Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

Trương Tửu (1913 - 1999)

















Trương Tửu
(1913 - 1999)
Hưởng thọ 86 tuổi

Bút danh khác: Nguyễn Bách Khoa, Mai Viên, T.T 
Nhà giáo, Nhà văn , Nhà nghiên cứu Văn học







Tiểu sử


Trương Tửu sinh ngày 18 tháng 11 năm 1913, trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô Gia Lâm (Hà Nội). Mẹ mất sớm, cha là một nhà nho thủ cựu, nghiêm khắc, nhưng ông để Trương Tửu muốn làm gì thì làm.

Thời trai trẻ, ông học hết năm thứ nhất bậc trung học, rồi học trường Kỹ nghệ thực hành ở Hải Phòng (nghề thợ tiện, cùng trường lớp với Lê Văn Siêu). Nhưng chỉ được một năm rưỡi thì bị đuổi học (Năm 1927), vì tham gia bãi khoá ở Hà Nội để đòi thực dân Pháp thả tác giả bài thơ Chiêu hồn nước Phạm Tất Đắc.[1]. Bị buộc rời trường, ông tự học chương trình Tú tài Pháp Việt.

Từ năm 1941 đến 1946, Trương Tửu làm Giám đốc Văn chương (tương tự Tổng biên tập) Nhà xuất bản Hàn Thuyên. Thời kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Hội Văn hóa Việt Nam, chi hội phó Chi hội Văn hóa Thanh Hóa, tham gia bí thư đoàn liên đoàn Văn nghệ kháng chiến liên khu IV, dạy trường Thiếu sinh quân, trường Dự bị đại học…

Sau hiệp định Genève 1954, ông hồi cư về Hà Nội, dạy Trường đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1957, ông được phong chức danh Giáo sư, cùng đợt với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường…

Đầu năm 1958, bị buộc thôi việc vì dính líu đến vụ Nhân văn giai phẩm. Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu y học và sống bằng nghề Đông y.

Trương Tửu mất vào ngày 16 tháng 12 năm 1999[2], tại Hà Nội, thọ 86 tuổi.










“Không có gì giúp người cầm bút đủ tự hào để phấn đấu, đủ can đảm để thắng, đủ an ủi để ngã, bằng nhận thấy rằng trong các công trình phá hoại và kiến thiết vinh quang nhất của xã hội loài người, bao giờ nhà văn cũng đứng mạnh dạn vào hàng ngũ tiên phong. Bao giờ nhà văn cũng vui vẻ, hăng hái giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt xã hội chạy tìm những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc.

Mỗi khi hai lực lượng thuận và phản tiến bộ xung đột nhau, báo tin những giông tố hãi hùng, nhà văn, nhờ một linh khiếu – một trực giác – đặc biệt, lập tức dẫn đạo tư tưởng của đoàn thể đi vào cuộc tranh đấu và không bao giờ quên ủng hộ mặt trận nào hy sinh để làm toàn thắng lý tưởng và hạnh phúc. Giờ phút ấy nhà văn hòa vận mạng mình vào vận mạng của xã hội tương lai, viết bằng chữ máu vào trang giấy sáng sủa của thế kỷ một lời tiên tri, loài người sắp đi thêm được một bước”.

Trương Tửu










Tác phẩm




Trước 1945:

Truyện ngắn, tiểu thuyết: 






1
Thanh niên S.O.S 
(1937)


2
Một chiến sĩ
 (1938)


3
Khi chiếc yếm rơi xuống 
(1939)


4
Khi người ta đói 
(1940)


5
Một cổ đôi ba tròng 
(1940)


6
Trái tim nổi loạn 
(1940)


7
Đục nước béo cò 
(1940)


8
Một kiếp đọa đày 
(1941)


9
Tráng sĩ Bồ Đề 
(1943)


10
Năm chàng hiệp sĩ 
(1944)












Nghiên cứu, lý luận, phê bình Văn, sử học: 








11
Những thí nghiệm của ngòi bút tôi 
(1939)


12
Uống rượu với Tản Đà 
(1938)


13
Kinh thi Việt Nam 
(1940)[3]


14
Nguyễn Du và Truyện Kiều 
(1943)


15
Nhân loại tiến hóa sử 
(1943)


16
Nguồn gốc văn minh 
(1943)


17
Văn minh sử 
(1943)


18
Nguyễn Công Trứ 
(1944)


19
Văn chương Truyện Kiều 
(1944)


20
Tương lai văn nghệ Việt Nam
(1945)










Sau 1945:


21
Đại quan về 40 năm văn học Việt Nam hiện đại 1905-1945 
(1948)


22
Phương pháp phê bình văn học 
(1948)


23
Văn nghệ bình dân Việt Nam 
(1952)


24
Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du 
(1956)


25
Chỉnh huấn là gì? 
(1956)


26
Chống văn hóa nô dịch 
(1956)


27
Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam 
(1958)




Từ những năm 1930, ông đã cộng tác với nhiều báo, như: Đông Tây tuần báo, Loa, Ích Hữu, Tiếng Trẻ, Hà Nội báo, Mùa gặt mới, Văn mới…











Nhận xét



Cùng thời, nhà thơ Nguyễn Vỹ, bạn thân thiết của Trương Tửu, nhận xét:

"Trương Tửu thuộc về loại nhà văn tự học, nhờ đọc sách nhiều. Có lẽ một phần nhờ trường Bách Nghệ huấn luyện, lại sẵn thiên tài Văn nghệ nên lí luận của anh rất đanh thép, câu văn của anh như búa, như kềm. Lời nói anh vang ra như tiếng đập sắt trên đe. Lúc nào cũng nẩy lửa, nghe lâu chát cả tai..."


Nhà văn Vũ Ngọc Phan nói thêm:Thế cho nên, trong những nhận định có khi máy móc của ông, vẫn được người đọc chấp nhận, dù cho đôi khi lí luận ấy có vẻ một chiều. Có thể nói, ngòi bút lí luận, phê bình, bình giảng văn chương vượt trội ngòi bút sáng tác truyện, tiểu thuyết của ông [6]Hầu hết các tiểu thuyết của Trương Tửu, đều bênh vực người nghèo rõ rệt. Sự bênh vực ấy rất chính đáng, nhưng ông đã không đặt sự bênh vực vào chỗ phải chăng. Ông bênh vực cả những hành vi ngang trái và bất lương của họ"… nên riêng mảng tiểu thuyết xã hội, ông là một nhà văn có những ý kiến chưa lấy gì làm chín chắn và sâu rộng "Về mặt phê bình, Trương Tửu là một nhà văn thiên vị, chỉ biết theo khuynh hướng chính trị của mình…"[7] 
Sau này, nhà nghiên cứu Văn Tâm trong Từ điển Văn học, bộ mới, cũng có những đánh giá tương tự:Về phương diện sáng tác, xu hướng quan tâm và thái độ bênh vực người nghèo thể hiện khá rõ trong khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhưng những hình tượng nhân vật tích cực của ông còn sơ lược (Hảo trong tiểu thuyết Một chiến sĩ), những nạn nhân xã hội trong tác phẩm của ông thường gặp nhiều cảnh ngộ bi đát một cách thiếu tự nhiên (Thiện trong Khi người ta đói). Do dó, sáng tác của ông thiếu sức truyền cảm.Về phương diện nghiên cứu, Trương Tửu là một trong những cây bút ở Việt Nam sớm vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp này khiến ông khá thành công ở một số sách biên khảo, tuy nhiên việc vận dụng chưa mấy nhuần nhị, nên ông có một số nhận định thiếu khoa học về nàng Kiều, Nguyễn Công Trứ… [8] 
Năm 2007, trong buổi Gặp mặt để tưởng nhớ Nhà văn - Giáo sư Trương Tửu, nói về lối phê bình khoa học của Trương Tửu, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên phát biểu:"Sau này, do hoàn cảnh làm việc của tôi, càng đọc, tôi càng cảm phục ông. Ông cũng như các nhà phê bình khác, cũng có trực giác. Những bài ông bình về thơ và phân tích thơ Tản Đà rất hay và vẫn còn có ý nghĩa đến thời nay. Ông có khác hơn là bởi kiểu phân tích khoa học trong văn học. Hơn nữa, khi mà lối phê bình hiện nay đang chuyển dịch từ cảm tính sang lý tính, thì việc học hỏi ông là điều cần thiêt…"[9] 
Đoàn Minh Tân, một cựu học trò của cố Giáo sư Trương Tửu, tâm sự:"Tôi học thầy Trương Tửu niên khoá 1954-1957. Với tôi, thầy Tửu là người mà cả lớp đều phải kính phục về tính thông minh. Tôi chưa thấy ai giảng hay như thầy, kể cả đọc cũng rất hấp dẫn.Tôi còn nhớ, khi nghe thầy đọc bài "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, đến nửa lớp chúng tôi đứng dậy để nghe. Điểm đặc biệt nữa ở thầy là luôn tạo cho học sinh phương pháp tư duy. Tôi rất kỳ lạ bởi thầy học môn xã hội mà lại có phương pháp tư duy khoa học như thế. Thầy còn rất quý học sinh, giữa chúng tôi và thầy không hề có khoảng cách. Thầy coi chúng tôi như con và chúng tôi cũng coi thầy như cha" [9] 
PGS.TS Trần Ngọc Vương cho biết ý kiến: Cuốn "Tâm lý và Tư tưởng Nguyễn Công Trứ" của Trương Tửu có giá trị đặt dấu mốc cho những nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ. Ngoài ra,"Kinh thi Việt Nam" được Trương Tửu viết, đọc không thật hấp dẫn nhưng cách đặt vấn đề thì rất hay, bởi "Kinh thi Việt Nam" là ý thức tạo tác ra chuẩn mực cổ điển. Trương Tửu đã hệ thống hoá giá trị của ca dao, dân ca Việt Nam để tìm ra cái giá trị nền tảng của văn hoá Việt Nam, đấy là cách đặt vấn đề rất thú vị".Trương Tửu là người dường như không hề thờ ơ trước bất cứ kiến thức nào. Ông hiểu thông và vận dụng sáng tạo các thuyết và học thuyết. Có lẽ chính vì vậy mà có ý kiến cho rằng, trước năm 1945, ông là một nhà mác-xít. Để lý giải ông có mác-xít hay không thì một cuộc gặp mặt không thể giải đáp hết được. Nhưng không thể phủ nhận năng lực nhạy cảm với cái mới của Trương Tửu. "Ông còn có trực giác tiền lý trí về vấn đề lịch sử văn hoá, văn học, những vấn đề tồn nghi (chưa ai giải thích)[9] 
Trong chiến dịch Nhân văn giai phẩm, Giáo sư Nguyễn Lân viết:Sở dĩ có những lệch lạc ở một số sinh viên khoa Văn và khoa Sử là vì họ đã chịu cái ảnh hưởng tàn khốc của Trương Tửu và Trần Đức Thảo...Nhà trường đòi hỏi các cán bộ giảng dạy trước khi lên lớp phải soạn giáo trình và giáo án; nhưng Tửu và Thảo thì không chịu viết giáo trình, lấy cớ là môn mình phụ trách khó quá chưa thể cho in thành tài liệu được. Sự thực là họ sợ mực đen giấy trắng dễ biểu lộ những tư tưởng phản động của họ. Họ thường tay không lên lớp rồi nói lung tung, không theo một phương pháp sư phạm nào. Vì không có giáo án nên đã có lần Trương Tửu không chuẩn bị, phải nhai lại một bài đã giảng kỳ trước, làm cho sinh viên hết sức công phẫn...Nhưng Trương Tửu và Trần Đức Thảo thì ngược lại, chỉ âm mưu dùng cái diễn đàn của trường đại học để đả kích chế độ, đả kích Đảng và xuyên tạc chân lý. Thí dụ: Tửu đã say sưa giảng về Vũ Trọng Phụng để chứng minh rằng Vũ Trọng Phụng sáng suốt hơn Đảng."'.[10] 
Về sau, tức khi chiến dịch ấy đã qua đi, vấn đề tìm hiểu và đánh giá về ông lại được nêu ra:...Để hiểu và đánh giá về Trương Tửu, có lẽ phải cần sự nghiên cứu sâu hơn của các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, phê bình văn học… Một hội thảo khoa học về ông đã được Khoa văn, Đại học Sư phạm Hà Nội lên ý tưởng và chắc chắn sẽ sớm thành hiện thực, để ông được như các bạn của mình thoát khỏi cái bóng của vụ Nhân văn Giai phẩm hồi nào[11].





Chú thích


1.Từ điển Văn học, bộ mới cho biết khác hơn: Trương Tửu bị bắt và bị đuổi học vì tham gia cuộc vận động đòi lạnh đạo nhà trường, phải cho học tiếp môn lý thuyết.(NXB Thế giới, 2004, tr. 1865)

2.Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999 ghi ông mất ngày [[16 tháng 6 năm 1999

3.Kinh thi Việt Nam, sau ba tháng phát hành, sách bị Pháp cấm và rồi cái tên Trương Tửu cũng bị cơ quan kiểm duyệt gây khó dễ, nên ông phải đổi bút danh thành Nguyễn Bách Khoa

4.(NXB Văn học, 2007, tr.221-223)

5.Văn thi sĩ tiền chiến, NXB Văn học, 2007, tr.221-223

6.Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999

7.Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, NXB Sống mới, 1959, tr. 1136

8.NXB Thế giới, 2004, tr. 1865

9.a ă â Theo web Bộ Giáo dục

10.Nguồn: [http://www.viet-studies.info/VachMatNhanVanGiaiPham_NhanDan_III.htm "Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai" trên Báo Nhân Dân, Chủ nhật, ngày 18-5-1958, trang 3. Xem thêm Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm.

11.Theo Mai Hương, website Bộ Giáo dục.


















Trương Tửu
 
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ 



“Phê bình và tự phê bình đúng nguyên tắc và công khai là con đường đúng nhất để củng cố Đảng hơn nữa, để nhanh chóng khắc phục khuyết điểm… … Quần chúng càng tham gia đông đảo vào cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm thì khuyết điểm lại càng bớt đi. … Mở rộng hơn nữa phê bình và tự phê bình, dũng cảm phát hiệt khuyết điểm trong tất cả các lĩnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”. (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội Đảng lần thứ XX, Khơ-rút-sốp trình bày) Hiện giờ, chính phủ và Đảng lãnh đạo đang phát động và tổ chức một phong trào quần chúng rộng rãi phê bình xây dựng chính sách và cán bộ ở mọi địa hạt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá v.v… Các đại hội đại biểu nhân dân ở các khu phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá; hội nghị tổng kết đợt 5 cải cách ruộng đất, hội nghị mở rộng của Mặt trận Tổ quốc ở các tỉnh; hội nghị học tập văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX ở các cấp bộ Đảng; những cuộc kiểm điểm công tác ở các cơ quan nhà nước, phong trào học tập như Hồ Chủ tịch gửi nông dân ở các thôn xã; các buổi họp phê bình ban lãnh đạo ở các nhà máy và công trường; các buổi chuẩn bị đại hội văn nghệ toàn quốc; các cuộc thảo luận chính trị ở nhiều trại hè giáo viên v.v… đã cổ võ và phát huy đến cao độ tự do dân chủ, tự do tư tưởng, trong nhân dân cũng như trong hàng ngũ cán bộ. Phong trào phê bình và tự phê bình có tính cách quần chúng ấy chứng tỏ rằng: Chính phủ ta thực sự là của nhân dân, Đảng Lao động thực sự là một đảng cách mạng chân chính, nhân dân dưới chế độ dân chủ cộng hoà thực sự là chủ nhân ông đất nước. Chính phủ và Đảng không sợ sự thực, muốn biết sự thực, cần nắm vững sự thực, yêu cầu nhân dân nói thực. Và nhân dân đã nói thực. Sự thực ấy là gì? Sự thực là: chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta, trên đường phát triển, hiện đang vướng phải những mâu thuẫn khá gay go đòi hỏi một giải quyết hợp lý và cấp bách. Những lực lượng sản xuất dân tộc, được cách mạng giải phóng thoát khỏi ách đế quốc và phong kiến, đang vấp phải, trong bộ máy quan hệ sản xuất mới, những chính sách, những tổ chức, những tác phong lãnh đạo, những cán bộ chấp hành cản đường phát triển của nó. Những sai lầm nghiêm trọng trong đợt 5 cải cách ruộng đất cản trở lực lượng sản xuất của nông thôn, những khuyết điểm nhiều mặt của mậu dịch quốc doanh, của chính sách thuế khoá cản trở lực lượng sản xuất của thành thị; những tệ lậu của bộ phận lãnh đạo văn hoá cản trở sức phát triển của mọi lực lượng sáng tạo tinh thần (khoa học, nghệ thuật v.v…). Những lực lượng sản xuất của chế độ dân chủ nhân dân đang yêu cầu chỉnh lý cấp bách những quan hệ sản xuất mới để tự do tiến triển: đó là ý nghĩa cơ bản của phong trào quần chúng phê bình rầm rộ đang diễn ra chung quanh chúng ta. Chính phủ và Đảng phát động phong trào ấy là có ý muốn tạo ra điều kiện tốt để nhận thức đúng nội dung của mâu thuẫn nói trên một cách cụ thể và toàn diện. Có nhận thức đúng mới giải quyết đúng. Chính phủ và Trung ương Đảng đang chăm chú lắng nghe tiếng nói của nhân dân… Cho nên, lúc này hơn lúc nào hết, nhiệm vụ của mỗi người công dân chúng ta là nói thực, “dũng cảm phát hiện khuyết điểm ở mọi lãnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”, nhiệt liệt tham gia cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm ấy, để giúp các nhà lãnh đạo nhìn rõ toàn bộ sự thực. Trong cuộc đấu tranh này, riêng người trí thức phải can đảm tự gánh lấy một trách nhiệm xứng với cương vị xã hội của mình. Thẳng thắn phê bình những sai lầm thiếu sót của lãnh đạo, của chính sách, của cán bộ là thiết thực góp sức vào sự nghiệp hoàn thành Cách mạng tháng Tám, giữ vững hoà bình, củng cố miền Bắc, thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ thực sự. Lúc này hơn lúc nào hết, nói thực, nói thẳng, nói hết là cái thước đo lòng trung thành của người trí thức đối với chế độ dân chủ nhân dân. Không mạnh bạo phát hiện khuyết điểm và đề nghị sửa chữa là không tin chế độ, không tin Đảng, là tự mình tước bỏ cái nhân cách trí thức của mình, là phụ cái lòng kỳ vọng của nhân dân và chính phủ vẫn đặt vào giới mình. Nghĩ như vậy nên tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.


Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ nước ta và đã tác hại khác nhiều đến toàn bộ sinh hoạt văn nghệ. Tôi nói đó là một bệnh phổ biến trong hàng ngũ lãnh đạo văn nghệ. Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia được. Bởi vậy, không phải đợi đến sau Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, văn nghệ sĩ Việt Nam mới chống sùng bái cá nhân. Ai cũng còn nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ cố Tô Ngọc Vân đã tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê bình nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không vì uy quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ tiêu ý kiến riêng của mình. Cũng năm 1948, nhân đi công tác qua Thanh Hoá, ông Trường Chinh có đến câu lạc bộ của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV nói chuyện với anh chị em văn nghệ về chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Trong bài nói, có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho hoạ phái ấy, cũng như các phái nghệ thuật Đa đa, Dã thú v.v…, chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20. Sau buổi nói chuyện, anh em hoạ sĩ mạn đàm với nhau và nhất trí cho rằng ông Trường Chinh vì không am hiểu chuyên môn hội hoạ nên đã nhận định sai lầm về chủ nghĩa lập thể. Hoạ sĩ Sỹ Ngọc có viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4 (cơ quan ngôn luận của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV) để gián tiếp bác ý kiến của ông Trường Chinh. Ở đây, không nói đến chỗ sai hay đúng của các ý kiến Tô Ngọc Vân, Sỹ Ngọc; chỉ một việc tự do và mạnh bạo phát biểu quan điểm riêng của mình trái hẳn với quan điểm của một nhà lãnh tụ cũng đủ cho ta thấy rõ các bạn đó không có thói quen sùng bái cá nhân, hễ lãnh tụ đã đề ra một ý kiến gì là phải nhắm mắt tuân theo, ca tụng. Đối với các nhà lãnh đạo bậc dưới, ở các khu hoặc tỉnh, anh em văn nghệ sĩ cũng thường xuyên giữ thái độ tự do tư tưởng như vậy. Tôi còn nhớ, trong Khu IV, nhiều lần văn nghệ sĩ đã xung đột kịch liệt với thiếu tướng Nguyễn Sơn lúc đó (1948-1949) làm Khu trưởng Liên Khu IV. Nhà quân sự này có tham vọng lãnh đạo cả văn nghệ trong phạm vi đất đai thuộc quyền mình. Vì thiếu học thức chuyên môn về nghệ thuật, Nguyễn Sơn đã phải dùng đến uy quyền Khu trưởng để đàn áp tư tưởng của văn nghệ sĩ, bắt anh em phải theo ý kiến chủ quan của ông, gây ra hết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác giữa ông và văn nghệ sĩ suốt mấy năm trời, làm hại khá nhiều đến phong trào văn nghệ kháng chiến Liên Khu IV. Một lần, đoàn kịch Tiền tuyến, do một số kịch sĩ, hoạ sĩ và diễn viên phụ trách và công tác trong quân đội Liên Khu IV, diễn vở Dứt áo của Chu Ngọc. Kịch vừa hạ màn, quần chúng còn đang vỗ tay hoan nghênh thì ông Khu trưởng Nguyễn Sơn nhẩy ngay lên sân khấu, đả kích vở kịch, đả kích tác giả, đả kích đoàn kịch, đả kích cả khán giả trong hơn nửa tiếng đồng hồ. Theo lệnh của ông, vở kịch ấy không được phép tái diễn nữa. Vở kịch Dứt áo, lập trường đúng hay sai ở đây không bàn đến; chỉ biết rằng lối lãnh đạo “quân phiệt” ấy đã bị anh xem văn nghệ sĩ phản ứng lại mạnh mẽ: đoàn kịch Tiền tuyến tự giải tán. Khoảng cuối năm 1948, trong trụ sở Xưởng hoạ Liên Khu IV ở Thanh Hoá, có một buổi sinh hoạt toạ đàm về lý luận văn nghệ. Hôm ấy, anh em thảo luận về vấn đề hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông Đặng Thai Mai, Bí thư thứ nhất Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV, Hội trưởng Hội Văn hoá Việt Nam, đưa ra ý kiến cho rằng ở xứ ta chưa thể áp dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa trong sáng tác văn nghệ được. Theo ý ông thì xứ ta chưa kiến thiết xã hội chủ nghĩa nên chưa có cơ sở để vận dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Rồi ông dẫn những lời nói của Maxime Gorki để chủ trì rằng văn nghệ Việt Nam chỉ nên sáng tác theo phương pháp lãng mạn cách mạng. Mặc dầu lúc đó có ông Mai ở cương vị một người lãnh đạo văn nghệ toàn Liên Khu IV, quan điểm của ông cũng không nhờ được uy thế đó mà khiến anh em văn nghệ sĩ phải rắp rắp tuân theo. Các bạn dự buổi toạ đàm, sau một hồi thảo luận, đều không tán thành ý kiến ông Bí thư thứ nhất của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV. Năm 1949, trên Liên khu Việt Bắc, Hội Văn nghệ có tổ chức một hội nghị tranh luận về thơ, tiểu thuyết, kịch, hoạ, nhạc, nhiếp ảnh. Trong những buổi thảo luận, anh chị em văn nghệ sĩ đều hoàn toàn tự do đề xuất và bênh vực ý kiến riêng của mình. Ông Tố Hữu cũng tham gia nhiều cuộc tranh luận. Nhưng không có một văn sĩ nào lại nghĩ rằng ông Tố Hữu đã đưa ra một quan điểm thì không ai được bàn cãi nữa. Tôi thiết tưởng nếu trong hội nghị có kẻ nào xu nịnh nhà lãnh đạo định đàn áp tự do dân chủ khi thảo luận thì chắc là kẻ ấy sẽ bị anh em công kích và khinh bỉ. Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi tìm chính nghĩa, đi tìm tự do chứ không đi tìm cuộc đời nô lệ dưới hình thức này hay hình thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào. Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lãnh đạo độc tài, bè phái thì tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là tình trạng văn nghệ của ta từ sau 1949. Một mặt, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mỗi ngày một tôi luyện tâm hồn văn nghệ sĩ thêm cứng cáp, rèn rũa lập trường tư tưởng họ một ngày một thêm chính xác; đồng thời cuộc kháng chiến đã làm nở dần ra trong bản thân họ những xúc cảm mới, phong phú, mạnh mẽ và một ý chí phục vụ cách mạng mỗi ngày một thêm sắt đá. Họ muốn đem tất cả tài năng, tất cả cuộc đời hiến cho nhân dân. Họ muốn tiến hành những thí nghiệm sáng tạo nghệ thuật táo bạo phù hợp với yêu cầu của tâm tư súc tích những căm thù và yêu nước. Như đoàn chim đã có lông cánh, họ muốn bay vút lên tầng mây xanh thắm của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, mỗi người theo một hành trình độc đáo. Như trăm hoa đầy nhựa sống, họ muốn nở tung ra, mỗi người một hương sắc riêng, giữa thanh thiên bạch nhật của cuộc đời dân chủ tự do. Họ muốn tạo ra một nghệ thuật xứng với một chế độ mà họ yêu quý như yêu quý vận mệnh bản thân. Họ đòi những điều kiện thuận lợi tối thiểu để phục vụ… Một mặt khác, bộ phận lãnh đạo văn nghệ - cụ thể là Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam và các ban thường vụ chi hội ở các khu – càng ngày càng tiến sâu vào con đường mệnh lệnh, độc tài, quan liêu, bè phái, hẹp hòi…, càng ngày càng trắng trợn căng lưới trên khắp các nẻo đường sáng tác văn nghệ, định biến những văn nghệ sĩ nhiều chất sống và cá tính thành những con cừu ngoan ngoãn, sợ sệt chịu để cho bọn chăn dắt lùa đi ngả nào cũng được. Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó “tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v… còn gì nữa? Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (số ít thôi) ngã vào tay bọn thầy bùa biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và nghệ thuật xuống “đáy ba lô”, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – “đánh giặc đã!”. Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…

