừng day dứt.

Rồi một biến cố đến với chị vào năm 2010, đó là khi người chồng của chị mất vì bạo bệnh. Chị rơi vào tình trạng tuyệt vọng, cô đơn cùng cực, cảm giác trơ trọi, bị bỏ rơi, bị từ chối, bị ghét bỏ…
  
Chị thuê một phòng trong một căn hộ ở Hà Nội, may sao được sử dụng một phần nhà kho trên tầng gần cao nhất của ngôi nhà, không tiện nghi, chăn màn sơ sài, giữa mùa đông lạnh cóng, chị dịch nốt tác phẩm đầu tiên sẽ xuất bản ở Việt Nam của Hamvas Bela: “Câu chuyện vô hình và đảo”.

Khi lạnh quá chị đun nước nóng cho vào túi cao su rồi để chân lên đó ngồi dịch tiếp, ăn đã có một nồi cơm điện cho gạo-bí đỏ vào nấu lẫn, hoặc bánh mì với…lạc.

Hình như Hamvas Bela đã cứu chị. Dịch xong cuốn sách, chị bắt đầu hy vọng. Chị hủy ý định trở về Việt Nam sống để quay lại Budapest.

Từ lúc đấy trở đi, Nguyễn Hồng Nhung quyết định trở lại với văn học, bất chấp mọi khó khăn về kinh tế vẫn còn đè nặng trên vai.

Nước Hung là là quê hương thứ hai, cũng là số phận của chị. Từ khi mười tám tuổi, đánh vật với từng từ một, để đến khi nói được, hiểu được, viết được, biểu đạt được mọi trạng thái bằng thứ ngôn ngữ này, nhưng chỉ đến khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc đời, chị mới nhận ra những điều rất đặc biệt của xứ sở này.

Nơi mà từ dãy Himalaya đã phóng chiếu xuống những luồng sáng đặc biệt, để mặt đất nơi đây luôn tươi tốt, đầy sinh khí. Điều này giống như một ân sủng kỳ diệu mảnh đất này có được. Không chỉ cây trái tốt tươi mà dưới lòng đất nơi đây có rất nhiều những mạch ngầm ấm nóng, chính là nước khoáng nóng thiên nhiên, khiến cho nó có một sức quyến rũ với bất cứ ai từng đặt chân đến.

Cũng từ nơi đây đã sinh ra những nhà thơ, những nhà triết học lừng danh, những nhà huyền môn, có thể thấu thị được thế giới, những người, mà theo chị, nếu đọc họ, ta có thể thay đổi chính mình.

Và chính là Hamvas Bela đã biến đổi chị. Biến một Nguyễn Hồng Nhung đau khổ, thất bại, đối nghịch với cuộc đời thành một người thấu hiểu, nhẫn nại, bao dung và đầy niềm vui sống, và luôn mọi nơi, mọi lúc, truyền niềm vui sống đó cho những người quanh mình.

Bởi vậy, dịch thuật với Nguyễn Hồng Nhung, cho đến thời điểm này, gần như một xác tín, giống như công việc của một thiên sứ, nhằm truyền đến mọi người những gì mà chị nhận được từ những con người vĩ đại mà chị yêu kính, như từ một Đấng Tối Cao.

Điều tôi thấy chị thường nhắc đi nhắc lại, bằng hình thức này hay hình thức khác, đó là trong mỗi chữ mình viết ra phải có cái tình trong đó. Tình NGƯỜI.

Một người viết ra những ý tưởng thông minh, sắc sảo, nhưng vô cảm đều không có giá trị. Một kẻ uyên bác, thông kim bác cổ nhưng không có cái tình, cũng sẽ không có cái để lại. Không dễ gì đánh lừa người đọc vì họ sẽ nhận ngay ra cái mà kẻ viết không có. Cũng nhờ vậy mà người ta có thể phân biệt được một người thông minh và một văn tài.

Tôi có thể trích bất kỳ một trang dịch nào đó của chị, cũng như một vài đoạn ghi chép của của để bạn có thể cảm nhận được chị đã đặt tâm hồn của chị ở đó như thế nào. Đó là những trạng thái chú tâm tuyệt đối, giống như khi tập thiền, người ta phải chú tâm vào hơi thở vậy.

Bạn sẽ ngạc nhiên vì một thứ ngôn ngữ tươi rói cảm xúc, tươi rói các trạng thái mà tác giả trải qua. Cái đó có thể là một tài năng bẩm sinh, nhưng không ngừng được nuôi dưỡng và chăm sóc.

Tuy nhiên, tôi sẽ không trích, và sẽ để bạn tự tìm đến với các bản dịch cũng như các trang viết của chị.

Hiện nay, tại nhà xuất bản Tri Thức (53-Nguyễn Du, Hà Nội) vẫn tiếp tục bán những tác phẩm của HAMVAS BELA mà chị đã dịch: “Câu chuyện vô hình và đảo” (2013, 2014, 2016), “Một giọt từ sự đọa đày” (2014, 2016), “Minh triết thiêng liêng” trọn bộ 3 tập (2016).

Và hy vọng tháng 12-2016 tới đây Trung tâm Văn hóa Đông - Tây sẽ tái bản thành công năm cuốn sách văn học cũng do chị dịch - dịch giả Nguyễn Hồng Nhung

TUỆ AN



















Những văn bản khác 



Ghi chép

























































































































Bình luận




Đọc Hiếu Tân dịch
Cuộc cá cược lạ kỳ


Đọc Phan Nguyên
Hương cô quạnh




Đọc Xuân Sách





Đọc Nguyễn Ước



Đọc Phan Huy Đường













***



Linh tinh








DIỄN TỪ NHẬN GIẢI THƯỞNG DỊCH THUẬT PHAN CHÂU TRINH

Kính thưa các Quý vị thành viên Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh cùng toàn thể quý vị quan khách đang có mặt tại đây.

