Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Kiệt Tấn













Kiệt Tấn
Tên thật: Lê Tấn Kiệt
(1940 - ..........) Bạc Liêu
Nhà văn, Nhà thơ








Về đây ta lại về đây 
Về đây mây trắng trôi hoài ngàn năm
Về đây hoàng hạc mất tăm
Về đây lặng đứng âm thầm chốn xưa
Kiệt Tấn 
Sài Gòn tháng ba 2017






Tên thật là Lê Tấn Kiệt, sinh năm 1940 tại làng Vĩnh Lợi, Bạc Liêu. Học tiểu học ở Bạc Liêu, trung học ở Vĩnh Long, Mỹ Tho, Sài Gòn và đại học ở Québec, Canada. 
Từ năm 1975, sống tại Pháp với gia đình.

Trước 1975, ông có bài đăng tạp chí Sáng Tạo. 
Rồi hai chục năm không viết, không làm thơ. 
Cầm bút lại năm 1985, Kiệt Tấn đã cộng tác với các tạp chí hải ngoại Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Văn, Làng Văn, Việt Nam Tự Do, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21.








Kiệt Tấn lúc trẻ








Tác phẩm đã xuất bản :







1
Điệp khúc tình yêu và trái phá




Tập thơ Điệp khúc tình yêu và trái phá gồm hai điệp khúc (andante cantabile và allegro con fuoco!) với hơn bốn mươi lăm bài thơ làm từ những năm 1961, 62.... hầu hết đều không vần.




Trích...


Biết bao giờ

Khi hơi thở vàng về đậu lên màu đỏ
màu đỏ về đậu lên cây điệp
cây điệp về đậu lên ký ức
khi đó dù đang trên đường ra bến tàu
dù đang trên đường đến công sở
dù đang trên đường ra pháp trường
dù đang đặt chân lên bực đầu tiên của cầu thang ngoại tình
dù đang cử động trong bốn bề thời gian đặc cứng
cũng sẽ dừng lại
một bước
và nói thầm
đó là mùa hè
có biết không

có biết không
đó là mùa hè
và đừng hỏi tại sao
đừng hỏi tại sao con ve ca hát và con kiến tha mồi
vì giả thử tất cả những con ve đều tha mồi và tất cả những con kiến đều không chịu ca hát

Hãy nằm im
và đừng hỏi tại sao
hãy nằm im
và lắng nghe những vũng nước xanh lơ xôn xao trong đầu
sóng lăn lóc hoài những hòn sỏi trong mỗi tế bào tươi
hãy nằm im
và lắng nghe mặt trời nồng nàn trên da phỏng
thân thể mỹ miều rực rỡ trên cát mịn
những đỉnh tròn rám nắng
đôi môi mặn rên khẽ
mê sảng gọi tình
bừng bừng sứa lửa
trong đêm

Hãy nằm im
và lắng nghe đêm rì rào mãi không thôi
lời tây ban cầm tự tình bên khung cửa khuất
loài hoá thạch sao bám riết hoài ghềnh đá trơn
và chiếc khăn choàng bỏ quên trên bãi muộn
không bao giờ tìm thấy nữa

Hãy nằm im
và đừng hỏi
tại sao
đừng hỏi tại sao
những con ruồi say nắng
rụng cánh
nằm chết
trên bàn tay ấm áp
của mùa hè





Mưa tối

hỡi em!
từ nay anh đặt tên em lại là em người yêu của anh
em nhớ nhé
anh sẽ ban phép lành cho em quên tất cả
hỡi em hỡi em hỡi em!
em hãy lên tiếng cho anh được biết em còn
sống sót trên cõi đời này
anh làm thơ
tại vì tối nay trời mưa trời mưa rất lớn mưa
ướt cả phố phường mưa ướt cả bãi cỏ mưa
ướt cả sân mưa dột xuống nỗi lẻ loi của anh
anh nghe nhạc đánh đàn
có những giọt nước to gõ nhịp buồn buồn
trên mái thiếc

làm sao cho anh khoét thủng thịt da anh để
đến gặp gỡ từng người
anh muốn cọ xát đến rướm máu
làm sao cho anh được tật nguyền bằng bướu
thiên hạ
làm sao cho thiên hạ chảy máu được bằng
tim anh
làm sao cho chúng mình khỏi phải là những
con khủng long bị ngưng đọng đời đời
trong những khối băng hà trong suốt nhìn
nhau cắn vỡ răng chỉ để ý thức cô đơn
làm sao được hở em
anh sờ da thịt khám phá sự sống
những tế bào những huyết cầu chuyển vận
chúng nó có cuộc sống cá nhân của chúng nó
anh có thuộc về anh không

anh khám phá ái tình bằng đứa trẻ chơi trượt dốc
nhiều khi anh nhìn nấc thang lên mất hết lý thú

nhưng rồi đâu lại vào đó vì anh sợ khoảng
trống sâu hút anh để lại đằng sau lưng
anh gia nhập một đoàn hát vĩ đại
anh đóng vai trong một tấn tuồng vĩ đại mà
đoạn kết chưa viết xong
anh không ngớt tự tra hỏi
rồi sao nữa?
và đó là nỗi khốn khổ của anh

ngày mai nếu trời nắng anh sẽ tìm đến bờ
hồ để có được một vũng nước trong
anh sẽ viết thơ yêu đương nồng nàn và đem
chôn dưới một gốc cây già cho khỏi mất
rồi anh sẽ lội ra xa bờ lặn ngụp giữa những
đám mây trắng uống từng ngụm nắng trên
thân thể cho thân mật với ngoại cảnh
anh sẽ tìm một dòng nước trong lành dẫn anh vào sâu tận mắt em
anh sẽ trói hết tay chân ý thức mình và
đánh chìm nó vào những chiều sâu ngu muội
anh sẽ bằng lòng quên hết rồi sao nữa
anh sẽ bằng lòng quên hết trời mưa trời mưa tối nay


(thơ, Sáng Tạo 1966)







2

Nụ cười tre trúc
(tập truyện, Văn Nghệ 1987)







3

Lớp lớp phù sa

(truyện dài, Văn Nghệ 1988)







4

Thương nàng bấy nhiêu
(tập truyện, Người Việt 1988)







5

Nghe mưa
(tập truyện, Xuân Thu 1989)







6

Em ơi biết đâu tìm
(tập truyện, An Tiêm 1994)







7

Việt Nam Thương khúc
(trường thi, An Tiêm 1999)








8

Tuyển tập Kiệt Tấn
(tập truyện, Văn Mới 2002)










http://kiettan.blogspot.com/









Thơ Kiệt Tấn






Em về



hạ vàng hạ vàng nắng
chiều qua chiều qua mau
đường quạnh đường quạnh vắng
ngõ đón ngõ đón chào


tà áo tà áo trắng
vờn lao vờn lao xao
trời im trời im ắng
én vù én vù cao 


đường hiu đường hiu gió
lá xạc lá xạc xào
gót son gót son nhỏ
bước về bước về mau 


sông tĩnh sông tĩnh lặng
dòng nao dòng nao nao
chuông chùa chuông chùa vẳng
mưa rạt mưa rạt rào 


trúc thưa trúc thưa vắng
gió thổi gió thổi ào
đường không đường không nắng
chiều nôn chiều nôn nao 


mây chìm mây chìm lặng
trời mưa trời mưa rào
giọt trĩu giọt trĩu nặng
em về em về mau 


chiều phai chiều phai màu
ngày xanh ngày xanh xao
trời mưa trời mưa nặng
em về em về mau
trời mưa trời mưa nặng
em về em về mau
em về em về mau…

Bagnolet - đầu xuân 2009 












Chùm thơ Kiệt Tấn



* KHÚC 73



cồn xanh đất lở sông bù

tuôn ra biển rộng mịt mù nước mây

cá voi cực bắc họp bầy

lũ chim cánh cụt sum vầy tảng băng
trợt trên dốc đứng nhào lăn
một bầy hải cẩu lăng xăng rượt mồi
hải âu lượn mãi không thôi
cá nược lúc lặn lúc trồi giỡn chơi
gấu ta bỗng thấy yêu đời
nằm lăn hoa dại gọi mời mây cao
hồi ngư vượt thác ào ào
quay về cố quận xôn xao họp tình
từ sẫm tối tới bình minh
vui thay cái lũ chúng sinh luân hồi
từng đôi xáp lại từng đôi
trùng trùng duyên khởi sóng nhồi hằng sa


* KHÚC 78

tiêu dao tháng lụn ngày dư
trúc vàng trước ngõ như như tịch hằng
buồn trông con nhện tơ giăng
mây bay gió cuốn mưa hằng hằng sa
em từ ngõ trúc về qua
gói trong tay nắng nụ hoa xuân thì
dịu dàng sen ngọc bước đi
xõa trong hương tóc nhu mì tương tư
vạt bay áo mỏng chần chừ
trong tim bịn rịn đỏ lừ tình anh
thì thôi thì cũng thôi đành
tương tư thôi cũng ngọn ngành riêng ta


* KHÚC 82

về đây chiều lắng buông rơi
về đây ngơ ngác chim trời khuất mây
về đây đâu phút sum vầy
về đây sông nhỏ ngất ngây lặng lờ
về đây bụi loãng bơ vơ
về đây đường đất bây giờ đá xanh
về đây chưn bước không đành
về đây hiền hậu nửa vành trăng xưa
về đây kẽo kẹt tre đưa
về đây rào khép ngọn dừa quạnh hiu
về đây dạ lý tiêu điều
về đây đâu nữa yêu kiều áo bay
về đây ta lại về đây
về đây mây trắng trôi hoài ngàn năm
về đây hoàng hạc mất tăm
về đây lặng đứng âm thầm chốn xưa


* KHÚC 85

đốt thây đổ xuống sông hằng
níu con sông lại hỏi rằng về đâu
về đâu tro xám nhạt màu
vô thường thân xác ví dầu khói bay
chìm sông rộng bổng chân mây
cũng là tứ đại một ngày hợp duyên
trôi sông chẳng hết não phiền
lên mây cũng vẫn đảo điên luân hồi
niết bàn liệu có thảnh thơi
phủi tay thiền định ngồi xơi nước trà
yết yết yết đế ba la
sang bờ bên ấy gọi là tới chưa
bát nhã ngóng đợi đò đưa
bờ này bờ nọ trời mưa xóa nhòa
như lai thiền trụ một tòa
ngó hào quang tỏa chóa lòa thấy chi
chắp tay mà niệm mâu ni
cái thân giả tướng mong gì được chăng











Lục Bát Điên


Mở lời :

Lục Bát Điên là một nỗ lực nhằm đưa lục bát trở về với đời thường, nơi nó xuất phát. Đồng thời, cũng là một nỗ lực khai phóng. Lâu nay, ngoài Bùi Giáng và một ít bài lục bát hiếm hoi của những người làm thơ khác, lục bát đang rơi vào ngõ cụt, dẫm chưn tại chỗ với những đề tài cũ, những rung động cũ, những hình ảnh cũ, những ngôn từ cũ. Thơ đọc nghe được được, mà không có hồn. Đọc xong đó, quên liền đó. Nói tóm, nước đọng ao tù.

Lục Bát Điên, viết về bất cứ đề tài nào, viết tùy hứng và buông thả cho vần điệu lôi cuốn. Nhưng trước hết và trên hết, Lục Bát Điên nhằm thỏa mãn một sự thèm muốn: thèm làm thơ. Bất cưỡng như thèm đàn bà.
Thì cứ viết chơi cho đã thèm. Hạ hồi phân giải. Nói như Bùi Giáng: Cho vui vậy mà!

Trăm năm trong cõi người ta
Thịt cầy rượu đế khéo là khoái nhau

tháng mười, 2008




* Khúc 1

bỗng dưng biển động non đoài
khiến dòng lục bát chảy hoài không ngưng
bỗng dưng chớp động lưng chừng
khiến dòng lục bát trong rừng cháy ra
bỗng dưng là bỗng dưng là
điên khùng lục bát ta bà đảo điên
bỗng dưng lục bát triền miên
ầm ầm lục bát khắp miền núi sông
triền miên lục bát tuôn dòng
mưa xuống sa mạc ngàn bông dị kỳ


* Khúc 3

đất lửa nặn cái hình hài
ngó ra cũng chẳng giống ai chút nào
thì thôi kệ mẹ chớ sao
buồn năm phút bỗng cùng nhau bật cười
hầm hì bản mặt đười ươi
liệng ra bãi cát lũ người thất kinh
nằm lăn một đống chình ình
cái thằng mẹ rượt xà quynh xà quàng
đêm đông lụy ứa hai hàng
nhớ cha nhớ mẹ trên ngàn mắc mưa
điệu ru sông núi chưa vừa
hét lên một tiếng ngựa lừa hí vang
chùa nghiêng chuông ngã tan hoang
tây thi đắc kỹ hai hàng lụy sa
túc lên một tiếng tù và
gọi hồn kiệt trụ gọi ma xứ hời
về đây sấp ngửa cuộc chơi
ta ôm núi đá một đời quàng xiêng


* Khúc 7

bây giờ tỏ rạng nguồn cơn
cồn xanh lý bạch ngồi đờn dưới trăng
quí phi lụa múa cung hằng
để rơi chéo áo xích thằng đường vương
nửa đi nửa ở trăm đường
dùng dằng núi biếc ngập ngừng mây xanh
con chim nó đậu trên cành
hót lên một tiếng ngọn ngành chẻ hai
phi phi thiết chu chu hoài
bì khu phi thiết phượng đài nhiên nhiên
lục bát điên lục bát điên
điên khùng lục bát khùng điên điên khùng


* Khúc 13

ngó ra biển rộng khôn cùng
có con cá nược khật khùng lội chơi
lội mệt thì lấy giầm bơi
tìm ông địa tạng cất lời hỏi han
rừng sâu có một ông chằn
cởi quần lột áo ngựa rằn tắm mưa
đế thiên đế thích leo dừa
thò tay hái được một mùa măng le
tề thiên phật thủ rơi đè
hành sơn nằm ngủ lè phè trăm năm
mưa sa gió cuốn ầm ầm
ngao sơn một ánh trăng rằm lên khơi









Lì xì

năm tàn tháng lụn gầy hao
xuân về nức cội anh đào trổ bông
cho thêm đỏ má em hồng
cho anh si bắt cầu vồng tương tư
tết về chùi bóng bộ lư
song song đôi liễn đỏ lừ hai bên
bày cặp dưa hấu mâm trên
thèo lèo cứt chuột ngọt bên mứt trà
cúc vàng chưng mấy cội hoa
đùng đùng pháo nổ khói nhòa trước sân
ghé thăm cô bác xa gần
lì xì con nít trăm phần rộn vui
xúm xa xúm xít la cười
bầu cua cá cọp đặt mười trúng năm
rót ly rượu đế sủi tăm
chúc mừng ba má được trăm tuổi già








Tạp Văn




Nghe Mưa



Tai nương giọt nước mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Huy Cận

Lúc đó vào khoảng ba giờ sáng. Tôi giật mình sau cơn mơ kỳ lạ. Tỉnh ngủ nghe mưa lắc rắc bên mái hiên hàng xóm, thơ Nguyễn Bính chợt trở giấc trong đầu…

Mưa mãi mưa hoài mưa bức rức
Đêm dài đằng đẵng đêm bao la
Cũng may cho những người cô lữ
Càng đỡ trông trăng đỡ nhớ nhà

Phải, tôi nhớ nhà. Hay đúng hơn, tôi nhớ xóm tôi – Xóm Mới – vùng nước mặn, thiệt mặn, ban đêm mái chèo đập xuống mặt nước nổi sao ngời ngời. Bạc Liêu, miệt Cà Mâu lục tỉnh. Tiền Giang, Hậu Giang, những tên đất gọi lên thấy xúc động trong lòng. Hồi đó ở xóm tôi mưa xuống ai nấy cũng mừng.

Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày…

Người trong xóm lăng xăng lấy lu hứng nước, lấy bẹ chuối làm máng xối, lấy gàu mo múc nước qua mấy khạp nhỏ.

Bọn con nít chúng tôi cũng mừng hết cỡ. Tụi tôi tuột hết quần áo nhào ra ngoài trời tắm mưa, rượt nhau kêu la chí chóe. Mỗi lần trời chớp sét gầm là so vai rụt cổ sợ bị trời đánh. Tôi sống lẫn lộn với ma quỷ thần thánh, mỗi lần đi ngang miễu phải giở nón cúi đầu, đi ngang nghĩa địa phải xòe tay bắt ấn. Chúng tôi tắm đến khi trời tạnh mưa, môi mép tái xanh, tay chân vọp móp, cu chim gì cũng teo hết. Vậy mà sướng không thể tả.

Tôi còn có cái thú khác nữa lúc trời mưa. Tôi chạy riết ra ngoài đồng tìm một vũng nước bùn và vùi mình trong đó. Đất còn giữ hơi nắng, nắng tan trong nước ấm ấm. Tôi nằm lim dim nhìn trời chớp và mưa Hậu Giang dội xuống đầu. Chỉ giản dị vậy thôi. Tôi chẳng nghĩ ngợi ước mơ gì ráo.

Giờ có lẽ đã ngót bốn giờ sáng. Tôi thường bàng hoàng thức giấc trong đêm, lơ mơ không biết mình đang ở đâu. Phải một hồi lâu tôi mới ngẫm ra mình đang nằm trong một căn buồng vuông vắn, căn buồng nằm trong cao ốc cũ kỹ, cao ốc nằm trong Paris muôn đời, Paris nằm trong mưa, mưa thiệt tình cờ, mưa thiệt nhẹ, không có sấm động chớp giăng. Ở đây muốn nghe sấm sét đã có băng nhựa, muốn nghe chim kêu đã có đĩa hát, muốn nhìn suối chảy đã có video, muốn có đàn bà cho nồng chăn gối đã có em bé cao su. Hình như ở Đức, người ta tìm ra một cách trị bệnh tân kỳ: cho đám bệnh nhân vui bùn, đùa giỡn, ném bùn với nhau như thể con nít. Bên Pháp, miệt biển có những phòng tắm đặc biệt, bệnh nhân tắm với rong rêu và nghe đâu không phải ai cũng trả nổi.

Một lần tôi đi ăn chung với một bọn Tây có đầm có, sang thăm xứ Ma-rốc (ăn Tết Ma-rốc! như người xứ ta thường nói). Chúng tôi đi ngang qua một triền núi cằn cỗi thấy một lũ con nít vùi mình trong vũng nước đục ngầu, Tây đầm lắc đầu lấy làm thắc mắc sao có thể tắm dơ như vậy. Tôi nói tụi bây có bao giờ tắm như vậy đâu mà biết cái thú đó. Nghĩ lại có lẽ sự băng hoại của giống người bây giờ phần lớn là do sự cách ngăn mình trà trộn với trời đất, từ chối mọi tuần hoàn tiết diệu của thiên nhiên. Đọc truyện cổ thường thấy: “Thuận lẽ trời ắt sống, nghịch lẽ trời ắt chết”. Ngẫm nghĩ.