… Cho đến hôm nay: sự phải xẩy ra đã xẩy ra. Nhân đã đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lãnh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà bình trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Phòng Văn nghệ Quân đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt nguyện vọng lên ban lãnh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Các nhà lãnh đạo văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương quyết đàn áp phong trào đấu tranh chính đáng ấy [1] . Kết quả là cuộc đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lãnh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (đặc biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa tề phóng, bách gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu. Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đã đọc một bản tham luận lên án đường lối lãnh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đã đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lãnh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả mãn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để trình bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh còn tiếp tục… [2] . Nguyên nhân nào đã xô đẩy các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta vào con đường, quan liêu, độc đoán, bè phái tai hại ấy? Nguyên nhân chính là bệnh sùng bái cá nhân. Nó phát sinh từ lúc một số người của Đảng nắm lấy độc quyền lãnh đạo văn nghệ bằng tổ chức. Thực ra, Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử, anh chị em văn nghệ sĩ ai cũng thừa nhận với tất cả nhiệt tình thành thực của họ đối với Bộ Tham mưu Cách mạng đã lãnh đạo toàn dân làm ra tháng Tám 1945, đem quyền độc lập đến cho dân tộc đang quằn quại dưới gót phát xít Nhật, Pháp. Trông cậy vào sự giúp đỡ của Đảng để tự cải tạo, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin để phát triển tài năng, vui vẻ đứng dưới lá cờ Đảng để giết giặc cứu nước: đó là nguyện vọng tha thiết của tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ kháng chiến. Văn nghệ sĩ tin ở Đảng và mong mỏi được Đảng lãnh đạo là bởi họ hiểu rằng Đảng đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng sự lao động trong đó có cả lao động nghệ thuật. Họ biết rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn cờ tiền phong của tự do tư tưởng. Họ biết rằng một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sứ giả trung thành và hăng hái nhất của tự do tư tưởng. Họ biết rằng cái chế độ mà Đảng đang cùng nhân dân xây dựng bằng xương máu là thiên đường của tự do tư tưởng. Văn nghệ sĩ kháng chiến hào hứng tiến bước theo lá cờ của Đảng tiền phong. Nhưng trên đường đi, họ đã vấp phải một số người của Đảng trong bộ phận lãnh đạo phong trào văn nghệ. Số người ấy đã làm họ thất vọng. Nói cho đúng, anh em văn nghệ sĩ cũng không bao giờ phản đối sự trạng: đảng viên nắm quyền lãnh đạo. Nếu quả là những đảng viên tốt, ưu tú, giỏi chuyên môn lãnh đạo văn nghệ thì anh em hết sức hoan nghênh. Nhưng sự thật những “đảng viên” ấy thế nào? Năm 1950, chúng tôi ở Khu IV lên Việt Bắc dự Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Một buổi tối, gặp ông Tố Hữu và ông Lưu Trọng Lư ở trụ sở Hội, nhân nói đến cái trường văn nghệ nhân dân mới lập ở Việt Bắc, một bạn nhà văn Liên khu IV có phát biểu ý kiến cho rằng: Hội Văn nghệ Việt Nam, từ ngày thành lập đến giờ, rất ít chú ý đào luyện cán bộ chuyên môn cho ngành mình, ít chú ý bồi dưỡng trí thức nghiệp vụ cho văn nghệ sĩ. Rồi anh bạn kết luận: “Lúc này mới mở trường văn nghệ nhân dân kể cũng hơi muộn so với nhu cầu của phong trào văn nghệ. Nhưng muộn còn hơn không”. Anh vừa nói dứt lời thì ông Lưu Trọng Lư sừng sộ nói như thét: “Anh bảo muộn là thế nào? Bây giờ mới làm là đúng lúc lắm chứ! Sao lại muộn?” Chúng tôi bình tĩnh nhìn Lưu Trọng Lư “đảng viên” không trả lời. Riêng đối với tôi thì tâm lý và thái độ của ông Lư không làm tôi ngạc nhiên chút nào vì tôi đã gặp tâm lý và thái độ ấy ở một số đảng viên khác, khá nhiều lần. Đó là tâm lý của những kẻ “bảo hoàng hơn cả nhà vua”. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của Đảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hoà bình lập lại, đều có thứ tâm lý nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm. Đứng trước một người “quần chúng” nào phê bình những điểm thiếu sót hoặc sai lệch của Đảng, nếu họ không bịt tai chạy trốn được thì thế nào họ cũng phải phản ứng lại kiểu Lưu Trọng Lư. Những đảng viên “bảo hoàng hơn cả nhà vua” ấy cũng thừa biết câu nói bất hủ của Lênin: “Chỉ có hai hạng người không bao giờ phạm sai lầm: hạng người còn nằm trong bụng mẹ và hạng người nằm trong quan tài”. Họ cũng biết rằng xét theo một thời gian lịch sử dài thì Đảng không sai lầm – điều này đúng – nhưng xét theo từng giai đoạn nhỏ, từng chính sách, từng kế hoạch cụ thể thì một đôi khi Đảng vẫn mắc sai lầm; - lắm lúc sai lầm nghiêm trọng là đằng khác nữa. Họ cũng biết rằng một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ yêu cầu hoặc dung túng, ở người đảng viên, sự nhắm mắt phục tùng tuyệt đối cấp trên đến cái mức hủy diệt cả trí suy xét phê phán cá nhân; trái lại lúc nào Đảng cũng đòi hỏi ở người đảng viên tính sáng tạo tích cực, tinh thần dũng cảm phê bình và xây dựng mọi chính sách của Đảng. Họ cũng biết rằng chân giá trị của Đảng Mácxít-Lêninít không phải ở chỗ không bao giờ phạm sai lầm - điều này không thể có được - mà chính là ở chỗ khi nào phạm sai lầm thì can đảm công bố cho quảng đại quần chúng biết là mình sai lầm, phân tích đúng nguyên nhân của sự sai lầm và quyết tâm sửa chữa sai lầm. Các đảng viên lãnh đạo văn nghệ của chúng ta biết tất cả những điều sơ đẳng ấy. Họ đã học tập những văn kiện của Đảng, đọc sách báo Đảng, được theo lớp chỉnh Đảng. Họ lại là những người có điều kiện đọc được tác phẩm của Mác, Lênin, Mao Trạch Đông. Làm gì họ không biết những chân lý phổ thông ấy! Nhưng họ vẫn gào to vào tai quần chúng: Đảng không bao giờ sai lầm; lãnh tụ này hay lãnh tụ khác không bao giờ sai lầm. Và họ hành động, nói năng y như là họ tin thành thực rằng Đảng, lãnh tụ, các cấp ủy không bao giờ sai lầm cả. Tại sao họ lại tự lừa dối như vậy? Không có gì lạ cả. Họ làm ra như vậy là vì làm thế có lợi cho bản thân họ. Đó là những đảng viên cơ hội chủ nghĩa điển hình. Họ theo phương châm sống: “khuất nhất nhân thân vạn thặng”. Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy. Cho nên, khi vị lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những tranh tĩnh vật trong một cuộc triển lãm tranh hội hoạ (1955) thì họ bỏ hết những tranh tĩnh vật; khi ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng "Hướng điền" của Song Văn thì họ xô nhau vào tấm tắc khen theo; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn mài "Trăng lên" và "Niềm vui" của Nguyễn Sáng trong kỳ triển lãm năm ngoái thì họ ùa vào chê theo mặc dầu họ đã khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố Hữu chưa cho ý kiến; khi ông Tố Hữu viết về bản thảo tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại: “Đây là một tài năng mới cần cổ võ và biểu dương” thì họ nhấc tập thơ ấy từ giải khuyến khích lên giải ba [3] . Khi ban lãnh đạo văn nghệ quân đội biên thư cho thường vụ Hội Văn nghệ đề nghị (hay ra chỉ thị?) bỏ cuốn Người người lớp lớp của Trần Dần “phản động”, không chấm giải, thì họ ném Người người lớp lớp và cả nhà văn Trần Dần vào sọt giấy; khi mở ra cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì họ chỉ rắp tâm hướng dư luận đến chỗ ca tụng ông Tố Hữu v.v… Suy xét, hành động họ nhất nhất rập theo đúng ý kiến và sở thích của cấp trên. Họ tự tước bỏ hết cá tính, tước bỏ trí phán đoán độc lập, tước bỏ luôn nhân cách văn nghệ sĩ. Và do đó họ cũng đã tự tước bỏ luôn cái tư cách cần phải có của một người cộng sản. Phàm đã sùng bái cá nhân “cấp trên” thì tất nhiên có tâm lý và muốn bắt những người “cấp dưới” sùng bái cá nhân mình. Do đó sinh ra lối lãnh đạo độc đoán và bè phái. Trong số báo Nhân dân ra ngày 8-9-1956, ông Phượng Cầu có lôi ra ánh sáng vụ Nọc rắn, bằng chứng của thứ lãnh đạo văn nghệ độc đoán bè phái. Vụ Nghệ thuật giao cho Đội kịch Trung ương tập vở Nọc rắn. Khi đi nghiên cứu nông thôn về và bắt đầu diễn tập, các diễn viên đã có ý kiến là vở kịch này nó thế nào ấy diễn không được, nó không đúng thực tế, nó gượng gạo, chắp vá v.v… Nhưng đồng chí Vụ trưởng xoa tay, dõng dạc bảo: "Căn bản vở kịch này bảo đảm là tốt rồi đấy! Không cần bàn cãi nữa!" Người ta còn phê lên trán đội kịch ba chữ: Thiếu tin tưởng. Lúc đem diễn thử thì ai cũng thấy là vở kịch hỏng về căn bản. “Thế là công lao ăn tập hơn một tháng trời và gần ba triệu đồng của kế hoạch nhà nước biến thành mây khói”. Ông Phượng Cầu thuật xong câu chuyện có viết: “Vở kịch như người bị Nọc rắn nằm lăn ra đây.” Không! Bị Nọc rắn không phải là vở kịch. Bị Nọc rắn không phải là ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật. Bị Nọc rắn chính là kế hoạch nhà nước 1956. Ba triệu đồng, mồ hôi nước mắt của nhân dân đóng góp để củng cố miền Bắc, phút chốc bị cái nọc mệnh lệnh bè phái – nguy hại hơn Nọc rắn –của ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật làm cho tiêu tán. Những con người khinh bỉ quần chúng như thế, phá đoàn kết như thế, hách dịch độc đoán như thế, nịnh trên chèn dưới như thế mà bao lâu nay vẫn lãnh đạo văn nghệ, vẫn được cấp trên khen là tốt – lại còn tuyên dương nữa! – thì không cần nói cũng biết cái không khí văn nghệ nghẹt thở đến mức nào! Thêm vào tư cách lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta có tất cả cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển mạnh được. Tôi nói không phát triển mạnh được vì rằng, mặc dầu bị các nhà lãnh đạo kìm hãm, văn nghệ Việt Nam suốt thời kháng chiến và sau khi hoà bình lập lại vẫn theo đà phát triển lịch sử của Cách mạng tháng Tám mà phát triển, không sức bảo thủ nào ngăn lại được. Vả lại, đường lối văn nghệ của Đảng, tuy chưa có hệ thống và chưa được thể hiện ra một chính sách cụ thể, cũng vẫn là kim chỉ nam cho sự hoạt động văn nghệ. Những phương châm dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá, những khẩu hiệu thâm nhập quần chúng: khai thác vốn cũ dân tộc, mặc dầu thực hành thiếu sót, lệch lạc hay máy móc, cũng vẫn là hướng tiến của văn nghệ Việt Nam. Với đường lối đúng ấy, nếu lại có một chính sách cụ thể và một tổ chức lãnh đạo tốt thì không biết những khả năng sáng tạo của văn nghệ sĩ còn phát triển tưng bừng mạnh mẽ đến thế nào! Tiếc thay! Các nhà lãnh đạo văn nghệ đã kìm hãm sức phát triển ấy bằng một lề lối bè phái, độc đoán quan liêu, sùng bái cá nhân, bằng những thói quen tâm lý còn sót lại của thời thực dân phong kiến. Họ đã làm trái hẳn ý muốn tốt của Đảng. Họ đã làm giảm sút phần nào uy tín của Đảng trong một số quần chúng văn nghệ quen đánh giá Đảng qua tư cách và hành động của những đảng viên. Họ không đủ tiêu chuẩn một cán bộ cách mạng chứ đừng nói đến tiêu chuẩn một đảng viên cộng sản. Đã đến lúc phải sa thải những “nhà lãnh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ. Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói. Đã đến lúc Đảng phải nghiên cứu, xây dựng và tuyên bố một chính sách văn nghệ đúng đắn, cụ thể, sát thực tế, để tạo cho văn nghệ dân tộc một cái đà phát triển mạnh mẽ và tự do trên chiều hướng tiến đến xã hội chủ nghĩa, để cho các nhà văn nghệ có đủ điều kiện khách quan làm tròn sứ mạng của họ là “kỹ sư của tâm hồn”.


Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên xô đã rọi ánh sáng tưng bừng vào các tâm hồn khao khát tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do phê bình. Đại hội đã đánh thức dậy ở họ tinh thần dũng cảm chiến đấu vì chân lý, vì tương lai cộng sản chủ nghĩa, vì giá trị chân thực của con người. Những tâm hồn rạo rực ấy đang đòi hỏi những điều kiện tốt để hiến dâng phần cao quý nhất của họ cho cách mạng, cho tổ quốc, cho nhân dân. Đừng ai nghĩ thiển cận rằng hiện nay toàn thể anh em văn nghệ sĩ đấu tranh cho tự do tư tưởng, vạch trần những sai lầm nghiêm trọng của Hội, yêu cầu Đảng đề ra một chính sách lãnh đạo văn nghệ đúng đắn, chỉ là vì bất mãn cá nhân, vì óc địa vị, vì lương ít, vì muốn phá uy tín Đảng, vì có người xui dục, vì chịu ảnh hưởng xấu của giai cấp tư sản, muốn đòi tự do bừa bãi v.v… Không! Văn nghệ sĩ (trừ một tối ư thiểu số) đấu tranh không phải vì những động cơ ấy. Họ đấu tranh vì họ yêu chế độ, yêu Đảng, yêu nghệ thuật, yêu con người. Họ đấu tranh là để cho chế độ tươi đẹp hơn, Đảng vững mạnh hơn, nghệ thuật phục vụ Cách mạng đắc lực hơn, con người có nhân cách cao quý hơn. Họ muốn gì? Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lãnh đạo văn nghệ đã cản trở sức phát triển nghệ thuật, làm đau khổ con người văn nghệ sĩ, làm rã rời tình đoàn kết thân ái trong mặt trận văn nghệ. Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ co quắp, mòn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời. Họ muốn công việc lãnh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ý lựa chọn và tín nhiệm; họ đề ra khẩu hiệu: quyền điều khiển chuyên môn trả lại cho người công tác chuyên môn vì họ đã thấy rõ nếu không nắm được chuyên môn mà cứ chủ quan lãnh đạo chuyên môn thì tất yếu sẽ phạm những sai lầm làm hại đến phong trào văn nghệ. Đề ra khẩu hiệu ấy, họ không bao giờ có ý nghĩ muốn tách chuyên môn ra khỏi chính trị. Họ vẫn chủ trì rằng mọi công tác chuyên môn đều phải phục vụ một đường lối chính trị chung có lợi cho quảng đại nhân dân, nhưng họ muốn trả lại cho người chuyên môn quyền điều khiển công việc thuộc về phạm vi chuyên môn của họ. Có như thế, chuyên môn mới phục vụ chính trị một cách đắc lực được. Họ muốn Đảng có một chính sách văn nghệ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”, tạo ra những điều kiện tinh thần và vật chất cần thiết để họ đem hết tài năng phục vụ cho chế độ dân chủ nhân dân tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Họ muốn sáng tạo ra một nền văn nghệ xứng với Cách mạng tháng Tám, xứng với dân tộc anh hùng. Họ muốn cùng với toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nỗ lực củng cố miền Bắc để làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà bằng đường lối hoà bình trên cơ sở độc lập thực sự, dân chủ thực sự. Những ước muốn ấy đã nổi bật lên qua mười tám ngày học tập, thảo luận, liên hệ sôi nổi tháng Tám vừa rồi, qua bản tham luận đọc hôm tổng kết. Đó là những ước muốn chính đáng, xây dựng. Vấn đề chống sùng bái cá nhân, chống lãnh đạo quan liêu độc đoán bè phái, hiện nay, là một vấn đề rộng lớn, quan trọng. Mong rằng tất cả anh chị em nghệ sĩ nói riêng và anh chị em trí thức nói chung đem kinh nghiệm bản thân góp sức vào công cuộc tiễu trừ óc sùng bái cá nhân độc tài mệnh lệnh bất cứ ở lãnh vực nào. Đó là một cách xây dựng chế độ của chúng ta hiệu nghiệm nhất.
 


Để kết luận, tôi xin nhắc lại lời nói của ông Khờ-rút-sốp vang động ở Đại hội thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô: “dũng cảm phát hiện khuyết điểm trong tất cả các lãnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”. 10-9-1956 [1]Xem báo Nhân văn số I, bài "Con người Trần Dần" của Hoàng Cầm [2]Xem báo Nhân văn số I. Bài "Đợt đầu học tập và đấu tranh của giới văn nghệ". [3]Xem bài: “Một vài sự thật chung quanh vụ giải thưởng văn học 1954-1955”, của Yến Lan, Văn nghệ số 139. 



Nguồn: Giai phẩm mùa Thu 1956 -Tập II, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Trần Công, Trần Duy, Quang Dũng, Hoàng Huế, Phan Khôi, Hồng Lực, Hữu Loan, Sỹ Ngọc, Bùi Xuân Phái, Phùng Quán, Trương Tửu, Lê Đại Thanh, Tô Vũ, Trần Lê Văn. Tranh khắc gỗ trong hầm mỏ của Bùi Xuân Phái, in tại nhà in Quảng Nghi do Ngô Quang Thịnh trông nom. Bìa của Sỹ Ngọc, in tại nhà in Minh Đức, do Nguyễn Viết Thưởng trông nom. Bản khắc của nhà Tiến Mỹ, Minh Đức xuất bản, in tại nhà in Sông Lô, Hà Nội, hoàn thành ngày 30-9-1956, khổ 16 x 24, 72 trang số in 318, số xuất bản 49, số sách in… Nộp lưu chiểu tháng 9-1956 tại Hà Nội.