Vào một ngày đầu thu năm 1972, từ biệt đất nước Việt nam đang chìm trong khói lửa chiến tranh sang du học tại Hungary- Đông Âu, tôi không bao giờ mường tượng nổi sẽ có một ngày như trong mơ đến với mình- Ngày được nhận giải thưởng dịch thuật cao quý từ Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, một tổ chức văn hóa Việt nam mà tôi ngưỡng mộ, bởi đã tôn vinh những học giả Việt nam mà tôi kính trọng và yêu quý.

Tôi cũng như phần lớn lưu học sinh Việt nam đi du học năm đó, được phân công học ngành Xây Dựng để chuẩn bị về xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, nhưng thật may mắn nguyện vọng được theo học một ngành Khoa học Xã Hội của tôi đã được sứ quán lúc đó chấp nhận và tôi chính thức trở thành sinh viên khoa Văn học và Ngôn ngữ Hungary tại trường đại học Tổng Hợp Budapest Hungary khóa học 1972-1978.

Xin được nói thêm vì sao tôi may mắn, bởi trong mười năm học phổ thông tôi đã có sáu năm học lớp chuyên Văn của sở Giáo dục Hà nội, đã từng đoạt giải thưởng trong các kỳ thi văn và sáng tác dành cho học sinh phổ thông nên tôi chỉ có thể hình dung sự nghiệp của mình phải gắn với văn chương chữ nghĩa mà thôi.

Khi tôi đang du học, Hungary vẫn đang còn là một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, và tôi không hề biết rằng những gì mình được học trên trường đại học lúc đó chưa phải là toàn bộ nền văn hóa Hungary, nhất là của thời hiện đại.

Tôi đã có mặt tại đất nước tôi coi như tổ quốc thứ hai của mình vào những ngày đất nước ấy trải qua một biến động lịch sử lớn: sự thay đổi thể chế chính trị năm 1989 tại các nước Đông Âu. Biến động lịch sử -chính trị lớn này cho phép văn hóa Hungary bộc lộ toàn bộ những gì bị cất giấu gần nửa thế kỷ không chỉ với nhân loại mà với chính nhân dân của quốc gia ấy.

Những nhân vật, những cá nhân lỗi lạc của một nền văn hóa đặc biệt với một ngôn ngữ hết sức đặc thù lần lượt xuất hiện, trong đó có Hamvas Béla, người mà dân Hungary gọi là” nhà thông thái thời hiện đại của chúng ta”.

Từ đâu tôi biết đến một nhà văn, nhà triết học đương thời xuất sắc nhất của Hungary?

Trước khi dịch Hamvas Béla, tôi đã dịch gần một chục tác phẩm của các nhà văn cổ điển cũng như hiện đại của Hungary như Csáth Géza, Karinthy Frigyes, Marai Sándor, Kertész Imre (nhà văn được giải Nobel) và dịch thơ của một số nhà thơ Hungary nổi tiếng như Pilinszky János, Szabó Lörinc, Wass Albert, nhưng tôi chưa hề biết đến Hamvas Béla.

Vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20 chính những người Hung đều kêu lên khi được hỏi: Hamvas Béla? Làm gì có nhà văn Hungary nào tên như thế?

Tiểu sử cuộc đời của nhà thông thái biết 13 ngoại ngữ này ly kỳ như chính thời đại của ông. Trước năm 1945 ông đã được biết đến như một học giả bắt đầu nổi tiếng trên lĩnh vực triết học, mỹ học, sau năm 1945 sự kiện nổi bật nhất, mang tính chất bước ngoặc hoàn toàn đối với ông là sau nhiều biến cố, ông trở thành địch thủ của nhà triết học mác-xit Lukács György, người sau cách mạng vô sản ở Hungary đã trở thành Bộ trưởng Bộ Văn Hóa của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Hungary đương thời.

Chính vị Bộ Trưởng này đình chỉ không cho in một tác phẩm mỹ học Hamvas Béla viết chung với vợ lúc bấy giờ.

Cuộc đời của Hamvas Béla sau biến cố lịch sử đó là cuộc đời của một vị thánh bị đày lên một hòn đảo xa xôi cách biệt để chứng minh một chân lý ông đề cao trong các tác phẩm của mình: cuộc sống không có mục đích mà cuộc sống có ý nghĩa.

Ba lần ông bị gọi ra mặt trận, nhà của vợ chồng ông bị một quả bom rơi trúng phá hủy tan tành, và tất cả sách vở cùng bản thảo của ông cũng không còn nữa, ông trở thành một kẻ tay trắng hòan toàn theo đúng nghĩa đen.

Từ một trí thức giỏi giang, sau 1945 Hamvas Béla bị liệt vào danh sách B-bị chính quyền đương thời quản lý gắt gao và chỉ được phép làm công việc chân tay để kiếm sống, ông bị buộc phải trở thành một người làm vườn, rồi thành thủ kho trong một nhà máy nhiệt điện. Bắt đầu từ đây cả phần đời còn lại của ông là một tác phẩm cuộc đời vĩ đại dù trong nhiều thập kỷ ông chỉ viết cho cái ngăn kéo của mình.

Tôi bắt đầu biết đến Hamvas Béla chỉ từ sau khi đọc bài tiểu luận chấn động của ông: Thời Kỳ Bảo Bình- nói về chính thế kỷ 21 này của chúng ta- cho dù ông viết từ năm 1943 trong tập tiểu luận triết học duy nhất ông được in trong đời, tập Câu Chuyện Vô Hình Và Đảo - mà tôi đã chọn làm tác phẩm đầu tiên in ở Việt Nam.