Hồi ở Hàng Xanh, mỗi lần trời bắt đầu vào mùa mưa là mỗi lần tôi lâm bệnh nặng. Một chứng bệnh như thể tương tư thất tình. Mỗi lần mây kéo về và chớp giăng theo giọng gầm gừ của trời đất là tôi bâng khuâng, thèm muốn, ngây ngất, rã rời, rũ rượi. Tôi muốn tiêu tan trong trời đất, tôi thèm được thất tình, tôi thèm được chết vì quá yêu một cô gái nào đó, như đã mấy đoạn tôi toan tự tử vì tình: “Mưa xuống âm thầm đau đớn muôn ngàn lá hoa thêm sầu đau, ước mong chi một lời tình của ai nỉ non…” Câu hát tỏa ra từ mái ghe đậu trên vàm sông chiều chạy giặc ở Láng Dềnh, giọng ca trong trẻo của cô gái không biết mặt, như ai đó bỏ quên trong mưa, mưa lăn tăn trải đều trên mặt nước phù sa. Cảm giác đầm ấm dịu dàng, khói bếp tỏa ra từ mái ghe trĩu hơi mưa không lên được, la đà.

Phải thấy mưa trên sông rộng một lần trong đời mới biết tương tư và cái thú tương tư! Gió từ sông lại mưa từ biển, không biết người yêu nay ở đâu*? Tương tư như tương tư cô gái không quen khép nép đụt mưa dưới cùng một mái hiên, tà áo trắng thấm nước thẹn thùng dán sát trên lưng nhỏ. Trời Sài Gòn xế trưa thường đổ mưa bất ngờ, mưa ào ạt, mưa dữ dội, mưa nhiệt đới. Ai nấy đều liệng xe chạy xô vào lề đường núp mưa, cười nói lao xao. Nếu dun rủi sẽ có cô gái xinh xinh cùng đứng đụt mưa chung một vỉa hè. Và mùi tóc thoang thoảng có thể làm cho đêm tối nhớ thương mất ngủ. Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ, chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không. Rồi trách mưa sao quá vô tình. Sao em không nói một lời gì, dù chỉ một lời không đáng chi, cũng đủ làm lòng anh ấm lại...

Giờ đây có lẽ đã năm giờ sáng. Mưa Paris vẫn lắc rắc dai dẳng, mưa hoài. Tôi không tương tư, tôi không thất tình, tôi không thiết tha nhưng cũng không ngủ được. Phải chăng vì một chút lãng mạn còn sót lại từ thuở yêu thơ tình đau khổ của Nguyễn Bính?

Một thân lận đận nơi trời xa
Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà
Gió bấc vào thu đầy tiếng lá
Đời tan mộng đẹp tiếc xuân qua
Long đong mưa nhỏ rơi từng giọt...

*Thơ Đinh Hùng















Truyện ngắn








Bến Đò Trao Thơ 

Kiệt Tấn 




Thương em đứng dựa góc thành

Chờ con trăng lặn mới đành trao thơ.

Ca Dao

Hoa. Nàng tên Hoa. Tôi biết nàng tên Hoa. Bữa nay tôi mới biết nàng tên Hoa. Hoa, hoa, hoa, hoa bưởi, hoa mai, hoa cúc, đâu phải lần đầu tiên trong đời tôi mới nhắc tới tiếng Hoa. Nhưng bữa nay, lần đầu tiên trong đời tiếng Hoa làm cho tim tôi chấn động, tiếng Hoa đối với tôi có một âm hưởng tuyệt vời. Mỗi lần nhắc tới tiếng Hoa, dù chỉ bí mật trong đầu, tim tôi cũng khựng lại một bước.

Tôi lấy tờ giấy mỏng, loại viết thơ, màu xanh lợt, tôi cầm cây viết ngòi lá tre nhúng vào mực tím mua đặc biệt cho bữa hôm nay, tôi gò gẫm chép lại bài thơ của Nguyễn Bính mà tôi thuộc nằm lòng:

Đã quyết không không được một ngày
Rồi yêu mất cả buổi chiều nay
Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá
Không biết là mưa hay nắng đây?

Lâu nay tôi thấy ở hồn tôi
Như có tơ vương tới một người
Người ấy… nhưng mà tôi chả nói
Tôi đành ngậm miệng nữa mà thôi!...

Tôi hồi hộp xếp lá thư xanh đút vào tờ báo Xuân ngoài bìa có vẽ một cành mai rực rỡ. Tôi sai Bút, thằng lỏi trong nhà trọ cầm tờ báo Xuân sang nhà cho “cô Hoa” mượn – chính nó đã cho tôi biết tên của nàng.

Nhà trọ thuộc loại nhà sàn, một nửa trên đất liền, một nửa dưới nước. Nhà nàng cách nhà tôi trọ một căn phía bên trái, cũng nhà sàn. Cách nhà trọ độ mười thước phía bên mặt là bến đò đưa khách từ Định Tường sang Vĩnh Tràng và trở về. Tết vừa qua được mấy bữa. Gió từ bến đò thổi vọng lại mát mẻ.

Mùa Xuân thơm tho hãy còn đó, thoang thoảng, ngây ngất.

“Hoa!... Em Hoa!...”

Tôi gọi nho nhỏ.

*

Hoa giở tờ giấy xanh mỏng đọc hết bài thơ của Nguyễn Bính rồi mỉm cười. Không! Giấy xanh mực tím là điều nghiêm trọng, đâu có thể mỉm cười như vậy được! Nàng chớp mắt cảm động, run run ép bài thơ lên tim mình rồi thầm gọi tên tôi. Nhưng nàng có biết tôi tên gì để mà gọi hay không? Nguy! Nếu nàng tưởng tôi tên Bính, họ Nguyễn thì hỏng hết! Trật lất. Tôi tên là Kiệt, họ Lê, Lê Tấn Kiệt, mười bảy tuổi. Tôi hối tiếc tại sao tôi không dám ký địa tên mình ở dưới bài thơ. Tôi cứ dụ dự mãi. Để bây giờ hư bột hư đường: Nàng ép bài thơ lên tim mình chớp chớp mắt rồi… nín khe!

Tờ báo Xuân ra đi cả ngày rồi không thấy trở về .Nàng đọc gì mà lâu dữ ! Tôi lóng nhóng ,bứt rứt ,bồn chồn .“Qua tên là Kiệt nghe cưng !Biết rồi ,khổ quá ,nói mãi!”. Tôi đi vô đi ra ngó vọng sang nhà nàng. Im ỉm. Tôi giở tập học ra ,rồi xếp lại , rồi giở ra .Học bài không vô . Cậu chuẩn Tú thở dài, dài thậm thượt. Nước sông lững lững lờ lờ, đò đâu chẳng thấy anh chờ hết hơi…

Một khi đã lậm với (ơ ơ…) tình !..

câu vọng cổ Năm Nghĩa xuống cả chục năm trước bây giờ nhớ lại mới thấy thấm thía. Than ôi! Tôi đã lậm với tình! “chao ôi! yêu có ông trời cứu”, Nguyễn Bính cũng đã kêu trời như bộng khi lê mòn gót trước cửa nhà nàng ở phố Hàng Đào ngoài Hà Nội. Vậy mà tôi không tởn. Tôi vẫn cứ giỡn mặt ái tình. Nếu nàng không đáp lại tình tôi, và ông Trời cũng không chịu cứu tôi, chắc tôi chết mất.không phải đây là lần đầu tim tôi rung động vì yêu nữ. Tôi đã có lụy với ái tình lai rai, bắt đầu từ thuở mới năm tuổi. Nhưng lần này thì khác. Lần này, lần đầu tôi cảm thấy tôi chỉ có một mục đích duy nhứt trên đời: Tôi sinh ra để … yêu nàng. Và nàng là Hoa. Hoa của tôi. Nàng yêu: tôi sống. Nàng không yêu: tôi chết! (dễ ợt!) Giết người không gươm giáo là mặt trận của ái tình. Năm Nghĩa cũng đã cảnh báo như vậy từ khuya. Tôi chết là hết sức đáng đời. Tôi sẽ ra bến đò đón đò băng qua bên kia sông, rồi sẽ đi mất biệt… Nhện sa xuống nước nổi phình, kiếu huynh kiếu đệ kiếu người tình tôi lui.

Nhưng tôi chưa kịp lui thì nàng đã ngoắc tôi lại. Phải, nàng đã ngoắc tôi lại. Tờ báo Xuân đã trở về - nàng đã đưa cho thằng Bút cầm báo về cho tôi. Tôi len lén leo lên gác trọ, hồi hộp giở ra. Lá thơ xanh của tôi đã biến mất. Thay vào đó là tờ giấy mỏng, cũng loại giấy viết thơ mầu hường lợt xếp đôi. Tôi mừng quýnh, run run giở ra, lật qua lật lại: không có một chữ viết. Tôi đưa lên mũi ngửi, chỉ có mùi giấy. Tôi chới với – tuy lòng sung sướng. Nàng muốn nói gì? Chỉ có trời biết được – mà cũng chưa chắc.

Đêm hôm đó tôi nằm lăn trở trên gác trọ nghe gió luồn rào rào qua mái lá, như trời sắp đổ mưa. Chúng tôi ba đứa từ Vĩnh Long sang học trọ. Mái nhà trọ thấp lè tè, đứng dậy phải khum lưng, tối tối ba đứa nằm sắp lớp như cá mòi. Trước tết, chúng tôi ở trọ gần trường và bến xe đò. Bến xe đò ban đêm có bà già đậu phộng lép đã được tôi tặng cho cái áo blousontrắng dính mực ở lưng lúc lập đông. Qua Tết, bà già đậu lép đâu mất. Còn chúng tôi thì dời về bến đò. Vì vậy mới đổ nợ. Vì vậy mới lậm với tình!

Vừa qua Tết nên thiên hạ còn múa lân. Lân tới đâu xóm bến đò tôi chạy ra coi. Coi cái đầu lân lên xuống lắc lư và khói pháo hăng hăng. Tôi nhìn thấy một cô gái mặc áo đen xinh xinh trắng trẻo, ẵm em cũng đứng coi múa lân, phía bên kia. Vừa thoáng nhìn nàng là tôi chịu liền. Không rõ tại sao. Đối với tôi, cái đầu lân và khói pháo thoắt đã biến mất. Chỉ còn nàng đứng đó mỉm cười, răng trắng đều óng ánh ngọc lựu. Môi nàng đầy đặn ửng hồng, môi trên cong dợn như cánh chim bay, ở giữa trũng xuống hình trái tim, môi dưới mở hờ… Trời ơi! muốn cắn một cái! Đặc biệt là đôi mắt. Đôi mắt không to tròn ngây thơ ngơ ngác con nai vàng. Mi trên bụp nhẹ lên như mắt Shirley Mac Laine, khi cười nheo nheo tình tứ, mi đen khép xuống dịu dàng nhung thẩm, sâu sâu phía trong lóe ánh long lanh vệt mắt gọi mời. Tôi bị thôi miên. Choáng váng. Ngất ngư.

Bắt gặp tia nhìn kì dị của tôi, nàng vội vàng cúi mặt, như linh cảm điều gì. Rồi ngửng lên liếc, rồi lại cúi xuống, làm bộ hun em mình. Khi lân đã đi xa, tôi theo dõi nàng bồng em ra về mới biết nhà nàng ở cạnh nhà mình trọ, chỉ cách có một căn. Phía trước nhà nàng là hàng ba lót gạch tàu đỏ, có rào cây song thẻ sơn nâu. Đằng trước nhà trọ thì trống lổng cho chiếc xe đò của ông chủ tối về đậu – loại xe Huê Kỳ sơn đỏ dài ngoằng, đưa rước khách Mỹ Tho – Sài Gòn. Chú Tư tánh tình hịch hạc, cười có răng bịt vàng nguyên hàm chói rực. Thiếm Tư có món cá trê nướng giầm nước mắm gừng ngon hết xẩy. Con chú là Hoàng tửng trạc tuổi tôi, xuống vọng cổ nghe cũng rung rinh cái rún lắm. Bút là thằng cháu bà con miệt Bến Tranh lên ở đậu nhà dì Tư đi học. Từ ruộng mới ra thành nó đen thui, chưn đóng phèn mốc cời mà nấu cá có hạng. Chỉ sai nó đi điều tra một chút là tôi đã biết được tên nàng: Hoa!

Vào nhà một chút nàng lại bồng em trở ra, liếc qua thấy tôi đang chống nạnh đứng ngó, nàng lại bồng em trở vô. Chặp sau nàng lại trở ra cầm cái khăn bàn giũ giũ ở ngoài rào lại liếc. Tôi đoán chừng nàng cũng có cảm tình với tôi – hạp nhãn? – nên tôi cũng vuốt tóc cười ruồi một phát. Khi nàng trở ra lần nữa, tôi làm gan hấp háy một bên mắt, đá lông nheo. Nàng liếc nhanh, mỉm cười đi vô. Rồi không trở ra nữa. Để tôi đứng một mình chống nạnh ngẩn ngơ, linh cảm phen này chắc mình đã thực sự sụp bẫy ái tình.

Tôi lăn qua trở lại hồi tưởng. Thắc mắc. Sao nàng chẳng viết cho tôi lấy một chữ! Hay nàng viết rồi nhè để lộn trang giấy chưa viết vào tờ báo Xuân? Chẳng lẽ nàng cũng như Hương, cô láng giềng yêu dấu của tôi ở Vĩnh Long, đã làm ngơ tình tôi? Hồi học đệ tứ, tôi đã làm gan cầm thơ tình sang tận lớp của Hương để trao trong giờ ra chơi. Tôi dám làm gan vì thơ đó không phải của tôi, mà là của thằng bạn tên Nhờ, bạn cùng lớp. Nó yêu nàng, tôi cũng si nàng, và tôi đi thơ cho nó, như thằng Bút bây giờ - quả thiệt tôi ngốc tử! Lúc Hương cầm lá thơ trong tay nhìn tôi, tôi lắp bắp, lính quýnh: “thằng Nhờ … anh Nhờ… anh Nhờ nhờ tôi đưa thơ của Nhờ… nó nhờ tôi… cho Hương”. Ý là trước khi ra đi tôi có dợt đi dợt lại câu đó cả chục lần. Nghe tôi cứ “nhờ nhờ” nàng tưởng tôi cà lăm. Tôi phải lặp lại mà cẳng chưn lạnh ngắt. Khi hiểu được thông điệp, nàng mỉm cười trả thơ lại cho tôi: “Tưởng thơ của anh thì Hương lấy, chớ thơ của người khác thì Hương không lấy đâu”. Tôi quê quá, kéo tai gãi gãi rồi bần thần lui gót. Về lớp tôi lại bị thằng Nhờ mạt sát là đồ vô tích sự!

Từ đó mỗi lần nghe nói tới “thư tình” là tôi ê càng. Đường tình thiệt lắm chông gai mà những người đi trước tôi chẳng ai chịu dẹp bớt. Thiệt khổ hết sức! Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu. Tôi lăn qua trở lại trong góc tối một hồi thấy mình ê ẩm. Ái tình là cái làm cho người ta mất ngủ, như thằng Nhờ đã định nghĩa. Làm sao bây giờ! Một mình lưỡng lự canh chầy. Chợt có tiếng trẻ khóc từ phía nhà nàng vọng sang, rồi tiếng ầu ơ trong veo, thoang thoảng:

Ầu ơ…
Má ơi con vịt chết chìm
Con thò tay vớt nó, con cá lìm kìm rỉa (ớ ờ) tay…
Ầu ớ… 

Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn
Bao nhiêu lá rụng (ơ ờ…) anh thương nàng bấy (ó ờ) nhiêu
(ầu ơ…)

Gió từ bến đò thổi vọng lại đong đưa tiếng ru em nghe rầu thúi ruột. Chắc là tiếng nàng ầu ơ chớ chẳng ai đâu. Bao nhiêu lá rụng… Phải! Bao nhiêu lá rụng mà nàng đâu hay biết! Tôi lăn qua. Thương nàng nhiều vô số kể như lá me nhỏ chi chít của hàng me rậm rạp trồng hai bên con đường lởm chởm đá trắng chạy dọc theo bến đò. Tôi thở dài, lăn trở lại. Chợt trí tôi bừng sáng trong bóng tối. Nàng biết hát ru em, vậy tôi phải đi vào tâm hồn nàng bằng lối mòn tâm tình dân tộc: Con đường Ca Dao!

Chấm ngòi viết lá tre vào mực tím, tôi lại bồi hồi gò gẫm trên tờ giấy mỏng xanh lợt:

Đêm khuya thắp chút dầu dư

Tim can cháy lụn anh sầu tương tư một mình.

Tôi chấm mực, đọc lại hai câu vừa viết. Phải mùi hơn một chút nữa mới được. Lại húy hoáy:

Thấy cô nho nhỏ tôi muốn nghỉ cái nghề đờn,

Theo cô mần tùng giả quánh quờn cho cô coi.

Như vậy biết nàng đã chịu rung động chưa? Mực tím tiếp tục:

Tháng ba trời hạn sen tàn,

Đêm nằm trải lá gan vàng đợi em.

Ngưng viết đọc lại, vẫn chưa vừa ý. Cứ nói bóng nói gió làm sao mà nàng hiểu đặng với cái tuổi mới xấp xỉ mười lăm mười sáu trăng tròn? Hay cứ nói phứt ra cho rồi. Tôi nhồi nhồi ngòi bút trong bình mực rồi rút ra gạt mực dư trong miệng bình:

Em hãy thề với anh hết miễu qua chùa

Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê?

Đậm đà hơn chút nữa coi:

Anh đi lục tỉnh giáo vòng,

Tới đây trời khiến đem lòng thương em.

Như vậy đã lay chuyển tim nàng được chưa? Tôi nhớ đôi mắt nàng khi cười nheo nheo nhỏ lại tình tứ. Tình tứ, đa tình… chung tình, phải đó!

Làm thơ trái ấu gửi thấu chung tình,

Anh đau tương tư bịnh nặng,
Không thấy mình vãng lai…

Tội nghiệp như vầy mà nàng không thương nữa thì thôi! Lòng tôi lai láng như con sông Định Tường nước lớn. Tôi còn viết nữa viết hoài cho tới lúc trái đất ngừng quay, trái tim ngừng đập cũng không sao nói hết được. Tôi xếp tờ giấy xanh bỏ vào giữa tờ báo Xuân rồi sai thằngBút cầm đi. Tôi còn bốn câu độc đáo nữa nhưng đợi tới lúc quyết liệt mới liều mạng đem ra xài. Chờ phản ứng của nàng xem sao đã.

Buổi chiều tôi ôm cây đàn ghi-ta sáu dây ra ngồi ở băng cây trước nhà so tơ nắn phím cho Hoàng Tửng xuống vọng cổ. Tôi biết đờn thuộc lòng hết câu vọng cổ số một do Hai Te, anh thợ mộc tài hoa của ba tôi dạy cho lúc học đệ ngũ – thuở đó tôi thầm kín si tình Lệ Dung qua tiếng xuống vọng cổ mùi mẫn ngậm ngùi của Hai Te: “Lệ Dung em ơi! Sao em nỡ đan tâm lòng quyết sang (ơ ờ…) Tề!...” Tôi dạo nhạc nhấn nhấn nghe cũng ra rít lắm. Hoàng Tửng thì khoái hát “Hoàng tử lưng gù”, cái đoạn ông anh xấu xí nầy bắt gặp người tình xinh trẻ và thằng em đẹp trai mắc dịch của mình đang ôm nhau xà nẹo. Hoàng Tửng nói lối:

“… Giờ nầy ta phải chứng kiến đôi chim non nớt kia đang âu yếm ấp ủ nhau trong đêm đông tàng tịch…
Còn ta! … (Hoàng Tửng ngưng một chút rồi lấy trớn nói lối thúc lên để chuẩn bị xuống vọng cổ cho mùi)… Ta phải chịu bấy nhiêu điều đau khổ cay đắng như dày vò như cấu xét cho tan nát mảnh (ảnh…) tơ… (ơ ơ…) lòng!”