TÓM TẮT VÀ SO SÁNH TỐ-TÂM, NỬA CHỪNG XUÂN, ĐOẠN-TUYỆT


Trương Tửu
Không cái gì ở cái không mà có. Muốn sáng tạo phải có vật-liệu và tài-nghệ. Nên văn-phẩm thường mang dấu-vết của hoàn-cảnh, in đặc-sắc (l'originalité) của tác giả.
Dù nói chung một vấn-đề hay họa chung một cảnh vật, cũng không cuốn văn nào giống cuốn văn nào.
Đó là một định luật văn học. Ba bài phê bình Tố tâm, Nửa-chừng xuân, Đoạn tuyệt của tôi đã chứng thực nó.
Tuy cùng phô-diễn một tấn kịch của thời-đại, mà ba quyển tiểu thuyết ấy khác nhau về các phương diện.
*
Tố-Tâm bày ra một hiện-trạng.
Nửa-chừng xuân phác ra một lý tưởng.
Đoạn tuyệt vạch ra một con đường.
Song-An tả, Khái-Hưng nghĩ, Nhất-Linh phá.
Tố tâm xúc-động ta, Nửa-chừng-xuân an ủi ta, Đoạn-tuyệt giục ta phấn-đấu.
Song-An chịu tai-nạn, Khái-Hưng bào-chữa tai-nạn, Nhất Linh tiêu-hủy tai nạn.
Nếu ta có thể ví cuộc xung đột của cá-nhân và gia-đình như sự gặp gỡ của hai luồng điện thì Tố tâm là tiếng sét, Nửa-chừng xuân là cái diều Franklin, Đoạn tuyệt là cái thu-lôi Melsens.
Trước sức mạnh của chủ nghĩa gia-đình, Song-An phục tòng than khóc, Khái-Hưng cười nụ trốn đi, Nhất-Linh dóng trống đánh lại.
Với Song An là một câu tự thú hèn yếu.
Với Khái-Hưng là một câu tuyên bố không cần.
Với Nhất Linh là một câu hô chiến-đấu.
*
Ba quyển ấy khác nhau hẳn như thế là vì ba tác-giả mỗi người một khuynh-hướng.
Song-An là nhà tâm-lý, Khái-Hưng là nhà tư-tưởng, Nhất-Linh là nhà cải-cách.
Nhà tâm-lý tách bạch những ủy-khúc, kỳ-trạng của trái tim chỉ cốt nêu lên một luật.
Nhà tư tưởng suy-tầm sự-lý của nhân sinh, đểcăn-cứ một thái độ xử thế.
Nhà cải-cách khám phá những nguyên cớ của lẽ thắng bại trong cuộc phấn đấu, để đặt một khẩu hiệu (mot d'ordre).
*
Ba quyển ấy còn khác nhau vì ba tác-giả viết ở ba hoàn-cảnh xã-hội khác nhau.
Song An cầm bút chép truyện Tố Tâm từ năm 1922. Lúc ấy, phong trào lãng mạn đang cuồng-dại vì nó mới nhập cảng. Thanh niên hăng hái đi tìm hạnh phúc, rút cục chỉ xây những lâu-đài lên bãi cát để trông thấy sự tan-tành và để ôm ấp suốt đời vết thương sâu hoắm không bao giờ khỏi.
Văn chương hồi ấy tiêu biểu rõ rệt cái thời-bệnh tôi vừa nói. Ai có đọc Nam Phong những năm 1920-1921-1922 mới thấy nào thơ nào ca của các học sinh trẻ tuổi hết than lại khóc vì trò đời éo le, vì tình duyên trắc trở. Kỳ giải nhất có cuốn thơ nhan đề là Mối sầu trung của Hoàng Thăng. Cứ một cái tên sách cũng đã nói dài về tinh-thần tác giả.
Về phần bạn gái cũng mắc chung thông-bệnh ấy. Tôi còn nhớ, một lần ông Song An vào thăm mấy người bạn trong một trường nữ học ở Hanoi, thấy trên tường các buồng ngủ nguệch ngoạc vô số những bài thơ bát cú, tứ tuyệt toàn một giọng buồn rầu chán nản.
Liền đó, ông có viết một bài trong Nam phong công-kích lối thơ sầu.
Nguyên-nhân của tâm-trạng ấy, không nói ai cũng hiểu là sự thất vọng về tình ái. Tôi cần trích mấy câu thơ của tân nữ sĩ ký là Trần Khánh Phong để độc-giả xem.
Vẩn-vơ một bóng một người,
Người than xấu số, bóng cười vô duyên.
. . . . . . . . . .
Trơ trơ một cảnh một giường,
Buồng không lạnh ngắt, mùi hương ngạt ngào.
Sực thoảng thấy như bào gan ruột,
Nỗi niềm này đau buốt đến xương,
Gớm thay một mối tơ vương,
Cầu-ô bao bắc? Mạch tương lệ tràn.
Bài thơ này đề là Gái Đêm Thu đăng trong Nam-phong số Octobre 1918. Nó đủ hình dung cõi lòng của các bạn nam nữ thanh-niên đầu tiên chịu ảnh-hưởng mãnh-liệt của sự lãng mạn.
Ông Song-An, nhà tâm lý, tất nhiên không bỏ qua một tình-trạng tâm-lý. Ông miệt mài tìm kiếm mối đầu của bọc tơ rối, gỡ cuộn. Thế rồi ông đặt bút viết Tố-tâm, nó chỉ là tấm lụa dệt bằng những sợi tơ của tâm-hồn bạn trẻ, nghĩa là nó hình-dung một tai nạn, một sự khủng hoảng.
…Đột nhiên, đến năm 1924, nhà chí-sĩ Phan Bội- Châu quy quốc; năm 1926, cụ Phan Chu-Trinh quá cố, phong-trào cách-mệnh bùng cháy. Năm 1920, đảng Việt-Nam quốc-dân hoạt-động, năm 1930 đảng Cộng-sản thành lập.
Ảnh-hưởng trực tiếp của phong-trào này là khêu gợi mạnh mẽ chủ-nghĩa cá nhân. Thanh-niên hàng trăm hàng ngàn bỏ cha già, mẹ yếu, bỏ vợ con, đi xông pha vào cuộc đời gió bụi. Trong khắp dân gian, ta chỉ nghe vẳng hai danh từ: Tổ-quốc, hy-sinh. .
Quyền lực gia-đình đổ trước sức mạnh của phong-trào cách mệnh. Tiếng gọi của đất nước lôi kéo thanh-niên vào con đường “lý-tưởng”. Giữa một hoàn-cảnh kích-động ấy, ông Khái Hưng xếp giấy mực viết Nửa-chừng xuân. Nhưng ông chỉ là nhà tiểu-thuyết ưa suy nghĩ. Nên hoàn-cảnh rung động ông một cách gián-tiếp. Thấy trước mặt treo lủng lẳng cuốn Tố-tâm, ông buộc bên cạnh nó một gói thuốc để chữa vết thương lòng. Rồi ông chống can nhắm phía chân trời đi thẳng...
*
Phong trào cách-mệnh dần tắt, để lại trong xã-hội Việt-Nam một vết roi đánh ngang lưng chủ-nghĩa gia-đình.
Cá-nhân đã thấy một cảnh thổ thích hợp. Không sợ nữa, nó nhạo báng cái quá khứ. Nó sống đường hoàng. Nó chơi đùa, nó cười. Mà bao giờ cái cười cũng giết chết một chế-độ.
1934 mở đầu bằng việc khánh thành nhà Etoile Dancing. Món khiêu-vũ lan rộng, muốn thành một tập-quán thanh tao và phổ-thông.
Với nó, các giá-trị luân-lý cố hữu của nước ta rầm rầm đổ. Nó làm rợn gáy các ông già tóc bạc.
Sự toàn thắng của cá-nhân đã viết giữa không trung. Ông Nhất Linh cặm cụi thảo truyện Đoạn Tuyệt, tiếng hưởng ứng của nguyện-vọng thanh-niên.
*
Tóm lại, chủ-nghĩa cá nhân, với Tố-Tâm, chỉ là một cảm tình. Với Nửa Chừng Xuân, nó thành một lý-tưởng. Đến lúc Đoạn Tuyệt ra đời, nó đã nghiễm-nhiên là một nguyên-lý sinh hoạt (un principe de vie).
Dưới ngòi bút Song An, cá nhân không muốn sống với cái cũ. Ở Khái-Hưng nó không chịu quay lại cái cũ. Với Nhất Linh nó không thể đứng bên cạnh cái cũ.
*
Nhưng dù được hay thua, thanh-niên Việt-Nam ở đầu thế-kỷ này cũng đã giỏ bao nhiêu giòng lệ. Họ đến sớm quá, nên đau khổ nhiều quá.
Ba cuốn tiểu-thuyết giá trị kia, đời đời, chỉ là những suối nước mắt không bao giờ cạn.
Tuy vậy, cái đau đớn ấy nâng cao địa-vị của thanh-niên. Nó rày vò xã-hội, nhưng đưa dân-tộc Việt-Nam lên đường tiến-bộ.
Mà sự tiến-bộ nào không tàn nhẫn? Lần đầu loài người đặt lưỡi cày xuống luống đất, bị cứa đôi mấy vạn con sâu!
Bàn đến vấn đề xã-hội, giải quyết bài toán của thời đại, ba nhà tiểu-thuyết Song-An, Khái-Hưng, Nhất Linh đáng cho ta ngả mũ kính chào.
Không biết ba ông có còn hiến chúng ta những tác-phẩm quý giá hơn nữa không?
Tôi tin có!
TRƯƠNG TỬU
(Loa, số 77, ngày 15-8-1935)











Tham khảo thêm về tác giả Trương Tửu








Trương Tửu là ai?




Đỗ Ngọc Thạch


Trương Tửu là ai? Trong hầu hết các bài viết về Nhân văn-Giai phẩm trước đây, Trương Tửu (1) đều được nói tới với vị trí nhân vật chủ chốt của phong trào này. Song, người ta vẫn phải hỏi “Trương Tửu là ai?” bởi những gì viết về Trương Tửu đều rất sơ sài. Và thế là người ta lại phải hỏi “Trương Tửu là ai?”.

Câu hỏi này lẽ ra phải được trả lời rõ ràng ngay sau vụ án Nhân văn-Giai phẩm (1958) được thực thi. Vậy mà nó vẫn bị treo cho đến 50 năm sau vẫn có nhiều người hỏi: Trương Tửu là ai? Trong Lời dẫn cho cuộc Hội thảo về TRƯƠNG TỬU tại khoa Ngữ văn ĐHSP Hà Nội, 28/11/2008 của PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, Khoa Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội có đoạn: “Ông thuộc số tên tuổi mà thế hệ chúng tôi (cùng một số thế hệ trước và sau chúng tôi nữa) được nghe nói đến nhiều nhất nhưng lại ít rõ ràng nhất. Trong suốt một thời kỳ dài, chúng tôi không sao hiểu nổi ông là ai giữa những lời kết án nặng trịch trên giấy trắng mực đen và vô số câu chuyện đồn thổi vừa đầy niềm thán phục vừa không thiếu ngậm ngùi cay đắng”. Vì thế, Lời dẫn của cuộc Hội thảo yêu cầu các nhà nghiên cứu, những người quan tâm cần làm rõ trường hợp Trương Tửu – một trường hợp khá đặc biệt của một con người vừa là một nhân vật lịch sử quan trọng vừa là một tác gia văn học lớn với những “công” thì sáng chói và “tội” đều vào loại “tày đình”: ông là một trong những nhà phê bình văn học đầu tiên ở Việt Nam theo quan điểm Mác-xit, Ông đề cao phương pháp khoa học trong phê bình văn học, có công lý thuyết hóa việc nghiên cứu văn học sử ở nước ta, Ông nhiệt thành khẳng định mối quan hệ giữa văn nghệ với cách mạng: “Từ xưa đến nay, tinh túy của văn nghệ bao giờ chẳng là tinh túy cách mạng?”,v.v…nhưng vì sao cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam lại bị một người Mác-xit rất có uy tín phê phán, bị kết tội là một kẻ “xét lại”, một kẻ Trôtkit? – “reo rắc chất men bất phục tùng và phản kháng chính thể dân chủ nhân dân”, bị phê phán là “lợi dụng văn học để chống lại cách mạng, chế độ”, tuyên truyền cho thế giới quan duy tâm và phủ nhận thế giới quan tiến bộ”? Nói tóm lại, Trương Tửu là một kẻ phản động cỡ đầu sỏ, là kẻ nhân cách đáng ngờ hay là con người “tràn đầy khí phách chân nho phương Đông của một sĩ phu Bắc Hà”?

Rõ ràng là trong một cuộc Hội thảo khoa học, dù có được chuẩn bị kỹ lưỡng và những người tham gia đều là những chuyên gia uy tín thì vẫn không thể giải quyết hết những vấn đề nêu ra. Tuy nhiên, một số vấn đề cơ bản đã được trình bày một cách khoa học và công phu và do đó, tuy nó chưa giải quyết triệt để những vấn đề nêu ra thì nó cũng có ý nghĩa như một cách định hướng, khoanh vùng và xác định đề tài nghiên cứu để những người đi sau có thể nhanh chóng tiếp cận và xử lý đề tài. Bài viết của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có ý nghĩa như vậy bởi cách đặt vấn đề rất khái quát mà cũng rất cụ thể: “Trường hợp Trương Tửu (1913-1999), rõ ràng ông là một tác gia; các sản phẩm ngôn từ của ông khá nhiều và đa dạng, cho thấy ông là nhà nghiên cứu và nhà phê bình văn học, là tác giả của một số tác phẩm thể truyện; ta còn có thể chứng minh Trương Tửu là một lý thuyết gia về văn hóa học, xã hội học …; mặt khác, ông là người lập ra và chủ trì những cơ quan văn hóa như thư xã Đại Đồng, NXB Hàn Thuyên, tạp chí Văn mới, vào những năm 1939-1940; những năm 1955-1957 ông là một trong số những tác giả chính làm nên hiện tượng Nhân văn – Giai phẩm, một sự kiện đã in một dấu vết không thể tẩy xóa trong lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam những năm 1950-1970; ở phương diện thứ hai này, Trương Tửu là một nhân vật hoạt động văn hóa, cần được sử học nghiên cứu như một nhân vật lịch sử” (Cần tiếp cận nghiên cứu một cách bài bản đối với TRƯƠNG TỬU như một tác gia và như một nhân vật văn hóa-lịch sử: Lại Nguyên Ân – Tham luận tại Hội thảo về TRƯƠNG TỬU do khoa Ngữ văn trường ĐH sư phạm Hà Nội tổ chức, 28/11/2008).

Về tác gia Trương Tửu, từ cuối những năm 1980, một số tác phẩm của ông đã được đưa vào một số sách sưu tập hoặc hợp tuyển về văn học Việt Nam thế kỷ XX (ví dụ các bộ sách Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam 1900-1945, v.v…); hai soạn giả Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn đã biên soạn hai sưu tập tác phẩm Trương Tửu: 1/ Nguyễn Bách Khoa: Khoa học văn chương (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu. NXB Văn hóa Thông tin, H.2003. – 538tr; 14×21 cm), 2/ Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm và biên soạn, NXBLao động, H.2007. – 1088 tr. ; 16×24 cm) (1*).

Tác phẩm đầu tay gắn bó với cả cuộc đời của Trương Tửu là “Triết lý Truyện Kiều” (đăng Đông Tây tuần báo năm 1931). Sau đó ông viết ba chuyên khảo rất bề thế về kiệt tác hàng đầu trong nền văn học Việt Nam của đại thi hào Nguyễn Du: “Nguyễn Du và Truyện Kiều” (1941), “Văn chương Truyện Kiều” (1944), “Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du” (1956). Bài viết của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy về những tìm tòi, khám phá mới của Trương Tửu ở nhóm bài viết này đã giúp người đọc thấy được đóng góp mới mẻ và độc đáo này của Trương Tửu:

“Có thể nói, trước Trương Tửu, các nhà phê bình mới chỉ đọc Nguyễn Du theo cách đọc tiểu sử học. Nghĩa là, họ tìm thấy ở Truyện Kiều cái điều mà họ muốn thấy là tâm sự của tác giả. Với khái niệm – chìa khóa cá tính Nguyễn Du – một mặt, nhà phê bình Trương Tửu đã lý giải được những động lực sáng tác, một thứ tâm lý học sáng tạo ở nhà thơ, mặt khác, phát hiện soi sáng một cách khoa học, khách quan những đặc sắc nghệ thuật ở “Truyện Kiều”.

Trong bài viết này, Đỗ Lai Thúy đã diễn giải khá rõ những luận điểm độc đáo của Trương Tửu khi nói về “Cá tính Nguyễn Du” và cái cơ sở để Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều. Cá tính Nguyễn Du Đó là bệnh đa sầu đa cảm. Thứ bệnh, có thể không phải do những tổn thương thực thể, mà do căn tạng, do chất người, do cá tính. Trương Tửu viết: “Đó là, “một thể cách của trạng thái mất thăng bằng về tinh thần, nhận thức ở sự thái quá hỗn loạn của cảm xúc, ở sự bất lực không điều hòa được tính cách hăng hổ, mãnh liệt, bền lâu của những sức phản động của thần kinh hệ đối với những rung động ở ngoại giới ùa vào. Kết quả thông thường là thiếu các khiếu thích ứng vào những trường hợp đột ngột, những cảnh ngộ bất ngờ, những hoàn cảnh mới lạ” . Căn tạng này làm Nguyễn Du lúc nào cũng lo sợ hãi hùng, rồi trí tưởng tượng bị kích thích thái quá thành ra náo loạn, tạo ra những cảnh tưởng ghê gớm hợp với sự lo sợ kia, nhưng lại được thi sĩ coi là thực. Bởi vậy, thơ văn Nguyễn Du đầy những trầm muộn, khóc lóc và “mỗi” lời là một vận vào…Đọc truyện Tiểu Thanh, ông cảm thương khóc người mệnh bạc rồi cảm khái khóc thương cuộc đời mình, rồi ngậm ngùi tự hỏi “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Qua Tương Đàm, nhớ Khuất Nguyên, ông cũng ngậm ngùi thương cho người “tỉnh một mình”: “Thiên cổ tùy nhân lân độc tỉnh, Tứ phương hà xứ thác cô trung”. Rồi Văn chiêu hồn. Rồi Truyện Kiều… Đâu đâu cũng thấy tiếng khóc Nguyễn Du. Ông đã sống thành thực trong văn thơ và bằng văn thơ. Người ta thích đọc Nguyễn Du, một phần, cũng vì sự thành thực ấy. Và Nguyễn Du trở thành đại thi hào, một phần, cũng vì sự thành thực ấy…Nhưng, cảm xúc thành thực và mãnh liệt ở Nguyễn Du lại bắt nguồn từ ảo giác. Trương Tửu đã chứng minh sự giàu có của tưởng tượng Nguyễn Du trong thơ chữ Hán… thể hiện đậm đặc ở Truyện Kiều. “Ta có thể nói rằng vai chính trong truyện không phải là Thúy Kiều, không phải là Kim Trọng, không phải là Thúc Sinh, Từ Hải… Không, vai chính không phải là những người còn đang sống ấy. Vai chính chỉ là một oan hồn vất vưởng dưới âm ty của một con ma hiện lên trong các giấc mơ, bên giường bệnh… Vai chính của truyện là Đạm Tiên”*. Kiều đã tin có Đạm Tiên. Suốt đời này, lúc nào nàng cũng tin có Đạm Tiên, nghe theo Đạm Tiên như là nghe theo một người có thực. Đó là hiện tượng ảo giác hoàn toàn. Tạo ra cái hiện tượng ảo giác đó, theo Trương Tửu, tức là tin nó có thực. Sự tin này rất hợp với thần kinh hệ, với căn tạng cảm xúc quá độ, với khiếu ảo giác của Nguyễn Du. Tóm lại, “ngần ấy yếu tố sinh lý và tâm lý đã tạo thành cá tính Nguyễn Du. Trong đời sống thì cá tính ấy là một tính lãng mạn, trầm muộn, thích cô liêu, thèm an nhàn, mộng mị, ghét những hoàn cảnh mới lạ. Trong văn chương thì nó là sự rung động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào, sự cảm xúc ủy mị và bi thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh”. Và, Truyện Kiều đã kết tinh được cá tính ấy một cách mỹ mãn” (Nguyễn Du và ‘Truyện Kiều’ dưới cái nhìn của Trương Tửu: Đỗ Lai Thúy – Hồ sơ Trương Tửu).

Hai nhà nghiên cứu văn học Trịnh Bá Đĩnh – Nguyễn Hữu Sơn cũng có những nhận định thỏa đáng về Trương Tửu ở vấn đề “phê bình khoahọc” này: “Nói một cách công bằng, phê bình tính cách với lý thuyết chủng tộc – địa lý và tâm phân học của Trương Tửu trong Nguyễn Du và Truyện Kiều có nhiều điểm khả thủ, đáng tiếc là chúng bị che khuất bởi nhiều những kết luận vội vã, lối nói áp đặt, sự vận dụng lý thuyết khoa học một cách máy móc không tính đến đặc thù của nghệ thuật ngôn từ. Cuốn sách như ta biết, đã bị phê phán rất nhiều (trong đó có những phê phán đúng đắn), nhất là vào những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, song trớ trêu thay những công trình phê bình nghiên cứu Truyện Kiều vào những năm này lại có vẻ “kế thừa” nó nhiều hơn cả, từ cách nhìn đến các luận điểm. Nếu ai làm một sự so sánh sẽ thấy được ngay. Tại sao lại như vậy? Lý do cũng không khó giải thích: Vào những năm này người ta cũng chẳng có nhiều hơn bao nhiêu những quan niệm văn học mà Trương Tửu đã đề cao trong Nguyễn Du và Truyện Kiều như: văn học cần có ích, con người là sản phẩm của hoàn cảnh, văn học phản ánh xã hội thời đại. Tuy nhiên đến thời gian này đặc thù của sự phản ánh nghệ thuật của các thể loại đã được chú ý nhiều hơn”. Và “Cuốn Văn chương Truyện Kiều (1944) hình như được viết là để tranh luận với bài phê bình của Hoài Thanh và Đinh Gia Trinh. Trong tác phẩm này, Trương Tửu trực diện với những vấn đề “tế nhị” và “tinh vi” nhất của nghệ thuật, những cái mà theo Hoài Thanh không thể đem các khí cụ ra để “mổ xẻ”, phân tách được, nói chung là không thể lấy khoa học ra để giải thích. Đó là vấn đề “chất thơ” và “cái đẹp”. Có nhiều trang viết hay, mới lạ, những tri thức cập nhật trong cuốn sách này. Đọc chẳng hạn những dòng dưới đây thú thật tôi rất ngạc nhiên về thời điểm ra đời của nó trong lịch sử phê bình văn học của ta: “Nhưng tiếng nói vừa là một âm thanh, mà lại vừa là một ký hiệu” (signe), một tượng trưng (symbol), để các người trong xã hội dùng đến khi muốn hiểu nhau. Nó chứa đựng một ý nghĩa mà xã hội đã định cho nó”, “Một tác phẩm được một xã hội cho là đẹp… (vì) tác phẩm ấy biểu thị được cái hình thức tình cảm và tư tưởng cần thiết cho sự tồn tại của luân lý đang có”… Không nghi ngờ gì rằng các “mảnh vỡ” của lý thuyết cấu trúc, ký hiệu học và tiếp nhận nghệ thuật đã “bay lạc” đến lãnh thổ của chúng ta và để lại dấu vết từ khi đó” (Phê bình văn học – TRƯỜNG HỢP TRƯƠNG TỬU: Trịnh Bá Đĩnh – Nguyễn Hữu Sơn: Hồ sơ Trương Tửu).