Đọc xong bài tiểu luận xuất sắc này tôi đi tìm ông Dúl Antal- người thừa kế di sản của Hamvas Béla- và tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của ông Dúl Antal trong suốt thời gian dịch một trong những tác phẩm cơ bản nhất của Hamvas Béla: Minh Triết Thiêng Liêng- trọn bộ ba tập. Xin cảm ơn Giám đốc nhà xuất bản Medio chuyên chỉ in tác phẩm của Hamvas Béla- ông Dúl Antal, một nhà thần học, một người bạn lớn thông thái của tôi.

Tôi còn nhớ khi biết tôi có ý định dịch tác phẩm lớn này của Hamvas Béla ra tiếng Việt, ông Dúl Antal đã cười và nói với tôi: vậy là chị sẽ đem tinh hoa phương Đông trả lại châu Á qua một nhà học giả châu Âu. Bởi tác phẩm này như một thư mục lớn về những cuốn sách cổ nổi tiếng của nhân loại, trong đó có những tác phẩm kinh điển vĩ đại của phương Đông.

Hamvas Béla đã được công nhận là một triết gia đương đại của thế giới, tất cả các tác phẩm của ông bắt buộc phải dịch sang tiếng Đức, nhưng cho đến ngày hôm nay bộ Minh Triết Thiêng Liêng chưa dịch xong ra tiếng Đức và chưa hề dịch sang tiếng Anh, cũng như rất nhiều tác phẩm khác của Hamvas Béla cũng vậy.

Cho đến ngày hôm nay ngoài bản gốc tiếng Hungary ra, Minh Triết Thiêng Liêng mới chỉ có một bản dịch ra tiếng Việt của tôi và một bản dịch ra tiếng Serbia của một dịch giả huyền thoại tên là Sava Babic người Serbia. (Tôi gọi ông là dịch giả huyền thoại bởi chỉ riêng của Hamvas Béla ông đã dịch được 50 tác phẩm - một tấm gương lớn khó có thể noi theo - đối với tôi).

Ít nhất, giờ đây ta có quyền tự hào là một tác phẩm lớn như Minh Triết Thiêng Liêng đã có thể đọc bằng tiếng Việt và là bản dịch đầu tiên ở châu Á.

Tôi cũng gặp may mắn lớn khi anh Bùi Văn Nam Sơn nhận lời đồng ý viết lời giới thiệu cho tập sách lớn này của Hamvas Béla. Phải nói rằng không thể có một bài giới thiệu nào đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, xuất sắc và nhiệt huyết hơn bài giới thiệu của anh. Tôi đặc biệt biết ơn anh Bùi Văn Nam Sơn, người đã cổ vũ tôi đến với việc dịch sách triết ngay từ buổi đầu tiên quen biết anh khoảng năm 2008.

Cũng như tôi cũng rất cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của anh Chu Hảo Giám đốc nxb Tri Thức, cùng đội ngũ lãnh đạo, biên tập viên của nhà xuất bản, nơi những tác phẩm của Hamvas Béla đã được in ra rất đẹp với chất lượng cao. Công việc dịch và in những tác phẩm khác của Hamvas Béla vẫn đang tiếp tục ở nơi đây.

Kính thưa các Quý vị!

Vinh dự được nhận giải thưởng cao quý của Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, là một người Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài, tôi nghĩ rằng có lẽ phần nào mình đã hiểu và thực hiện được tinh thần của câu danh ngôn nổi tiếng của Phan Châu Trinh: „ CHI BẰNG HỌC” chăng?

Học từ các quốc gia tiến bộ về văn hóa, học những gì dân ta còn thiếu, còn chưa tiếp cận từ các nền văn hóa thế giới do các cuộc chiến tranh liên tiếp xảy ra trên đất nước ta. Học bằng nhiều cách, trong đó có một cách thức quan trọng tuy khó khăn là con đường dịch thuật những tác phẩm tinh hoa của nhân loại ra tiếng Việt.

Tôi nghĩ rằng cách tốt nhất để mình có thể đóng góp chút gì đó vào công cuộc thực hiện nội dung tinh thần Phan Châu Trinh”CHI BẰNG HỌC”, cũng là một sự tri ân đối với quê hương chỉ có thể là việc sử dụng tốt nhất tiếng mẹ đẻ của mình, kết hợp với việc khai thác nhiều tác giả, tác phẩm, truyền tải cho được những tri thức từ nền văn hóa thế giới mình được học nhiều nhất, sâu nhất là văn hóa Hungary.

Tôi cần và sẽ tiếp tục công việc dịch thuật của mình một cách sâu rộng, hoàn hảo nhất, như cần hoàn thành một tác phẩm cuộc đời trong lĩnh vực chuyên môn của mình, để góp chút sức lực nhỏ bé của mình cho quê hương đất nước, và đền đáp lại những tấm lòng thương mến của Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh và tất cả các Quý vị đã dành cho tôi hôm nay.

Tôi xin chân thành cảm ơn và gửi lời chào trân trọng đến tất cả các Quý vị!
Ngày 14 tháng Ba năm 2017
Dịch giả tiếng Hungary Nguyễn Hồng Nhung