Đứt ruột! Con gái con ông chủ vựa mắm ngang nhà chắc cũng rung rinh cái rún mình không ít. Tôi lẳn tẳn một hơi kè theo Hoàng Tửng cho tới lúc chấm dứt câu vọng cổ. Hai thằng đềuđã đời. Tới phiên tôi chuyển sang tân nhạc. Tôi bấm ắc-co búng vừa dây vừa vỗ thùng đờn bùm bùm, cất tiếng hát: “Dựng một mùa hoa”:

Chào bình minh Hoa ban mai lả lơi…
Nhạc dịu êm chim tung bay ngàn lối…

Tới tiếng “Hoa” là tôi cố tình rống lớn, mong thấu tới tai nàng. Tôi thấy nàng bồng em ra đứng trước hàng ba giả bộ ngó lên ngọn me, đoạn đảo mắt liếc nhanh về phía tôi (Tôi vội vàng hấp háy một bên mắt) rồi nàng ẵm em đi vô… Hoa bướm tung bay, trong nắng yêu đời… (cha cha cha)… Tôi lại hét lớn tên nàng. Chắc chắn nàng phải cảm động. Có dè đâu cái xảo thuật này, tôi có dùng với Hương từ hồi còn học đệ tứ ở Vĩnh Long!

Chiều chiều Hương ra bên hông nhà lấy gàu mo tưới giàn trầu. Nhà tôi cách đó hai căn, tôileo lên gác ra ngồi ở bực cửa sổ nắn phím cố gân cổ lên “Gợi giấc mơ xưa”: “Chiều nay lênh đênh trên sông Hương (rống lớn chữ Hương!)… Theo gió ru hồn về đâu? … (Dìa đâu thì dìa, thằng cha nầy hỏi lãng nhách, chắc Hương nghĩ bụng). Dù ở Vĩnh Long chỉ có sông Thiềng Đức, sông Cá Cái, sông Cổ Chiên và sông Long Hồ, nhưng tôi vẫn cứ nằng nặc đòi “lênh đênh trên sông Hương” cho bằng được. Có lẽ thấy tôi đòi “lênh đênh” dữ quá nên nàng bèn dứt dây cho tôi trôi luôn. Ngày tôi lên đường du học Mỹ Tho, nàng đính hôn với con ông chủ vựa nước mắm ngang nhà. Chẳng những tôi đau khổ mà thằng con ông chủ hãng cà-rem khít bên vựa nước mắm, thằng Dự, cũng đau khổ không ít. Bây giờ nó lại chung nhà trọ với tôi. Ly hương! hai thằng mà chung một tâm sự. Còn thằng thứ ba là Quâng, một cây mít ướt, bị tôi ghẹo khóc tối ngày từ đệ thất lên tới đệ tứ. Vậy mà chưa tởn còn lẽo đẽo theo ở chung trọ.Nhưng đỡ một cái là bây giờ cả bọn sắp trở thành cậu Tú Một nên Quâng không còn là đối tượng của tôi nữa.

Đã một lần vì yêu nữ mà lênh đênh vô bờ bến trên sông Hương nên phen này tôi phải liệu trước đề phòng. Nếu sau khi nhận lá thư xanh thứ hai viết bằng mực tím của tôi mà Hoa vẫn nỡ nhẫn tâm không đáp lại tình tôi thì tôi nhứt quyết sẽ… xả láng, tung ra bốn câu tuyệt mạng:

Đèn Mỹ Tho ngọn xanh ngọn đỏ
Anh coi không tỏ rõ, anh tưởng đèn màu
Rút gươm đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh!

Chỉ nghĩ tới bốn câu đó thôi, tôi đã rùng mình nổi da gà. Maria hỡi, linh hồn con ớn lạnh!Nhưng tới mức đó mà nàng vẫn bình tâm như vại thì tôi cũng nên đâm họng mà chết phứt đi cho rồi. Trước khi nhắm mắt, tôi sẽ cho xâm lên ngực mình bốn chữ: “hận kẻ bạc tình”, bên cạnh trái tim có mũi tên xuyên qua chảy máu nhểu giọt.

Sau màn trình tấu tân cổ giao duyên giữa tôi và Hoàng Tửng và sau buổi cơm chiều với canh chua, cá rô chiên có trứng vịt giầm nước mắm tỏi ớt, tôi leo lên gác nằm ngửa, ngó mái lá thở dài. Một cọng lá lẻ loi rung theo gió từ mé sông thốc lên, khua lè tè. Tự nhiên tôi muốn chảy nước mắt. Tôi biết rằng tôi yêu mất rồi! Chao ôi yêu có ông trời cứu !

Chợt có tiếng ai leo lên cầu thang nhè nhẹ. Thằng Dự và Quâng mới đèo nhau bằng xe đạp đi chơi. Ai đây? Tôi tính trở mình thì có tiếng “suỵt suỵt”. Tiếng của sứ giả: Bút Bến Tranh! Tôi mừng quá liền lật úp mình trở lại. Thằng Bút ló đầu lên gác trọ cầm tờ báo Xuân đưa cho tôi, nhăn răng cười rồi thụt xuống. Tôi tính kêu nó lại vặn hỏi nhưng nó đã chạy vọt ra đường. Tôi hồi hộp giở tờ báo ra lật kiếm. Một tờ giấy màu hường lợt xếp đôi rớt xuống:

“Hoa”. Mở trang giấy mỏng thấy có chữ viết. Tôi mừng quýnh kê trang giấy hồng dưới ánh sáng nhá nhem xuyên qua ô kiếng trên mái lá, nhướng mắt cố gắng đọc:

Em dạo chơi mười tám nước chư hầu
Chưa nghe ai than thở thảm sầu hơn anh.
Chuyện chi mà bắt em thề
Cầm dao lá liễu dựa kề tóc mai
Nước sông khỏa múc một vùa
Ai cho em uống thuốc bùa em mê?




“Em mê!” nàng mê. Hoa đã mê. Hoa đã yêu tôi. Em đã yêu anh! Tôi áp trang giấy hồng lên ngực, sung sướng quá đỗi. Tôi bật người ra sau nằm ngửa trên sàn, hai chân co lên, hai bàn chân đập lạch bạch trên sàn gác trọ, miệng rên ư ử, mũi thở phì phì. “Ai cho em uống thuốc bùa em mê?” Qua cho em chớ ai cho em mà còn làm bộ hỏi! Nàng đã đáp lại tình tôi. Hoa cũng yêu tôi. Bây giờ nếu nàng chạy qua đính chánh tôi đã hiểu lầm hai tiếng “em mê” là tôi sẽ đứng tim chết liền tại chỗ. Còn hồ nghi, tôi đưa tờ giấy hường lên cao, lật qua lật lại, không thấy có viết gì thêm tôi mới yên bụng.



Tôi đứng bật dậy thẳng lưng va đầu lên kèo tre của mái lá nổ đom đóm. Tôi ngồi xuống vớ cây lược chải sơ lại mái tóc, vuốt sơ lại quần áo rồi tuột xuống gác. Tôi chạy ra trước cửa ngó qua nhà nàng bắt gặp Mân, gã anh bà con của nàng cũng đang quay cổ ngó tôi. Hai đứa nghinh nghinh, chưa quen nhau. Tự nhiên tôi cụt hứng, trong bực dọc có lẫn chút ghen tức. Hồi đó Mỹ Tho còn chấn động vì vụ án “Hải Đường”. Cô Hải Đường đâu mười sáu tuổi và người anh trai bà con đa tình yêu nhau. Gia đình biết được rứt hai người ra, chia uyên rẽ thúy vì sợ tai tiếng. Cậu con trai nổi điên cầm dao con chó đâm Hải Đường nhiều nhát ngã gục xuống mương trước cửa nhà chết tốt. Tôi ngó Mân nghi ngờ. Tôi để ý thấy hắn không có lận dao con chó. Nhưng làm cái gì mà nghinh dữ vậy cha nội?



- Cậu Kiệt!



Tôi giựt mình quay lại thấy thiếm Tư đang đứng sau lưng mình từ hồi nào. Có lẽ vẻ dị hụ phát tiết ra ngoài trên mặt mũi tôi, thiếm hỏi:



- Nãy giờ cậu ở đây có một mình hả?
- …?
- Vậy mà tôi nghe cái gì lạch bạch trên gác, tôi tưởng cậu giỡn với cậu Dự chớ.
- Dạ … dạ tôi giũ chiếu đặng nằm cho đỡ xót … chớ đâu có giỡn với ai.

Tôi lúng túng nói trớ rồi giả bộ bước ra đường đi thẳng ra bến đò hứng mát. Cô lái đò tưởng tôi là khách lên tiếng mời, tôi thối thoát. Cô đẩy đò ra sông với hai người khách muộn và chèo bì bõm qua bên kia bờ Vĩnh Tràng. Chuyến đò cuối, cô không trở qua nữa.

Ngồi một mình ở gốc me cạnh bờ sông gió mát, tôi dần dần tỉnh mỉnh. Hoa ơi! Ai cho ai uống thuốc bùa ai mê? Nước đập lách tách dưới dạ cầu nơi bến đò sẫm tối. Sông dài cá lội sóng xao, nhớ em anh ra đứng bờ ao đỡ buồn. Hận sông Hương còn đó. Chẳng lẽ con sông Định Tường bây giờ mắc mớ gì khi không lại phản tôi? Đôi mắt của Hoa hiền lành quá, tôi không tin nàng đành đoạn phụ rẫy tình tôi. Tôi phải gặp mặt nàng cho rõ lẽ. Còn hơn là chun về gác trọ nằm dẫy lạch bạch một mình như … cá lóc bị đập đầu.

Tàn me xanh đen xào xạt. Bao nhiêu lá rụng, thương nàng… Xào xạt! Phải rồi, nàng quét nhà. Tôi đã nghĩ ra. Mừng quá! Sáng nào nàng cũng dậy rất sớm, khoảng năm giờ rưỡi sáu giờ sáng, và nàng cầm chổi ra trước nhà quét hàng ba và quét lá me trên mặt lộ gom thành đống hai bên góc hàng ba. Lúc đó mới tờ mờ sáng, nàng chỉ có một mình. Chờ cho trăng lặn, tôi bèn bước tới trao thơ. Tuyệt! Tôi vụt chạy về gác trọ lôi tờ giấy xanh mỏng và bình mực tím, nằm sấp chuẩn bị múa ngòi lá tre vi vút.

Trong lúc sóng lòng đang dâng lai láng, văn chương của tôi lại chợt bí, như vậy mới kẹt. Chẳng lẽ vừa khai bút tôi lại xả láng liền một khi: “Rút gươm đâm họng máu trào”, coi sao đặng. Tôi định cầu cứu sư phụ Nguyễn Bính:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu một cây… xanh dờn.

Cũng không hợp tình hợp cảnh. Nhưng biết nói gì bây giờ? Thằng Dự và thằng Quâng lại sắp về tới. Thôi để gặp nhau cái đã rồi muốn nói gì đó thì nói. Tôi bấm gan viết đại, dù biết rằng: “bút sa là gà chết”:

“Hẹn em sáng mai, thứ Năm, trước hàng ba nhà em lúc năm giờ sáng. Đừng phụ lòng kẻo anh mong đợi.” 
(Ký tên: Người lậm bùa).

Tối đêm đó tôi trằn trọc trắng dờ con mắt. Nghe tiếng nàng ầu ơ văng vẳng tôi lại muốn sa nước mắt. Chắc tôi chết mất. Chắc tôi phải chết vì quá lậm với tình. Tôi phải chết vì quá yêu nàng. Bao nhiêu lá me rụng, tôi thương nàng bấy nhiêu. Hồi đó tới giờ tôi sống không có nàng không sao, nhưng bây giờ không có nàng tôi không thể nào sống sót nổi… Thằn lằn chắt lưỡi trên kèo lá, cắc kè nghiến răng ở ngọn me bến đò hay thằng Dự mở tiệm cưa trên gác trọ gì tôi đều nghe hết thảy. Tờ mờ sáng tôi lò dò tuột xuống gác, tới núp sau đuôi chiếc xe Huê Kỳ của chú Tư như thằng ăn trộm. Trên xe chỉ có thằng Bút nằm ngủ chèo queo ở băng sau nên tôi không sợ.

Vừa nghe tiếng sột soạt từ phía nhà nàng vọng lại tôi chết điếng, tay chưn vụt lạnh ngắt, tim vỗ thùng đờn như đệm nhịp “Dựng một mùa hoa” (cha cha cha). Khi nghe tiếng chổi xuống đường, tôi cầm lá thơ tình đã xếp lại nhỏ xíu rời khỏi chỗ ẩn núp. Bước ra đường tôi nín thở xăm xăm bước về phía Hoa đang tảo thanh lá me. Nàng ngửng đầu lên ngạc nhiên, ngó tôi:“Trời ơi! chết qua rồi em Hai ơi!”. Tôi dừng lại một giây, nhét đại lá thư tình màu xanh vào lòng bàn tay nàng đang đặt trên đầu cán chổi. Hoa chưng hửng, lá thơ rơi xuống mặt đường. Tôi bước thật nhanh. Anh Kiệt! … (Hương đang gọi tôi để trả lại lá thơ tình). Anh Kiệt! …Tôi vụt bỏ chạy.

Khi dừng bước giang hồ ở gốc me cuối con đường đá trắng tôi ngó trở lại. Hoa không còn ở đó nữa. Cột điện cao trước nhà nàng, bên kia đường, tỏa ánh sáng lù mù. Tôi từ từ đi trở lại, dọc theo phía bên kia đường. Gần tới nhà nàng, tôi băng ra giữa lộ. Tới trước nhà nàng, tôi ngó xuống mặt đường kiếm dáo dác. Không thấy dấu vết mẩu giấy xanh xếp nhỏ xíu đâu hết. Tôi mừng rơn. Nhưng vừa về tới gác trọ, tôi lại đâm lo. Mà chẳng lẽ tự dưng chạy ra bươi hai đống lá me cạnh hàng ba nhà nàng mà kiếm? Rủi má nàng chạy ra hỏi “ cậu kiếm cái gì?” Chắc chỉ còn có nước độn thổ!

Cả ngày hôm đó, tâm hồn tôi phưởng phất ở trên ngọn cây me hay cuốn theo chiều gió thổi lại từ bến đò. Trước khi chun vô mùng, tôi vặn đồng hồ reo dợt thử coi nó reo có đúng giờ. Tôi dặn hờ thằng Dự, Hoàng Tửng, thằng Bút, ai có dậy sớm thì kêu tôi thức. Rốt cuộc tôi thức sớm hơn ai hết, sớm hơn cả cái đồng hồ reo, vì tôi có ngủ nghê gì đâu. Nàng được thơ? nàng không được thơ ? Cứ vậy mà tôi lăn qua lăn lại cả đêm. Tôi cẩn thận nhấn nút đồng hồ reo cho nó nín, rồi lò dò đi đánh răng súc miệng vội vã để còn ra có mặt trước giờ hẹn. Năm giờ thiếu bảy phút: “Hôm qua qua hẹn qua qua bây giờ qua qua”.

Tôi thò đầu ngó qua hàng ba nhà nàng. Không thấy ánh sáng hắt ra ở cửa sổ. Tôi bước ra đường, đi khỏi hàng ba độ chục thước dọ dẫm rồi quay trở lại. Tối tăm. Im lìm. Tôi dụ dự. Tới đầu hàng ba phía bên nhà trọ tôi dừng bước. Tôi đứng xen vào giữa hai vách lá phân cách nhà nàng với nhà bên cạnh. Tôi thụt vào trong bóng tối chờ đợi. Bí mật. Kín đáo. Nhưng chưa đầy một phút, bầy muỗi đói dưới nhà sàn đánh hơi người xông lên xạ kích tôi ào ào, xuyên qua vải quần vải áo, chích lên tay, mặt mũi để trần. Chịu đời không thấu, tôi vọt ra ánh sáng ngoài đường lộ. Nhà nàng vẫn im lìm. Hồi lâu tôi nghe có tiếng lục đục trong nhà, rồi có ánh sáng le lói bật lên xuyên qua khe vách. Tôi vội vã trở lại chỗ ẩn núp giữa hai vách lá hồi nãy. Lại muỗi. Lại xạ kích. Tôi lại vọt ra. Tiếng động trong nhà nhiều hơn, lớn hơn, xen lẫn có tiếng guốc. Tôi đành bấm bụng đứng nửa trong nửa ngoài, nửa sáng nửa tối. Khi đó nếu ai cắc cớ biểu tôi định nghĩa ái tình, tôi sẽ đáp ngay lập tức: “Ái tình là cái làm cho người ta bị muỗi cắn, (hoặc văn chương hơn) là cái làm cho người ta rỉ máu”.

Bỗng từ cuối đường có tiếng lụp cụp. Trong ánh sáng lù mù chập choạng một khối đen vuông vức bước tới. Tới gần. Thì ra chiếc xe hủ tiếu bán dạo đẩy ra chợ sớm. Khi xe tới gần nhà nàng, tôi giựt mình thụt vô giữa hai vách lá, rồi ló ra, rồi thụt vô. Bỗng chiếc xe dừng lại trước cổng nhà nàng, bên kia đường, dưới cột điện, người đàn ông bỏ chiếc xe đang đẩy đi xăm xăm về phía tôi, dừng lại, cất tiếng hỏi:

- Ai ló? Ai lứng ló?
Giọng cắc chú lơ lớ. Tôi bước ra:
- Tui đây, tui đây mà … Nhà tui ở gần đây.
Tôi vừa trả lời nho nhỏ vừa chỉ cái đuôi xe Huê Kỳ ló ra trước cửa nhà trọ.
- Zậy hả? Xao lị không ỉa trong nhà mà lị da ỉa lây làm cái zì?
- Tui … tui đi lượm banh.
- Hà! Chòi lất ơi mí tỏn sáng mà lị lá panh thì bà con lối xóm làm xao nghì ta ngủ cho liệt?
- Hổng có đá! Đá từ hồi chiều banh rớt xuống đây bây giờ tôi đi kiếm.
Xì-thẩu có vẻ hoài nghi:
- Ò… ò… Mà lị làm cái zì kí thụt da thụt dô hoài làm ngộ tiểng lị là thằng ăn chộm chí! hầy lá!...

Nhưng có lẽ thấy mặt tôi không lộ vẻ gì bất lương nên xì-thẩu quay trở lại xe hủ tiếu đẩy tiếp. Tiếng lụp cụp xa dần. Hú hồn! Tôi làm gan đứng đại ngoài ánh sáng, tựa bụng vào song rào gỗ đầu hàng ba.

Ánh sáng vụt bật lên hắt qua cửa sổ. Tim tôi đập loạn cào cào. Tôi nghe tiếng ho của nàng sát cửa cái, rồi tiếng chốt mở. Nàng bước ra! Ngó thấy tôi, nàng chới với thụt vô, tôi cũng chới với. Nhưng chỉ một phút nàng lại trở ra liền. Nàng cúi xuống quơ chổi quét loạt xoạt trên hàng ba, từ từ tiến về phía tôi. Nàng dựng chổi dựa rào. Đặt hai bàn tay lên đầu song gỗ. Một cách hết sức máy móc, tôi úp hai bàn tay tôi lên bàn tay nàng. Tay nàng lạnh ngắt run nhẹ. Tôi hỏi nhỏ:

- Hoa có được thơ anh không?