Quả là, Trương Tửu đã bị những cây bút có tiếng cùng thời như Hoài Thanh, Ngô Tất Tố, Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân v.v… phản đối dữ dội. Nhưng ta nên thấy rằng, Trương Tửu không phải cố tình nói ngược với cách nói của thiên hạ. Ông biết rất rõ mình đang nói gì. Những luận điểm về Nguyễn Du và Truyện Kiều – như đã nói trên – là kết quả tất yếu của cái cách mà ông áp dụng phương pháp phê bình văn học được chính ông gọi là “phê bình khoa học” khi phê bình Truyện Kiều. Nói ngắn gọn, “phê bình khoa học” của Trương Tửu đòi hỏi thái độ khách quan trong khi phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng. Thứ nữa, nó yêu cầu khả năng vận dụng lí thuyết và kết quả nghiên cứu của các bộ môn khoa học liên nghành như xã hội học, tâm lí học, di truyền học v.v… vào phê bình văn chương…Chỉ có điều, ông áp dụng chúng khá máy móc và cực đoan, vì thế ông mới có những kết luận “gây sốc” như đã nói trên. Dù sao, sự máy móc và cực đoan của Trương Tửu cần phải được nhìn nhận như những lúng túng nhất thời khi lần đầu tiên thực hiện một phương pháp phê bình văn học mới, khác hẳn lối thẩm bình văn chương nghiêng về chủ quan, trực giác đã có từ trước đó. Nếu như lúc đó, có ai có thể khẳng định, “phê bình khoa học” của Trương Tửu là một bước tiến về tư duy của bộ môn phê bình văn học Việt Nam ở thời điểm đó, thì hẳn là sẽ có một cục diện khác đối với nhà phê bình Trương Tửu!

Tuy là hơi muộn, nhưng có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay đều khá thống nhất với nhận định rằng, với Trương Tửu, phê bình văn học không chỉ là một nghệ thuật, mà nó đã trở thành một khoa học: văn chương không còn là một cái gì đó thần bí không thể hiểu được, nhà phê bình hoàn toàn có thể và cần phải “làm việc” được với tác phẩm văn chương – giống như nhà sinh vật học làm việc được với những mẫu cỏ cây của mình. Và ông chính là một trong những nhân vật lĩnh ấn tiên phong trên con đường đưa phê bình văn học Việt Nam trở thành một khoa học văn chương. Phê bình khoa học, đấy là một phương pháp mà theo Trương Tửu thì cần “gác bỏ hết những tình cảm riêng, những thành kiến và dư luận đã định giá thi nhân kia và tác phẩm kia” để “làm hết nghĩa vụ của một nhà phê bình vẫn tôn thờ khoa học”. Chữ “Khoa học” được Trương Tửu dùng với hai nghĩa: Thứ nhất, sự “khách quan” trong phân tích đánh giá sự kiện, hiện tượng; thứ hai, khả năng vận dụng các lý thuyết của những bộ môn khoa học như tâm lí học, di truyền học, xã hội học… vào phê bình văn chương. Chủ trương phê bình này rõ ràng là đối lập lại với truyền thống bình văn và cảm thụ văn học hồn nhiên đã được xác lập vững chắc cho đến lúc đó và ngày nay vẫn chiếm ưu thế trong văn hóa phê bình của chúng ta. Đấy là một trong những lí do chủ yếu khiến tác giả của nó bị chỉ trích từ nhiều phía và chịu rất nhiều điều tiếng.

Say sưa, hăng hái, quyết liệt, thẳng thắn – đó là văn phong Trương Tửu. Từ năm 1937, Trương Tửu đã ra Tuyên bố “một quan niệm về văn chương”, Trương Tửu viết:


“Không có gì giúp người cầm bút đủ tự hào để phấn đấu, đủ can đảm để thắng, đủ an ủi để ngã, bằng nhận thấy rằng trong các công trình phá hoại và kiến thiết vinh quang nhất của xã hội loài người, bao giờ nhà văn cũng đứng mạnh dạn vào hàng ngũ tiên phong. Bao giờ nhà văn cũng vui vẻ, hăng hái giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt xã hội chạy tìm những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc.

Mỗi khi hai lực lượng thuận và phản tiến bộ xung đột nhau, báo tin những giông tố hãi hùng, nhà văn, nhờ một linh khiếu – một trực giác – đặc biệt, lập tức dẫn đạo tư tưởng của đoàn thể đi vào cuộc tranh đấu và không bao giờ quên ủng hộ mặt trận nào hy sinh để làm toàn thắng lý tưởng và hạnh phúc. Giờ phút ấy nhà văn hòa vận mạng mình vào vận mạng của xã hội tương lai, viết bằng chữ máu vào trang giấy sáng sủa của thế kỷ một lời tiên tri, loài người sắp đi thêm được một bước”.


Sự say sưa, hăng hái, quyết liệt, thẳng thắn đó như một “cơn bão lốc” đã cuốn Trương Tửu vào “phong trào Nhân văn-Giai phẩm” như một định mệnh không thể cưỡng lại. Trương Tửu được xem như là một trong những nhà tư tưởng « đầu sỏ » cùng với Trần Đức Thảo (2), đã cầm đầu phong trào đấu tranh ở đại học, đã khuyến khích và nâng đỡ tinh thần cho sinh viên. Qua những lời buộc tội Trương Tửu của Tố Hữu, Hoài Thanh, Hồng Cương, Như Phong, Bùi Huy Phồn v.v.. chúng ta có thể biết được đường hướng hoạt động của Trương Tửu trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Tố Hữu viết: “Chúng – tức là Trương Tửu và Trần Đức Thảo – muốn biến đại học thành một “pháo đài” phản cách mạng như bọn chúng thú nhận, và thật sự từ vị trí ấy, chúng đã tung ra trong giới văn nghệ sĩ trí thức những sách báo phản động nhất, những tác phẩm của Trốt- Ky phương Tây, cùng những tài liệu của bọn phản cách mạng, bọn xét lại quốc tế”. “Trong những tập giai phẩm mùa thu, mùa đông, Trương Tửu đưa ra luận điệu “văn nghệ sĩ chân chính xưa nay đều chống lại chính trị của giai cấp cầm quyền” (trích Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận, trang 161).

Hoài Thanh viết:

“Trương Tửu nhắc đi nhắc lại lời Gide khuyên các nhà văn nhà nghệ sĩ hãy gieo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tùng và phản kháng (…) Trương Tửu chủ trương thành lập một đoàn Tân văn nghệ, không chịu sự lãnh đạo của một đảng nào hết, mà chỉ có thể hợp tác với đảng chính trị một cách hãn hữu” (sđd, trang 65).

Qua lời lẽ buộc tội trên đây của Tố Hữu và Hoài Thanh, ta biết được tầm quan trọng của Trương Tửu lúc đó: Trương Tửu vừa trông nom bài vở cho các tờ Giai Phẩm mùa thu và Giai phẩm mùa đông, vừa viết những bài chính yếu. Ông đã phê phán trực tiếp tư cách của những văn nghệ sĩ lãnh đạo từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu. Theo ông, đó là những kẻ có tâm lý “bảo hoàng hơn vua”.

Trong bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” đăng trên Giai Phẩm mùa thu tập II, ra ngày 30/9/1956, Trương Tửu viết:


“Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của Đảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hòa bình lập lại, đều có thứ tâm lý nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này : Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói : Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói : các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm”. Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban kia, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy.

Cho nên, khi vị lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những tranh tĩnh vật trong một cuộc triển lãm hội họa (1955) thì họ bỏ hết những tranh tĩnh vật ; khi ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng “Hướng điền” của Song Văn thì họ xô nhau vào tấm tắc khen theo ; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn mài “Trăng lên” và “Niềm vui” của Nguyễn Sáng trong kỳ triển lãm năm ngoái thì họ ùa vào chê theo mặc dầu họ đã khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố Hữu chưa có ý kiến .”Thêm vào tư cách lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta có tất cả cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển mạnh được”.(Hồ sơ Trương Tửu).


Vẫn lời của Hoài Thanh trong bài « Thực chất của Trương Tửu », viết: “Trong ba tập Giai Phẩm liên tiếp, nó đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính chất vô sản của đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống… một mặt khác nó xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ” (sđd, trang 66).

Trên Giai phẩm mùa thu tập III, ra ngày 30/10/1956, trong bài “Văn nghệ và chính trị”, ngòi bút của Trương Tửu hướng về điều kiện sáng tạo:

“Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì, bảo vệ, phát triển tính độc đáo ấy không để sức mạnh bên ngoài nào xâm phạm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật – để có thể phán ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống. Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả”… “Văn nghệ tự thân nó tất yếu phải mang chính trị tính và phải có tác dụng chính trị”, “bản thân văn nghệ mang chính trị như bản thân không khí mang oxygène”, ” Họ- (tức là văn nghệ sĩ- làm nghệ thuật để phục vụ một lý tưởng mà chủ quan họ cho là cao cả, tốt đẹp. Lý tưởng này, tùy hoàn cảnh lịch sử cụ thể, hợp với nguyện vọng của giai cấp cách mạng này hay giai cấp cách mạng khác, có chính trị “.

Trương Tửu cho rằng: quy luật của văn nghệ là “phát hiện sự thật toàn diện”. Do quy luật của “tự thân văn nghệ” như thế, người nghệ sĩ theo đúng “lý tưởng nghệ thuật cao cả” của mình, theo cái “tự do nội tâm” của mình, cho nên khi nhìn vào sự thật họ thấy đúng sự thật, và nếu người văn nghệ sĩ nói “sự thật toàn diện” ấy lên, đúng như sự nhìn thấy của mình, thì điều đó tức khắc có lợi cho chính trị tiến bộ, cho giai cấp cách mạng. Bởi vậy, Trương Tửu viết tiếp: “Văn nghệ có tác dụng soi sáng cho đường hướng cho chính trị quần chúng”, người văn nghệ “chiếu tỏa ra ngoài đời cái ánh sáng của chính bản thân mình”. Đứng trên quan điểm văn nghệ đó, Trương Tửu đòi hỏi:”Một đảng cộng sản chân chính phải tạo đầy đủ điều kiện cho văn nghệ sĩ làm tròn nhiệm vụ phát hiện sự thật sâu sắc của cuộc sống. Lãnh đạo tốt là tuyệt đối không ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thật một cách hoàn toàn tự do ».

Sau khi đặt điều kiện như thế, ông tuyên bố: « Nếu lãnh đạo không tạo điều kiện ấy cho văn nghệ, thì “nó cũng tự tạo cho nó điều kiện ấy” và ông dứt khoát đòi: “Trả công việc lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ”. Cuối cùng, Trương Tửu kết luận :”Vận mạng của văn nghệ sĩ dài hơn vận mạng của đảng, dài hơn vận mạng của chế độ” ” văn nghệ sĩ là những chứng nhân về mọi hành động của Đảng trước tòa án lịch sử nghìn đời”.(Hồ sơ Trương Tửu).

Về việc tác gia Trương Tửu bị phê phán chung trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm những năm 1956-58, hiện đã có một số tư liệu được tập hợp, trong đó Trương Tửu được đề cập chung trong một số bài, đề cập riêng trong một số bài khác. Một số bài đang chú ý như:

– Cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam: Sách viết xong vào tháng bảy năm 1945, trước ngày Cách mạng tháng Tám xảy ra. Nhưng lại in ra vào ngày 10 tháng 9 năm 1945, sau ngày Độc lập 2/9 tám ngày. Do đó, trên Tạp chí Tiên phong của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Thanh Bình-bút danh nhà văn Đặng Thai Mai (3) (lúc này cũng chưa là giáo sư đại học) đã có bài “Phê bình tập sách Tương lai văn nghệ Việt Nam của Trương Tửu” đăng ba số liền: số 2 ra ngày 1.12.1945, số 3 ra ngày 16.12.1945 và số 6 ra ngày 16.2.1946. Bài phê bình khá “ráo riết” của Thanh Bình nhưng chưa gây khó khăn gì cho tác giả. Bởi sau đó, nhà văn Trương Tửu vẫn hòa nhập vào cuộc kháng chiến và được cách mạng trọng dụng, cùng với người đã phê bình mình trước đó – nhà văn Đặng Thai Mai – là đồng bí thư Đoàn văn nghệ kháng chiến Liên khu IV, và cùng được phong giáo sư đại học. Nhà văn Trương Tửu còn là giám đốc các lớp văn hóa kháng chiến ở Thanh Hóa, ủy viên ban chấp hành trung ương Hội văn nghệ Việt Nam (1948-56). Hầu như mọi người chẳng ai biết, và có biết cũng chẳng nghĩ gì về chuyện “Tương lai văn nghệ Việt Nam” của giáo sư Trương Tửu từng bị giáo sư Đặng Thai Mai phê bình trước đó nữa.

Nhưng đến năm 1958, trong phong trào chống Nhân văn – Giai phẩm, khi nhà văn-giáo sư Trương Tửu bị qui kết nặng nề thì “Tương lai văn nghệ Việt Nam” cũng bị gán cho cái tội “reo rắc chất men bất phục tùng và phản kháng chính thể dân chủ nhân dân”. (*)

– “Cuối cùng, như ở trên đã nói, đề cao Vũ Trọng Phụng, đề cao tác phẩm “Vỡ đê”, Trương Tửu có dụng ý đề quá cao vai trò của văn nghệ sĩ, hạ thấp vai trò của Đảng. Trương Tửu cố làm cho sinh viên hiểu rằng: “Vũ Trọng Phụng có chịu sự lãnh đạo của Đảng đâu, thế mà cũng là nhà văn hiện thực vĩ đại!” Như vậy, theo Trương Tửu, đúng là văn nghệ sĩ sáng suốt hơn Đảng, đứng trên Đảng, có thể “phát hiện sự thật toàn diện” hơn Đảng! Dụng ý của Trương Tửu trong lúc giảng dạy rất là thâm độc. Có thể nói Trương Tửu đã nhiều lần xuyên tạc giáo trình đề đầu độc tư tưởng của sinh viên. Chỉ qua việc giảng dạy, ta cũng đủ thấy phương pháp nghiên cứu văn học của Trương Tửu là phương pháp duy tâm chủ quan, thích ai thì khen, ghét ai thì chê, hoàn toàn theo ý muốn cá nhân của mình. Về thái độ chính trị thì đó là chủ nghĩa cơ hội, phản động, lợi dụng thời cơ để phất cờ, hôm nay nói thế này, mai nói thế khác một cách rất giáo giở. Với một lập trường chính trị phản động, thù địch với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, với những quan điểm văn nghệ tư sản lỗi thời, với một phương pháp giảng dạy hoàn toàn duy tâm chủ quan, cơ hội, chúng ta có thể kết luận rằng: trong mấy năm qua, Trương Tửu đã tỏ ra không xứng đáng một tý nào với cương vị giáo sư một trường Đại học của chế độ ta, một chế độ tốt đẹp đang tiến dần lên xã hội chủ nghĩa”. (Thái độ và phương pháp giảng dạy của TRƯƠNG TỬU : Phan Cự Đệ – Nguồn: (báo) Độc lập, Hà Nội, s. 354 (10.4.1958), tr. 3). Và bài viết phê phán cũng rất nặng của Bùi Huy Phồn (**): Trương Tửu, một tên phản cách mạng đội lốt mác xít // Tạp chí Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958 .

– Ngày 4- 6 Hội nghị Ban chấp hành Hội Liên hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống NVGP. Tố Hữu đọc báo cáo Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn- Giai Phẩm trên mặt trận văn nghệ (*). Bản báo cáo này là nhát gươm chính thức kết liễu số phận Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao phủ chứ không phải của một nhà thơ với đồng nghiệp của mình. Ông ta viết: Đường lối thứ hai, là đường lối văn nghệ của những phần tử phản động mà đại biểu là bọn cầm đầu nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm . Đó là đường lối làm đồi trụy văn nghệ sĩ, đường lối đen tối phản cách mạng.

– Ngày 7- 7 Thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia NVGP… Phan Khôi (***), Trương Tửu, Thụy An bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội Nhà Văn VN (*).

– Cần lưu ý loạt bài Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu, là trường hợp được đề cập hầu như muộn nhất, khi cao trào của đợt đấu tranh đã hầu như chấm dứt (tạm lấy mốc ở ngày 5/6/1958, Tố Hữu đọc báo cáo tổng kết), những quyết định hoặc khai trừ hoặc treo bút đối với những cá nhân cụ thể đã được tuyên bố. Hơn 3 tháng sau mới thấy loạt bài phê phán cuốn văn học sử này xuất hiện như một đợt công kích mới, đăng tải nhiều kỳ trên báo Văn học từ 25/9/1958 đến cuối năm 1958, với các bài của Vũ Đức Phúc (số 13, ngày 25/9/1958: Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu : Lợi dụng văn học để chống lại cách mạng, chống lại chế độ); của Nguyễn Kiến Giang (số 14, ngày 5/10/1958 và số 15, ngày 15/10/1958: Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu :Tuyên truyền thế giới quan duy tâm và phủ nhận thế giới quan tiến bộ, cách mạng trong lý luận và sáng tác văn học ); của Hồng Quảng (có người nói đây là bút danh của Hoàng Văn Hoan, một trong 2 cán bộ cao cấp nhất đặc trách chống Nhân văn – Giai phẩm), bài đăng các số 16, ngày 25/10/1958 (Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu: Quan điểm chính trị và học thuật của Trương Tửu về văn học cận đại và hiện đại Việt Nam); số 17, ngày 5/11/1958 (Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu (tiếp): Nội dung tư tưởng của văn học cận đại Việt Nam có phải căn bản là tư tưởng tư sản không?); và số 18, ngày 15/11/1958 (Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu (tiếp): Từ 1930 đến 1945 có xu hướng văn học của giai cấp công nhân không?), v.v…

Theo Trịnh Bá Đĩnh, ngay sau khi MVĐVHSVN ra mắt (tháng 12/1957) đã có một loạt bài của Vũ Đức Phúc, Nguyễn Kiến Giang, Hồng Quảng phê phán dữ dội nó trên báo Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam, từ số 13 đến số 17 vào tháng 10 – 11 cùng năm. Tác giả của nó bị lên án là “lợi dụng văn học để chống lại cách mạng, chống lại chế độ”, “tuyên truyền cho thế giới quan duy tâm và phủ nhận thế giới quan tiến bộ”…, bị những người phê phán xếp vào hàng ngũ xét lại như Vizma ở Nam Tư, Hồ Phong ở Trung Quốc. Họ công kích MVĐVHSVN ở những nội dung nào? Có hai điểm chính: 1/ Tính độc lập tương đối và sự kế thừa của văn học; 2/ Tính loại biệt của văn học. Xét từ quan điểm lí thuyết văn học của ngày hôm nay, ta lại thấy đây lại chính là hai điểm khả thủ nhất của Trương Tửu trong công trình này. (PHƯƠNG DIỆN LÍ THUYẾT CỦA “MẤY VẤN ĐỀ VĂN HỌC SỬ VN” CỦA TRƯƠNG TỬU – Trịnh Bá Đĩnh).

* * *

Nhận định về Trương Tửu có lẽ công minh nhất là người bạn thân cùng thời – nhà thơ Nguyễn Vỹ -, của Trương Tửu. Nguyễn Vỹ đã phác họa một chân dung văn học khá độc đáo về Trương Tửu: “Trương Tửu thuộc về loại nhà văn tự học, nhờ đọc sách nhiều. Có lẽ một phần nhờ trường Bách Nghệ huấn luyện, lại sẵn thiên tài Văn nghệ nên lí luận của anh rất đanh thép, câu văn của anh như búa, như kềm. Lời nói anh vang ra như tiếng đập sắt trên đe. Lúc nào cũng nẩy lửa, nghe lâu chát cả tai…”.

“Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lý luận. Lời nói của anh là một sản phẩm của máy móc, lý luận của anh là một dây chuyền ngôn ngữ phối trí chặt chẽ, liên kết mạch lạc, và rèn giũa với một nghệ thuật tinh vi tế nhị. Anh là một nhà hùng biện bẩm sinh. Với rất ít, anh xây dựng rất nhiều. Với một chấm nhỏ nảy ra từ hình thức của sự vật, anh kéo một đường thẳng tới ý tưởng vô cực. Anh là một nhà toán học chống giáo lý, đi tìm một bài toán cho nhân sinh, với những công thức do tự anh chế biến ra; không theo công thức điển hình nào cả. Và không bao giờ anh làm đúng, ít khi anh nói phải, nhưng luôn luôn anh có lý. Với anh, sai lầm chống chân lý, và luôn luôn sai lầm chống chân lý. Anh luôn luôn tự mâu thuẫn với anh một cách rất là hợp lý. Giả sử Trương Tửu mơ mộng một tí, thì những ý tưởng của anh sẽ đượm chút tinh hoa của lý trí thiêng liêng”.

“Ngoài thú đam mê đọc sách, viết văn… Trương Tửu không có một thú giải trí nào, không thích đánh cờ, không thích du lịch, không ưa xem phong cảnh. Anh cũng không uống rượu lu bù, say túy lúy như kiểu Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà). Trương Tửu có thương một cô thợ may, sau cưới làm vợ. Nhưng Tửu không có tình yêu tha thiết: ái tình của anh cũng là một hình thức của lý luận, một bài toán mà anh tìm giải đáp, thế thôi…”
(Văn thi sĩ tiền chiến, NXB Văn học, 2007, tr.221-223).