NHỚ ANH PHAN HUY ĐƯỜNG

Nguyễn Hồng Nhung

Từ đâu cha mẹ sinh ra một đứa con gái đa sầu đa cảm đến như nó nhỉ? Bởi vì những gì thực sự đụng vào trái tim nó, chỗ bí ẩn nhất, làm nó rung động thật sự, nó sẽ không thể ngăn cản lòng mình, nó sẽ quên hết mọi sự trên đời, chỉ biết đúng điều đó thôi, điều đó sẽ chi phối nó đến mức, phải lìa xa, đó chính là cái CHẾT, một cái chết khi đang còn SÔNG.
Và kỳ lạ chưa, đó chỉ có thể là TÌNH YÊU.
Vừa định bước ra khỏi cổng, nó nhìn thấy anh đang tiến lại gần. Năm năm rồi mình chưa gặp nhau
“anh có nhận ra em không?” – nó thì thầm và ôm lấy anh, còn anh mỉm cười như ngày nào và hôn vào trán nó. Luôn luôn là một người đàn ông đứng đắn, mực thước, xử sự với một người đàn bà cũng đứng đắn, nhưng “dữ dội như một cái xe tăng, đại bác”.
Anh giễu cợt âu yếm: “nếu tôi không hết sức bình tĩnh, xử lý từng cái một, chậm rãi đường hoàng, có tình có lý… không có buổi hôm nay chúng ta gặp lại nhau như thế này …” – Đâu – nó cãi – em thực ra không hề ẩu, không bao giờ sấn sổ, em chỉ cương quyết khi hành động. Anh cười: “biết rồi, HN sẵn sàng vứt ngay lập tức, vứt hết, một thái độ đáng quý, nhưng cũng hãy cẩn thận…”
Như cách đây năm năm, anh đưa nó vào Paris. Nó nhìn từng con phố, và nhớ lại ngày xưa.
Cách đây 11 năm, lần đầu tiên nó đọc anh. Còn nhớ mùa hè năm đó, nó về nước chơi, trước khi quay
lại, nó đi xem bói. Nó có một thày bói khá thân thiết, một người đàn ông trung niên, xuất thân từ dân nghiên cứu chữ Hán, nhưng rất giỏi về tử vi, khi lập xong lá bài bao giờ ông ta cũng bảo: chị hãy ghi ra giấy tất cả những điều tôi nói, vì tý nữa đọc xong lá số tôi sẽ không nhớ tôi đã nói gì, và chị hãy giữ lấy tờ giấy đó xem những điều tôi nói có đúng không…Mùa hè năm đó, ông thày xem và phán: năm nay chị sẽ gặp một người, một người làm thay đổi cuộc đời chị. Lúc đó nó đã cười lớn, vì lúc đó nó đang sống êm ả trong gia đình và chả bao giờ gặp ai để quen.
Hôm đó, nó nhớ là ngày 27 Tết âm lịch, bên châu Âu là tháng Hai, lạnh giá, trong cơn buồn bã trĩu nặng, nó lướt internet xem đủ thứ như thói quen. Tình cờ nó dừng lại ở một trang web, nó thử đọc và thấy văn của người viết trang web này khá kỳ lạ. Nó bập vào một truyện dài và đọc một mạch, đọc xong, thừ người ra suy nghĩ, rõ ràng câu chuyện này đã tác động vào nó, thế rồi nó nhìn thấy địa chỉ mail của tác giả, nó bèn viết một cái thư, nói ngắn gọn cảm giác của nó khi đọc xong và cảm ơn người đó đã làm nó quên đi một buổi tối nhớ nhà và buồn bã. Anh đã viết trả lời.
“ Anh biết không, em rất tiếc em đã xóa lá thư đầu tiên anh trả lời em, vì nó làm em tức giận, sao lại
có một kẻ kiêu kỳ và lạnh nhạt đến mức cục cằn…” Anh cười: “tất cả mọi người kể cả tây lẫn ta đọc văn Việt hay văn Pháp của tôi đều bực mình, bởi vì tôi viết như trêu tức mọi người, không ve vuốt, mà chỉ ra toàn bộ sự khó chịu của đời sống, cái mà không ai muốn công nhận.”
Hồi đó, sự lạnh nhạt cục cằn của anh làm nó tò mò, và nó bắt đầu đọc tất cả những gì anh viết, rồi một hôm, đột nhiên hiểu ra tất cả. Đây là một kẻ lập dị, nhưng tự do vô cùng, và trong toàn bộ con người này có một cái gì vô cùng đau đớn, cô độc. Đột nhiên nó hiểu nó đang rất cần một người như vậy, vì nó cũng rất đau buồn, cô độc, nhưng không tự do như anh.

Nó bắt đầu “phải lòng” anh trên chữ, nó bắt đầu mơ mộng, làm thơ ( cho đến lúc đó trong đời chưa
bao giờ nó nghĩ mình biết làm thơ) và sau cùng, vào mùa xuân, nó quyết định bay sang Pháp để gặp trực tiếp anh. (Hãy đọc tại đây một ghi chép của nó, ghi lại ấn tượng buổi gặp mặt đầu tiên và ghi chép này cũng là lúc nó quyết định sẽ không gặp anh nữa)

MUỐI CỦA BIỂN
Cầu vồng bảy sắc đưa ta đến gặp anh vào một ngày…tầm thường, lúc đó (chả cứ đàn ông và đàn bà gặp nhau), ai gặp ai cũng vậy, đều trở thành tầm thường hết, sau một cái nhìn khinh khỉnh thoáng chút riễu cợt và một giọng lạnh ngăn ngắt cũng khinh khỉnh không kém:
– Thì cũng phải xem ra sao cái người bảo đến thành phố này chỉ vì tôi!