Nàng khe khẽ gật đầu. Tôi im lặng. lúng ta lúng túng không biết bắt đầu từ chỗ nào. Nàng mặc bộ bà ba đen, cổ nàng trắng ngần, tóc nàng hăng hăng mùi nắng. Tôi đỡ cằm nâng đầu nàng ngửng lên. Buông ra, nàng lại cụp đầu xuống. Tôi lại nâng lên. Buông ra, lại cụp xuống. Đến lần thứ tư, nàng mới chịu để yên. Nàng ngó tôi, đôi mắt long lanh trong bóng tối. Tôi úp hai bàn tay lên màng tang của nàng, hai ngón tay cái ve vuốt mi mắt trên bụp nhẹ của nàng và đường lông mày măng tơ. Như nhung. Cảm giác như nhung. Êm đềm chi xiết. Nàng nheo nheo rồi nhắm mắt lại, giấu kín ánh long lanh sâu khuất trong đáy mắt.

Hơi thở nàng cũng thúc ngắn như hơi thở tôi, cảm thấy mạch máu ở màng tang nàng chấn động phập phều, tưởng chừng như mỏ ác dễ vỡ của trẻ sơ sinh. Tôi cúi xuống cạ nhẹ môi tôi lên môi nàng. Lướt qua, khẽ lướt qua… Mướt như lụa. Tuyệt diệu. Thần tiên. Hoang đường! Chợt nghe kiểng đổ trong đầu, thánh thót, ngân nga, vang vang, lùng bùng. Môi nàng khép kín. Nụ hôn đầu đời. Phớt nhẹ. Một lần. Chỉ một lần thôi. Mà vĩnh viễn!

Tiếng kiểng tiếp tục ngân nga trong đầu. Chợt nghe có vẻ khác lạ. Tiếng kiểng… không, không phải tiếng kiểng, tiếng trẻ khóc, tiếng trẻ đang khóc trong nhà. Rồi tiếng của má nàng cất lên gọi tên nàng. Hoa vội vã lùi lại rồi xô cửa bước trở vào nhà. Tôi đứng lại một mình tần ngần. Hồi lâu, e bất tiện, tôi cũng lui gót trở về gác trọ. Mọi người hãy còn say ngủ. Còn tôi cũng say, mà say ái tình! Ra về bụng nhớ người thương, tay vỗ thanh giường chép miệng thở than 


Kiệt Tấn














Em Vịt vàng nhỏ của tôi ơi!







Má ơi con vịt chết chìm
Thò tay vớt nó con cá lìm kìm rỉa tay

Ca Dao



Lép kép! Lép kép! Con vịt con thò chiếc mỏ vàng nhỏ xinh xắn rỉa mấy hột cơm tôi vừa mớm ra cho nó ở miệng. Nó ngước lên nuốt mấy hột cơm, chiếc cổ nhỏ xíu ngửng lên trời ngửa ra sau, xong nó dương đôi mắt khù khờ ngó tôi kêu lép kép chờ đợi. Tôi đưa vịt con cạ cạ lông nhung mịn của nó lên má mình, lòng rạt rào sung sướng, thương quá là thương! Tôi sáu tuổi, con vịt con vừa nở được năm ngày. Nó đưa chiếc mỏ rỉa trong vành tai tôi nhột nhột khiến tôi rụt đầu ngoẻo cổ qua một bên. Vậy mà đã ghê. Vịt con thủ thỉ chuyện trò với tôi, lép kép! lép kep!... Chỉ có một mình tôi hiểu được em tôi muốn nói gì.

Tôi mở tay ra. Con vịt nhỏ nằm gọn lỏn trong hai bàn tay tôi, ngoan ngoãn, lép kép! lép kép! Toàn thân con vịt màu vàng, lông tơ mịn màng non nớt thơm tho, mỏ và chân hơi ửng màu cam, trên mỏ có chấm hai lỗ thở nhỏ xíu, mắt tròn vo đen lay láy, ngây thơ ngờ nghệch. Lép kép! lép kép! Tôi lại mớm cho nó mấy hột cơm. Tôi dặn nó kêu nho nhỏ, sợ má nó nghe được chạy tới đòi lại. Má nó là con vịt xiêm mái cồ đã đẻ nhiều lứa, giữ con thiệt hay nhưng cũng rất dữ tợn, ba tôi gọi con vịt mẹ này là con vịt Mẫu Hậu. Có lần tôi bắt con nó để giỡn chơi bị nó bay đáp lên đầu vừa quào vừa mổ chảy máu, tôi la khóc chói lói và cũng kể từ đó tôi sợ nó lắm.

Vì vậy lần này tôi lén bắt con vịt vàng nhỏ trốn ra góc hè, ngồi dựa vách lá chỗ khuất để được tha hò mà tưng tiu trững giỡn với nó. Mà nói cho ngay, con vịt vàng này là của tôi chớ không phải là con ruột của con Mẫu Hậu. Cách đây đâu chừng ba tuần lễ, má tôi biểu tôi ra đồng lùa vịt. Tình cờ tôi lượm được một trứng của con vịt mái nào đó đẻ rớt. Tôi đem về lấy mực làm dấu rồi lén bỏ vô ổ cho con Mẫu Hậu ấp chung với mấy trứng khác cùng chạng. Vịt xiêm biết ấp trứng, còn vịt ta thì không biết. Chừng nở ra mấy con vịt kia đều cùng một họ Xiêm lớn con màu xám có hai chấm vàng trên cánh, chỉ có trứng vịt làm dấu của tôi là nở ra con vịt nhỏ nhứt vàng lườm vô cùng xinh xắn. Nhưng con Mẫu Hậu không kì thị chủng tộc một chút nào, con nào cũng là con của nó hết, tôi rớ tới con vịt vàng là bị nó xòe cánh mổ liền. Còn giống vịt cũng ngộ lắm, khi nở ra là theo riết người mẹ mà nó ngó thấy trước tiên lúc mở mắt. Bởi vậy nên mới có cái cảnh mẹ gà con vịt chít chiu, khi lũ vịt con chạy ùa xuống nước bơi lội thì mẹ gà chỉ còn nước đứng trên bờ gọi khan cả tiếng … rồi rút khăn mù-xoa ra mà lau lệ.

Trước khi xảy ra vụ Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương và phong trào Việt Minh nổi dậy, gia đình tôi sống tại châu thành Bạc Liêu, ba và anh Hai tôi chung sức tạo dựng được một trại mộc nhỏ. Khi giặc giã tràn tới, gió bụi nổi lên tơi bời, anh Hai và anh Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, còn ba tôi thì đóng tam bản chở gia đình đi tản cư. Sua hơn một năm lang bạt kỳ hồ, muỗi cắn đỉa đeo, kẻ đau gan người mang bịnh thũng, chúng tôi chịu đời không thấu nên hồi cư.

Về thành, trại mộc đã mất, ba tôi bèn biệt kinh kỳ tấp về Xóm Mới ở ngoại ô Bạc Liêu làm lại cuộc đời. Chúng tôi ở nhà mướn, ba tôi cất một trại mộc mới nhỏ hơn, cùng với anh Hai và chú Chín câm điếc của tôi bào đục, tự lực cánh sinh. Còn má tôi thì nuôi thêm gà vịt đắp đỗi. Má tôi vốn người quê mùa miệt Cờ Đỏ nên cũng ham nuôi heo nuôi gà nuôi vịt lắm. Tôi cũng ham không kém vì lần nào có một lứa gà hay vịt nở, má tôi đều cho tôi tự ý lựa chọn một con làm bạn riêng và tha hồ cho tôi tưng tiu chăm sóc nó. Vì vậy, khi trứng bắt đầu khẻ mỏ, tôi cứ túc trực canh chừng bên ổ, mặc tình cho mấy con mạt gà (một loại giống như bồ mắt) từ gà mẹ hay từ ổ bay ra chun vô áo mà cắn, ngứa ngáy gãi sướt cả da. Tôi gàn lì ở lại giúp cho gà con và vịt con khẻ mỏ gấp gấp và chun ra khỏi vỏ mau mau. Mỗi bận một con nở ra là mỗi bận tôi reo mừng và thú vị hết sức.

Cùng lứa với con Mẫu Hậu là con vịt xiêm đực, hỗn danh Đại Bàng, tên này cũng do ba tôi đặt. Con Đại Bàng mắc chứng cuồng dâm nên vịt xiêm, vịt ta, vịt lớn hay vịt nhỏ gì đều cũng bị nó đạp mái ráo trọi. Cả gà ngỗng cũng bị nó hiếp dâm luôn. Gà mái bị đã đành, gà trống cũng bị như thường. Gặp nhầm gà nòi đá độ, anh chàng bị phang cho mấy cựa đổ máu giạt ra mà rồi cũng bị Đại Bàng đáp đại lên lưng mổ cắn trì kéo lỗ tai heo và vặn vẹo cái đuôi vịt, không biết ý gì. Bận khác, bà chủ nhà của tôi ra ngồi ở bãi cỏ khuất mà giải thủy, tưởng đã yên chí, ai dè Đại Bàng nằm vùng ở đó tự lúc nào bèn đưa mỏ cứng ướm thử cái bàn ngồi của bà chủ một phát. Bà la chói lói và chạy vô mắng vốn má tôi bà bị con vịt phải gió của nhà tôi nó rỉa. Ba tôi che miệng cười khúc khích nói nhỏ với anh Hai tôi: “Gặp tao tao cũng rỉa nữa … huống hồ là con vịt!”

Mãi về sau này, dung rủi lần nọ khi đã tàn cuộc truy hoan trên mương lộ trước nhà, Đại Bàng còn hứng chí vỗ cánh phùng xòe bản Hành dâm khúc mà quên thu hồi báu kiếm, xảy đâu có chàng cá lóc lội ngang nhác thấy tưởng là mồi bở trồi lên đớp mất. Thế là … tàn đời bạo chúa! Nhưng Bạo chúa không chịu băng hà, cho nên mới chết dân lành. Vì khi bị dâm hành mà đạp mái không được, Đại Bàng nổi điên vỗ cánh bay lên ngọn cây rượt theo mấy con quạ và chim tu hú mà cắn mà mổ. Rồi một chiều mưa gió nọ, Đại Bàng đã lướt gió tung mây vĩnh viễn ra đi, vịt cồ nhất khứ bất phục phản (hay là bạo chúa đã xuống tóc đi tu?). Kể từ đó thanh bình mới thực sự được vãn hồi cho gà vịt heo ngỗng (và bà chủ nhà) trong Xóm Mới hiền hòa của tôi.

Nhưng đối với bà chủ nhà, tôi chỉ nể mà không ghét. Ghét là tôi ghét cậu em trai của bà chủ. Cậu này là bợm nhậu mút mùa, chó vàng chó vện gì mập mập mà lảng vảng trước mắt cậu là kể như tới số. Cậu đi đâu chó trong xóm hùa ra sủa vang rân tới đó. Thỉnh thoảng thiếu mồi, cậu lại ghé qua chuồng gà chuồng vịt của nhà tôi mà dòm dèm. Tuần trước cậu lại ghé nhà tôi mượn đỡ con gà, nói là để đưa ông táo về trời trong dịp cuối năm, Tết nhứt tới rồi. Về mặt lý thuyết, tôi chẳng có gì chống đối. Nhưng trên thực tế, ác thay cậu lại nhè chọn con gà giò mà má tôi đã cho tôi chọn bạn từ hồi mới nở, tôi chăm sóc rất kỹ, cứ ôm ấp hoài và cho ăn thêm nên nó mập bự hơn mấy con khác cùng bầy. Như vậy mới đổ nợ. Khi cậu chỉ tay chọn con gà ruột của mình, mặt tôi vụt xanh dờn bí xị và mếu khóc. Má tôi ôm tôi vào lòng và năn nỉ cậu chọn con gà khác mà cậu nhứt định không nghe, đã vậy còn lên mặt giận hăm he đuổi nhà. Khi cậu thò tay ẵm con gà giò của mình, tôi lăn ra khóc sướt mướt. Má tôi cũng sụt sịt và hết sức dỗ dành tôi. Má tôi hứa khi vịt nở, má tôi sẽ đền cho tôi con khác. Tuy vậy, tôi cũng tỉ tê cả buổi trời.

Rồi buổi chiều hôm đó, tôi lén má ra sau hè nhà bà chủ lượm nắm lông tàn của con gà ruột của mình, đoạn giấu đem ra ruộng phía bên kia mương lộ mà chôn cất gần giếng nước. Bên bờ giếng, tôi dành một khoảng đất nhỏ để chôn cất mấy con vật đã cùng tôi bầu bạn một thời: chim sáo, cá lia thia, dế than, trâu đất, cu cườm… Tôi không chơi đá cá đá dế. Cá và dế của mấy thằng lỏi trong xóm cho đá với nhau tới lúc trầy vi tróc vẩy, sứt càng gãy gọng ngất ngư hết mới chịu quăng ra. Tôi lượm về rán lấy nước muối và đất sét chập chộ cho tỉnh hồn. Mấy thương binh gượng sống ngắc ngoải thêm được ít bữa mới chịu nhắm mắt lìa đời. Tôi khóc lóc và đem đi chôn ở nghĩa địa riêng của mình bên kia bờ giếng.

Mà khi tôi khóc, mấy thằng nhỏ trong xóm bèn xúm lại kêu ngạo tôi. Hồi đó, lúc khóc chắc là tôi xấu lắm. Lúc năm sáu tuổi, răng tôi bị siết ăn đensì rụng sát nướu, chỉ còn trơ lại hai chiếc răng chó ở hàm trên, cũng đã bị ăn khuyết mòn xung quanh. Hết răng thì móm, dĩ nhiên. Vì vậy, khi tôi nhăn nướu đen siết ra khóc, tụi lỏi xúm lại nhạo tôi, “bà già móm tóm lưỡi câu, ông già râu câu cá chốt”, hoặc ác hơn “sún răng bắt cầu chía ỏ” (xin đừng nói lái mà chết cái duyên thằng nhỏ).

Sau khi cạy mô đất nẻ và vùi chôn nắm lông tàn bên dưới, tôi lại ngồi bẹp một bên mà thút thít ngậm ngùi chứa chan lệ đẫm. Sắm sanh nếp tử sa châu, Vùi nông một nấm mặc dù cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà … Tỉ tê như vậy không biết bao lâu. Tới khi nghe tiếng má kiếm và kêu tên mình từ phía bên kia mương lộ “Kiệt ơi! Kiệt à!” tôi mới giựt mình ngơ ngác. Tôi quẹt nước mắt đứng dậy đi trở ra mương lộ, rồi leo qua chiếc cầu khỉ trở về nhà.

Trời gần Tết, gió hiu hiu lạnh…

Hai bữa sau ổ vịt xiêm nở ra được mười một con, trong đó có Em vịt vàng nhỏ của tôi. Đối với tấm lòng thơ ấu của tôi, vịt vàng là đứa con rơi, mồ côi mồ cút, con Mẫu Hậu là má nuôi của nó, còn tôi là anh ruột của nó. Vịt vàng em tôi đã tới kịp thời xoa dịu lòng đau khổ của anh mình và lấp được chỗ trống trải trong con tim ấu thời do con gà bạn thân vừa chết đi để lại. Nhưng vịt vàng còn quá nhỏ, chưa truyền được hơi ấm như những lần tôi luồn tay dưới bụng con gà giò ngày xưa mà ôm vào lòng yêu ấp. Tuy nhiên, tiếng thủ thỉ lép kép! lép kép! ngây thơ của nó cũng chở được vào tâm hồn đứa nhỏ sáu tuổi biết bao là hạnh phúc tuyệt vời!

Vịt vàng lại đưa chiếc mỏ nhỏ xíu rỉa mấy hột cơm giữa hàng răng sún của tôi. Bỗng trên thinh không Ầm!!! một tiếng long trời lở đất, tôi giựt bắn người hết hồn, con vịt vàng cũng la chét lên một tiếng thất kinh. Ầm!!! Ầm!!! hai tiếng nổ long trời khác tiếp theo liền, trên đầu đạn bay véo véo. Tôi còn đang chới với thì vịt vàng đã sút khỏi tay tôi rớt xuống đất lăn cù rồi đứng dậy chét! chét! chét! chét! gọi má thất thanh, bỏ chạy. Con Mẫu Hậu nghe con kêu cứu cũng lên tiếng đáp ứng và từ xa chạy tới. Vịt vàng mừng quá nhào vô quấn lấy cẳng má mình ẩn núp. Cảnh tượng trước mắt gợi lại trong trí tôi cái Tết năm ngoái trên đường tản cư, khi má tôi dừng mái chèo lại trên dòng sông Vĩnh Phước để cứu vớt ba mẹ con người đàn bà chạy giặc sắp chết đuối, xung quanh đạn lửu bừng bừng, người trúng đạn té xuống sông lòi ruột. Má tôi đã đưa tay kéo đứa nhỏ gái cho đeo cột chèo để má nó trồi lên ôm đứa con trai độ hai tuổi lội qua bên kia sông an toàn. Và đứa nhỏ gái cũng đã lên tiếng gọi má nó thất thanh như con vịt vàng nhỏ của tôi giờ đây vậy. Cũng một giọng cuống cuồng, cũng một điệu thảng thốt, rát ruột. Cho tới khi má tôi trả đứa nhỏ gái lại cho má nó bên kia bờ sông và người đàn bà bồng hai đứa con lẫn khuất trong đám người chạy giặc hỗn loạn tôi mới hết nghe nó kêu khóc. Chỉ mới năm ngoái thôi nên hình ảnh còn rất rõ rệt.

Thấy con Mẫu Hậu cất cổ gọi hết bầy con lại và xù lông bảo vệ, mồng trên đầu và trên mặt đỏ ké dữ tợn, tôi không dám nhào vô mượn đứa em ruột của mình trở lại.

Ầm! Ầm! Ầm! Ầm!... Tiếng cà nông thụt từ bót “Hội Đồng Điều” cách nhà tôi khoảng một trăm thước tiếp tục rền rĩ xé trời. Sở dĩ bót mang tên như vậy là vì ngôi nhà cao cẳng của ông Hội Đồng Điều bị người Pháp trưng dụng và cất thêm lô cốt xung quanh để làm đồn bót chận đường Việt Minh.

Tôi ngó theo hướng đạn đang bay về miệt Trà Kha, thấy mấy ngọn cau miệt đó gẫy gục, khói bốc lên ngùn ngụt. Miệt Trà Kha cây cối um tùm và rạch sình chằng chịt, du kích quân thường ẩn núp trong đó, chờ đêm tối kéo ra đánh đồn phá bót rồi lại rút về đó dưỡng quân. Thỉnh thoảng Tây kéo lính, công voa và thiết giáp vô Trà Kha ruồng bố. Chiều qua đã có chạm súng đụng độ và xe cứu thương hụ còi chạy ngang nhà tôi, nghe nói lính ở thành bị lọt phục kích chết nhiều. Có lẽ vì vậy mà bây giờ Tây thụt cà nông vô đó trả thù. Hoặc không chừng pháo kích trước để chuẩn bị hành quân càn quét. Xe díp cứ xẹt tới xẹt lui ngang Xóm Mới tôi từ sáng tới giờ. Nhiều khi mấy ông còn kéo về tận xóm tôi và núp sau mấy cái mả đá bắn phá và liệng lựu đạn qua bót Hội Đồng Điều. Lính trong đồn xả súng liên thanh và mọt chê tưới sượi vào xóm tôi, nhà nào nhà nấy đều bị thủng đạn, cháy vách bể ngói lung tung! Bởi vậy nhà nào cũng có đào hầm trú ẩn ngay bên trong, nhà tôi cũng vậy.