Giai đoạn 1940-1945, Trương Tửu là giám đốc văn chương nhà xuất bản Hàn Thuyên và ông cũng là linh hồn của nhóm Hàn Thuyên. Ông đã xuất bản những tác phẩm ký tên Nguyễn Bách Khoa gồm những cuốn: Kinh Thi Việt Nam (Hàn Thuyên, 1940), Nguyễn Du và truyện Kiều và Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Hàn Thuyên, 1944) là những công trình nghiên cứu phê bình, áp dụng phương pháp duy vật biện chứng. Giai đoạn ký tên Nguyễn Bách Khoa, gắn liền với nhóm Hàn Thuyên là một giai đoạn quan trọng trong sự nghiệp phê bình của Trương Tửu.

Nếu ở miềm Bắc sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, tên tuổi và tác phẩm của Trương Tửu bị loại trừ, thì ở miền Nam, ảnh hưởng Trương Tửu – Nguyễn Bách Khoa trong đại học rất lớn. Nguyễn Văn Trung trong bộ Lược Khảo Văn Học, Tập ba viết : “Nguyễn Bách Khoa là người đầu tiên và độc nhất đã đưa ra một quan niệm phê bình rõ rệt và áp dụng nó một cách có hệ thống, với một lối văn lôi cuốn. Chưa xét quan niệm phê bình mác- xít đúng hay không đúng. Chỉ xét về phương diện chủ thuyết và viết thành hệ thống hẳn hòi thì phải nhận là Nguyễn Bách Khoa thành công hơn tất cả những nhà phê bình trước ông và hiện nay (tức là năm 1968) cũng khó tìm ra một Nguyễn Bách Khoa khác. Do đó ảnh hưởng của Nguyễn Bách Khoa vẫn còn rất mạnh ở miền Nam hiện nay như Thanh Lãng đã nhận định: “Mấy cuốn phê bình của Nguyễn Bách Khoa, nhất là từ sau 47 trở đi, đã hầu như biến thành sách gối đầu giường cho thế hệ trẻ. Ở nhà trường, từ giáo sư cho đến học sinh, tất cả đều phê bình theo Nguyễn Bách Khoa. Một phong trào rộng lớn lan tràn” (trích Lược Khảo Văn Học, trang 192). Những lời trên đây của giáo sư Nguyễn Văn Trung cho thấy địa vị của Trương Tửu trong giới đại học miền Nam.

Điếu văn do GS Nguyễn Đình Chú đọc tại lễ truy điệu GS Trương Tửu tại Hà Nội ngày 19-12-1999 thật cảm động, có thể nói khiến cho “quỷ khốc thần sầu” – nó như một sự thức tỉnh lương tri, trong đó có đoạn: “ Thầy ơi! Cái vinh quang của Thầy còn là ở ngay trong cảnh ngộ vất vả, nhọc nhằn. Bởi dù cảnh ngộ có nhọc nhằn, Thầy bằng bản lĩnh và tài năng vốn có của mình, đã giữ lấy sự thanh thản, yên bình trong tâm hồn, để từ đó, vẫn tiếp tục sống có ích cho gia đình, cho nhân quần, cho cuộc đời. Không còn điều kiện cầm bút, Thầy đã cầm kim châm cứu để dành lại sự sống cho hàng vạn người dân lành. Không cầm bút viết văn thì Thầy cầm bút viết sách Đông y, sách Châm cứu để người đời ai biết thì tốt, chưa biết sẽ biết sau. Riêng chúng em, sau nhiều năm tháng thầy trò cách biệt, gặp lại Thầy, nghe Thầy trò chuyện, quả thật là rất mát lòng, mát dạ và vẫn thấy ðýợc Thầy dạy bảo nhý ngày nào. Thầy nhắc lại câu chuyện Ð
ường Tãng ði thỉnh kinh ở Tây Trúc sau bao nhiêu thời gian vất vả, thỉnh ðýợc kinh nhýng không may kinh bị mất, hỏng trang cuối do ðó cứ phải áy náy, bãn khoãn. Nhưng Tôn Ngộ Không ðã an ủi: Sư phụ ạ! Trời đất cũng có trọn vẹn đâu nữa là cuốn kinh. Và từ đó Thầy bảo với chúng em: Trời đất đã không trọn vẹn, huống gì mỗi chúng ta đều là những kiếp đời bé mọn. Chỉ biết hôm nay, đất nước đã đổi mới thì hẵng cứ vui với đổi mới, mà đổi mới là phải từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, chuyện cụ thể, chuyện soạn một bài giảng sao cho hay. Và mới đây chưa đầy một năm thôi, chúng em lại được nghe Thầy nói: cuộc đời tôi quả có nhiều bất hạnh, vất vả, nhưng tôi chưa bao giờ không kính trọng những nhà cách mạng đã vào sinh ra tử cho đất nước trong đó có tôi, gia đình tôi, mặc dù tôi thấy cách mạng cũng có sai lầm.Và lại mới đây chưa đầy một tháng, dù nói năng đã khó khăn lắm rồi, Thầy vẫn cố gắng nói với chúng em: cuộc đời tôi quả là có nhiều vất vả. Đến nay thì tôi cũng đã sắp từ giã cõi đời. Nhưng cũng mừng là không có gì phải tự xấu hổ với chính mình. Không có gì để phải gục mặt xuống với đời”.

Muộn còn hơn không! Việc nghiên cứu một cách bài bản CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP TRƯƠNG TỬU đã và đang được xúc tiến với tinh thần “lấy lại thời gian đã mất”! Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, thì vấn đề “Con người và sự nghiệp Trương Tửu” cần được tiếp tục triển khai theo 4 hướng sau:

– Một là những sáng tác tiểu thuyết và truyện của Trương Tửu. Theo Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn thì hiện đã sưu tập được bảy tác phẩm, còn bốn tác phẩm nữa chưa tìm thấy. Đấy đã phải là tất cả sáng tác văn học của Trương Tửu chưa? Giá trị của chúng đến đâu? Vì sao từng được coi là “cây bút tiểu thuyết có phong cách trong làng tiểu thuyết trước cách mạng” nhưng tiểu thuyết Trương Tửu lại ít được bàn tới?- Hai là các công trình nghiên cứu phê bình của Trương Tửu. Rõ ràng đây là mảng chính làm nên tư cách “học giả Trương Tửu”. Không thể phủ nhận Trương Tửu sớm có ý thức lý thuyết hóa hoạt động nghiên cứu phê bình. Là người “tôn thờ khoa học”, ông coi trọng phương pháp trong phê bình văn học, mạnh dạn ứng dụng một số triết thuyết mới mẻ mà ông tiếp nhận từ phương Tây vào việc phê bình tác giả, tác phẩm.Ông chủ động, tự tin đề xuất những quan niệm có tính tiên phong trong nghiên cứu văn học sử. Việc làm rõ những nguồn tư tưởng ảnh hưởng đến quan điểm học thuật của Trương Tửu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối khi đánh giá chỗ được, chỗ chưa được cũng như những mâu thuẫn trong các công trình khoa học của ông. Đọc nhiều bài ông viết cách nay hơn nửa thế kỷ, chúng tôi thực sự thán phục một trí tuệ uyên bác, chủ yếu bằng con đường tự học mà có thể tiếp cận được những lý thuyết rất hiện đại và cũng rất phức tạp về văn hóa, văn học rồi từ đó đề xuất được không ít ý kiến có giá trị “dẫn đường” cho khoa nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam trước 1945.- Ba là với tư cách nhà hoạt động xã hội, người sáng lập hay chủ trì những cơ quan văn hóa như Đại Đồng thư xã, nhà xuất bản Hàn Thuyên, người tham gia tổ chức Đoàn văn nghệ kháng chiến Liên khu 4, giáo sư văn học trong các nhà trường Đại học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là một nhân vật quan trọng trong sự kiện Nhân văn – Giai phẩm…, ảnh hưởng của ông như thế nào? Rất cần xem xét lại những sai lầm đã khiến ông phải chịu sự phê phán nặng nề suốt một thời gian dài, đồng thời làm rõ và trân trọng ghi nhận cống hiến của ông trong nỗ lực quảng bá văn hóa, xây dựng chương trình dạy và học môn văn ở nhà trường xã hội chủ nghĩa thuở sơ khai.- Bốn là về bản lĩnh, nhân cách, con đuờng số phận của một trí thức, một người thầy trong những tương tác cụ thể của thời thế, của truyền thống văn hóa.Hy vọng rằng việc nghiên cứu những trường hợp như Trương Tửu được làm tốt, bức tranh văn hóa – văn học Việt Nam thế kỉ XX sẽ trở nên phong phú, trung thực hơn, và chúng tôi tin rằng không chỉ có nhiều bài học hữu ích được rút ra về tư tưởng, tài năng, cá tính của các nhà văn, các học giả lớn, nhiều kinh nghiệm có giá trị cho hướng nghiên cứu xã hội học văn học… mà sâu xa hơn còn là vấn đề nuôi dưỡng niềm tin vào lẽ công bằng, tình yêu đối với chân lý khoa học… đủ để chúng trở thành động lực cho mỗi cá nhân đang khát khao tham gia vào sự tiến bộ chung của cộng đồng.

___________________________________________

Chú thích:

(*) Xin xem bài viết khá kỹ về vụ NV-GP qua bài viết của Thái Kế Toại: VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH – LÊ HOÀI NGUYÊN ( VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN CỦA ĐẠI TÁ CÔNG AN (bài chuẩn)Được đăng bởi nguyentrongtao vào lúc: 12:36 chiều ngày 20/09/2010 (22-09-10 | 07:23).

(**) Bùi Huy Phồn (1911 – 1990) là nhà thơ, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông có các bút danh: Đồ Phồn, Bùi Như Lạc, Cười Suông, Việt Lệ, Ấm Hai, Lý Ba Lẽ, BHP. Bùi Huy Phồn sinh tại Phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc của ông ở làng Liên Bạt, xã Mai Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Cha của Bùi Huy Phồn là một nhà nho, chi trưởng họ “Đại Bùi”. Ông thi cử không đỗ, bỏ làng phiêu bạt lên Bắc Giang làm thầy giáo. Trước năm 1940, gia đình Bùi Huy Phồn thuộc vào loại giàu có. Nhưng trong giai đoạn 1940-1945, gia đình ông bị phá sản và phải bán hết ruộng đất ở Phố Đầm để trở về quê gốc Ứng Hòa. Bùi Huy Phồn học chữ Hán hết chương trình tú tài và cũng thạo tiếng Pháp.

Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học, viết văn, làm thơ, cộng tác với các báo Hà Nội báo, Phong hóa, Tiểu thuyết thứ năm, Văn mới… Ông gia nhập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Bùi Huy Phồn từng là ủy viên Ban vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ ở Hà Nội, ủy viên chấp hành đoàn Văn hóa kháng chiến Bắc Bộ, chủ bút tuần báo Đây Việt Bắc (khu X), biên tập viên báo Cứu quốc khu X, Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa hai (1962-1972), đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội các khóa bốn, năm và sáu, ủy viên thường trực Hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Sau đó, ông nghỉ hưu, mất ngày 31 tháng 10 năm 1990 tại Hà Nội.

(***) Phan Khôi (1887-1959): Trương Tửu (1913-1999) kém Phan Khôi 26 tuổi. Từ đầu những năm 1930, Trương Tửu mới bước vào nghề báo thì Phan Khôi đã đang tung hoành trong làng báo khắp Ba Kỳ. Thời kỳ kháng chiến 9 năm, Trương Tửu hoạt động ở Liên khu IV, còn Phan Khôi ở Việt Bắc. Sau năm 1954, cả hai người cùng về Hà Nội. Rồi số phận đã đưa hai người gặp nhau, rồi cùng gặp nạn trong vụ Nhân văn-Giai phẩm và đầu năm 1958, cùng bị “buộc thôi việc”… xin xem “NGỰ SỬ VĂN ĐÀN” PHAN KHÔI – Bài viết ĐỖ NGỌC THẠCH

(1) Trương Tửu (1913 -1999): là nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học VN. Các bút danh khác: Nguyễn Bách Khoa, Mai Viên, T.T…Trương Tửu sinh trưởng trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô Gia Lâm (Hà Nội). Thời trai trẻ, ông học hết năm thứ nhất bậc trung học, rồi học trường Kỹ nghệ thực hành ở Hải Phòng, nghề thợ tiện, cùng trường lớp với Lê Văn Siêu (1/a) Nhưng chỉ được một năm rưỡi thì bị đuổi học (năm 1927), vì tham gia bãi khóa ở Hà Nội để đòi thực dân Pháp thả tác giả bài thơ Chiêu hồn nước Phạm Tất Đắc (1/b). Bị buộc rời trường, ông tự học chương trình Tú tài Pháp Việt. Từ những năm 1930, ông đã cộng tác với nhiều báo, như: Đông Tây tuần báo, Loa, Ích Hữu, Tiếng Trẻ, Hà Nội báo, Mùa gặt mới, Văn mới…

Từ năm 1941 đến 1946, Trương Tửu làm Giám đốc Văn chương (Tổng biên tập) NXB Hàn Thuyên, thuộc nhóm Hàn Thuyên (1/c). Thời kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Hội Văn hóa Việt Nam, chi hội phó Chi hội Văn hóa Thanh Hóa, tham gia bí thư đoàn liên đoàn Văn nghệ kháng chiến liên khu IV, dạy trường Thiếu sinh quân, trường Dự bị đại học…Sau hiệp định Genève 1954, ông hồi cư về Hà Nội, giảng dạy ở Khoa văn Trường đại học Sư phạm, Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1957, ông được phong chức danh Giáo sư, cùng đợt với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường…Đầu năm 1958, bị buộc thôi việc vì dính líu đến vụ Nhân văn giai phẩm. Sau đó, ông chuyển sang nghiên cứu y học và sống bằng nghề Đông y.

Tác phẩm chính đã in: Truyện ngắn, tiểu thuyết: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Khi người ta đói (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Trái tim nổi loạn (1940), Đục nước béo cò (1940), Một kiếp đọa đày (1941), Tráng sĩ Bồ Đề (1943), Năm chàng hiệp sĩ (1944)…Nghiên cứu, lý luận, phê bình Văn, sử học: Những thí nghiệm của ngòi bút tôi (1939), Uống rượu với Tản Đà (1938), Kinh thi Việt Nam (1940) (Kinh thi Việt Nam, sau ba tháng phát hành, sách bị Pháp cấm và rồi cái tên Trương Tửu cũng bị cơ quan kiểm duyệt gây khó dễ, nên ông phải đổi bút danh thành Nguyễn Bách Khoa), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943), Nhân loại tiến hóa sử (1943), Nguồn gốc văn minh (1943), Văn minh sử (1943), Nguyễn Công Trứ (1944), Văn chương Truyện Kiều (1944), Tương lai văn nghệ Việt Nam(1945)…Đại quan về 40 năm văn học Việt Nam hiện đại 1905-1945 (1948), Phương pháp phê bình văn học (1948), Văn nghệ bình dân Việt Nam (1952), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956), Chỉnh huấn là gì? (1956), Chống văn hóa nô dịch (1956), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (1958)…Trương Tửu – Tuyển tập nghiên cứuphê bình: Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh biên soạn, NXB Lao Động, 2007.

(1*) Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm và biên soạn, NXBLao động, H.2007. – 1088 tr. ; 16×24 cm): Đây là tập sách được biên soạn kỹ lưỡng nhất từ trước đến nay về Trương Tửu. Tập sách này, được chia làm ba phần:

Phần I: Các tiểu luận nghiên cứu, phê bình, chân dung tác gia văn học hiện đại đã in báo (Một quan niệm về văn chương, Văn chương Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam hiện đại, Những cái hay của thơ Tản Đà, Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại, Luân lý tư sản và ảnh hưởng của nó trong văn chương Việt Nam hiện đại…) .

Phần II: Các công trình nghiên cứu, tiểu luận chuyên sâu về văn học truyền thống dân tộc (Triết lý Truyện Kiều, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Văn chương Truyện Kiều, Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Kinh thi Việt Nam, Văn nghệ bình dân Việt Nam, Truyện Thạch Sanh, Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam…)

Phần III: Phụ lục các bài viết về Trương Tửu của các tác giả: Nguyễn Vỹ, Nguyễn Văn Hoàn, Trương Quốc Tùng, Nguyễn Đình Chú…

(1/a) Lê Văn Siêu (1912-1995): là Nhà văn, nhà báo, sinh ở thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ học ở Hà Nội, tốt nghiệp trường Công nghệ thực hành ở Hải Phòng, năm 1932 làm việc tại sở công chánh Hà Nội (Đốc công nhà máy gạch Đáp Cầu). Những năm 40 cộng tác với nhóm Hàn Thuyên của Nguyễn Đức Quỳnh, cùng Trương Tửu, Đặng Thái Mai… Viết báo Tiếng Trẻ và một số sách về thanh niên và thực nghiệp do nhà Hàn Thuyên xuất bản trước Thế chiến II. Năm 1934 – 1936 làm chánh văn phòng nghiên cứu kĩ thuật Sở Hỏa xa Hồ Nam – Quảng Tây (TQ). Khoảng các năm 1938-1944 ông chuyển về làm việc ở sở công chánh Hà Nội. Thời gian này ông hợp tác chặt chẽ với nhóm Hàn Thuyên viết các loại sách Tân văn hóa, giữ chức trưởng ban khánh tiết Hội truyền bá quốc ngữ Hải Phòng. Năm 1949 chuyển vào sống ở Sài Gòn với nghề thầu khoán, đến năm 1952 ông làm chủ bút báo Mới của Phan Văn Tươi, rồi tuần báo Phương Đông cho đến hiệp định Genève. Từ năm 1959 chủ bút các báo Cách mạng Quốc gia, nguyệt san Sáng dội Miền Nam. Năm 1967 ông được mời dạy một số giờ tại Đại học Vạn Hạnh, Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm ở Sài Gòn…

(1/b) Phạm Tất Đắc (1909 – 1935): quê làng Kim Dũng, tổng Công Xá, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Năm 18 tuổi khi là sinh viên trường Bưởi ở Hà Nội, ông tham gia kêu gọi việc bãi khóa để đưa tang nhà chí sĩ Phan Châu Trinh rồi nhà giáo Lương Văn Can. Hoạt động của ông khiến ông bị chính phủ Bảo hộ theo dõi. Sau đó ông cho in ra cuốn Chiêu hồn nước, một tập thơ với lời lẽ thống thiết dấy lên lòng yêu nước của người Việt trước cảnh nước nhà bị người Pháp đô hộ.

Với tập thơ đó, ông bị kết tội tuyên truyền “vận động có tánh chất làm rối sự an ninh công cộng và gây ra những sự rối loạn trầm trọng” rồi đem ra xử. Vì ít tuổi nên ông bị đem giam ở trại giáo hóa Trị Cụ ở thượng du cho đến khi 21 tuổi thì được thả. Vì bị giam lâu năm nên ông hay bệnh. Ông mất ngày 24 Tháng 4 năm 1935, khi mới lúc 26 tuổi.

(1/c) Nhóm Hàn Thuyên gồm những nhà văn, nhà phê bình, nhà biên khảo có khuynh hướng mác-xít như : Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Tế Mỹ, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Lạp, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Hải Âu, Lương Đức Thiệp và Trương Tửu-Nguyễn Bách Khoa.

Hàn Thuyên chủ trương canh tân đất nước bằng con đường khác hai nhóm đương thời. Không hoài cổ như Tri Tân, Hàn Thuyên đả phá quan niệm Khổng Mạnh. Cũng không theo con đường Âu hoá như Thanh Nghị, Hàn Thuyên chủ trương ‘đi tìm một triết lý mới về nhân sinh có lợi ích thiết thực cho cuộc sống hiện tại của quốc dân Việt Nam’ và qua tác phẩm của họ chúng ta thấy đó là triết học mác- xít. Hàn Thuyên lập nhóm Tân Văn Hóa, ra bán nguyệt san Văn Mới.

(2) Trần Đức Thảo (1917- 1993) là nhà nghiên cứu triết học Việt Nam, quê tại thôn Song Tháp, xã Châu Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tháng 11 năm 2008, đã đổi thành Song Tháp, Phường Châu Khê, Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1936, ông được nhận học bổng sang Paris, Pháp để thi vào trường Đại học Sư phạm Paris. Ông tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942). Năm 1952 ông về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1955, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông bị quy tội dính líu đến phong trào Nhân văn Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông thôi giảng dạy ở trường Đại học và làm chuyên viên nghiên cứu. Năm 1992, ông sang Pháp chữa bệnh kết hợp với nghiên cứu và mất tại Paris vào năm sau. Di hài ông được nhà nước đưa về an táng tại Khu A Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội. Năm 2000, ông được nhà nước VN truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội.

25,26,27-5-1958: “Ông Trần Đức Thảo tự kiểm thảo” (Đầu đề do báo Nhân Dân đặt ). Báo Nhân Dân số 25/5/1958, 26/5/1958,27/5/1958)

GS.Trần Đức Thảo đã viết bài cho báo Nhân Văn và tạp chí Giai Phẩm Mùa Đông. Là nhà triết học mác-xit, GS. Trần Đức Thảo ý thức đầy đủ về việc viết các bài báo ấy. Dưới giác độ triết học, Trần Đức Thảo đã phân tích vấn đề đó trong báo cáo gửi Trung ương ngày 20/1/1989, có tựa đề “ Về vấn đề Nhân Văn”(3). Ông viết như sau: “Nguyên nhân sinh ra báo Nhân văn trước hết là những sai lầm trong Cải cách ruộng đất và đặc biệt là trong Chỉnh đốn tổ chức. Cải cách ruộng đất chính sách là đúng nhưng cán bộ làm sai. Nhưng Chỉnh đốn tổ chức thì sai hoàn toàn vì không có chính sách gì hết. Ở đâu tiến hành Chỉnh đốn tổ chức thì ở đó cơ sở Đảng vỡ tan: một tai họa hoàn toàn vô lý, trái ngược, không thể nào bào chữa. Nói rằng Chỉnh đốn tổ chức là không có chính sách, thì điều ấy có nghĩa rằng Chỉnh đốn tổ chức không xuất phát từ ban lãnh đạo Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh và các vị lãnh đạo khác của Đảng ta không thể nào quan niệm rằng cán bộ phải xuất phát từ thành phần trong sạch.