May quá, thuở đấy ta sống trong trạng thái bị trầm cảm nặng, bởi vậy ta không nổi khùng lên vì lòng tự ái, mà…chẳng cảm thấy gì, hay vì nhìn thấy anh bước ra từ chữ đã khiến trạng thái ngày thường vô cùng u uất của ta đột nhiên vui hơn?
Không biết.
Những gì thuộc về quá khứ đều chỉ là phỏng đoán. Giống hệt thái độ đối với tương lai. Bởi lúc ở trong
hiện tại, người ta chỉ…sống, kịp nghĩ gì đâu mà phân tích lẫn phỏng đoán?
Hôm đó, có một vài sự may mắn thuận lợi xảy ra. Sau này ta càng hiểu tại sao. Anh là một người ưa
nói, nói nhiều, nhất là nói về những gì anh thích. Còn ta vốn là một đứa ưa im lặng, càng ngày càng
ưa im lặng, càng ngày càng ngót dần những cơn hùng biện hiếm hoi trước lũ bạn, vì quãng đời sau
của ta rơi vào một sự trầm cảm nặng nề rất dài, rất nặng.
Đấy là căn bệnh gì vậy? Hôm nay ta rõ hơn về nó, thuở đấy ta chỉ chịu đựng mà không thể phát biểu nổi về nó. Đấy là cơn trầm cảm của một đời sống tinh thần u uất, dù không nhuốm màu bế tắc, bởi ta luôn luôn vượt khỏi nó, nhưng vì chỉ một mình, nên chỉ ta tranh đấu với ta, bất hạnh với chính mình và không làm sao chấm dứt để ra khỏi bản thân mình.
Hình như gặp anh trên chữ, ta yêu ngay lập tức, khô cong như nước bốc hơi dưới nắng mặt trời, chỉ
kịp kêu lên đúng một từ trước khi biến mất: “em phải gặp anh!”
Hôm đó có một vài may mắn thuận lợi xảy ra. Ta và anh gặp nhau trên một ga tàu, không hề bắt tay,
chẳng chào hỏi, nhìn liếc nhau một thoắt, rồi, anh đi trước, ta đi sau, đến nơi anh đỗ xe để cùng nhau đi vào thành phố.
Có một cử chỉ ta còn nhớ: trước khi “trèo” lên cái xe cao vợi của anh, ta thong thả rút hộp kính trong túi ra, lấy kính râm đeo lên mắt, bỏ kính trắng vào hộp, anh đứng đợi, vẫn cười cười riễu cợt, còn ta vẫn nín lặng, không buồn chả vui, nhưng chắc sự nín lặng đó làm anh hài lòng, thế là anh bắt đầu nói.
Anh nói liên tục từ lúc đó trở đi, suốt cả buổi cho đến tận tối. Khoảng trưa, anh mời ta đi ăn, ta nhớ là anh hỏi ta muốn ăn gì, ta bảo ăn một cái gì đó có pho mát và nhiều rau. Còn anh ăn thịt rán và khoai tây rán. Đeo kính râm lên, đôi mắt đã mổ của ta dịu đi rất
nhiều, ta lẳng lặng quan sát anh, nghe anh nói, đôi khi đặt một câu hỏi. Còn anh liên tục nói.
Nhớ lại buổi gặp gỡ đầu tiên đó, điều ta cho rằng có một vài thuận lợi may mắn đã xảy ra chính là cái trạng thái anh liên tục nói và ta liên tục nín lặng, trạng thái này rất hợp lý với hai cá nhân chưa hề nhìn thấy nhau bao giờ, đang còn phỏng đoán về nhau, chưa bị cảm xúc hoặc lý tính chi phối, và cả hai đều rất tự nhiên, không hề nhân danh bất kỳ cái gì để…khác.
Cái lạnh lùng khinh khỉnh riễu cợt ban đầu của anh chắc dành cho loài người trong mắt anh đến thời điểm ấy, trước khi biết đến ta. Còn ta lúc đó không nổi cơn tự ái hoặc cảm thấy bị xúc phạm, hoặc điên tiết, một phần vì lúc đó ta đã sống quá lâu trong sự trầm cảm nên chẳng có gì khiến ta nhanh phản ứng, phần khác, ta đã dựng một hình ảnh về anh trong tưởng tượng theo chữ đọc từ anh nên ta có chút gì đó khiêm tốn trước anh. Có lẽ sự khiêm tốn (vô hình ) này đã xóa đi cơn” chuẩn bị” để gặp ta của anh, vì dù vô thức đi chăng nữa, anh làm sao “đuổi” được cảm xúc của mình, dù chỉ gặp ta trên chữ? cảm xúc đây có thể chỉ là sự tò mò, nhưng phần nào đấy có thể làm anh sợ hãi (sợ ai? – chỉ mình anh biết)