Khi có chạm súng, ai nấy đều sợ mất vía nên tự động nhào hết xuống hầm. Chỉ trừ có chú Chín tôi vì điếc không sợ súng nên cứ đứng sổng lưng tự nhiên mà coi đạn bay đỏ trời và còn phát âm dễu dễu! dễu dễu !mấy tiếng trầm trồ thán phục. Can không nổi. Lúc nào bắn rát quá, kèo lá trên nóc nhà gẫy tuôn hết xuống ào ào, má tôi niệm Phật lia lịa, còn chị Tư tôi thì đội cái thau nhôm trên đầu, răng cỏ đánh bò cạp lốc cốc và đái trong quần luôn hồi nào không hay. Còn tôi thì cứ đau bụng mắc ỉa thúc tới, cẳng chưn lạnh ngắt, miệng khô queo.

Cuộc pháo kích còn đang tiếp diễn đinh tai nhức óc thì ba tôi từ trong trại mộc bước ra sân ngó lên trời chửi đổng:

- Đ.m! Năm nào cũng vậy, hễ Tết nhứt tới là có sanh giặc. Thiệt tình! hổng có năm nào bà con được yên ổn ăn Tết một lần thử coi.

Đoạn day qua thấy tôi đang đứng xớ rớ ở xó hè, ba tôi lên tiếng:

- Thôi mầy với thằng Lộc sửa soạn tao dắt đi chợ Tết. Bữa nay hăm chín, chiều nay là hết họp chợ rồi. Đi cho kịp trưa nay mua chút đỉnh đồ với thịt heo ba rọi về tao kho để dành Tết ăn.

Tôi nghe nói mừng lắm. Thế nào cũng có thèo lèo cứt chuột, hột dưa, tôm khô củ kiệu, mứt dừa, mứt bí. Hơn nữa, gì chớ ba tôi mà kho thịt heo với cá bóng kèo kiểu Bạc Liêu là số dách. Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vô nước sôi đậy nắp lại, cá bóng còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chặp sau, ông giở nắp ra vớt cho tới khi hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm. Khi chín, con cá mềm sùi và còn nguyên chất ngọt. Phần bụng và đầu nhẩn nhẩn để cho người lớn, tôi thì hẩu xực cái đuôi. Còn kho thịt, ba tôi lựa mua thịt heo ba rọi có nhiều mỡ, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang. Xong ông đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa. Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào nhâm nhi là hết xẩy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ, càng rệu. Hễ tới tết là ba tôi giành để chính tay mình kho thịt. Má tôi kho ông chê nạc nhiều thịt cứng và mặn. Má tôi thì làm những món khác như hủ qua hầm, gà rô ti, vịt cà ri, bánh tét, cải món, dưa cải, dưa giá … cũng ly kỳ lắm. Hồi nhỏ tôi ăn cái gì cũng thấy ngon và sướng ran, khoái tỉ. Nhà nghèo nên cũng ít khi được ăn nhiều món như trong dịp tết. Quần áo má tôi xỏ kim may lấy cho tôi và Lộc – không biết bà học may ở đâu. Bận vô, bâu vè bẹt ra, túi thẳng hai cái hai bên coi cũng le lói như ai.

Trước nhà tôi có cái mương nhỏ lưa thưa cỏ lát mọc và bèo nổi. Kế mương là bờ đất cỏ dại, giáp ranh đường lộ lởm chởm đá xanh loang lở, rồi một bờ đất khác tiếp nối dốc xuống mương lộ rộng chừng ba thước có cầu khỉ bắc ngang, bên kia là ruộng lúa với giếng đào chứa nước mưa ngọt và cái nghĩa địa của tôi nằm cạnh bờ giếng. Tôi bước ra trước nhà, ngó thấy cách đó không xa con Mẫu Hậu đang dắt bầy con kiếm ăn ở mương nước, lũ vịt con vừa kêu lép kép vừa chìa mỏ rỉa vào bèo nổi, con vịt vàng nhỏ của tôi tách rời với hai con vịt xám khác, cách vịt mẹ đâu chừng một thước. Tôi đi về phía đó tính lùa vịt về chuồng ở sau nhà nhốt lại.

Chợt từ phía bót Hội Đồng Điều vọng lại tiếng động cơ ồn ào, mỗi lúc một lớn hơn, mỗi lúc một gần hơn. Có lẽ đoàn công-voa đang bắt đầu chuyển dịch. Rồi từ phía xa, một chiếc xe heo nọc trờ tới, mỗi lúc một rõ dần, chiếc xe bọc thép mở đường có gắn súng lớn xung quanh, mũi xe đeo ống dây cáp sắt để trục xe sa lầy, hai bánh trước chạy bằng cao su thường, hai bánh sau chạy trên xích sắt, khi di chuyển dây xích nghiến nát đá đường chát chúa điếc tai, mặt đất rung rinh chấn động. Khi xe thiết giáp dẫn đầu còn cách bầy vịt độ năm thước, bỗng dưng con Mẫu hậu ngửng đầu ngó lên rồi chợt giựt mình nhảy phóc ra khỏi mương vọt chạy băng qua phía bên kia lộ, dắt theo tám con vịt xám nhỏ - tôi không kịp phản ứng gì hết. Vịt mẹ dừng lại bên kia mương cất tiếng kêu réo đám con còn kẹt lại ở mương nhỏ bên này.

Vừa khi đó chiếc xe bọc thép mở đường cũng đúng nhịp trờ tới lướt qua mặt tôi, trực chỉ Trà Kha, xích sắt rần rật lay chuyển mặt đất dưới chân chỗ tôi đang đứng. Chiếc xe cam nhông chở lính đầu tiên từ từ tiến tới, chậm rãi nối đuôi theo xe thiết giáp. Từ từ, từ từ… Bên kia đường vịt mẹ vẫn tiếp tục gọi con, giọng kêu hoảng hốt, lo lắng. Ba con vịt nhỏ lại vụt nhảy lên mương rồi vọt băng qua phía bên kia đường, tôi dang tay ra cản ngăn không được. Chiếc cam nhông trờ tới… Hai con vịt xám lẹ chưn chun tọt dưới lườn xe biến mất, con vịt vàng nhỏ của tôi cũng vọt theo, tôi cũng vọt theo. Bỗng em tôi vấp bánh sau của xe cam nhông dội lại, tôi cũng dội lại, đuôi xe kình càng lướt qua sát rạt bên mũi, mấy người lính lê dương râm ria xồm xoàm ngồi trên xe chồm ra la ó vang rân và khoát tay đuổi tôi trở lộn vô bờ lề. Chiếc xe cam nhông thứ hai từ từ tiến tới, động cơ rù rì, bí mật, lạnh lùng, vô giác. Từ từ, từ từ… bánh xe cao su từ từ lăn tới…

Con Mẫu Hậu vẫn tiếp tục gọi con thảng thốt. Hai con vịt xám nhỏ đã qua được bên kia đường an toàn và nhập bầy. Chỉ còn lại bên nầy đường có mỗi con vịt vàng nhỏ của tôi đang chạy lăng xăng cuống cuồng và tôi cũng đang cuống cuồng rượt theo. Tôi cúi xuống chụp nó mấy lần nhưng chụp hụt. Má nó lại cất tiếng réo gọi. Con vịt vàng ngửng cổ nghe ngóng rồi bỗng lại vọt phóng trở ra giữa lộ thần tốc. Chiếc xe cam nhông thứ hai lăn tới áng khuất, cụm lông mịn màng không còn ngó thấy đâu nữa, tôi chỉ kịp nghe một tiếng “Chét” thảm thương bên tai, thôi rồi! chết em tôi rồi, tôi ngã quị xuống lề đường, đầu gối đập lên đá cục mà không cảm thấy đau đớn gì hết!... Chết em tôi rồi! Nhúm lông vàng dính trên bánh xe sau ghép đôi cuốn theo đoàn lính lăn đi, để lại vết máu đỏ tươi bằng bàn tay thấm ướt trên mặt lộ. Mình mẩy tôi vụt lạnh ngắt theo, chết em tôi rồi! Tôi hét lên một tiếng thất thanh ngã lật ra sau té lên bờ cỏ, nước mắt vọt ra xối xả, ruột gan nát ngướu như xác vịt con bấy nhậy giữa đường, tim gan rạn nứt bể vụn … Hết rồi! thôi hết rồi! chẳng còn gì nữa em vịt vàng nhỏ của tôi! Vĩnh biệt! Em ơi vĩnh biệt.

Tôi nằm lăn lộn giẫy giụa trên bờ cỏ, cổ họng thắt gút tắt nghẽn, không bật khóc được thành tiếng, chỉ còn biết hả miệng để kịp lấy hơi thở và để cho tiếng nấc tràn ra ngoài, trời đất xung quanh nhạt nhòe, cổ họng ngất ngất muốn bể tét. Mặt đất dưới lưng tôi tiếp tục chấn động dưới lốp cao su ghép đôi của đoàn xe cam nhông mười bánh rầm rộ, tiếng động cơ vẫn tiếp tục xầm xì dửng dưng lướt qua xịt phun xuống mặt đường mùi xăng khét nghẹt trộn lẫn bụi đường và khói xám xanh mù mịt. Rù rù rù rù rù … chiếc thứ ba … rù rù rù … chiếc thứ tư… rù rù rù chiếc thứ năm rồi chiếc thứ sáu… Mỗi lần xe lướt qua tôi lại nghe vang động trong đầu tiếng“chét” tuyệt mạng của em tôi. Rù rù rù rù… Chét! Rù rù rù rù chét!... Tôi úp hai bàn tay nhỏ của mình lên lỗ tai lăn người ngóc dậy, đầu gối quì trên lề cỏ, ngước đầu ngó ra giữa lộ.

Trên mặt đường không còn phân biệt được dấu máu và vết lông vàng của em tôi nữa. Hết rồi! Em tôi đã hoàn toàn biến mất trên thế gian này. Đoàn xe tiếp tục lăn qua chậm chạp, từ từ, nhưng tiếng động cơ phát ra xầm xì không đè át được tiếng “chét! chét!” thảm thương nhỏ nhít của em tôi còn đang chấn động từng chập trong cùng tận ruột gan mình. Tôi gẫy quặp người tới trước, hai tay cấu lấy bụi cỏ lông gà, ghịt kéo để cố dằn tiếng nấc đang cướp mất hơi thở mình… Bụi cỏ trốc gốc, tôi lại té ngửa ra sau, một chân lọt xuống mương nước, tôi nấc tiếp liền mấy tiếng bứt ngang hô hấp, miệng không thể nào khép lại được nữa, tôi nhăn hàm răng siết ăn ngó trời, lệ tuôn đầm đìa lai láng, trời mây trên cao tan loãng thành vũng nước mắt không còn hình thù gì nữa, tất cả mờ run mịt mùng, lung linh nhòe nhoẹt. Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! em đã chết bỏ tôi thiệt rồi!...

Khi nghe tiếng xích sắt chát chúa của chiếc xe thiết giáp bọc hậu cuối cùng chấn động trên mặt đất, tôi biết là đoàn công-voa đã đi qua hết. Tôi ủ rũ bò dậy quì gối ngó ra mặt đường. Chẳng còn gì nữa dấu vết em vịt vàng nhỏ của tôi, chẳng còn dấu lông vàng, chẳng còn vết máu đỏ. Em của tôi đã vỗ đôi cánh nhỏ bay về trời mất tích! Tôi òa khóc thành tiếng… Tôi quặp người ghịt lấy bụi cỏ bật khóc ngất ngất, khóc ồ ạt, khóc quằn quại, khóc vật vã. Nếu rủi thời má tôi ngã ra chết lúc đó, có lẽ tôi cũng khóc nhiều đến như vậy là cùng. Tấm lòng thơ dại tan nát! Con tim ấu thời đã giập bể trên mặt lộ đá xanh lởm chởm! Hết rồi! Em đã bỏ tôi thiệt rồi! Tôi hét lên “trời ơi!” một tiếng xé ruột rồi rũ người nghiêng qua một bên, từ từ sụm trên mặt cỏ còn nặc nồng mùi xăng khói …

Tôi nằm co quắp bên lề đường, tay bấu lấy bờ cỏ khóc la thảm thiết như vậy không biết bao lâu. Như mê sảng. Tôi muốn mình mê sảng. Khi gặp chuyện quá dữ dằn, tôi ước rằng đó là một cơn ác mộng, một cơn mơ dữ. Tôi cắn vào đầu lưỡi. Tôi không nằm mơ. Tôi tỉnh táo. Không phải chiêm bao. Chuyện thiệt. Rõ ràng chuyện thiệt. Em vịt vàng nhỏ của tôi đã chết thiệt rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi không còn ở trên dương thế này nữa! Tiếng khóc quằn quại của tôi bật tràn ra cổ họng như thác lũ, rồi mòn mỏi theo đường suối đi nhỏ dần, dợn uốn nao nao và từ từ dịu tắt.

Tôi ngồi dậy hỉ mũi chùi xuống cỏ. Tôi đưa sống tay dụi lên tôi mắt ướt nhẹp và thở dài đứng dậy. Đầu gối chợt buốt nhói muốn té sụm. Tôi cúi xuống phủi mấy vụn đá nhỏ còn dính trên đầu gối, da rách sướt chảy máu rát nhức. Tôi bước ra lộ để lượm xác em tôi đem qua bên kia bờ giếng mà chôn cất. Nhưng trên mặt đường những vụn thịt, những vụn lông vàng non dại, những vụn đất và đá trộn lẫn chi li không còn phân biệt được gì nữa hết. Tôi mếu máo bước trở vô lề đường lượm miếng giấy nhựt trìnhxười rách dính phất phơ trên ngọn cỏ. Tôi phủi sạch rồi bẻ một nhánh cây bình bát mọc ven mương lộ tước hết lá. Tôi trở ra lộ ngồi chồm hổm cạy gỡ những mảnh vụn mà tôi nghĩ là của em tôi còn để lại trên cõi đời này và đùa vào miếng giấy nhựt trình gói thành gói nhỏ. Tôi đi ra mương lộ, dợm bước lên cầu khỉ để qua bên kia bờ giếng.

Dưới mương lộ, con Mẫu Hậu thản nhiên tiếp tục dẫn đàn con mười đứa còn lại tung tăng trên mặt nước rỉa rói quanh đám cỏ lác và bèo dại kiếm ăn. Đám vịt con xám buông tiếng kêu lép kép! lép kép! Tim tôi vụt se thắt. Tôi ngồi thụp xuống đầu cầu khỉ, ôm cứng gói nhựt trình nhỏ vào lòng và bật khóc trở lại sướt mướt. Lòng đau đớn quá đỗi. Nước mắt nước mũi ràn rụa. Tôi không oán hận gì hết. Chỉ thấy đau đớn. Quá đỗi đau đớn. Tôi thương quá chừng em vịt vàng nhỏ của tôi. Bây giờ nó đã chết rồi. Em tôi đã chết rồi. Tôi không oán hận chiến tranh. Ở tuổi thơ đó lòng tôi không biết oán hận. Tôi không oán hận chiếc xe cam nhông đã nghiến nát em vịt vàng nhỏ của tôi. Tôi không oán hận người tài xế đã lái chiếc cam nhông cán em tôi ra bấy nhậy. Tôi không oán hận đoàn lính Lê Dương ngồi trên chiếc cam nhông đó. Dù sao chiếc cam nhông cũng đã đi mất, đoàn công-voa cũng đã đi mất, người tài xế cũng đã đi mất, đoàn lính Lê Dương cũng đã đi mất. Có thể tối nay khi trở về có người đã chết, đúng vào đêm giao thừa.. Tôi hít nhẹ tủi thân, tấm tức. Và bật khóc trở lại lần nữa, lần nữa…

Dù thâm tâm mình khong mảy may thù oán, trong đầu óc non nớt của tôi bỗng phựt lên cơn giận dữ - cơn giận dữ gắn liền với cái chết, nỗi tang thương và sự khổ đau. Tôi giận con vịt Mẫu Hậu! Trong đầu óc khờ khạo của mình, tôi nghĩ tại vì nó đã ngốc nghếch cất tiếng réo gọi con mình cho nên em vịt vàng nhỏ của tôi mới băng qua đường cho xe cán chết thảm. Tôi lượm cục đất ở đầu cầu nhắm con vịt mẹ liệng tới. Cơn giận bay ra nửa chừng mãn hơi rớt ùm xuống nước. Con Mẫu Hậu giựt mình thốt kêu mấy tiếng rồi dắt đàn con lội đi nơi khác. Bỏ lại tôi ngồi chong ngóc ở đầu cầu khỉ tiếp tục khóc thút thít, khóc nghẹn ngào, khóc lẻ loi…

“Kiệt ơi! Kiệt à! Kiệt!”, tiếng má tôi từ hiên nhà bên kia đường vọng qua. Má tôi kêu tôi chạy về lạy cơm mâm cúng để rước ông bà về cùng gia đình chúng tôi chung vui ba ngày Tết. Đầu xóm ai đó đốt pháo đợi giao thừa, mừng mọi người. Cái Tết ấu thời nhỏ theo giọt lệ hồng của tôi sùi sụt. Nào ai có biết trong ruột gan đứa nhỏ sáu tuổi, một nửa cái Tết thơ ấu đó đã nát vụn theo con vịt vàng nhỏ em tôi giờ đây nằm trong gói giấy nhựt trình tôi đang ôm cứng trên bụng bên bờ mương nước mặn. Và một nửa cái Tết kia đã theo nhúm lông tàn của con gà bạn tôi mà vùi dập tự bao giờ bên kia bờ giếng nước ngọt, khi những nụ mai vàng theo gió Xuân mướt xanh vừa chớm nhú.

Một cái tết thơ ấu đã nát vụn và vùi dập bên hai dòng nước mặn ngọt, trong xóm nhỏ của tôi tự bao giờ…

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Từ ngày em bị chiếc xe nhà binh mười bánh và chiếc xe tăng nghiến nát, cuộc chiến tranh không ngừng tiếp diễn khốc liệt ở quê hương hai anh em mình, đằng đẵng ba chục năm không hề ngừng nghỉ. Cuốn chìm phăng phăng trong dòng lửa sắt bất cưỡng, tôi may mắn và tình cờ còn sống sót. Và từ Xóm Mới ấm áp phương Đông mình, tôi dạt trôi tới phương trời Tây lạnh lẽo xa lạ.

Nơi tôi ở bây giờ, ngoại ô Paris, không có mai vàng. Chỉ có anh đào trổ một màu hường phơn phớt lợt mọc trên dốc đồi thoai thoải bên những cội lệ liễu xõa tóc dịu dàng.

Và năm nay đào lại nở!

Phải, năm nào mà đào lại chẳng nở. Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, em vịt vàng nhỏ xinh xắn tội nghiệp. Mỗi năm, khi vừa chớm đông, từng bầy vịt hoang và ngỗng trời từ Bắc Âu vỗ cánh bay ngang Paris, rồi di chuyển về miền Nam để trốn lạnh, sang đến tận Châu Phi.