Về 3 bài báo tự kiểm thảo trên báo Nhân Dân, Giáo sư Trần Đức Thảo viết: “Báo Nhân Văn, đã giải tán từ cuối năm 1956, thì đến sau tết năm 1958 tôi bị đưa ra kiểm thảo trong một bầu không khí “ai thắng ai” . Ba ngày liền tôi bị đả kích liên tục bằng những chuyện bịa đặt. Tôi không biết nói ra sao, vì trong tình cảnh tố đấu theo kiểu ai được ai thua, tức là “đấu lực”, thì không thể nhắc đến thực chất của vấn đề, là những gì đã xảy ra trong chỉnh đốn tổ chức, do sự thống trị thực tế của tư tưởng Mao Trạch Đông…vì không có cách gì nói thẳng, nên tôi đã phải nói chệch ra rằng tôi đã có tư tưởng “sợ cộng sản” . Cụ thể là tôi đã khiếp sợ trước những cuộc khủng bố hàng loạt của Staline…của việc vận dụng tư tưởng Mao Trạch Đông để ám thị cán bộ ta đàn áp tràn lan trong nội bộ và nhân dân ta. Và tất cả dưới lá cờ gọi là cộng sản.

Qua ý kiến trên đây, chúng ta thấy trong bối cảnh tố đấu năm 1958, GS. Trần Đức Thảo vẫn rất trung thực và có bản lĩnh khi trình bày những ý kiến của mình trong bản “tự kiểm thảo”…Trong bối cảnh hiện nay, nếu chúng ta đọc lại hai bài báo của GS. Trần Đức Thảo đăng trên báo Nhân Vănvà Giai Phẩm Mùa Đông, ta thấy tư tưởng của những bài báo ấy là trong sáng, mang tính xây dựng. Chính với sự trung thực và bản lĩnh khoa học đó mà ở giai đoạn sau Trần Đức Thảo đã có những cống hiến, sáng tạo lớn về triết học được cả thế giới công nhận.

Theo Phan Ngọc “Câu chuyện “Nhân văn – Giai phẩm” trong đó có nhóm giảng dạy 5 người (Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Phan Ngọc) tham gia đã bị trình bày không sát. Và Phan Ngọc viết: “Stalin (bí danh với nghĩa là “con người thép”) chết vào tháng 3 năm 1953. Ba năm sau, trong đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khơ-rút-sốp tố cáo ông đã thi hành một chính sách đàn áp, khủng bố, xuyên tạc lịch sử và tự đề cao mình. Tất cả chúng tôi đều đọc báo cáo này say mê và liên hệ nó với những điều quá đáng trong cải cách ruộng đất. Sau đó, chúng tôi còn đọc bài “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của Chu Dương [1] và hy vọng vào cuộc đổi mới. Do đó, các anh Trần Đức Thảo, Trương Tửu, thầy Đào Duy Anh, GS Nguyễn Mạnh Tường có viết một số bài về hướng này. Thực tình không ai nghĩ đến chuyện chống Đảng cả. Bài tôi viết “Văn học và tuyên truyền” nói tác dụng to lớn của văn học về mặt tuyên truyền nhưng tự nó khác tuyên truyền vì nó phải dành chỗ cho người đọc tự mình suy nghĩ. Bài này không đăng. Tình hình thực tế là thế. Không ngờ đây là một biện pháp của Mao Trạch Đông nhằm xúi giục trí thức Trung Hoa nói thẳng ý nghĩ của họ để trừng trị cho có cơ sở. Nhưng đường lối cách mạng Việt Nam nhẹ tay hơn: không ai bị giết, chỉ bị thôi việc. Tôi vẫn ở lại làm việc nhưng chuyển từ nghiên cứu sang phiên dịch cho đến khi về hưu năm 2000 khi tôi 75 tuổi”… . Anh đúng là nhà phê bình văn học đầu tiên của Việt Nam mà tôi biết được không đi con đường văn chương mà đi con đường phục vụ, tuy chữ này phải hiểu ngầm và dễ vấp váp, như chính anh đã vấp váp” (Một vài điều ít được nhắc lại về NHÀ PHÊ BÌNH TRƯƠNG TỬU – Phan Ngọc: Hồ sơ Trương Tửu).

(3) Đặng Thai Mai (1902-1984): còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Ông là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học VN; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học VN.


Sài Gòn, tháng 12-2010

Nguồn bài đăng : Newvietart.com









TRƯƠNG TỬU NHƯ MỘT TÁC GIA
VÀ NHƯ MỘT NHÂN VẬT VĂN HOÁ-LỊCH SỬ
CẦN ĐƯỢC TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
MỘT CÁCH BÀI BẢN


Tham luận tại Hội thảo về Trương Tửu (1913-1999)
tại khoa Ngữ văn Đại học sư phạm Hà Nội, 28/11/2008




1. Những năm gần đây thường gặp những hoạt động kỷ niệm, tưởng niệm dành cho những cá nhân nhất định, thường là những người hoạt động chính trị hoặc văn hoá, trong số đó có nhiều trường hợp là những người từng tạo ra và để lại những sản phẩm chữ viết, được gọi chung là tác gia. Để kỷ niệm thì phải huy động các chuyên gia tìm hiểu và viết các bài tưởng niệm, bài nghiên cứu về thân thế và “hành trạng”, − tức là hoạt động xã hội, chính trị, văn hoá, hoạt động sáng tác hoặc trứ thuật − của cá nhân con người ấy. Có thể nói, ở những trường hợp như vậy, hai chuyên ngành nghiên cứu của sử học và văn học gặp nhau trên cùng một đối tượng, tuy phạm vi quan tâm tìm hiểu có hơi khác biệt chút ít: sử học chú trọng nghiên cứu về nhân vật (lịch sử, văn hoá), văn học chú trọng nghiên cứu về tác gia.


Nếu lấy sản phẩm đích của nghiên cứu nhân vật ở sử học cũng như của nghiên cứu tác gia ở văn học là việc viết và xuất bản các cuốn sách tiểu sử, thì kết quả 2 ngành này của ta còn quá khiêm nhường: chừng như ở ta chưa có được công trình tiểu sử nào được coi là đạt chuẩn về bất cứ nhân vật người Việt đáng giá nào. (Tôi chưa nói đến khía cạnh đáng thất vọng khi mà một vài nhân vật xuất chúng người Việt chỉ mới hiện diện trước thế giới bên ngoài qua những cuốn tiểu sử của nhà nghiên cứu nước ngoài!). Nghiên cứu nhân vật của sử học ở ta thường mới chỉ dừng lại ở đôi ba nét phác hoạ cuộc đời một con người, còn nghiên cứu tác gia của văn học ở ta cũng thường chỉ mới nói tập trung xung quanh vài tác phẩm nổi bật của một tác gia. Vượt ra ngoài và bao trùm lên những nghiên cứu cụ thể về từng nhân vật, từng tác gia, hầu như chúng ta chưa hề thấy những quan tâm, dù mang tính khái quát lý thuyết hay khái quát những kinh nghiệm nghiên cứu ở khu vực đề tài này.


Phải chăng, đã đến lúc phát triển một cách có ý thức hơn đối với ngành nghiên cứu nhân vật và tác gia như một hội tụ ít nhiều liên ngành giữa sử học và nghiên cứu văn học?


2. Trường hợp Trương Tửu (1913-99), rõ ràng ông là một tác gia; các sản phẩm ngôn từ của ông khá nhiều và đa dạng, cho thấy ông là nhà nghiên cứu và nhà phê bình văn học, là tác giả của một số tác phẩm thể truyện; ta còn có thể chứng minh Trương Tửu là một lý thuyết gia về văn hoá học, xã hội học …; mặt khác, ông là người lập ra và chủ trì những cơ quan văn hoá như thư xã Đại Đồng, nhà xuất bản Hàn Thuyên, tạp chí Văn mới, vào những năm 1939-40; những năm 1955-57 ông là một trong số những tác giả chính làm nên hiện tượng Nhân văn – Giai phẩm, một sự kiện đã in một dấu vết không thể tẩy xoá trong lịch sử tư tưởng văn hoá Việt Nam những năm 1950-70; ở phương diện thứ hai này, Trương Tửu là một nhân vật hoạt động văn hoá, cần được sử học nghiên cứu như một nhân vật lịch sử.


3. Về tác gia Trương Tửu, từ cuối những năm 1980, một số tác phẩm của ông đã được đưa vào một số sách sưu tập hoặc hợp tuyển về văn học Việt Nam thế kỷ XX (ví dụ các bộ sách Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam 1900-1945, v.v…); hai soạn giả Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn đã biên soạn hai sưu tập tác phẩm Trương Tửu: 1/ Nguyễn Bách Khoa: Khoa học văn chương (Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu. - H. : Văn hoá Thông tin, 2003. - 538tr; 14x21 cm), 2/ Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm và biên soạn, H. : Lao động, 2007. – 1088 tr. ; 16x24 cm).


Tuy vậy, chưa thể nói là chúng ta đã làm đủ mức cần thiết để các lớp độc giả sau này có thể hình dung đầy đủ về hoạt động của tác gia Trương Tửu. Còn về nhân vật Trương Tửu thì các sưu tập tác phẩm trên chỉ cung cấp được một ít bằng chứng trong văn bản, trong khi đó, những điều cần thiết lại là những nghiên cứu mô tả về những hoạt động bên ngoài văn bản, bên trên văn bản, − điều này hiện vẫn rất hiếm thấy trên báo chí nghiên cứu.


4. Dưới đây, tạm lấy ước lệ: những gì có trong cuốn Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu phê bình (2007) là “đã biết”, những gì chưa có trong đó là điều ta “chưa biết” về Trương Tửu, tôi xin nêu một số nguồn tài liệu mà tôi tra cứu được hoặc do một số bạn sưu tầm được đã cung cấp cho tôi. Những điều này tất nhiên chỉ làm rõ thêm ít nét nữa cho tác gia Trương Tửu chứ không thêm được nét gì đáng kể cho nhân vật Trương Tửu.

4a. Trên tờ Ích hữu từ số 94 (8/12/1937), tức là khi Lê Văn Trương giữ vai trò directeur của tuần báo này, Trương Tửu cũng khởi đăng ở đây loạt bài có tiêu đề chung, nghe như một khẩu hiệu: “Phải xây dựng tư tưởng và văn chương Việt Nam trên những nền tảng mới” ; lần lượt là các bài: Một quan niệm về văn chương (s. 94); Kết án “Lạnh lùng” (s. 95, ngày 15/12/1937); Kết án “Đời mưa gió” (s. 97, ngày 29/12/1937); “Mấy vần thơ”… đau ngực (s. 98, ngày 5/1/1938); Thi sĩ của đau khổ (s. 104, ngày 16/2/1938); Thi sĩ của tình thương (s. 105, ngày 23/2/1938); Ông Thế Lữ và mục “Tin thơ” (s. 106, ngày 2/3/1938). Loạt bài này cho thấy Trương Tửu đã can dự vào cuộc xung đột giữa các nhà văn trong nhóm Tân Dân với nhóm Tự Lực, và loạt bài nói trên chừng như đã ngừng lại (ở số 106), có thể vì phản ứng của nhóm Tự Lực, trước khi tuần báo này ra số cuối cùng (ở số 110, ngày 30/3/1938).

4b. Xung quanh tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên:

Việc tìm hiểu tờ tuần báo “Bắc Hà” (xem: Lại Nguyên Ân: Một tờ tuần báo, mấy nhóm thơ văn // Nghiên cứu văn học, s. 2/2008, tr. 102-119) cho thấy từng có một cuộc đối đáp của Chế Lan Viên với Trương Tửu khi tập thơ đầu tay của Chế ra đời. Hiện nay mới chỉ tìm được văn bản bài của Chế nhan đề Ông Trương Tửu cãi lại ông Trương Tửu đăng ở mục “Chiến địa” của Bắc Hà số 12 (26/3/1938), đây là bài của tác giả Điêu tàn trả lời 2 bài của họ Trương: một bài nhan đề Quan niệm về thơ Chế Lan Viên, bài kia nhan đề Thi sĩ của Điêu tàn (chưa rõ từng bài đăng ở đâu, có thể một đăng ở Ích Hữu của Lê Văn Trương, một đăng ở tờ Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Thảo ở số 7 Hội Vũ, nơi Nguyễn Vỹ, Lê Thanh làm biên tập viên); theo giọng điệu của tác giả Điêu tàn thì nhà phê bình Trương Tửu đã tự mâu thuẫn khi khen thơ trong tập Điêu tàn nhưng lại công kích quan niệm về thơ mà tác giả Điêu tàn tuyên ngôn ở đầu tập thơ, cũng là tuyên ngôn chung cho Trường Thơ Loạn. Qua bài của Chế, ta còn được biết rằng chính Hàn Mặc Tử cũng đã trả lời Trương Tửu bằng một bài cũng với nhan đề mà Chế đã mượn dùng để đặt tên bài trả lời họ Trương.

Như vậy, có một mảng Trương Tửu phê bình thơ, va chạm về quan niệm với các nhà thơ mới đương thời, mà chúng ta chưa biết.

4c. Một chùm bài phê bình trên báo “Quốc gia”:

Trên tờ “Quốc gia” (Hà Nội, 1938) Trương Tửu viết một loạt bài phê bình dưới nhan đề chung: “Đi tới một nền văn chương tranh đấu”; những bài đã được biết là: Văn chương lãng mạn ở xứ ta (Quốc gia, số 1, ngày 9/9/1938), Cái buồn lãng mạn và các thi sĩ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Nguyễn Vỹ… (Quốc gia, số 3, ngày 23/9/1938). Ngay sau đó Lưu Trọng Lư đã lên tiếng (Thi sĩ Lưu Trọng Lư cũng nhận có văn chương tranh đấu, nhưng…// Quốc gia số 4, ngày 30/9/1938). Người ta biết, báo Quốc gia bị đình bản ngay sau số 4 và bị đưa ra truy tố (xem: Nguyễn Nhất Lang: Vụ báo “Quốc gia” bị truy tố // Thời vụ, ngày 16/12/1938) nên loạt bài này bị dừng lại ở đó.

4d. Về các tác phẩm thuộc các thể tài khác nhau mà Trương Tửu từng viết nhưng hầu như chưa được nhắc tới, có thể kê ra những tác phẩm sau (theo dữ liệu của Thư viện Quốc gia, Hà Nội):


A/ Loại sáng tác:

- Thanh niên S.O.S. (Tiểu thuyết, In lần 2. - H. : Minh Phương, 1937. - 154tr.)

- Một chiến sĩ (tiểu thuyết, - H. : Minh phương, 1938. - 165tr.)

- Đục nước béo cò (Tiểu thuyết, H. : Nxb. Minh Phương, 1940, 41tr. ; 19cm. Tủ sách "Mọi người yêu")

- Một cổ đôi ba tròng ( H. : Tân Việt, 1940. - 74tr.)

- Một kiếp đoạ đày (H. : Hàn Thuyên xuất bản cục, 1940. - 160tr ; 19cm.)

- Khi chiếc yếm rơi xuống (Tiểu thuyết, - H. : Impr. Minh Phương, 1940. - 44tr.)

- Trái tim nổi loạn ( H. : Văn Thanh, 1940. - 165tr.)


B/ Loại nghị luận:

- Những thí nghiệm của ngòi bút tôi (H. : Đại Đồng thư xã, 1939, 36 tr ; 21cm)

- Nhân loại tiến hoá sử (H. : Impr. Hàn Thuyên, 1943. – 206 tr.)

- Nguồn gốc văn minh (H. : Impr. Hàn Thuyên, 1943. – 192 tr.)

- Văn minh sử yếu lược (H. : Hàn Thuyên, 1944. – 183 tr. - Tân văn hoá)

- Tương lai văn nghệ Việt Nam (H. : Impr. Hàn Thuyên, 1945. – 105 tr.)

- Văn nghệ bình dân Việt Nam (Tiểu luận, - Kđ : Hợp tác xã Văn hoá mới, 1951. 162 tr.; 19cm.)

- Văn hoá nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ (H.: Minh Đức-Thời đại, 1955. – 91 tr ; 10cm. - Loại sách tìm hiểu)

- Chỉnh huấn là gì (H. : Nxb. Minh Đức-Thời đại, 1955. - 84tr ; 17cm. - Sách tìm hiểu)

- Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (H. : Xây dựng, 1958. – 252 tr ; 19cm)


4e. Về việc cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam (1945) cuả Trương Tửu bị Thanh Bình (tức Đặng Thai Mai) phê phán trên bán nguyệt san Tiên phong của Hội Văn hoá Cứu quốc (số 2, ngày 1/12/1945, tr. 7 - 9; số 3, ngày 16/12/1945, tr. 8 - 10; số 6, ngày 16/2/1946, tr. 19 - 22) tuy là sự tiếp tục của những va chạm đã có từ những năm 1930s giữa các khuynh hướng tiếp nhận tư tưởng Mác-xít khác nhau ở Việt Nam, song lại cũng có thể coi như là biểu hiện đầu tiên của các xu hướng toàn trị hoá và chống toàn trị hoá trong tư tưởng văn hoá ở Việt Nam kể từ đầu thời kỳ vừa giành được độc lập dân tộc. Sự va chạm này hoặc chỉ mới được đề cập khá phiến diện như là việc chống tư tưởng “phản động”, “tờ-rốt-kít”, … chứ chưa được phân tích như sự tiếp nhận khác nhau đối với tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và văn hoá xã hội chủ nghĩa.

4f. Về việc tác gia Trương Tửu bị phê phán chung trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm những năm 1956-58, hiện đã có một số tư liệu được tập hợp, trong đó Trương Tửu được đề cập chung trong một số bài, đề cập riêng trong một số bài khác, điều này sẽ cần thống kê riêng. Ở đây tôi chỉ lưu ý đến loạt bài Phê phán “Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam” của Trương Tửu, là trường hợp được đề cập hầu như muộn nhất, khi cao trào của đợt đấu tranh đã hầu như chấm dứt, những quyết định hoặc khai trừ hoặc truy tố hoặc treo bút đối với những cá nhân cụ thể đã được tuyên bố. Loạt bài phê phán cuốn văn học sử này đăng nhiều kỳ trên báo Văn học từ 25/9/1958 đến cuối năm 1958, với các bài của Vũ Đức Phúc (số 13, ngày 25/9/1958), Nguyễn Kiến Giang (số 14, ngày 5/10/1958 và số 15, ngày 15/10/1958), Hồng Quảng (có người nói đây là bút danh của Hoàng Văn Hoan/?/, bài đăng các số 16, ngày 25/10/1958, số 17, ngày 5/11/1958, và số 18, ngày 15/11/1958), v.v…


5. Như vậy, đối với việc nghiên cứu Trương Tửu (như tác gia và như nhân vật), theo tôi, việc cần thiết hiện nay là:

– tiếp tục sưu tầm văn bản các tác phẩm đã từng đăng báo và in sách của tác giả này,

– lập niên biểu hoạt động của nhân vật này, chi tiết hoá thời điểm viết và công bố các tác phẩm thuộc các thể tài,

– đặc biệt lưu ý quan sát tương quan giữa các hành động ngoài văn bản với nội dung bên trong văn bản các loại tác phẩm, phác hoạ một (hoặc những) tiến trình tư tưởng của tác gia này.


Tất nhiên điều vừa phác ra trên đây có dụng ý bao quát toàn bộ tác gia này, nhân vật này; những nghiên cứu ở các phương diện khác có thể không lệ thuộc nhiều vào sự nắm bắt toàn bộ kể trên, nhưng hẳn cũng sẽ được lợi ít nhiều từ sự bao quát toàn bộ này.


Cái đích nhắm tới cuối cùng của nghiên cứu văn học chung quanh tác gia Trương Tửu là những phân tích đánh giá về đóng góp của tác gia này vào sự phát triển của văn học Việt Nam, là việc biên soạn những vựng tập tác phẩm Trương Tửu ở các cấp độ: sưu tập chuyên đề, tuyển tập, toàn tập… Cái đích đến cuối cùng của nghiên cứu sử học về nhân vật Trương Tửu cũng là những phân tích đánh giá công lao cuả nhân vật này, tác gia này vào khoa học, văn hoá, văn học Việt Nam, và nhất là viết ra và công bố được những cuốn sách có chất lượng tốt về tiểu sử cuộc đời hoạt động mọi mặt của nhân vật Trương Tửu.


Để đi tới đích đó, tôi nghĩ là cần triển khai một tiếp cận nghiên cứu bài bản và toàn diện. Từng loại công việc cụ thể cần được khai triển bằng những dự án, và cần tìm cho các dự án ấy những khoản tài trợ cần thiết để có thể tiến hành. Có thể tìm tài trợ từ các nguồn từ ngân sách (nhà nước), nhưng với trường hợp Trương Tửu, thiết nghĩ cần chủ yếu tìm các nguồn tài trợ từ kinh phí dân doanh. Tuy vậy, tôi đề nghị khoa Ngữ văn của Đại học sư phạm Hà Nội hoặc một nhóm chuyên gia của khoa cần phải chủ trì đề tài về tác gia và nhân vật này.

1/9/2008









Giáo sư – nhà văn Trương Tửu: Người “Kiêu khích” văn đàn

KIỀU MAI SƠN


Vanvn- Với lối phê bình được cho là theo tinh thần khách quan và khoa học, những năm 1930, Trương Tửu vẩy bút làm mưa gió trên văn đàn, qua các bài phê bình đầy “kiêu khích”.

Cuộc gặp gỡ với Lan Khai (người phụ trách Tạp chí Tao Đàn) đã khẳng định tên tuổi Trương Tửu thành người “cầm cân nảy mực” trên văn đàn và báo chí thời bấy giờ.

Trương Tửu viết phê bình Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Vàng và máu của Thế Lữ,… Áp dụng phương pháp phê bình khoa học, khách quan trong phân tích và đánh giá sự kiện, hiện tượng; vận dụng lý thuyết khoa học của các chuyên ngành như tâm lý học, xã hội học, di truyền học,…

Trương Tửu đã viết: “Ông Thế Lữ để cảnh sắc xúc động giác quan nhưng biết tự chủ, không bị cuốn vào thiên nhiên. Trái lại, ông Lan Khai mê đắm cảnh vật như mê một tình nhân. Ở Thế Lữ cái rung động của giác quan truyền lên trí não nên ông tả được bình tĩnh; ở Lan Khai nó truyền vào tâm nên ông tả mung lung hồi hộp”.



Giáo sư – nhà văn Trương Tửu (1913 – 1999)


Lối phê bình của Trương Tửu đối lập hẳn với lối phê bình cảm thụ truyền thống dựa vào trực giác chủ quan mà như Hoài Thanh tuyên ngôn “lấy hồn ta để hiểu hồn người”.