Nhưng gặp một con ranh nín lặng, nghe (nghĩ, nhưng không nói) rõ ràng”an toàn” hơn rất nhiều. Và vì thế, sau bữa trưa, lúc đi ngắm phố phường, anh đã trở nên rất vui vẻ. Nhớ lại buổi hôm đó, anh như hình ảnh một cậu thanh niên trẻ trung,bồng bột thích luyên thuyên đủ mọi chuyện, anh giới thiệu các địa điểm gắn liền với các sự tích một cách rất văn hoa chữ nghĩa, có lúc anh đi trên vỉa hè nắng chang chang cứ thế là nói, ta lẽo đẽo theo sau, cuối cùng nắng quá ta sang vỉa hè bên kia, anh cũng vội vã sang theo, vẫn không ngừng nói tiếp…
Ôi! anh có biết đấy là một trong những buổi gặp gỡ anh hồn nhiên một cách hiếm hoi không? Bởi chúng ta đều là những kẻ nhậy cảm, vô cùng nhậy cảm, tuy mỗi người theo một kiểu khác nhau.Và chúng ta gặp nhau từ sự nhậy cảm này, chứ chẳng phải từ cái gì khác.
Buổi đầu tiên gặp nhau ấy đẹp như một bức vẽ dản dị những đường nét thoáng, hài hòa, trong sáng và cực kỳ…chính thống. Bởi tâm hồn chúng ta là như vậy, trong sạch và chính thống, vậy thôi.
Buổi đầu tiên gặp nhau kết thúc vào khoảng chín giờ tối, khi anh đưa ta về đến tận cổng nhà trọ. Anh hôn lên trán ta và hỏi một câu (không hiểu có liên quan đến thái độ đón lúc buổi sáng không nhỉ?), anh hỏi:
– Thế nào, đã gặp tận mặt chắc vỡ mộng rồi chứ?
– Anh đúng như em đã hình dung – Ta trả lời.
Lúc đó ta có nói dối không nhỉ? ta chỉ nói”đãi bôi” cho đẹp lòng người khác? vì ta nhớ rất rõ, trái tim ta đã nhói lên khi nghe câu hỏi của anh. Trời! sao anh nhậy cảm thế? sao anh”tự ti” thế, hỡi chàng dũng sỹ kiêu ngạo và bất cần đời của em!
“Együgyűséget választottam. Ez az egy ügyem van. Ez az egyetlenegy.” – “Ta đã lựa chọn sự lạc điệu.
Đây là một sự vụ của ta. Một sự vụ duy nhất.” – HAMVAS BÉLA
( Budapest. 2015. május 7.)
*
Ta đã viết cho anh nhiều thư lắm, những lá thư điện tử, e-mail, không đếm xuể, đậm đặc vô hình như chất mặn của muối trong nước biển. Muối – trong nước biển – tất nhiên – chẳng ai bận lòng bàn cãi và chú ý. Tình cảm và đời sống ta lớn dần lên trong vị mặn này, ngày mỗi đậm đặc, nhưng vẫn tan hòa trong nước biển, vì ta không có ý định chưng cất thành muối, để làm gì cơ chứ?
Đại dương lùa từng đợt sóng trào dữ dội tấp vào bờ, tấp vào những vách đá dựng đứng, những ngọn sóng đẹp tuyệt trần tung lên trời những tảng bọt trắng xóa, chẳng tạo cho ai cảm giác thương xót bùi ngùi, chỉ khiến con người ngây ngất trước cảnh tượng thật hùng vĩ và mạnh mẽ bất tận.
Đấy, ta yêu những lá thư điện tử giữa ta với anh vì thế, sự thắm thiết muôn đời đọng lại trong vị mặn
của muối, hòa tan trong biển cả vô hạn một cách vô hình. Chẳng bao giờ ta đọc lại chúng, bởi ta không nhấm nháp, nhai lại cảm xúc của mình, và ta biết, ngày nào tình cảm của ta với anh cũng mới hơn, lạ hơn, đằm thắm hơn, nói chính xác: ngay từ đầu, tình cảm này đã ĐÚNG, bởi vậy mỗi ngày nó chỉ có thể càng thắm tươi hơn, chừng nào giữa chúng ta còn hơi thở. Tình yêu này đã đạt tới mức độ của thần thánh: biết nhún nhường để chờ đợi ân sủng. Ân sủng của
tình yêu thương duy nhất chỉ con người biết dành cho nhau. Đúng thế.
Mai là ngày anh 70 tuổi, trong đó ta dự phần có 7 năm, 7 hạt muối mặn đậm đà, thật tuyệt. Biển mênh
mông, nhưng vị mặn của nó vẫn đủ đậm đặc trong một hạt muối duy nhất, đúng không anh? Khi nào
cần đến Em, Anh hãy gọi!