Khi ngó lên trùng trùng chấm đen lướt qua cao vút trên đầu, lần nào tôi cũng tự hỏi không biết có em vịt vàng nhỏ của tôi trong bầy chim hoang đó hay không, và lần nào tôi cũng thầm lo ngại không biết em tôi có được đủ ấm như một thuở xa xưa nào khi Tết gần đến, tôi đã từng ôm em úm trong lòng để mớm cơm cho em ăn và chuyện trò cùng em thủ thỉ. Nhưng tôi lại tự nhủ chắc là em không có mặt trong bầy vịt đang bay trên cao tít, bởi lẽ quê hương của em, quê hương của tôi, quê hương của anh em mình không phải ở đây. Tôi hình dung giờ này chắc em đang tung tăng bơi lội trong một vùng nước mặn ấm áp quanh năm trước mương lộ của nhà tụi mình ở Xóm Mới, miệt Hậu Giang phù sa mặn mòi, đồng ruộng phì nhiêu, quấn quít sông ngòi, đặc ngừ tôm cá.

Và em đang thò chiếc mỏ vàng xinh xắn rỉa vào đám bèo nổi kiếm ăn, buông tiếng kêu lép kép nhỏ nhít. Em đang gọi tôi cùng đến để chia sớt nỗi vui mừng rất trẻ con của em.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Cũng như mọi sinh vật khác trên đời, em đã từng có một tuổi nhỏ thơ dại và một trái tim thơ dại ẩn chứa trong lớp lông tơ vàng mịn êm đềm. Trái tim thơ dại đó đã truyền vào con tim ấu thời của tôi biết bao là thương mến, muôn ngàn thương mến, biết bao là cảm xúc, vô vàn cảm xúc, biết bao là hoan lạc, vô vàn hoan lạc, và cũng biết bao là đau đớn, đau đớn tưởng chừng có thể xé đứt ruột gan mình mà ngã ra chết được. Em đã cho tôi con tim thơ dại, tôi đã cho em tuổi ấu thời. Dù vẫn còn phưởng phất ở Xóm Mới mỗi độ Xuân về, con tim thơ dại và tuổi ấu thời đó đã có lần vỗ cánh thơ ngây bay tìm mùa Xuân trong trắng ở một vùng trời tuyệt nhiên không nhuốm một dấu vết hận thù. Rồi đã vĩnh viễn cư ngụ lại muôn đời luôn ở đó.

Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!
Em vỗ cánh nhỏ bay về trời
Em tha trong mỏ em vàng nhỏ
Tấm lòng thơ nhỏ của riêng tôi


Và năm nay đào lại nở! Giờ đây trên cụm mây xa thiệt xa, tôi hình dung một đứa nhỏ sún răng đang ôm con vịt vàng nhỏ của mình trong lòng và hai anh em đang bồi hồi ngó xuống trần gian nhìn ngắm thiên hạ nổ pháo rộn ràng mừng đón Ông Bà và Nàng Xuân về ăn Tết…/.


Kiệt Tấn









Kiệt Tấn trên Vanchuongviet.org




(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(truyện ngắn)
(phê bình)
(tiểu luận)
(tiểu luận)
(tiểu luận)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(truyện ngắn)
(thơ)
(thơ)
(thơ)
(truyện ngắn)
(ký)
(tạp văn)
(tiểu luận)
(tiểu luận)
(thơ)
(tạp văn)
(ký)
(ký)

















Tham khảo thêm về tác giả Kiệt Tấn








Kiệt Tấn, nụ cười tre trúc



Có người nào đó, ngày xưa, từng quan niệm, một nhà văn một nhà thơ, về phương diện chủ quan, cần có ba điều kiện: tài, trí và tâm. Từ đó, nhiều người có khuynh hướng chia ra ba loại người cầm bút: một loại mạnh về tài, một loại mạnh về trí và một loại mạnh về tâm. Tôi nghi ngờ sự phân biệt rạch ròi ấy. Tôi nghĩ, thật ra, chỉ có hai. Bởi tài là yếu tố căn bản, chung nhất. Có cái tài thiên về trí, tức kỹ thuật. Có cái tài thiên về tâm, tức cảm xúc. Kiệt Tấn thuộc loại sau. Đọc Kiệt Tấn, trước khi thấy một tài năng, người ta gặp một tấm lòng. Tình yêu đối với cuộc đời, theo tôi, là yếu tố quan trọng nhất góp phần định hình nên phong cách văn học độc đáo của Kiệt Tấn. Hiếm có người nào có cách nhìn đời trìu mến và thiết tha như vậy. Không thể tìm thấy ở Kiệt Tấn, bất cứ một thái độ hờ hững hay dửng dưng nào. Đưa đẩy ngòi bút Kiệt Tấn không phải là lí trí mà là trái tim lúc thì rạo rực, lúc thì ngây ngất, không lúc nào không xôn xao trước vẻ đẹp của trời đất của con người. Tình yêu trong văn Kiệt Tấn giống ánh trăng trong thơ Hàn Mặc Tử. Cả trời say nhuộm một màu trăng. Cho dù tác giả không tả vầng trăng, cho dù tác giả chỉ tả một con ngõ, một dòng sông hay một khu vườn với những cây lá đong đưa, những nụ hoa đang âm thầm nở và tỏa hương trong khuya khoắt, thì, người ta vẫn nhận ra, đâu đó, lấp lánh, cái ánh trăng kia đang lấp lánh. Không gian giày đặc toàn trăng cả. Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Cho nên, tuy đề tàiNụ cười tre trúc(*)­ khá đa dạng, có truyện về mẹ, có truyện về quê hương, có truyện đậm đà màu sắc triết lý; thực sự là chuyện tình, chỉ có hai: Bến đò trao thơ và Em điên xõa tóc, thế nhưng, đi vào Nụ cười tre trúc, người ta cứ ngỡ đi vào một tình yêu bát ngát.

Hãy để ý cách xưng hô trong truyện Kiệt Tuấn. Lạ lắm. Đặc biệt với những người phụ nữ, với người lớn tuổi: má. Với người trẻ trung: em. Nhắc đến một người đàn bà bán cà-rem trước cổng trường tiểu học thuở nào, Kiệt Tấn hạ bút: “Má tôi đó”. Với Kiệt Tấn, một người người đàn bà già nua, lam lũ và khốn khó trên quê hương đều là “má tôi”. Ông gọi họ bằng một cái tên chung: “những bà già quê hương” (tr 158). Và ông coi đó là những “Mối tình đầu” thật sự của mình (trang 158). Những người không phải là má thì đều là em. Vợ là em. Người tình là em. Một người con gái mất trí gặp gỡ tình cờ trong một bệnh viện tâm thần là em: “Em điên xõa tóc”. Ngay cả một người con gái hoàn toàn xa lạ, mãi mãi xa lạ, chỉ nhác thấy một lần duy nhất trong công viên cũng được Kiệt Tấn gọi vơ là em, hơn nữa, “em tôi”: “Từ phía sau lùm bông ngải vàng hực chợt một mái tóc nâu vàng óng ánh xuất hiện. Người con gái từ từ đi vào công viên, trên tay cầm trái táo xanh. Em tôi bước vào vườn cây lửng thửng tiến về phía trước và Ánh đang ngồi ôm nhau yên lặng” (tr.200). Dĩ nhiên người con gái ấy đi qua rồi đi xa hẳn. Vĩnh viễn. Như một áng mây. Trước cặp mắt nhà văn đang ngơ ngẩn ngơ.

Với người, là thế. Với vật cũng thế. Tất cả đều là em. Con vịt con là “em”. Khi con vịt bị xe cán chết, Kiệt Tấn, lúc ấy mới sáu tuổi, đã khóc nghẹn ngào: “Hết rồi! Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi! Em đã chết bỏ tôi thiệt rồi” (tr.46). Bao nhiêu năm sau, bềnh bồng trên đất khách, buồn tênh trong lưu vong, Kiệt Tấn vẫn nhớ mãi đứa em ấy: “Phải, năm nào mà đào chẳng nở! Đào lại nở, tôi lại nhớ em tôi, con vịt vàng nhỏ xinh xắn, tội nghiệp” (tr.49).

Người ta thấy gì qua những cách hô gọi như vậy? Thấy một điều. Rất rõ. Là, với Kiệt Tấn, mọi người mọi vật trên đời đều là đối tượng để yêu thương. Tất cả đều là ruột thịt, đều là thân tình. Kiệt Tấn là một tình nhân trước khi là một người cầm bút

Trong tình yêu của Kiệt Tấn, phần nồng nàn nhất dành cho phụ nữ. Làm sao sống được mà không yêu. Không nhớ không thương một kẻ nào. Thơ của Xuân Diệu. Con người của Kiệt Tấn. Qua trang viết, cứ ngỡ Kiệt Tấn suốt đời là một khách tình si. Yêu sớm. Yêu nhiều. Yêu dễ dàng. Yêu cuồng nhiệt. “Muốn chết. Thèm chết. Thèm chết vì quá yêu một cô gái nào đó” (tr.211). Yêu và được yêu. Chưa đủ. Lúc nào cũng quay quắt muốn đi đến cái tận cùng, cái tuyệt đối của tình yêu. “Nghẹn ngào khi đi bên cạnh nàng mà còn tương tự người yêu, tương tư nàng, cùng lúc” (tr.93). Tình yêu trong văn Kiệt Tấn có nhiều cung bậc. Từ lặng lẽ đến xôn xao. Từ bâng khuâng đến say đắm. Có nhiều sắc độ. Lúc thì hiền lành, lúc thì trâng tráo. Lúc như cơn gió, lúc như cơn bão. Tình yêu nhuốm đầy tình dục. “Bộ phận đực là bộ phận đực, bộ phận cái là bộ phận cái, bộ phận đực cái dính nhau là lẽ tự nhiên, hết sức tự nhiên, sự tục tĩu chỉ có trong đầu” (tr.144). Nhiều người cho là Kiệt Tấn viết bạo. Thêm điều này nữa: bạo nhưng không bao giờ nhớp nhúa. Thiếu cái trong sáng của Thạch Lam, tình yêu trong truyện Kiệt Tấn lại gần hơn với sự thực, với cuộc đời

Trong tình yêu của Kiệt Tấn, phần đằm thắm nhất dành cho mẹ. Nụ cười tre trúc, truyện ngắn đầu tiên trong tập, được dùng làm tựa cho cả tập, là truyện ngắn hay. Nó là truyện ngắn, nhưng thật ra, nó chỉ là trích đoạn từ bộ trường thiên tiểu thuyết Lớp lớp phù sa chưa xuất bản. Lấy một bài vọng cổ làm cái cớ, Kiệt Tấn thả ký ức mình trôi dạt miên mang về những quãng thời gian khác nhau, ở đâu, lúc nào cũng hiển hiện long lanh hình ảnh người mẹ tần tảo, lam lũ, chịu thương chịu khó, suốt đời lo cho chồng, cho con, rồi cho cháu.

Ở Kiệt Tấn, nếu tình yêu trai gái gắn liền với tình dục thì tình yêu mẹ lại gắn liền với quê hương. Đó là lý do tại sao Kiệt Tấn lại đặt tập truyện ngắn của mình là Nụ cười tre trúc. “Cho dù má tôi không cười thành tiếng, tôi vẫn nghe có tiếng rì rào thanh thoát của tre trúc rộng lượng chở che. Tôi là con trâu nghé nằm trong bóng im buổi trưa hè nắng gắt” (tr.15). Trong tình mẹ có tiếng đàn dịu dàng của trúc lẫn bóng mát yên ả của tre. Trong tình mẹ có hình ảnh của làng xóm, của đất nước. Mà không chỉ ở mẹ mình. Kiệt Tấn coi mọi bà mẹ đều là hiện thân của quê hương. “Có lẽ tại tôi nhìn thấy quê hương qua những bà mẹ đó, một quê hương vừa yêu dấu vừa ngậm ngùi… Những bà già đó tượng trưng cho quê hương. Không! Những bà già đó là quê hương. Những bà già có làn da nhăn nheo thơm tho mùi đất, có nụ cười rì rào tre trúc, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào rún tôi từ trong bụng mẹ, từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. (tr.152)

Không là đề tài chính của bất cứ truyện nào, song nhờ sự kết hợp trên, hình ảnh quê hương vẫn thấp thoáng, bàng bạc cùng khắp Nụ cười tre trúc. Trong quê hương Kiệt Tấn tập trung ngòi bút vào ba địa điểm: Bạc Liêu, Vĩnh Long và Sài Gòn. Hai hình tượng nổi bật nhất là sông rạch và đêm trăng. Vang vang trên sông rạch, vang vang dưới đêm trăng là những câu hò, những tiếng đàn, tiếng hát, những hẹn hò và những yêu đương. Kiệt Tấn không có chủ tâm viết loại truyện phong tục, một đề tài được nhiều nhà văn đồng hương của ông khai thác triệt để. Phong cảnh trong truyện của ông, do đó, thường ít đường nét. Không một làng quê, không một thành phố, thậm chí, không một dòng sông, một con rạch nào đầy đủ chi tiết để thành một bức tranh hoàn chỉnh. Tuy nhiên Kiệt Tấn lại thành công ở một phương diện khác: ông tạo được một không khí ở đó có những con người sống thật. Truyện của Kiệt Tấn là loại truyện tâm lý pha màu sắc triết lý.

Yêu phụ nữ, yêu mẹ, yêu quê hương, không phải là cái gì riêng của Kiệt Tấn. Kiệt Tấn chỉ đặc biệt ở mức độ: mọi tình cảm ấy, ở ông, đều nồng nàn đến đắm say. Và hơn ở phạm vi: từ những đối tượng cụ thể, tình yêu của Kiệt Tấn mở rộng ra, mênh mông, bao trùm cả cuộc đời. Kiệt Tấn là một nhà văn đầy nhân ái. Cách nhìn đời của ông trong trẻo, dịu dàng và nhất là, tha thiết vô hạn. Không biết thù hận, chưa bao giờ Kiệt Tấn cho phép ngòi bút của mình dừng lại tỉ mỉ ở những sự xấu xa. Nếu Kiệt Tấn có căm ghét điều gì thì điều đó chính là óc duy lí và đứa con đẻ của nó: sự cuồng tín. Căm ghét vì cả hai đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra những lầm lạc và khổ não cho từng người: “Tôi muốn dùng trí thông minh để giải quyết đời sống. Thiệt lẩm cẩm! Một mình nó, trí thông minh không giải quyết được gì hết. Nó tạo ra vấn đề hơn là giải quyết” (tr.134). “Khi chứng đúng được hành động của mình, người ta dám trở thành bạo ngược, tàn sát không gớm tay: Tần Thủy Hoàng, Hitler, Staline, Dalatôla, Pol Pot, Việt Nam Xã Hội!”(tr.116). “Chân lý? Có chăng chân lý? Mẹ rượt! cũng vì ba cái vụ chân lý với lại… cẳng lý đó mà nhân loại ỉa dài dài” (tr.214)

Kiệt Tấn đề cao trực giác và tình cảm, đề cao cuộc sống hồn nhiên. “Ăn hủ tiếu là ăn hủ tiếu. Hết. Sống là sống. Hết. Không gì có thể giải thích được gì hết. Giải thích là sa vào mê cung. Rời khỏi mê cung này chỉ để dấn mình vào mê cung khác” (tr. 116) “Đi vào kinh pháp cũng như nghệ thuật, con đường trực giác và cảm xúc là con đường thẳng. Đi vào kinh pháp cũng như nghệ thuật, con đường trí tuệ và phân tích là con đường mê cung” (tr.184).

Truyện “Ngoài cửa kiếng” có lẽ được sáng tác với mục đích minh họa cho các luận điểm trên. Một người nào đó, vô hình và vô danh, từ ngoài khung cửa kính, ngó vào một căn nhà. Không nghe một âm thanh nào cả. Hoàn toàn. Bằn bặt. Chỉ thấy những hình người di động, múa may. Như xem một màn kịch câm. Người xem phân vân đặt ra hàng trăm nghi vấn và nghi vấn nào cũng là một lửng lơ, bế tắc. Không thể hiểu được những người trong căn nhà kia làm gì, nghĩ gì, cảm xúc ra sao. Chỉ đoán. Đoán mò. Quan hệ giữa con người với con người trong cuộc đời có lẽ cũng thế. Mỗi người bị ngăn biệt bằng một khung cửa kính. Để mỗi người là một bí ẩn vô tận trước người khác. Để mọi nỗ lực giải thích về nhau đều trở thành vu vơ và hàm hồ.

Tư tưởng Kiệt Tấn không mới. Người ta đã gặp những tư tưởng ấy đây đó, nhiều lần, nhiều nơi. Nhưng không nên đánh giá một nhà văn như một triết gia. Tư tưởng quan trọng nhất để đánh giá một triết gia là tính chất độc sáng. Tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá tư tưởng một nhà văn là sự chân thành. Mà Kiệt Tấn thì tin vào tư tưởng của mình lắm. Nó trở thành một thứ triết lý chủ đạo chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Đó là thứ triết lý mang đậm màu sắc Thiền. Đó cũng là thứ triết lý nhân đạo: “Mỗi người chúng ta đều đáng được chia xẻ nụ cười” (tr. 141). Và rất lạc quan: “Nếu biết sống, vẫn luôn luôn có một chút mặt trời đâu đó” (tr. 125).

Trong truyện Em điên xõa tóc, một lần Kiệt Tấn tâm sự về chuyện viết lách của mình: “Cả chục năm nay tôi bỏ viết. Tôi không đủ đam mê. Tôi không viết để chứng minh. Tôi viết khi cảm thấy có nhu cầu. Nếu không biết mà vẫn sống hạnh phúc, tôi sẽ không bao giờ viết, vì tôi khi đó đang ở trong trạng thái quân bình. Nếu viết, tôi đánh mất quân bình. Khi viết, tôi như người lên đồng, lúc cười lúc khóc, vật vã, hành xác” (tr.116). Tôi tin Kiệt Tấn. Tôi ít tin nhà văn nào như tôi đã tin Kiệt Tấn. Ở những nhà văn khác, tôi thấy tài hoa. Ở Kiệt Tấn tôi vừa thấy tài hoa vừa thấy sự thành thật. Truyện nào của Kiệt Tấn tôi cũng có cảm giác là tự truyện. Chính Kiệt Tấn cũng công nhận trong lời giới thiệu in ở bìa sau tập Nụ cười tre trúc: “Nụ cười tre trúc, một chuỗi truyện ngắn, dù y chang chuyện thiệt hay thần thoại hoang đường, vẫn là tự truyện”. Trong Nụ cười tre trúc có tám truyện thì sáu truyện rõ ràng là tự truyện. Và đó là sáu truyện hay. Dường như ngòi bút của Kiệt Tấn chỉ tung hoành hết sức khi nhân vật xưng “tôi”. Lúc ấy, Kiệt Tấn tha hồ đi sâu, thật sâu vào mọi ngõ ngách thăm thẳm, tế vi của tâm hồn. Có lúc Kiệt Tấn đi quá xa. Thành lan man với những liên tưởng bất tận. Làm cho khuôn khổ của truyện ngắn cơ hồ bị rạn nứt. Truyện ngắn nghiêng gần tùy bút. Nụ cười tre trúc và Vườn chanh miệt biển là những truyện ngắn pha lẫn tùy bút.

Có thể nói, những truyện ngắn hay nhất của Kiệt Tấn đều có tính chất tự truyện trong nội dung và tính chất tùy bút trong nghệ thuật.