Lối phê bình mới mẻ của họ Trương đã bị chỉ trích từ nhiều phía. Tuy nhiên, theo thời gian, phương pháp phê bình khoa học của Trương Tửu (tất nhiên ban đầu có phần thô sơ và dần dần được tác giả điều chỉnh, hoàn thiện, nâng cấp) đã có chỗ đứng trong lịch sử lý luận phê bình với những công trình để đời như Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (1958).

Tiếc rằng, trước một biến cố của cuộc đời, ông phải đột ngột chia tay với văn chương để rẽ ngoặt sang một hướng đi khác.

Một dấu son khá đặc biệt trong tiểu sử Trương Tửu, đó là ông là một trong số 29 vị giáo sư được phong đợt đầu tiên của Hội đồng Giáo dục Quốc gia (năm 1956).

Bằng kiến thức thực học của mình (tuy chỉ có bằng trung học), ông được ngang hàng với những vị giáo sư khác đã được đào tạo tại Trường Cao đẳng Sư phạm của Pháp như Đặng Thai Mai, thậm chí cả những vị tiến sĩ, thạc sĩ của Pháp đào tạo như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Ngụy Như Kontum, Lê Văn Thiêm… Đúng là đã có một thời trí thức thực học quyết định trong việc sử dụng nhân tài, còn văn bằng chỉ là thứ yếu.

Tự học để chiếm lĩnh đỉnh cao trong khoa học là con đường gắn bó với Trương Tửu ngay từ thuở thiếu thời. Sinh ngày 18.11.1913 trong một gia đình dân nghèo thành thị, tuổi trẻ Trương Tửu theo không khí sục sôi yêu nước đòi thả cụ Sào Nam Phan Bội Châu (1925), để tang cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh (1926).

Đang học năm cuối cùng ở Trường Tiểu học Hàng Than, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bài thơ Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc: “…Vạch trời thét một tiếng vang/ Cho thân tan với giang san nước nhà…”, Trương Tửu tham gia rải truyền đơn kêu gọi học sinh bãi khoá. Ngay lập tức cậu bị đuổi khỏi trường.

Trương Tửu vào học trường tư thục Trung học Trương Minh Sanh để có tấm bằng. Nhỏ con nhưng thông minh xuất sắc, Trương Tửu thường thi đua đứng đầu lớp về Quốc văn và Pháp văn với Lê Sĩ Quý – về sau có tên tuổi trong làng báo, viết phê bình với bút danh Thiếu Sơn.

Rồi Trương Tửu học nghề thợ tiện (tourneur) ở Trường Kỹ nghệ thực hành ở Hải Phòng. Học được một năm rưỡi, Trương Tửu bị đuổi học vì tham gia cuộc vận động anh em cùng trường bãi khoá, phản đối Ban Giám đốc nhà trường (đứng đầu là Cambolive) phải cho học tiếp môn lý thuyết về kỹ thuật.

Một lần nữa, bằng quyết tâm tự học thật kiên trì, mãnh liệt đến dữ dội, Trương Tửu học xong trung học. Theo thời gian, vốn tri thức dày dặn thêm thành tầng, thành vỉa.

Tham gia giảng dạy ở các trường Dự bị Đại học và Sư phạm Cao cấp Liên khu IV, Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Tổng hợp (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội ngày nay), Trương Tửu có một lớp học trò sáng danh trong khoa học xã hội ngày nay: Nhà phê bình văn học Văn Tâm, Phó giáo sư Ninh Viết Giao (Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật), Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng

Đường kiếm đầu tiên – Đường kiếm bậc thầy

Trong một cuộc trò chuyện song đôi, Nguyễn Mạnh Tiến – chàng du tử của Những đỉnh núi du ca – Một lối tìm về cá tính H’Mông, và tôi, đã cùng bình luận về công trình đầu tay của Trương Tửu – Kinh thi Việt Nam. Chúng tôi coi Kinh thi Việt Nam là đường kiếm bậc thầy của Trương Tửu.

Nặng lòng yêu dân tộc Trương Tửu mới viết nên Kinh thi Việt Nam, một viên ngọc quý bị lấp giữa cát bụi dân gian. Kinh thi của Trung Hoa xưa do Khổng Tử san định với câu nói nổi tiếng “bất học thi vô dĩ ngôn” (không học Kinh thi lấy gì mà nói).

Bộ sách Kinh thi Việt Nam sau ba tháng phát hành bị cơ quan kiểm duyệt thực dân Pháp tịch thu và rồi cái tên Trương Tửu cũng bị Pháp cấm, nên ông phải đổi bút danh thành Nguyễn Bách Khoa. Kinh thi Việt Nam có chỗ đứng riêng – một đỉnh cao riêng biệt. Đối với nghiên cứu văn học ở Việt Nam, Kinh thi Việt Nam có tầm vóc lớn với tương quan thành tựu nghiên cứu trong nước và đương thời.

Nguyễn Mạnh Tiến bình luận trong chủ đề chủ nghĩa dân tộc lãng mạn – trưng dụng các thành tố folklore mà nhất là các bài ca dân gian để định dạng bản sắc dân tộc Việt Nam vốn phổ biến đầu thế kỷ XX và cả sau này, thì: “Kinh thi Việt Nam là cuốn sách tốt nhất được viết bằng tiếng Việt. Còn Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam của Nguyễn Văn Huyên là cuốn sách tốt nhất được viết bằng tiếng Pháp”.

“Kiêu khích” Trương Tửu

Với học thuật tiếng Việt, nhất là nghiên cứu văn chương, Trương Tửu bao trùm ảnh hưởng trong học giới ngót một thế kỷ, sự ảnh hưởng không chỉ người ta kế thừa các quan điểm của ông, mà đáng chú ý, là người ta còn phản bác các luận điểm thường rất “kiêu khích” trong học thuật Trương Tửu.

Miền Bắc, sau năm 1960, có Văn Tân – Nguyễn Hồng Phong, Hồng Chương, Phan Cự Đệ… Miền Nam, trước năm 1975, có Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung… Mạch ngầm nghiên cứu về Trương Tửu sau 1975 vẫn âm thầm và bất ngờ trỗi dậy ở Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn.

Trong cơn lốc của thời đại, giữa sương mờ và bụi bặm trên chuyến xe bão táp ông đã đi qua, Trương Tửu – người trí thức tỉnh táo và sáng suốt vẫn giữ nhân cách và phẩm hạnh. Những năm cuối đời, gặp lại học trò, ông vui với không khí đổi mới của đất nước.

Ông tâm sự rằng: “Không khí đổi mới cũng phải có quá trình. Trong quá trình đổi mới ấy, cái tâm mình không dự vào đấy thì vui làm sao được. Cái tâm mình dự vào đấy thì bấy giờ mới thật là vui được”.

Ông hồ hởi nói chuyện về Tây Du Ký. Giọng ông còn sang sảng như đứng trên bục giảng: “Trời đất còn không có cái gì trọn vẹn nữa là chúng ta. Hay quá! Hay quá! Không có gì trọn vẹn cả. Chúng ta cũng thế thôi vì chúng ta là những con người nhỏ mọn, yếu hèn trong cuộc đời này. Miễn là sau khi mặt mình nhọ rồi, cơn mưa đến, ra mà rửa, chỉ thế thôi…”.

Trong toán học, số học là một lĩnh vực mà sự chính xác, sự chắc chắn ngự trị, ở trên mảnh đất vững chắc đó các khẳng định nói ra hoặc là đúng hoặc là sai. Nhưng đột ngột có một cú hãm phanh dòng suy nghĩ quen thuộc của mọi người.

Năm 1932 với định lý của Godel: “Mọi lý thuyết và cụ thể là số học, có những khẳng định mà người ta không thể chứng minh cũng như không thể bác bỏ”. Nói một cách khác, giữa hai phạm trù của cái đúng và cái sai, còn có phạm trù của cái “không thể quyết định được”.

Tôi thích nhất là đoạn “giữa cái đúng và cái sai, còn có cái không thể quyết định được”… Trương Tửu là người luôn tạo ra những vấn đề gây nhiều thảo luận không chấm dứt được, không thể nói là đúng mà cũng không thể nói là sai.

Các bộ Tuyển tập nghiên cứu phê bình (2007), Tuyển tập văn xuôi (2009) và Tuyển tập văn hóa (2013) của Giáo sư – nhà văn Trương Tửu lần lượt đưa các tác phẩm “kiêu khích” trở lại với bạn đọc.

Trương Tửu còn trở lại với công chúng qua các hội thảo Kỷ niệm 95 năm ngày sinh (2008) do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức, 100 năm ngày sinh (2013) do Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức, cùng Giải thưởng thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội tôn vinh Trương Tửu năm 2014 với số phiếu tuyệt đối của Hội đồng xét giải.

KIỀU MAI SƠN




Bài viết của Đỗ Lai Thúy



TS Nguyễn Thị Bình



Phan Ngọc



Hoài Nam





Phan Cự Đệ



Ngô Thế Thinh



Lại Nguyên Ân



Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn




Nguyễn Đình Chú



Lê Hoài Nguyên
Nguyên Đại tá công an, công tác tại A25. 


Cuối 1954, hòa bình được lập lại sau chín năm chiến tranh. Trương Tửu cùng các đồng nghiệp trở về Hà Nội tiếp quản Đại học Hà Nội. Trước thời điểm này, năm 1953 ông đã được bổ nhiệm làm Giáo sư ở Trường dự bị đại học tại Thanh Hóa. Năm 1956 Ông được phong hàm Giáo sư cấp II giảng dạy về Lý luận văn học và Lịch sử văn học Việt Nam hiện đại ở Đại học Văn Khoa và sau là Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm Hà Nội.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam 1954-1955 hết sức phức tạp. Hai chế độ cùng tồn tại trên hai miền lãnh thổ nhưng còn đan xen vào nhau. Về hình thức thì hòa hoãn, hợp tác việc thi hành Hiệp định Giơ ne vơ, chuyển giao quản lý lãnh thổ, tập kết người từ Nam ra Bắc, di cư người từ Bắc vào Nam theo điều khoản tự nguyện cư trú của hiệp định dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế.

Tại miền Bắc, chế độ xã hội mới được thiết lập nhưng tại Hà nội và các đô thị buổi đầu cuộc sống vẫn giữ hình thái sinh hoạt theo Hiến pháp nước VNDCCH 1946, tự do tư tưởng ít nhiều được bảo đảm đối với trí thức và các hoạt động truyền thông xuất bản, văn nghệ… Tuy nhiên sự áp dụng mô hình quản lý của chế độ mới như đăng ký hộ khẩu, cải tạo tư sản, mậu dịch và sự thiếu thốn lương thực, hàng hóa, thực phẩm đã gây ra tâm lý căng thẳng trong dân chúng, cả cán bộ, bộ đội..

.Trong cán bộ, bộ đội mà sau này một bộ phận đáng kể bị tác động bởi luồng gió cải cách dân chủ từ Liên Xô, Trung Quốc đang tìm cách thoát khỏi bế tắc tư tưởng do áp lực của chủ nghĩa Mao đang tăng dần lên từ giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Hết chỉnh huấn thì cuộc Cải cách ruộng đất đợt 5 lại được triển khai làm cho tâm lý người dân và xã hội càng căng thẳng. Trong những chuyển biến xã hội đáng chú ý nhất là bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ nhạy cảm đang hy vọng có sự đổi mới cho việc xây dựng một hình thái xã hội ( dân chủ cộng hòa trong thời bình ) cởi mở thoải mái hơn về tư tưởng, về sáng tạo văn nghệ…

Cái cửa mở sáng này không phải tự số trí thức văn nghệ sĩ nghĩ ra. Nó là ý muốn lành mạnh của của Đảng, của nhân dân muốn khắc phục các di hại do những sai lầm ấu trĩ về lãnh đạo của giai đoạn trước gây ra, đưa miền Bắc vào một thời kỳ xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, dân chủ cho nhân dân. Đó là nội dung các Báo cáo của Bộ chính trị và Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 9, thứ 10 họp trong tháng 4 và tháng 8 năm 1956 có nhiều ảnh hưởng tư tưởng dân chủ của Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Liên xô lần thứ XX với các chủ đề chống chủ nghĩa sùng bái cá nhân, mở rộng dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ…( 1)

Nhưng niềm hy vọng đã nhanh chóng trở thành thất vọng do sự bảo thủ, trì trệ của bộ máy và trở thành phản ứng dây chuyền hình thành trào lưu tư tưởng dân chủ rộng khắp mà điểm tập trung là Nhân Văn- Giai Phẩm.
Vốn là một trí thức có cá tính mạnh luôn luôn chú ý đến các vấn đề phương pháp luận tư tưởng và phương pháp luận phê bình nghiên cứu văn học lại đang hoạt động trong tâm điểm của bộ phận nhạy cảm đó, dĩ nhiên Trương Tửu nổi lên như là một điểm sáng. Do thực sự là một tín đồ nhiệt thành của chủ nghĩa Mác xit Trương Tửu nôn nóng muốn khắc phục các khuyết điểm trong phương pháp thực hiện nó, những lệch lạc trong kháng chiến, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhằm mang lại một không gian rộng rãi hơn cho cuộc sống của trí thức, văn nghệ sĩ cũng như toàn bộ người dân…

Chúng ta hãy xem ông đã thể hiện tư tưởng và hành động như thế nào.
Ông đã cho xuất bản các cuốn sách và bài viết như sau :
Chỉnh huấn là gì?. Nxb Minh Đức 1955. 
Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ. Nxb Minh Đức 1955.
Thế nào là văn hóa nô dịch. Nxb Minh Đức 1955.
Thế nào là văn hóa tiến bộ. Nxb Minh Đức 1955.
Cả 4 cuốn này là loại sách tìm hiểu chính trị phổ thông cho nhân dân tự học.
Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du. Nxb Xây dựng Hà Nội 1956.
Giới thiệu tiểu thuyết Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng trong sách Vũ Trọng Phụng với chúng ta. Nxb Minh Đức 1956.
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ. Giai phẩm mùa thu tập II tháng 9-1956.
Văn nghệ và chính trị. Giai phẩm mùa thu tập III tháng 11-1956, Giai phẩm mùa Đông tập I tháng 12-1956.
Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam. Nxb Xây dựng Hà Nội 1958.
Về mặt giảng dạy tại hai trường đại học Tổng hợp và Sư phạm 
ông tiếp tục giảng dạy hai giáo trình cơ bản là Văn học Việt Nam từ 1858 đến 1955 và Khoa học phê bình văn học.
Trong sổ tay ghi chép còn lại thấy ông đang triển khai đề cương các bài viết về Văn nghệ và hiện thực(1957), Văn học phản ánh hiện thực (1957), Những đặc điểm của văn học giai đoạn 1930-1945(1957), Năm 1919 mở đầu thời hiện đại lịch sử văn học Việt Nam (1957), Nguyễn Trãi và vấn đề Gia huấn ca (1957)…

Vào tháng 5-1956 Ông cùng đoàn giáo sư Đại học Sư phạm, Văn khoa tham quan các trường đại học lớn của Trung Quốc như Đại học Tổng hợp, Đại học sư phạm Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu nhằm nghiên cứu cách tổ chức và giảng dạy đại học. Ngày 23-5-1956 ông phát biểu trên Đài phát thanh Bắc Kinh nhận xét về công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học Trung Quốc. Lúc đó văn nghệ sĩ và trí thức trung Quốc còn đang được hít thở bầu không khí Trăm hoa đua nở – Trăm nhà đua tiếng và chính sách đổi mới đối với trí thức qua bài phát biểu của Chu Ân Lai nên ông phát biểu trên Đài phát thanh Bắc Kinh : Các nhà lãnh đạo văn hóa ở Trung quốc đã nắm được quy luật phát triển của khoa học : Đó là sự tự do tìm tòi. Tự do tư tưởng, tự do tranh luận trên cơ sở kết hợp lý thuyết với thực tế cách mạng. Về văn nghệ, Đảng cộng sản đã nêu cao khẩu hiệu : Trăm hoa đua nở ( bách hoa tề phong). Về khoa học Đảng lại đề ra khẩu hiệu : Bách gia tranh minh (trăm nhà đua tiếng ). Mọi tài năng ý kiến ấy nhằm mục đích : phục vụ nhân dân kiến thiết xã hội chủ nghĩa. Mọi tài năng đều được phát biểu. Trên con đường đi tìm chân lý để phục vụ nhân dân, không có một uy quyền độc tôn nào có thể đàn áp sự tự do tư tưởng của nhà nước.(2)

Trương Tửu còn để lại bản thảo Bản kiểm điểm do tổ chức yêu cầu viết về việc tham gia phong trào (3) Nhân Văn- Giai Phẩm trước khi nghỉ dạy học. Bản này không được công bố trên báo chí.
Qua các hoạt động trí thức, bài viết, tác phẩm…khuynh hướng tư tưởng cơ bản của Trương Tửu là :
– Về mặt tư tưởng khoa học trên cơ sở áp dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin về văn hóa văn nghệ và đường lối văn nghệ của Đảng LĐVN tiếp tục hoàn thiện nội dung và phương pháp luận các vấn đề quan trọng của Lý luận văn học và nghiên cứu văn học sử Việt Nam, văn học Việt Nam hiện đại, Truyện Kiều và Nguyễn Du. Có lẽ cho đến lúc đó ở nước ta chưa có ai làm được như ông tức là đã gần như phác họa được toàn bộ nền móng của những vấn đề cơ bản đó. Cho đến thời điểm đó phải thấy rằng trong nền giáo dục đại học miền Bắc mới có ông là người sớm nhất đặt nền móng cho việc nghiên cứu phương pháp phê bình văn học và nghiên cứu văn học sử Việt Nam.
– Về mặt tư tưởng chính trị Trương Tửu đã nhậy bén nhận ra xu hướng biến đổi của thời đại tức là xu hướng cải cách dân chủ lần thứ nhất của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề hết sức cần thiết đối với miền Bắc và Đảng Lao động Việt Nam. Với thái độ của một trí thức cương trực, trung thực ông đã sớm nhập cuộc vào khuynh hướng đó. Chúng ta thấy có hai mặt trong hành xử của ông. Một mặt ông tích cực tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác Lê nin, cố gắng diễn giải các nguyên lý của nó để cho nhân dân hiểu biết vận dụng nó trong việc thực hiện các chính sách của Đảng, trong đời sống văn hóa văn nghệ để đi đến một mục tiêu như là lý tưởng mà nhiều trí thức ảnh hưởng thuần túy văn hóa Tây phương như ông thường mong muốn. 
Chẳng hạn ông ca ngợi sự tốt đẹp của cái gọi là biện pháp chỉnh huấn :
1- Chỉnh huấn là một phương pháp giáo dục khoa học nhằm mục đích cải tạo tư tưởng cho con người…
2- Chỉnh huấn là một phương pháp giáo dục dựa trên một tinh thần nhân văn chân chính…
3- Chỉnh huấn là một phương pháp giáo dục đề cao đạo đức…
4- Chỉnh huấn là một phương pháp giáo dục đem lại sự tự do cho con người…(4)
Trong cuốn Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ Trương Tửu hết lời mạt sát tất cả những thành tựu khoa học văn hóa nghệ thuật của Mỹ và các nước phương Tây là phản văn minh, phản nhân đạo, chỉ nhằm mục đích nô dịch con người và phục vụ âm mưu gây chiến tranh tiêu diệt loài người. Ông khẳng định với niềm tin không kém phần mãnh liệt :
Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ tất yếu sẽ bị xua đuổi ra khỏi đất nước chúng ta, cũng như dân tộc ta tất yếu sẽ hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ. Đó là quy luật lịch sử. Nhưng nó cũng là vấn đề đấu tranh sáng suốt bền bỉ và cương quyết.(5)
Đây cũng là sự cả tin vào sự tuyên truyền của Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Mặt khác, về khoa học ông tự điều chỉnh những luận điểm cực đoan của giai đoạn trước và nhiệt thành chỉ ra các sai lầm trong vận dụng thực tiễn và tác hại của các sai lầm ấy, đặc biệt là trong văn hóa văn nghệ. 
Trong thời gian trước cách mạng Trương Tửu đã viết Triết lý Truyện Kiều (1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn chương Truyện Kiều (1944). Năm 1956 Trương Tửu cho in Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du nhằm bàn lại về vấn đề Truyện Kiều.Ông viết :
Trong hai tập tiểu luận văn học này ( Nguyễn Du và Truyện Kiều, Văn chương Truyện Kiều – TKT ), tôi đã cố gắng phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm đấu tranh giai cấp. Nhưng vì hồi ấy trình độ lý luận còn ấu trĩ, lập trường chính trị còn lệch lạc, tôi đã áp dụng phương pháp phê bình văn học mác xít một cách phiến diện, gò ép, máy móc, nên đã có những nhận định sai lầm căn bản khi tìm hiểu và phê phán tác phẩm của Nguyễn Du.
…Trong giáo trình văn học sử Việt Nam giảng ở dự bị đại học và Đại học Sư phạm ( những năm 1952-1955) tôi đã có dịp chỉnh lý lại những điều ấy.
Ông cũng thành thực nói rằng cái hướng tìm hiểu Truyện Kiều đúng nhất, căn bản nhất mà ông nhận thức được là từ một câu nhận xét của ông Trường Chinh : Điều đáng chú ý khi nghiên cứu Truyện Kiều là : từ bao đời nay nông dân Việt Nam vẫn rất thích Truyện Kiều. Vậy Truyện Kiều có cái gì mà khiến được nông dân thích như thế ?
Tháng 10-1956 Trương Tửu viết lời Giới thiệu tiểu thuyết Vỡ đê do Nhà xuất bản Minh Đức Thời Đại tái bản. Ông đã đánh giá đúng thái độ chính trị yêu nước và giá trị những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đối với thời đại trong khi nhà văn còn đang bị bài xích.
Tháng 10-1957 Trương Tửu hoàn thành bản thảo công trình Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam, xuất bản tháng 12-1957. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng đối với Trương Tửu vì nó vừa mở ra thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ, hoàn thiện thế giới quan và tư duy khoa học của một tài năng hứa hẹn có thể sáng tạo những công trình có tầm vóc lớn hơn lại vừa ngay lập tức khép lại phần đời hoạt động văn hóa của ông. Trong lời giới thiệu TRƯƠNG TỬU – Tuyển tập nghiên cứu phê bình, NXB Lao Động 2002, TS Trịnh Bá Đĩnh và PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn đánh giá :
Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (1958) lại là một nỗ lực quan trọng của Trương Tửu trong việc tự ý thức về tiến trình lịch sử văn học dân tộc.Tính cho đến tận hôm nay, đây vẫn là công trình chuyên sâu duy nhất bàn về quan niệm và phương pháp văn học sử, những thành phần cấu tạo và việc phân kỳ các giai đoạn văn học sử Vệt Nam…(6)
Như vậy phải chăng quá trình tham gia vào công tác văn hóa văn nghệ 9 năm kháng chiến và đặc biệt là thắng lợi vang dội của nó đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy của Trương Tửu về các vấn đề phương pháp luận mác xít cho việc xây dựng một nền móng của khoa học nghiên cứu lịch sử văn học nước nhà và khoa phê bình văn học với tư cách là một khoa học.
Về thái độ đối với các vần đề cấp bách của thực tiễn văn nghệ Trương Tửu đặc biệt quan tâm đến sự vận dụng học thuyết Mác Lê nin vào công tác lãnh đạo văn nghệ của Đảng Lao động Việt Nam, các khuyết điểm của nó do chủ nghĩa cực đoan gây ra và ông suy nghĩ về các biện pháp làm cho nó mang tính dân chủ hơn.
Chúng ta phải trở lại và nhìn kỹ lại bối cảnh xã hội miền Bắc cũng như thế giới những năm đầu hòa bình mới lập lại để hiểu đúng động cơ, thái độ, chỗ đứng của Trương Tửu trước những vấn đề phức tạp đó.
Trước hết hãy đọc lại thái độ của tập thể lãnh đạo Đảng nói chung và thái độ của những người lãnh đạo văn nghệ đối với việc cải cách dân chủ lúc đó.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 19 đến 24-4-1956 về việc quán triệt nguyên tắc lãnh đạo tập thể, đề cao vai trò của Đảng đã đề cập rất nghiêm túc việc chống sùng bái cá nhân trong đảng đã nói rõ sự tôn kính lãnh tụ đã đi vào sự lệch lạc của sùng bái cá nhân, trong đó có trách nhiệm của Bộ Chính trị và cá nhân Hồ Chủ tịch, thừa nhận sự lãnh đạo của Trung ương có nhiều sai lầm nghiêm trọng về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Hội nghị lần thứ 10 họp từ ngày 25-8 đến 5-10-1956 về mở rộng dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ 
Cũng tại Hội nghị Trung ương 10, Báo cáo công tác tư tưởng đánh giá khuyết điểm về công tác tư tưởng như sau :
Song song với sự phát triển nhanh chóng của tình hình và yêu cầu của cuộc đấu tranh phức tạp về mọi mặt thì công tác tư tưởng của Đảng ta lại quá lạc hậu. Tình hình những nhận thức tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân ta nói ở trên chứng tỏ công tác tư tưởng của ta còn rất non kém, bộc lộ nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.(7)
Tất nhiên trong đó có phần khuyết điểm về lãnh đạo văn hóa, văn nghệ.
Trong cuộc họp 18 ngày nghiên cứu lý luận trong tháng 8-1956 đông đảo văn nghệ sĩ đã phát biểu thẳng thắn phê bình những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo văn nghệ của Đảng như đường lối hẹp hòi gò bó, chưa có một chính sách cụ thể về văn nghệ, bộ phận lãnh đạo văn nghệ không hợp lý, không trong sạch, có tính bè phái, dộc đoán…
Trong lời tổng kết Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi đã thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng đã được hội nghị nêu ra và hứa hẹn sửa chữa. Riêng Nguyễn Đình Thi có nêu rõ tác hại của bệnh sùng bái cá nhân trong đời sống văn nghệ của ta.(8)
Ngay sau Hội nghị 18 ngày Hoài Thanh đã cho in bài Tôi đã sai lầm như thế nào trong việc phê bình bài Nhất định thắng của anhTrần Dần trên báo Văn nghệ số 139 (20-9-1956) thừa nhận đã lầm lẫn bạn thù trong việc phê bình và những sai lầm… trong cuộc phê bình bài Nhất định thắng… là một bài học lớn đối với cuộc đời ông.
Ngay sau đó ngày 2-10-1956 tập thể Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ra Thông báo nhận rõ một số sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng trong công tác trong đó có việc tổ chức phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần và tổ chức xét giải thưởng văn học 1954-1955.(9)
Còn cá nhân Trương Tửu ông đã nhìn nhận các vấn đề ở trên như thế nào ?
Về tình trạng sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ ông viết :
Bệnh sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ…Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ, vì rằng hôm qua cũng như hôm nay , người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa, có cái này thì không có cái kia được.