CHÚC MỪNG MỘT NGÀY SINH NHẬT ĐẸP! NGƯỜI YÊU DẤU CỦA EM! ANH PHAN HUY
ĐƯỜNG YÊU QUÝ!
(NHN – Budapest. 2015. május 19.)




Hôm qua, gặp lại anh sau năm năm nó thấy anh gầy điục như trước. Anh bảo nó cũng mang vẻ tự chủ mình hơn, sau cùng nó nhìn kỹ lại anh lần nữa và bảo: nhưng anh vẫn như thế, chẳng thay đổi gì cả. Em có thay đổi không? Đến lượt anh nhìn nó kỹ và lắc đầu: “không, HN vẫn thế”
Đấy là vì chúng ta đã gặp con người tinh thần của nhau, nên cảm xúc cho biết: sự hòa hợp tinh thần đã
chiến thắng tất cả, cả thời gian và hoàn cảnh.
“ Tôi có rất ít người bạn có thể nói chuyện triết học và văn thơ đối với tôi như HN, HN đã làm sống lại
thời sinh viên của tôi.” – Rồi anh đưa nó đến những khu phố của trường Đại học, những phố cổ. – Em cứ đi với anh là em quên hết, chẳng biết đang ở đâu nữa – Nó bảo – và cũng không quan trọng, em chỉ muốn nghe anh nói, em học được từ đấy rất nhiều”
– Hồi đầu mới quen nhau, anh từng bảo em: hãy tập lãnh đạm để thiết tha với cái đáng thiết tha. Em,
lúc đó là một sản phẩm của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, thụ động, phân tán, không biết chính mình
muốn gì, gặp anh, sản phẩm của văn hóa Pháp chính cống, anh đã dạy em nhận ra mình.
Anh cười: chúng ta đều là những kẻ đa văn hóa, cái này trộn lẫn với cái kia, nhưng con người xương thịt của chúng ta giống nhau, đều là người Việt. – Rồi anh nhấn mạnh: con người là gì? HN đừng quên: Con người là một thực-thể vật-chất, một « thực-thể » sống và một « thực-thể » tư-duy. con người tự-hiện-thực như một « thực-thể » ba-chiều-kích, như thể thống-nhất năng-động của vật-giới, sinh-giới, trí-giới. Nó tự-ứng-xử một cách biện-chứng. Thực thể vật chất: thân xác, giác quan. Thực thể sống: quan hệ với người khác và với môi trường. Thực thể tư duy: đời sống tinh thần, văn hóa. Cả ba điều này CÙNG TỒN TẠI trên một con người.
Nó bảo anh: cái khó nhất là mối quan hệ. Anh từng nhắc nhở em rất nhiều, như thể em đang xông vào gia đình anh, phá vỡ gia đình anh, không đúng, em chỉ yêu anh thôi, như yêu chính sự tự do của em. Từ tình yêu này em hiểu ra rõ hơn chữ Tự do. Và em đã cố tình bắt em không gặp anh nữa cách đây năm năm.
Anh bảo: tôi luôn luôn nói với HN rằng tôi tránh không làm người khác đau. (Nó nhớ lại: gặp nhau lần
thứ hai, anh bảo”HN đừng yêu tôi” y như một người lớn nhắc nhở một đứa trẻ con đừng vứt rác ra đường)
Nó nói: Anh luôn luôn có nguyên tắc của anh, và chuẩn mực đạo đức của anh, em tôn trọng. Em chỉ
bộc lộ tình yêu của em với anh BẰNG CHỮ, em làm thơ, viết văn, viết phê bình tác phẩm của anh, và sau cùng em dịch.
Anh bảo: HN đã làm được những điều không phải ai cũng làm được, khi HN nghĩ rằng đang yêu tôi.
Thấy chưa: chỉ thông qua người khác ta mới thấy chính ta, mới thực hiện được chính ta. Bởi vậy HN
nhớ điều này: TÌNH YÊU LÀ GÌ? LÀ SỰ TIN CẬY CỦA CẢ HAI CÁ NHÂN VỚI NHAU KHI
CÙNG VƯỢT LÊN CHÍNH BẢN THÂN MÌNH ĐỂ VƯƠN TỚI CÁI CAO HƠN.
Vâng – Nó nói – em luôn luôn biết ơn anh. Em đã nhận ra một điều: con người phần lớn không biết trân trọng người khác, bởi vậy họ KHÔNG BIẾT YÊU. Anh bảo: người ta chỉ biết trân trọng người khác khi họ trân trọng chính mình.
Nó nói: em luôn trân trọng anh vì em tin anh, em biết trong tình huống nào anh cũng ở cạnh bên em,
em yêu anh như một người đàn ông lần đầu tiên làm em tin vào mọi điều tốt đẹp. Em đọc văn anh và
em nhận ra sự TRỰC TIẾP của anh, vì anh không dối trá, anh thật và thông minh, và cô độc vô cùng.
Anh bảo: tôi không tự khen mình, nhưng tôi biết tôi có ba điều này: trung thực, chân tình và chung thủy, và tình bạn là tình cảm đẹp nhất của con người, tôi YÊU bạn, HN là một người bạn của tôi.

Nó nói: ôi anh ơi, em nghĩ là em đã hiểu đúng về anh và học được từ anh tất cả những điều tốt đẹp nhất. Nhưng – nó nhấn mạnh – em biết anh không yêu em như một người đàn bà vì anh yêu một người đàn bà khác ( anh chỉ yêu vợ anh thôi), anh từng nói điều này, em hiểu, đây là bí mật của con tim…
Anh bảo: cá tính con người khác hẳn nhau, thật may mắn nếu ta gặp những cá tính hợp với ta và cái khoảnh khắc gặp nhau ấy không thể tránh khỏi. Tôi mừng vì HN đã tìm ra con đường của mình và vẫn đang đi tiếp. Điều không phải ai cũng làm được, nhưng chúng ta đã làm được: tự hào, tin tưởng vào
chính bản thân mình và tự hào, tin tưởng vào nhau. Hãy tiếp tục bước trên con đường đã vạch của mình, HN.
Nó nhớ khi được tin nó sẽ nhận giải thưởng Phan Châu Trinh về Dịch thuật, nó đã lập tức viết thư cho
anh : Phần thưởng này là của anh, không phải của em, vì không gặp anh không có một Nguyễn Hồng Nhung ngày hôm nay. Anh đã viết trả lời: Chúc mừng Hồng Nhung! tôi chờ đợi thành công của HN lâu lắm rồi, tôi biết sẽ có ngày HN thực hiện những khả năng lớn trong con người HN. Ngay từ buổi ban đầu khi HN mới viết cho Ăn Mày Văn Chương tôi đã nhìn thấy những khả năng ấy. Rồi lúc HN bị những kẻ tầm thường khác vu cáo và ngay người quen của tôi đề nghị tôi không hợp tác, tôi vẫn bảo vệ HN vì tôi nhìn thấyở HN những phẩm chất khác…
Nó nói: em chưa bao giờ gặp một người như anh, anh làm em hiểu ra thế hệ những người trí thức VN
thất thời như bố em ở trong nước, và văn chương của anh đã giúp em trở lại đúng con người của em, như em vẫn biết và muốn trở thành: một trí thức tự do, trực tiếp và đầy cảm hứng làm việc.
Mọi buổi đi chơi với anh thường kết thúc vào lúc 9h tối, nhưng lần này anh và nó dạo chơi Paris đêm,
nói tất cả mọi chuyện trên đời về tất cả mọi điều cần phải nói đến, thật không có HẠNH PHÚC nào lớn hơn trong kiếp sống này của nó. Ôi, một ngọn đuốc sáng của tôi. Mười một năm quen nhau, từ con số Không, hôm nay nó đã đạt được mức độ tự do như nó muốn. Anh bảo anh chẳng giúp gì cho nó cả, nhưng chính sự hiện diện của anh là sự giúp đỡ của Thượng Đế đấy thôi, để thúc đẩy con người làm cái nó cần làm, chúng ta là những ánh sáng cần lan tỏa tới cho lẫn nhau hỡi CON NGƯỜI. Cảm ơn Thượng Đế.
( 2019. 09.10.)