Hai đặc điểm có lẽ là hai đặc điểm chung cho những nhà văn gốc miềnNam. Tính tình cởi mở, nhu cầu đối thoại lớn, hình như nhà văn miềnNam nào cũng có sở thích kể về mình. Nhân vật xưng: “tôi” trong tác phẩm của họ nhiều “chi xiết kể”. Khó có thể hình dung cuộc đời và con người của các nhà văn miền Trung, miền Bắc, nếu chỉ căn cứ vào truyện của họ. Rất dễ hình dung ra cuộc đời và con người của các nhà văn miền Nam qua những truyện họ viết, ngay cả những nhân vật không phải là họ. Đọc các nhà văn miền Trung, miền Bắc, người ta thường thấy một nỗ lực tự kiềm chế rất lớn. Để giấu đi một cái “tôi đáng ghét” (!). Đọc các nhà văn miền Nam, người ta thường thấy tác giả hiện ra lồ lộ trên từng dòng chữ. Để phơi bày đến từng chi tiết cái “tôi” tuệch toạc, xởi lởi, say sưa tâm sự. Tính chất lỏng lẻo, tản mạn mà người ta hay nói về các công trình khảo luận của các nhà văn miền Nam cũng xuất phát từ nguyên nhân này: nhà văn hiếm khi để tư tưởng bó mình trong một trật tự thuần túy duy lý. Mạch văn của họ, ngay khi viết nghiên cứu, vẫn bềnh bồng trên những ngọn triều cảm hứng và liên tưởng dạt dào.

Kiệt Tấn, cũng như phần lớn các nhà văn miền Nam khác, thích tham dự trực tiếp vào câu chuyện. Câu chuyện của Kiệt Tấn không phải chỉ có các nhân vật. Nhà văn không chịu là một khuất lánh hoàn toàn. Ông đi bên cạnh các nhân vật. Thỉnh thoảng ông lại lên tiếng, tán thưởng điều này, phản đối điều khác. Câu văn của các nhà văn miền Trung miền Bắc thường cố ý nén lại, bình thản đến lạnh lùng. Câu văn của Kiệt Tấn và nhiều nhà văn miền Nam khác phập phồng hơi thở của người viết ra nó, náo nức với những niềm vui của nhân vật, rưng rưng với những nỗi buồn của nhân vật. “Nhà có cả thảy bảy anh chị em, chết hai còn năm: hai Phát, ba Lợi, tư Trinh, năm Lộc và sáu Kiệt tức là tôi đó” (tr.11). “Bà vớt xác lá chà lên đám ghẻ của tôi (Bà con thử nghĩ!) tôi khóc hết nước mắt”(tr.12). “Nếu miền Bắc có lụt sông Hồng thì miền Nam có Tết Mậu Thân (1968), chắc ai cũng nhớ (tr.26)… Hẳn nhiều người sẽ cho những cách nói: “Sáu Kiệt là tôi đó”, “Bà con thử nghĩ”, “chắc ai cũng nhớ”… là thừa thãi. Mà thừa thãi thật. Chúng không có lý do gì để tồn tại cả. Trừ lý do tâm lý: cái nhu cầu bộc bạch, tham dự của tác giả.

Nhu cầu bộc bạch, tham dự dẫn đến một đặc điểm khác về nghệ thuật; sự pha trộn giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết là một quan hệ cực kỳ phức tạp. Lịch sử văn học của nước nào cũng diễn tiến giống nhau: thoạt đầu văn học được hình thành từ ngôn ngữ nói.Một thời gian, sau quá trình chau chuốt, tinh lọc, một số ngôn ngữ nói biến thành ngôn ngữ viết, chúng có sự sống riêng, chủ yếu là trên trang giấy. Rồi đến lúc nào đó, người ta chợt thảng thốt nhận thấy, loại ngôn ngữ viết ấy tuy đẹp đẽ thật, song lại là kiểu cách và sáo mòn quá, người ta lại quay về với thứ ngôn ngữ trần trụi, gân guốc của cuộc đời. Truyền thống văn chương miền Nam là truyền thống tôn vinh ngôn ngữ nói. Từ Nguyễn Đình Chiểu, người ta đã bắt gặp những cách nói chan chát từ trước vắng bặt trong thơ văn: “Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi cha ông nó”. “Vân Tiên ngó lại, rằng: Ừ!”… Có nhiều người sa lầy trong ngôn ngữ nói: tác phẩm của họ thuần túy là những câu chuyện kể nặng chất dân gian. Một ít người nâng được ngôn ngữ nói lên thành ngôn ngữ văn học: từ vựng là ngôn ngữ nói nhưng kết cấu câu văn là ngôn ngữ viết với những yêu cầu gãy gọn, chặt chẽ và trong sáng. Kiệt Tấn thuộc vào số ít ỏi đã tạo được cho ngôn ngữ nói một sắc thái thẩm mỹ độc đáo.

“Hồi đó tôi thỉnh thoảng tôi lén vít một cục vôi nhỏ trong ô trầu của má tôi gắn lên đầu cọng lạt dừa, đưa lên vách run run nhử mấy trự thằn lằn. Có con khờ khạo ngó thấy tưởng bở, đinh ninh là côn trùng nhào tới đáp liền. Cắn nhằm cục vôi tá hỏa, anh chàng lúc lắc cái đầu như múa lân rồi say mèm vôi nồng, rớt bịch xuống đất. Tôi tính lượm lên bắt chơi thì má tôi rầy:

- Đừng con! Tội chết. Con thằn lằn nó hiền thấy mồ. Nó còn ăn bớt muỗi trong nhà sao con hại nó làm chi?” (tr.10)

Nhờ sử dụng nhiều ngôn ngữ nói, câu văn của Kiệt Tấn thường sinh động, khỏe khoắn:

“Tôi mừng húm, cắn một miếng ngọt xớt rồi miếng thứ hai, và cứ thế lủm hết trái mận một mình ngon lành, không bẻ cho bà một miếng” (tr.21).

Câu văn của Kiệt Tấn nhiều động từ. Câu văn nhiều tính từ, trạng từ thường du dương mà nhẹ. Câu văn nhiều động từ thường cứng cáp và mạnh:

“Anh tôi bèn lấy vòng dây làm bẫy túm được con cắc kè đem tuốt qua sân banh quăng bỏ” (tr.10).

“Cá ông chỉ rửa sơ, không cạo nhớt, rồi để cá sống nhăn nguyên con như vậy mà đổ vào nước sôi đậy nắp lại, cá bóng còn nhảy soi sói trong nồi lụp bụp. Chặp sau, ông giở nắp ra vớt cho tới hết bọt rồi mới rót nước mắm ngon vào mà nêm nếm” (tr.41).

Cách dùng tính từ và trạng từ của Kiệt Tấn cũng lạ: luôn luôn có cái gì gay gắt, cực đoan. Như thơ Hồ Xuân Hương. Ông không mừng, ông “mừng húm”. Ông không khoái, ông “khoái chí tử”. Ông không quên, ông “quên tuốt luốt”. Ông không hôn, ông “hun chùn chụt”. Ông không rầu, ông “rầu thúi ruột”. Ông không sợ, ông “sợ xanh máu mặt”… Cứ thế. Rất nhiều trạng từ và tính từ ghép vừa gợi hình vừa biểu cảm. Móm phải là: “móm xọm”. Trống phải là “trống lổng”. Dài phải là “dài thòn”. Hẹp phải là “hẹp té”. Nhọn phải là “nhọn lễu”. Đen phải là “đen xì”. Mập phải là “mập ú”…

Mỗi câu văn của Kiệt Tấn luôn luôn có xu hướng muốn biến thành một hình ảnh. Người khác hẳn chỉ viết: “Nhiều buổi trưa nóng, tôi cởi trần ngồi thở dốc”. Kiệt Tấn thì phải viết: “Nhiều buổi trưa nóng, tôi cởi trần ngồi le lưỡi thở dốc”. Người khác hẳn chỉ viết: “Hai người sanh giặc với nhau, quên cả giặc Thổ đang rượt theo”. Kiệt Tấn thì phải viết tiếp: “… Rượt theo sát bên đít”. Người khác hẳn chỉ viết: “Má tôi muôn dặm tìm chồng”. Kiệt Tấn thì phải viết: “Má tôi muôn dặm tìm chồng rượt theo níu cổ ông lại”. Người khác hẳn chỉ viết: “Tối đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được”. Kiệt Tấn thì phải viết: “Tối hôm đó tôi trằn trọc trắng dờ con mắt”. Nhiều. Thật nhiều những định ngữ giàu hình ảnh như thế trong câu văn Kiệt Tấn.

Một hiện tượng có vẻ nghịch lý là, bên cạnh chất mộc mạc ấy, Kiệt Tấn lại rất giàu chất thơ. Văn chương Kiệt Tấn vừa có cái sần sùi của cuộc sống lại vừa có cái lung linh của mộng ảo. Sự kết hợp ấy làm cho văn chương Kiệt Tấn có một khí hậu riêng, rất mực lạ lùng. Như ở trần mà như chơi vơi trong sương khói.

Khởi sự cầm bút, Kiệt Tấn là một nhà thơ. Tác phẩm đầu tay của ông là một tập thơ: “Điệp khúc tình yêu và trái phá” (1966). Sau gần hai mươi năm im lặng, cầm bút trở lại, Kiệt Tấn đổi tay: từ thơ ông chuyển qua văn. Thì cũng không lạ. Chuyện khá bình thường ở Việt Nam: một nhà thơ thỉnh thoảng viết văn và một nhà văn đôi lúc táy máy thử nghiệm ngòi bút của mình trong cái cõi bằng bằng trắc trắc bằng bằng. Điều độc đáo và thú vị của Kiệt Tấn là, từ thơ chuyển qua văn, ông đã giữ lại, trong văn, cái cách nhìn và cách cảm dạt dào chất thơ của một nhà thơ.

Kiệt Tấn thuộc khá nhiều thơ, hò, vè và vọng cổ. Ông thích dẫn vào giữa những câu văn của mình, một câu thơ, một lời ca. Văn xuôi Kiệt Tấn, nhờ vậy, xôn xao nhạc điệu. Hơi thở và hơi ca đẩy hơi văn bay bềnh lên, lênh đênh trôi về những chân trời xa khơi của tưởng tượng. Những chất thơ trong văn xuôi Kiệt Tấn không phải chỉ có thế. Nét đặc biệt nhất của Kiệt Tấn là ở chỗ khác, chỗ ông có thói quen sử dụng nhiều biện pháp tu từ chỉ thường gặp trong thơ, vốn đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Ở đây, tôi chưa nói đến vấn đề hay hay dở. Chỉ nhấn mạnh một điều: ít có nhà văn nào sử dụng, trong văn xuôi, nhiều hình thức ẩn dụ và hoán dụ như Kiệt Tấn trong Nụ cười tre trúc. Hình thức ẩn dụ: “Vườn chanh đang khua lá giặt rửa dưới dòng trăng” (tr.170); “Ánh trăng xanh xao ngủ trên võng chanh giăng ở đầu ngọn đong đưa”. (tr.174); “Cơn gió hắt hiu luồn tay chải gỡ lào xào giữa tóc chanh rối lá” (tr.181); “một con quạ mặc áo sa ten tuyền óng ánh đi đủng đỉnh trên bãi cỏ úa” (tr.212); “Rồi Paris xuống tóc qui y trong ngôi chùa Đông Tạ” (tr.249);… Hình thức hoán dụ: “Cánh đen vỗ mạnh bay lên cây” (tr.212); “Tôi đưa tay bắt nải chuối mắn kịch cợm của người đàn ông cao lớn” (tr.234)…

Nhiều câu văn của Kiệt Tấn nghe như thơ, thơ Hàn Mặc Tử: “Ánh trăng trần truồng” (tr.181); thơ của những người theo thuyết Tương giao giữa màu sắc, hương vị và âm thanh (Correspondances): “Hương chanh chín mùi”(tr.170); “Ánh trăng bùi ngọt” (tr.92)…

Giọng văn của Kiệt Tấn, như vậy là một thứ hợp chất giữa khẩu ngữ và thi tính.

Một đặc điểm khác cũng khá phổ biến trong “Nụ cười tre trúc”: Sự dí dỏm. Từ cách dùng chữ đến cách mô tả, cách kể chuyện của Kiệt Tấn dường như lúc nào cũng thấp thoáng một nụ cười tinh nghịch. Tinh nghịch một cách nhẹ nhàng và có duyên. Mà hình như đây cũng là đặc điểm chung của nhiều nhà văn miền Nam khác. Các nhà văn miền Nam, ít nhất trên trang sách, thường xuề xòa, dễ tính và vui tính. Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển, Hồ Hữu Tường… rồi Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Nguyễn Đức Lập, Nguyễn Tấn Hưng, Võ Kỳ Điền. Sơn Nam không vui tính nhưng cũng dễ tính và xuề xòa. Chỉ có hai người cầm bút miền Nam thực sự nghiêm trang và trịnh trọng: cặp vợ chồng Đông Hồ và Mọng Tuyết. Nhưng cả hai đều bị ảnh hưởng nặng nề của văn phong miền Bắc. Khi nghiêm trang và trịnh trọng họ phải giả giọng.

Ở trên, tôi cố gắng nhận diện những đặc trưng nổi bật nhất trong phong cách văn học của Kiệt Tấn. Cũng không giải thích được bao nhiêu. Ở Kiệt Tấn có một cái gì khác, cao hơn, vượt ra ngoài những nhận định có tham vọng khái quát ấy. Mọi tài năng nhưng thực sự thường đa dạng. Khả năng để đa dạng hóa có lẽ xuất phát từ sự nhạy cảm. Ưu điểm lớn nhất của Nụ cười tre trúc, nghĩ cho cùng, không phải ở ngôn ngữ hay thơ, cũng không phải ở phong cách pha ít nhiều tự truyện hay ít nhiều tùy bút, mà thực chất là ở khả năng khám phá nhạy bén và tinh tế những tâm lý phức tạp của con người. Trong lãnh vực này, ít người đi xa và đi sâu hơn Kiệt Tấn. Kiệt Tấn như một nhà thám hiểm đại dương, ngòi bút ông không ngừng phát hiện từng sự thật mong manh, khuất giấu trong đáy cùng tối thẳm của lòng người. Nếu Nguyễn Mộng Giác là người nhạy bén trong việc khám phá và mô tả những trạng thái tâm lý bình thường trong đời sống hằng ngày như niềm vui, nỗi buồn, sự giận hờn, sự thương nhớ… thì Kiệt Tấn lại là người cực kỳ nhạy bén trong việc khám phá và mô tả những trạng thái tâm lý bất bình thường của con người. Không ai, trong nền văn học hải ngoại hiện nay, có thể viết về một cơn điên, một giấc mơ dữ, một tình yêu cuồng nhiệt… hay hơn Kiệt Tấn.

Văn chương của người gốc miền Nam từ trước tới nay thường tập trung khai thác nhiều ở các đề tài: phong tục, lịch sử, thế sự và luân lý. Nụ cười tre trúc mở ra một thế giới khác, thế giới truyện tâm lý và triết lý.

Nghe nói Kiệt Tấn đang hoàn thành bộ trường thiên tiểu thuyết Lớp lớp phù sa. Một số đoạn trích trong đó được đưa vào tập Nụ cười tre trúc. Những đoạn trích ấy đều hay, đặc biệt, Vườn chanh miệt biển, rất hay. Nhưng giá trị của cả bộ trường thiên tiểu thuyết ấy sẽ ra sao? Dĩ nhiên là phải chờ đến lúc tác giả cho ra mắt. Riêng tôi, vừa chờ vừa thất thỏm. Có thể, khác với Nụ cười tre trúc, lần này Kiệt Tấn sẽ thất bại. Kinh nghiệm: những nhà văn có giọng văn pha nhiều chất tùy bút ít khi thành công trọn vẹn trong truyện dài. Tôi nghĩ đến Nguyễn Tuân, đến Mai Thảo và Đến Võ Phiến. Truyện dài của họ hay thì đành là hay so với vô số những cây bút khác. Nhưng với họ, cái hay ấy tôi có cảm giác có cái gì không trọn vẹn. Như truyện ngắn của họ. Như tùy bút của họ. Như chiều cao của họ đòi hỏi nó phải ngang tầm. Mong là Kiệt Tấn sẽ gặp may mắn./.








tranh Đinh Cường







Nghĩ về Kiệt Tấn
Nguyễn Mộng Giác




Trong suốt thời gian phụ trách bài vở cho tạp chí Văn học nghệ thuật (bộ mới) và Văn học, tôi được cái may mắn đọc trước nhiều bản thảo của các văn hữu từ khắp nơi gửi về, sau đó theo dõi ảnh hưởng của tác phẩm ấy lên trên bạn đọc.

Hồi còn ở Việt Nam trước 1975, tôi dạy học ở tỉnh lẻ nên ít có cơ hội được gặp gỡ, tiếp xúc với giới cầm bút. Tôi có được nghe nói tới tập thơ “Điệp khúc tình yêu và trái phá” của Kiệt Tấn xuất bản năm 1966, nhưng chưa được đọc. Hình như từ lúc cho xuất bản tác phẩm đầu tay cho đến1975, Kiệt Tấn bận chuyện học hành, bận sống cho hết cung bậc của yêu hờn giận ghét nhiều hơn là viết về những điều mình sống. Những kinh nghiệm, xúc cảm, suy tưởng trong thời gian ấy được ấp ủ, tích lũy như một thứ rượu quý, để đến một lúc nào đó, không thể dừng được nữa. Kiệt Tấn để mặc cho xúc cảm tuôn trào nơi đầu ngọn bút. Truyện “Em điên xõa tóc” Kiệt Tấn gửi cho Văn học Nghệ thuật là kết quả của những kinh nghiệm đã chín mọng, những xúc động đã ngút ngàn, những suy tưởng đã viên mãn… Những cái “đã” ấy tất nhiên phải thành nghệ thuật. Quả đúng như thế, “Em điên xõa tóc” được in ra và phổ biến khắp nơi, liền được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Đây là một trong những truyện ngắn hiếm hoi, có giá trị nhân bản phổ quát mà Văn Học Và Văn Học Nghệ Thuật được hân hạnh giới thiệu với bạn đọc.

Từ đó đến nay, Kiệt Tấn liên tục đem nhiều kinh ngạc chjo những người theo dõi sát sinh hoạt văn chương ở hải ngoại. Anh lần lượt viết lại những cuộc tình Á-Âu lẫn những mối tình đầu của đời anh, từ Đêm cỏ tuyết, Người em xóm học, đến Yêu em xứ tuyết, truyện nào cũng thơ mộng tuyệt vời và nhục cảm ngùn ngụt. Anh viết bạo, viết hết tất cả sắc diện của tình yêu, anh đi suốt những gì mà những người viết khác chỉ dám đi một nửa, rồi bẻn lẽn dừng lại ở chỗ tự cho là ranh giới. Nhờ thế, nhiều truyện tình của Kiệt Tấn có cái chất sống cuồng nhiệt của tác phẩm D. H. Lawrence trong đó tình yêu có đầy đủ cả những đóa hoa e ấp trao nhau, những nụ hôn ngượng ngập, lẫn những tham lam cuống quít và những “hơi thở rướn cong”[1].