Trương Tửu nêu lên tấm gương không chịu sùng bái cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh. Ông quy trách nhiệm cho số lãnh đạo văn nghệ:
Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn yểm tất cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách,phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị,v,v… còn gì nữa?
Theo ông chính lãnh đạo đã tạo ra một tình trạng u ám trong văn nghệ:
Một số văn nghệ sĩ non gan…biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức. Một số khác nữa cất kín cá tính và nghệ thuật xuống đáy ba lô, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu- đánh giặc đã!Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…

Trương Tửu đề nghị:
Đã đến lúc phải sa thải những nhà lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.

Trương Tửu yêu cầu phải tạo ra môi trường dân chủ dân chủ cho văn nghệ sĩ:
Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì bảo vệ tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phậm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật- để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành.Tự do ở đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói,nghĩ diều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, không yêu những cái mà mình ghét, không ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo.

Trong hai tiểu luận Văn nghệ và chính trị, Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Trương Tửu phân tích những nguyên lý về quan hệ giữa văn nghệ với chính trị của chủ nghĩa Mác Lê nin, muốn rằng những người cộng sản phải hiểu và vận dụng cho đúng các nguyên lý ấy trong lãnh đạo văn nghệ. Ông cũng khẳng định rằng :
Ở thời đại lịch sử này, văn nghệ sĩ muốn phục vụ sự tiến bộ của xã hội một cách có hiệu quả tối đa thể tất phải tiến đến triết học và chính trị đúng đắn của giai cấp công nhân.(10)
Những văn nghệ sĩ của Đảng tất nhiên phải tuân theo kỷ luật nội bộ của Đảng, phải chịu sự lãnh đaọ của tổ chức Đảng, phải thực hành những nhiệm vụ và công tác Đảng giao phó cho.(11)
Nhưng mặt khác ông đòi hỏi phải thực hiện triệt để chủ trương của Lê nin tuyệt đối bảo đảm tự do thật rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho sở hướng cá nhân, bảo đảm tự do thật rộng rãi cho tư tưởng và sức tưởng tượng phóng khoáng, cho nội dung và hình thức.(12)

Ông cũng khẳng định ý kiến của Lê nin sự tự do tư tưởng đó vô cùng quan trọng do nó ảnh hưởng đến sự bền vững của cách mạng bởi nó mang đến cho giai cấp công nhân sự thực khách quan;
Giai cấp vô sản xa rời sự thực ngày nào là bước vào con đường thất bại ngày ấy. Cho nên nó đặc biệt tôn trọng sự thực, tôn trọng chân lý khách quan, tôn trọng những người phát hiện sự thực, tôn trọng những người tìm tòi chân lý-tôn trọng những nhà khoa học và nghệ thật.(13)
Đặc điểm của cách phát ngôn của Trương Tửu là ông luôn giữ tính nhiệt thành và cực đoan cho nên luôn để cho những người chống ông vu ông là trốt kít. 
Về giai đoạn trước 1945, mới đây GS.TSKH Phương Lựu trong bài Góp bàn về tư tưởng học thuật của Trương Tửu đã cho rằng tư tưởng văn học của Trương Tửu trước cách mạng về cơ bản không theo chủ nghĩa Trốt sky, cũng không theo chủ nghĩa Lê nin mà là macxit phân tâm, một dạng của chủ nghĩa Mác phương Tây.(14) 
Còn giai đoạn sau hòa bình cho tới 1958 tư tưởng văn học của Trương Tửu về cơ bản vẫn không theo chủ nghĩa Trốt sky, vẫn là chủ nghĩa Mác phương Tây nhưng ông đã chú ý tiếp thu Tổ chức Đảng và văn học Đảng của Lê nin để xem xét công tác lãnh đạo văn nghệ của những người cộng sản Việt Nam. Có điều là ông đã rất nhấn mạnh đến khía cạnh dân chủ cởi mở của Lê nin đối với hoạt động sáng tạo của văn nghệ sĩ và việc quản lý một cách uyển chuyển các thành phần, các nhóm văn nghệ sĩ khác nhau về chính kiến đi với cách mạng vô sản.

Như vậy trong thời gian này mặc dù tình hình phức tạp, căng thẳng ông vẫn làm việc rất nỗ lực với nhiều dự định lớn cho một thời kỳ mới, hy vọng cho nhiều sáng tạo mới. Tác phẩm của Trương Tửu ngoài ý nghĩa khoa học còn có ý nghĩa tác động trực tiếp đến đời sống chính trị xã hội, ở thái độ trung thực, ở hành xử dũng cảm của một trí thức có nhân cách, ở tính dự báo sâu sắc về thời cuộc…

Đánh giá một cách khách quan, nhiệt tình và niềm tin của Trương Tửu có phần ảo tưởng nhưng đó là hệ quả của cá tính trung thực cực đoan của ông. Trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm không phải chỉ có một mình Trương Tửu mắc phải khuyết điểm này. Nhiều trí thức thuần túy tây học chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa Pháp cũng đã hành động như ông. 
Và kết cục tàn nhẫn đã đến. Ông đã bị những người kiên định với lập trường tả khuynh phê phán rất dữ dội. Thống kê chưa đầy đủ có những người viết bài như sau :
Trường Chinh : Báo cáo đọc tại Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp từ ngày 10 đến ngày 21-3-1958. Cuốn Về Văn hóa Văn nghệ NXB Văn hóa 1976 trích lại với tựa đề Lên án bọn Nhân văn – Giai phẩm.
Tố Hữu : Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân văn – Giai phẩm tại Hội nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ngày 4-6-1958. Các ấn phẩm khi in lại đặt là Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại nhân văn – Giai phẩm trên mặt trận văn nghệ.
Hồng Chương : Phải tước vũ khí của tên phản động ấy. Tạp chí Học tập 3-1958
Trần Thanh Mại : Quan điểm và lập trường tư tưởng của một người tự xưng là Mac-xít Lê-nin-nít. Một bài báo nguy hại đăng trong “Giai phẩm mùa đông” dài 3 kỳ trên báo Nhân dân số ngày 12,13,14-1-1957.
Nguyễn Đình Thi : Những sai lầm tư tưởng trong tập sách Giai phẩm. Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 117,118,119 tháng 4,5- 1956.
Hoài Thanh : Thực chất tư tưởng Trương Tửu. Tạp chí Văn nghệ số 11 tháng 4-1958.
Hồng Quảng : Loạt 3 bài Phê phán mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu : Quan điểm chính trị và học thuật của Trương Tửu về văn học cận đại và hiện đại Việt Nam, Nội dung tư tưởng của văn học cận đại Việt Nam có phải căn bản là tư tưởng tư sản không?, Từ 1930 đến 1945 có xu hướng văn học của giai cấp công nhân không? Báo Văn học số 16,17,18.
Hồng Vân : Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skit ? Tạp chí Văn nghệ số 11 tháng 4-1958.
Nguyễn Kiến Giang : Phê phán Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu : Tuyên truyền thế giới quan duy tâm và phủ nhận thế giới quan tiến bộ, cách mạng trong lý luận và sáng tác văn học. Báo Văn học số 14 và 15 tháng 10-1958.
Văn Tân : Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu hay là một lối xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lê nin. Bộ mặt phản động của Trương Tửu trong quyển Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam. Tạp chí Văn Sử Địa, Hà Nội số 45 tháng 10-1958.
Vũ Đức Phúc : Phê phán Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu : Lợi dụng văn học để chống lại cách mạng, chống lại chế độ. Báo Văn học số 13 ngày 25-9-1958.
Bùi Huy Phồn : Trương Tửu một tên phản cách mạng đội lốt mác-xít. Tạp chí Văn nghệ số 12 tháng 5-1958.
Bàng Sỹ Nguyên : Báo Tiền Phong số 282 ngày 23-4-1958.
Lê Trung Thực : Trương Tửu viết về sùng bái cá nhân. Báo Văn nghệ số 144 ngày 25-10-1956.
Lê Văn Hải : Đọc bài Bệnh sùng bái cá nhântrong giới lãnh đạo văn nghệ (Giai phẩm mùa Thu tập II). Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 142.
Phan Cự Đệ : Thái độ và phương pháp giảng dạy của Trương Tửu. Báo Độc lập, Hà Nội, số 354, 1958.
Ngô Thế Thinh : Những luận điệu của chủ nghĩa xét lại trong con người Trương Tửu. Báo Độc lập số 354, 1958.
Ngoài những bài trên còn nhiều chục bài khác cùng với sự đấu tố chung hoặc riêng những người khác, ít nhiều có sự đấu tố Trương Tửu như của Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Lưu Trùng Dương, Như Phong, Lưu Quý Kỳ, Quang Đạm, Hồng Cương, Trương Chính, Nguyễn Lương Ngọc, Huỳnh Lý…
Tại sao lại có sự ưu ái đặc biệt như vậy đối với Trương Tửu? Có lẽ do vị trí công việc giảng dạy trên diễn đàn đại học của ông và tầm quan trọng những tư tưởng, cách nhìn của ông về những căn bệnh trầm kha của nền văn nghệ lúc đó đã làm cho ông trở thành một mục tiêu nguy hiểm.
Đặc điểm những lời phê phán Trương Tửu đều mang tính võ đoán, quy chụp, phủ định sạch trơn. Những người phê phán ông đều cho rằng ông là phần tử trôt kit nguy hiểm, là phản động, phản cách mạng, đội lốt mac xit để chống phá cách mạng, chống phá Đảng, chống phá chủ nghĩa Mac Lê nin. Còn việc phê phán Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam Tiến sỹ Trịnh Bá Đĩnh viết:
… Ở MVĐVHSVN, tác giả của nó rõ ràng là đã chịu sự chi phối của các nhà mĩ học và lí luận văn học Phương tây như G. Lukacz (Hunggari), J. Lefbvre (Đức), Plekhanov, Kammarin (Nga), F. Challaye, J. Fréville (Pháp)… qua các tài liệu bằng tiếng Pháp được đăng tải trên các tạp chí La pensée, La nouvelle critique, La litterature sovietique… Tài liệu được tác giả MVĐVHSVN lấy làm cơ sở là cuốn Về văn học và nghệ thuật của Marx và Engels do Jean Fréville biên soạn.
… Tác giả của nó bị lên án là “lợi dụng văn học để chống lại cách mạng, chống lại chế độ”, “tuyên truyền cho thế giới quan duy tâm và phủ nhận thế giới quan tiến bộ”…, bị những người phê phán xếp vào hàng ngũ xét lại như Vizma ở Nam Tư, Hồ Phong ở Trung Quốc. Họ công kích MVĐVHSVN ở những nội dung nào? Có hai điểm chính: 1/ Tính độc lập tương đối và sự kế thừa của văn học; 2/ Tính loại biệt của văn học.
…Những vấn đề lí thuyết trong MVĐVHSVN không chỉ có như vậy, trong đó cũng không chỉ có những vấn đề lí thuyết mà cả những đề xuất về phương pháp viết lịch sử văn học Việt Nam. Có những đề xuất rất thời sự so với thời điểm đó của khoa văn học như: bộ phận văn học chữ Hán có phải là văn học dân tộc không, phân kì lịch sử văn học Việt Nam như thế nào, văn học hiện đại bắt đầu từ thời điểm nào? Có những điều mà hôm nay chúng ta vẫn phải suy nghĩ tiếp. Chẳng hạn Trương Tửu cho rằng văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX là cùng kiểu loại với văn học Phục hưng phương Tây (ông gọi là “văn học cổ điển”). Điều này khá gần gũi với quan điểm của các nhà phương Đông học Nga về một giai đoạn văn học Phục hưng có tính toàn thế giới, trong đó có “thời Phục hưng phương Đông”. (15)
Tại hai trường đại học, cuộc phê phán ông cùng các bạn đồng nghiệp như Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo cũng diễn ra rất quyết liệt, kéo dài nhiều buổi. Có lẽ một trong những điều làm cho các ông đau đớn là một số sinh viên cơ hội đã phản bội lại thầy giáo của mình. Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã viết lại những cuộc đấu tố ở hai trường đại học Tổng hợp và Sư phạm trong cuốn tiểu thuyết Kẻ bị mất phép không công xuất bản tại Paris năm 1991.
Đến đây bạn đọc có thể muốn biết trong những năm tháng này Trương Tửu đã sống như thế nào? Đáng tiếc là ông không để lại một chút tài liệu nào phản ánh thái độ, tâm tư của ông đối với sự kiện Nhân Văn- Giai Phẩm cũng như việc ông bị đấu tố. Chỉ biết rằng trong Bản kiểm điểm ông tin rằng những việc làm như việc đấu tranh chống bệnh sùng bái cá nhân của những người lãnh đạo văn nghệ sẽ làm cho bộ máy lãnh đạo văn nghệ tốt hơn, dân chủ, bình đẳng với văn nghệ sĩ, việc tán thành báo Nhân Văn, Đất mới, viết bài cho Giai phẩm, với hy vọng đời sống xã hội được tự do tư tưởng, đường lối dân chủ hóa của Đảng được thực hiện nhanh hơn, việc góp ý đấu tranh với các cán bộ quản lý quan liêu, độc đoán ở trường đại học như bỏ Hội đồng giáo sư, sắp xếp cấp bậc, đề bạt giáo sư, bổ dụng sinh viên tốt nghiệp, chọn nghiên cứu sinh, kỷ luật số người viết bài, biên tập Đất mới… là để làm cho trường đại học xứng với vai trò của nó.
Giáo sư Phan Ngọc, một người trợ giảng của ông nhớ lại:
Tôi còn nhớ rõ hôm GS Trương Tửu bị phê bình và cách chức. Tôi thấy anh đi ra thản nhiên. Lòng tự hỏi : “ Anh làm cách nào để sống đây!”. Tôi có nghề phiên dịch sẽ sống bằng nghề này, một nghề có thể nói không động chạm tới chính trị. Còn anh thì làm thế nào để sống? (16)
Tuy cá tính Trương Tửu cực đoan nhưng ông luôn quan tâm và yêu quý, giúp đỡ học trò. Nhiều sinh viên của hai khóa học 1953-1956, 1954- 1957 như Nguyễn Đình Chú, Văn Tâm, Ninh Viết Giao, Nguyễn Văn Hoàn, Đoàn Minh Tân… vẫn còn giữ trong ký ức những kỷ niệm tốt đẹp về ông.(17)

*****

Sau các đợt đấu tố Trương Tửu bị kỷ luật cách chức vào giữa năm 1958. Ông xin nghỉ hẳn công tác, không làm việc tiếp cũng không nhận lương hưu hoặc trợ cấp, tự kiếm sống bằng một thứ nghề mới không ai nghĩ đến, đó là nghề chữa bệnh đông y. Lúc bấy giờ ông chưa đầy 45 tuổi, một cái tuổi còn tràn trề sinh lực và sức sáng tạo. Ông cũng đoạn tuyệt với hoạt động văn hóa, văn nghệ…
Cũng xin nói thêm từ 1958 cho tới lúc Tương Tửu mất là 41 năm, một quãng đời không phải là ngắn. Không thể không nói những chấn thương tâm lý dữ dội đã làm cho ông thờ ơ với những vấn đề văn hóa văn nghệ đã một thời lôi cuốn ông vào tâm một cơn bão thời đại. Ông cũng không viết hồi ký và không cho phép ai viết tự truyện về mình. Giữa các ý tưởng viết sách của ông như Phép dưỡng sinh, Tử vi đẩu số, Một số vần đề về châm cứu học ông chỉ còn vương vấn với mỗi Nàng Kiều với dự định viết Nợ Kiều phải trả cho xong. Tiếc rằng sức khỏe đã không cho phép ông hoàn thành các đề cương này ngoài một vài đoạn ghi chép như Suy nghĩ về Tam tài luận, Cái nghiệp trong thuyết nhân quả, Các mẫu người, Nhà khoa học là hiện thân của đạo đức, đề cương Nợ Kiều phải trả cho xong…
Trong vài ba bài thơ hiếm hoi còn lại cho thấy ông vẫn giữ được một niềm tin tự tại:

Băng giá tan rồi xuân lại đến(18)

Cây còn thân gốc vẫn còn hoa(19)

Mong rằng dù ở cõi nào Trương Tửu cũng thấy được những cơn gió xuân đang thổi về, đang làm xanh lại những trang sách của đời ông.

Chú thích :

1- Văn kiện Đảng.
2- Tiến quân vào thành trì khoa học! Bài nói của Giáo sư Trương Tửu ở Đài phát thanh Bắc Kinh ngày 23-5-1956. Tập san ĐHSP 1956.
3- Gọi NVGP là một phong trào bởi tư tưởng đòi hỏi cải cách dân chủ không chỉ có ở nhóm báo chí Nhân Văn và Giai Phẩm mà bao gồm cả nhiều lĩnh vực rộng lớn của xã hội miền Bắc lúc đó.
4- Chỉnh huấn là gì ? NXB Minh Đức Thời Đại 1955, trang 82-83
5- Văn hóa nô dịch của đế quốc Mỹ và phe lũ. NXB Minh Đức Thời Đại 1955, trang 91.
6- SĐD trang 15-16
7- Hồ sơ Văn kiện Đảng
8- Xem Một vài khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn nghệ. Nguyễn Đình Thi. Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 140 (27-9-1956).
9- Thông báo này được in trong báo Văn nghệ số 141 ngày 4-10-1956.
10- Văn nghệ và chính trị
11- Bđ d
12- 13- Trương Tửu trích lời Lê nin trong Tổ chức Đảng và văn học Đảng
14- Bài đã dăng trên website của Viện Văn học tháng 3-2012
15- Phương diện lý thuyết của Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam của Trương Tửu . Trịnh Bá Đĩnh. Hồ sơ Trương Tửu. Web Viet – Studies Trần Hữu Dũng
16- Phan Ngọc. Một vài điều ít được nhắc lại về nhà phê bình Trương Tửu. Hồ sơ Trương Tửu. Web Viet-Studies Trần hữu Dũng
17- Đọc thêm hồi ký Xứ Nghệ và tôi của Ninh Viết Giao. NXB Nghệ An 2006
18- Nâng chén. Tết Đinh Sửu 1977. Tư liệu của gia đình Trương Tửu 
18- Họa lại thơ tặng của Lê Văn Siêu ngày 28-6-1985. Tư liệu của gia đình Trương Tửu

Tháng 4 – 2012 







Gs Trương Tửu & Gs Hoàng Như Mai 
1999










Trở về








MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.