NGUYỄN HỒNG NHUNG
VIẾT THÊM:
Ngày hôm sau 2019. 09. 11 nó quay về Hungary, trên máy bay nó viết cho anh vài chữ và về đến nhà nó gửi ngay cho anh.
“Ghi chép về anh trên máy bay quay lại Budapest:
Thực ra cuối cùng anh vẫn luôn luôn là người làm ta say đắm, chỉ anh, trong thế giới tinh thần và cảm xúc của ta, bởi vì ta nhận ra: sự thông minh, sự nhạy cảm, cảm xúc chân thành của anh mới đủ sức khiến anh trở thành một kẻ sáng tác đích thực, đáng để ta yêu kính nhất.  Còn chỉ sống không thôi – quá đơn giản, sáng tác tầm thường – đầy rẫy, lòng tin vào Thiên Chúa – có lúc bị xao nhãng, chỉ duy nhất một điều: phải sáng tác cuộc đời mình như một con người cao thượng.
 Chẳng ai làm nổi điều ấy, bởi tâm hồn của họ hoặc quá hạn hẹp, hoặc nông cạn, hoặc tầm thường.
Toàn bộ sự lập dị của anh lại chính là sự hiểu biết sâu sắc nhất về tất cả mọi vấn đề,  anh rất biết yêu,
yêu thật sự, sâu sắc, dù rất cô đơn,  không thể chia xẻ cho ai hết.


Ta có thể mang lại chút ít niềm vui ngắn ngủi cho anh thôi, rất ít so với cái đau khổ anh phải chịu.

Nhưng may sao, về cuối đời anh đã gặp bình an do gia đình anh mang lại, rất đúng với tất cả những gì
cần có của một đời sống người, mừng cho anh lắm, để chẳng bao lâu nữa, dù ai đi trước hay đi sau thoát khỏi cuộc đời này, ta yên lòng biết bao nhiêu khi nghĩ về anh. Tất cả, chẳng nghĩa lý gì, anh nhỉ, trái tim của em, em hạnh phúc vì được gặp anh, quen anh, anh là người duy nhất đáng được yêu trên cõi đời  này của em
(2019-09-11)
Tối nay nhiều niềm ân hận quá, cứ nhớ tới hôm đi với anh cả ngày là buồn-vui trào lên…Em sẽ làm lại từ đầu, lại như những ngày đầu mới quen anh, sống cho ra hồn, vì bên cạnh em có anh anh ơi….
Cả ngày hôm nay đi tắm khoáng, về nhà nhận được vài dòng của anh, thật vô cùng hạnh phúc. Bởi anh là người đàn ông đầu tiên em tin và yêu đến thế, anh đã làm em thay đổi cả số phận vì tình yêu này.
Em sẽ làm việc tiếp để xứng đáng với anh.
Tối đọc lại truyện dài YÊU của anh – nhớ những cảm giác nhiều lần đọc lại truyện đó, vỡ lẽ về nó, để rồi sau cùng ngồi xuống và viết bình luận về nó. Hôm nọ gặp nhau , anh bảo:”HN viết đúng, HN cảm nhận rất đúng, không ai hiểu điều đó cả, vậy mà HN phát hiện ra: trong câu chuyện đó không có tình yêu”. Nghe vậy thôi, mình không nói gì cả, vì lâu nên quên mất rồi.
Nhưng tối nay đọc lại và chợt nhớ ra vài dòng mới nhất của anh viết cho mình. Trời ơi, thật hạnh phúc, cuối cùng anh đã nhận ra TÌNH YÊU, và còn hạnh phúc hơn cơ: mình là bông hồng đỏ anh hứa tặng ở cây số không cho ai làm được điều gì đó mà anh mong ước. Bông hồng đã tự đến. Và em không cần bất kỳ điều kiện nào. Lần này chính anh đã nói nhé: hãy đừng để ai đặt chân vào. Ôi thật hạnh phúc. Nhưng từ lâu rồi em đã ở trong niềm hạnh phúc được yêu anh, vô điều kiện, dâng hiến hết, nên điều này đối với em TẤT NHIÊN, là yêu anh, không thay đổi, chỉ có thể là anh, và mãi mãi….
Anh là tình yêu CHỮ kiếp này của em
Nguyễn Hồng Nhung
(2019-09-13)

VÀ KHÔNG AI TIN RẰNG ĐÚNG MỘT THÁNG SAU ANH PHAN HUY ĐƯỜNG YÊU QUÝ
CỦA NHUNG ĐÃ RA ĐI VĨNH VIỄN.

(http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/NguyenHongNhung/ThoTuyBut/ThoiGianNHNhung.htm )















Nguyễn Hồng Nhung 
và nhóm bạn Đại Học KHXH&NV Tp/HCM











Với Dúl Antal Giám đốc nhà xuất bản Medio chuyên xuất bản sách của Hamvas Béla











Với ông bà Đại sứ Hung tại Việt nam











Tiết Hùng Thái, Nguyễn Hòa, Hồng Nhung, Dương Thụ








Nhà văn Đà Linh & Nguyễn Hồng Nhung










Đà Linh, Hồng Nhung, Hoàng Ngọc Hiến, ...., Đặng Thân, ...








Dịch giả Phạm Nguyên Trường, Nguyễn Hồng Nhung, Dịch giả Hiếu Tân Tiết Hùng Thái







Dịch giả Bùi Văn Nam Sơn & Nguyễn Hồng Nhung









Nhà văn dịch giả Phan Huy Đường & Nguyễn Hồng Nhung









Với Nhà văn, nhà giáo Phạm Toàn và các bạn












Với phó Đại sứ Hungary tại buổi ra mắt sách 
Minh Triết Thiêng Liêng










với nhà văn Halák László (tác giả cuốn Phép Lịch Sự)









Nguyễn Hông Nhung & Phan Nguyên
tại ĐHKHXH&NV 2016






















Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.