Nhưng Kiệt Tấn không chịu dừng lại ở đó. Trong cuộc phiêu lưu đi tìm cái ta riêng trong cái chung của nhân loại, đi tìm cái đặc thù tiêu biểu, Kiệt Tấn làm kinh ngạc người đọc ở cả những lãnh vực khác. Và trong loại đề tài nào, Kiệt Tấn cũng viết được những truyện ngắn xuất sắc. Một số trích đoạn đã được đăng tải trong tập trường thiên Lớp lớp phù sa của anh, cùng với Nụ cười tre trúc, Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi, Năm nay đào lại nở cho chúng ta thấy một Kiệt Tấn khác hẳn Kiệt Tấn trong những chuyện tình. Tình yêu quê hương của anh cũng hôi hổi y như tình yêu trai gái.

Sức sống cuồng nhiệt, sự nhạy cảm của Kiệt Tấn, trải qua thăng trầm của lịch sử, đương nhiên dẫn anh tới những suy tưởng bao quát về cuộc đời, về con người. Kỷ niệm đẹp của một quê hương đã mất, lưu niệm của những ngày tháng tàn phai, cuộc sống lưu vong, đã đẩy đưa Kiệt Tấn viếtVườn chanh miệt biển, một thứ tùy bút pha lẫn bút ký và tự truyện, mà theo tôi, đánh dấu thành công viên mãn nhất của Kiệt Tấn trong loại sáng tác suy tưởng.

Mỗi người cầm bút thường chỉ có sở trường về một loại đề tài, một loại khung cảnh sống hoặc một loại nhân vật. Rất ít có người dám xông xáo vào nhiều lãnh vực, vì thấy trước sự thất bại. Trường hợp Kiệt Tấn khác hẳn. Anh viết về đủ đề tài, nhân vật, khung cảnh, thay đổi, từ một cô gái quê cho tới một cô tình nhân bụi đời ở kinh đô ánh sáng, từ những kinh rạch bán khai chằng chịt ở quê hương cho tới cảnh đô hội nơi đất khách… ở đâu Kiệt Tấn cũng xông xáo thông thạo như một “thổ công”. Vì sao vậy?

Theo tôi, câu trả lời khá đơn giản: Kiệt Tấn đã sống hết mình, và viết hết mình. Khi sự chân thành đã đến độ giống như tự khỏa thân trước cuộc đời, thì cái Tâm Thành đó cộng với Tài Ba phải thành Nghệ Thuật. Kiệt Tấn đã thực hiện được lời của Dostoievsky khi văn hào Nga này nói: “Tôi đã viết hết những điều mà thiên hạ chỉ dám nói có một nửa”.

Thực hiện được điều đó, không dễ. Phải có một lòng yêu người nồng nhiệt, và một sự can đảm lớn lao./.

[1] Mượn nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Túy Hồng.












Kiệt Tấn Và Những Đam Mê Giữa Đời Thường

Đoàn Nhã Văn


Kiệt Tấn đến với làng văn nghệ trước tiên bằng thi tập Điệp Khúc Tình Yêu và Trái Phá vào năm 1966. Đúng 21 năm sau, tập truyện Nụ Cười Tre Trúc được xuất bản ở ngoài nước và cũng chính tác phẩm này đã bắt cầu cho những tác phẩm khác nối tiếp nhau, làm nên tên tuổi Kiệt Tấn trên văn đàn. Ở ông, hừng hực một ngọn lửa: dám sống hết mình, dám viết tường tận về những điều mình sống và đặc biệt là dám đẩy ngòi bút vào vùng đất, mà đối với nhiều người, nó thuộc loại “cấm kỵ”, để rồi trở thành một hiện tượng văn học trong khoảng thời gian cuối thập niên 80: hiện tượng Kiệt Tấn. 

Ba tập truyện ngắn Nụ Cười Tre Trúc (NCTT), Thương Nàng Bấy Nhiêu (TNBN) và Nghe Mưa in đậm những chuyện tình của Kiệt Tấn từ thuở mới lớn ở quê nhà, đến những chuyện tình với các tình nhân tóc vàng mắt xanh ở Gia Nã Đại, Pháp khi ông đi du học. Lồng vào đó là những truyện ngắn viết về quê hương khi đứng bên này nhìn về bên kia biển trời lồng lộng, cũng như đời sống riêng tư hiện tại ở Pháp với nhiều phiền lụy của cuộc đời. Tập truyện ngắn Em Ơi Biết Đâu Tìm (EOBĐT), thật ra có thể xem là những trang Ký lý thú, ghi lại một thời đã qua cùng những chuyến đi gặp bạn bè và những chuyến bạn bè đi thăm ông. Ở đây, ông cũng nhắc lại một thời vẫy vùng với các người em xứ tuyết, người em xóm học. 

Truyện dài Lớp Lớp Phù Sa vẽ lại những mãnh đời trên vùng cò bay thẳng cánh miền Nam. Ông dựng lại nhiều lớp nhân vật, và dĩ nhiên, chuyện tình yêu và đàn bà cũng không thể nào vắng mặt. Ở Lớp Lớp Phù Sa, ông viết bằng một giọng văn khác biệt với những tập truyện ngắn.

*** 

Khi dám sống hết mình thì mọi thứ bên cạnh cuộc đời xem ra nhẹ tênh. Chữ nghĩa mang ít nhiều cái phong thái ngang tàng. Hình ảnh sử dụng lắm khi bứt khỏi cái nhìn, cái đọc thường ngày ở rất nhiều người. Trong cái ngông nghênh đó, người ta nhìn Kiệt Tấn như một hiện tượng bất thường. Kiệt Tấn điên! Nhiều người bảo thế. Không thấy Ông phủ nhận. Thậm chí, ông còn nhắc tới những điều này rãi rác trên các trang sách của mình. Và trong những cơn điên như thế, ông đã từng dám ỉa vào óc của mình, một điều mà người bình thường không dám nói, và dĩ nhiên, càng không dám giữ lại trên giấy trắng mực đen như ông (EOBĐT, trang 250-251) 

Kiệt Tấn chống chủ thuyết, bởi thuyết nào cũng chứa sẵn mầm loạn trong đó. Thuyết càng lớn, loạn càng lớn (NCTT, trang 122). Chính trị đồng nghĩa với điếm nên nhất định không phải là đất của chàng (TNBN, trang 132). Với ông, lãnh tụ cũng chỉ là ... tủ lạnh. Ông mệt với những anh hùng và nghẹt thở với những mớ triết lý. Và vì thế ông “phát minh” ra cái triết lý của riêng mình – triết lý của “lỗ rún”. Ông viết: “Tôi muốn cái gì cũng phải có ý nghĩa. Cục đá phải có ý nghĩa. Con chó cũng phải có ý nghĩa. Tôi cũng phải có ý nghĩa. Cuộc đời cũng phải có ý nghĩa. Ý nghĩa theo cảm quan của tôi, dĩ nhiên. Vì có như vậy tôi mới chấp nhận. Tôi chỉ có thể chấp nhận tôi. Thiệt hết sức logique. Hết sức hợp lý. Tôi đã tìm ra được triết lý của lỗ rún. Ngó lỗ rún của mình mà lý luận. Mê lắm.” (Nụ Cười Tre Trúc, trang 133). 

Có ai “bình thường” mà phát minh ra triết- lý-của-lỗ-rún như ông? 

Điên hay không điên, có gì là quan trọng, khi những điều chung quanh cuộc sống hôm nay thay đổi xoành xoạch. Hôm nay đúng, ngày mai có thể sai và ngược lại. Điều quan trọng là ở trạng thái nào, con người sống thực với lòng mình, yêu thực lòng mình và nói thực lòng mình. Xa hơn bước nữa, ở trạng thái nào người nghệ sĩ tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Có nhiều văn nghệ sĩ trên thế giới trong những cơn “điên rồ” họ đã tạo nên những tác phẩm để đời. Riêng Kiệt Tấn, trong những “cơn điên” của mình, ông đã trổ thêm một cánh cửa cho ngôi nhà văn chương. Trong những lúc mất quân bình đó, những tác phẩm nghệ thuật xuất hiện, lóe lên những tia sáng lạ và đẹpï, làm chùn tay không ít người viết khác, trong giai đoạn này. Điên để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật mà được nhiều người nhắc tới, nhiều người cũng muốn lắm. Nhưng rất tiếc, muốn điên không phải dễ, và không phải ai cũng điên được. Mà dù có điên được chăng nữa, chưa chắc họ đã dựng nên những tác phẩm giá trị. Lý do đơn giản: họ không phải là Kiệt Tấn. 

Lần bước theo những tác phẩm của Kiệt Tấn, người đọc bắt gặp một giọng văn dí dỏm, thỉnh thoảng chen vào đó là một sự mỉa mai, châm biếm và cũng không hiếm lần cười cợt. Cái dí dỏm của ông là cái cái dí dỏm của một anh chàng Nam Kỳ vui tánh. Tợp xong một ngụm rượu, đặt ly xuống, kể một câu chuyện vui, xen vào những chi tiết lý thú, làm cả bàn tiệc xôn xao bàn tán, sau đó nổi lên những tiếng cười đắc ý và thích thú. Giọng văn dí dỏm của ông in đậm trên năm tác phẩm. Viết bằng một giọng văn dí dỏm là mang trong người một dòng máu yêu đời tha thiết. Bởi kẻ chán đời không thể nào mở được một nụ cười vui, chứ nói gì đến chuyện hóm hỉnh, dí dỏm cả ngàn trang sách. Tuy vậy, cái yêu đời của Kiệt Tấn cũng chẳng giống ai. Cái yêu đời của kẻ dám sống hết mình, như ông, đã vượt khỏi những thông lệ cũ càng, bứt ra khỏi những hàng rào định kiến bao đời. Từ yêu đời sang yêu người chỉ cách nhau có một bước. Từ yêu người nói chung, qua yêu đàn bà nói riêng, dĩ nhiên bằng triết-lý-của-lỗ-rún, cách nhau chưa tới gang tay. Kiệt Tấn yêu đàn bà da diết và thèm đàn bà dữ dội. Thiếu họ, ông khật khùng, dở khóc dở cười. Mà thật. Nhiều lúc ông khóc tàn canh gió lộng. Ông khóc ở Canada, ông ôm đầu, rơi nước mắt ở Paris, ông lồng lộn ở Sài Gòn, ông quay quắt ở Bạc Liêu. Thiếu hơi đàn bà là ông ủ dột, ngật ngưỡng, lù đù, tái mét, rũ rượu. Vì thế trên những trang sách của ông, bàng bạc những cuộc tình, những môi hôn, những đồi núi, những nhung lụa, những hừng hực, mê mẫn, bừng cháy, tuyệt dịu, thần tiên, hoang đường, phơi phới .v.v... Ông nhắc đến người em xứ tuyết Gia Nã Đại. Ông cặn kẽ với người em xóm học Paris. Ông quay cuồng với người con gái Bạc Liêu. Ông đắm đuối với người này ở Biên Hòa, người nọ ở Gia định, kẻ khác ở Sài Gòn, người nớ ở Vũng Tàu. Mỗi người một vẽ, mỗi kẻ một đam mê, và mỗi nàng một cháy bỏng khác nhau. Tất cả những nhân vật đó góp phần làm nên văn phong vui tươi, sinh động của Kiệt Tấn trong vùng tình cảm đầy ướt át này. 

Cũng nên nói thẳng rằng: nếu không có hơi hướm đàn bà của thời vẫy vùng tuổi trẻ, chắc chắn không có tên tuổi Kiệt Tấn. Với ông, “Đàn bà là cả một thế giới bí mật. Con gái cũng vậy. Càng nhỏ tuổi càng bí mật. Nhưng khi lớn lên các nàng lại càng tăng thêm bí mật – một cách khác” (EOBĐT, trang 10). Càng bí mật, ông càng nhất mực tôn thờ. Ông đến với họ như một thứ tôn giáo của riêng ông, mà ở đó đã mở ra những đắm đuối, say mê, cởi mở, hạnh phúc, hừng hực, dập dồn, xốn xang, xao xuyến, thèm thuồng, quyến luyến. Và ông bơi lội trong vùng không gian này thỏa thích. Tuy vậy, chỉ cần một chút để ý, ta sẽ thấy ngay ông viết về những người đàn bà với một tấm lòng, một đam mê, và đằng sau đó là chiêm ngưỡng, là trân quý. Ông viết về họ là muốn cho họ sống lại dài lâu trong lòng độc giả bằng một sự trân trọng của mình. Ông minh định một điều: “tôi viết tình dục với mục đích cho độc giả thấy tình dục là một điều tự nhiên và đẹp đẽ. (...) Tôi không thể yêu một người đàn bà không có thân thể, thứ đến tôi không tách rời nhục cảm khỏi tình yêu chớ tôi không nhìn đàn bà với con mắt thuần nhục cảm.” (EOBĐT, trang 70). Hơn nữa, Kiệt Tấn cần hơi đàn bà nhưng không phải ông cần đàn bà để làm cái chuyện bình thường của tạo hóa. Mà lắm lúc, Kiệt Tấn cần đàn bà là để giải tỏa nổi cô đơn. Trên đời, ông chỉ sợ có hai thứ: bệnh tật và cô đơn. Vì thế, “mỗi lần đến một thành phố lạ nào, việc đầu tiên của tôi là đi tìm đàn bà – bất cứ người đàn bà nào cũng được.Không phải để giải quyết sinh lý. Tôi cần có sự hiện diện mà sự hiện diện đó phải là của một người đàn bà. Không có nàng tôi thấy đời sống trống rỗng, mênh mông, hoang vu dễ sợ. Tôi tưởng có thể ngã ra chết được. Tôi ghiền đàn bà như ghiền ma túy.” (Thương Nàng Bấy Nhiêu, trang 82) 

Cái ghiền của Kiệt Tấn tạo nên những trang sách đẹp, bắt đầu cho cái ghiền khác, nơi độc giả: cái ghiền được nằm một mình, đọc những truyện tình của ông, nghe thấm thía ở mỗi tế bào, và lắm lúc vừa đọc vừa cười thích thú. 

*** 

Một trong những điểm đặc thù, ở chữ nghĩa của Kiệt Tấn, trong vùng tình cảm đầy ướt át này, là đặt nhiều cặp tính từ đàng sau môït câu nói để nhấn mạnh điều diễn tả. Cặp chữ này nối liền cặp chữ kia tạo nên những đợt sóng dập dồn trong dòng suy nghĩ người đọc. Đợt sóng này chưa dứt, đợt sóng khác đã đến. Chưa kịp no đầy với cảm giác cũ, cảm giác mới đã xuất hiện, kéo người đọc vào dòng chảy mới của ông, hòa mình trong đó, trôi theo những ngọn triều dâng, nhấp nhô, nhấp nhô, đẩy đến tận cùng. Vì thế, người đọc như thấy mình tham gia đủ đầy qua những vùng chữ nghĩa mang hơi hướm đàn bà. 

“Tôi cuối xuống cạ nhẹ môi tôi trên môi nàng. Lướt qua, khẽ lướt qua...Mướt như lụa. Tuyệt dịu. Thần tiên. Hoang đường! Chợt nghe kiểng đổ trong đầu, thánh thót, ngân nga, vang vang, lùng bùng. Môi nàng khép kín. Nụ hôn đầu đời. Phớt nhẹ. Một lần. Chỉ một lần thôi. Mà vĩnh viễn!” (Nụ Cười Tre Trúc, trang 64) 

“Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Bàn tay tôi sục sạo tìm kiếm đóa hoa thầm kín của nàng. Mềm mại, ấm áp, trơn ướt, nhung êm. Mê mẫn, sung sướng, hạnh phúc. (Thương Nàng Bấy Nhiêu, trang 56) 

“Chân tay hai đứa quấn quýt chằng chịt rối ben tưởng không thể nào tháo rời được nữa. Rên rỉ, năn nỉ, xô ra, quấn vào, cuồng nhiệt, mê tơi, cực điểm, chết ngất...” (Thương Nàng Bấy Nhiêu, trang 105) 

“Nàng hướng mắt về khung kiếng uốn cong truyền hình, loại truyền hình thu sẵn đông cứng, trong lúc đó đôi ngươi tôi lại dính cứng trên ô cửa bầu dục khoảng khoát, cũng truyền hình, nhưng lại là hình ảnh đời sống sờ sờ, tự tại, hiện hữu, linh động, hô hấp liên tục từng giây tùng phút. Tuyệt vời. Ngoạn mục. Mãn nhãn. (...) Đừng mà, để yên cho em coi truyền hình một chút. Coi sao nổi mà coi. Dò dẫm. Xáp lại. Rờ rẫm. Mó máy. Ngoan nào, để yên cho người ta mò trăng một tí. Khám phá bờ giếng trên có móc cài. Nhưng cứ để nguyên như vậy. Thú vị là ở chỗ đó. Leo ra. Chận giữ. Tức vỡ. Be bờ. (Nghe Mưa, trang 74 – 75) 

Ở thi ca, chúng ta thấy Bùi Giáng ăn ngủ, hít thở, sống chết với những tiếng bình dân trong cuộc sống. Thì ở thể loại văn xuôi, Kiệt Tấn đem ngôn ngữ đời thường vào văn chương rất ngoạn mục. Không có nhiều nhà văn đi theo con đường này thành công. Bởi vì, theo lối này đòi hỏi một bản lãnh nghệ thuật, một nhạy bén của chữ nghĩa, và quan trọng hơn hết, nó đòi hỏi người sử dụng nó có một tấm lòng tha thiết với đời để nhận thấy được: ngôn ngữ đời thường gần gũi và đáng yêu. Có yêu thương sâu đậm mới dành cho nó những vị trí xứng đáng, để rồi chắc lọc lại cho mỗi trường hợp, đem nó vào văn chương, gởi đến người đọc những ngạc nhiên, thích thú. Bàng bạt trên những trang sách là những tiếng đậm nét trong thể văn nói của miền Nam. Lâu lâu, nghe lại những tiếng này, ta cảm thấy đầy thích thú. Nghe Kiệt Tấn cho nhân vật của mình nói, lại càng thích thú hơn, bởi nó mang đầy chất sống, những chất sống tươi rói như phả vào câu văn, đưa đến gần người đọc. Chính chất liệu ròng này đã tạo nên những cảm giác hiếm hoi như khi có người gãi giùm mình đúng chỗ ngứa. Đã thiệt là đã. 

Một khía cạnh khác trong văn chương Kiệt Tấn: đem thi ca, ca dao, vọng cổ vào những bản văn. Điều này có thể bắt gặp trong bất kỳ truyện ngắn, truyện dài hay ngay cả trong thể loại tùy bút của ông, và thậm chí trong những lá thư gởi người quen, gởi bạn bè. Khi đem vào những trang sách của mình, ông không hề chú thích liền sau đó. Ông cứ để dòng cảm xúc của độc giả chảy dài theo câu chuyện. Những cái chú thích sẽ làm nghẽn giao thông, phá tan cái không khí mà ông tạo được. Và ông dư biết điều đó. Sau cùng, ông chú thích cuối bài một loạt tên tác giả có thơ trích, hay ca dao, hay vọng cổ. Và trong rất nhiều trường hợp, ông biến một phần câu ca dao thành một phần câu văn của ông. Người được Kiệt Tấn mê nhất và được ông trích dẫn nhiều nhất, có lẽ là Nguyễn Bính và Phạm Thiên Thư. Tuy nhiên, cũng có nhược điểm trong lối viết này: nhiều chỗ, ông như lạm dụng, đẩy một hơi mấy câu Kiều thành câu văn của mình, hay làm một lèo mấy câu thơ của họ Nguyễn, họ Phạm thành đoạn văn của mình, ngon ơ. Ở điểm này, đôi lúc có thể làm bực mình những độc giả khó tính. 

Thật rõ ràng, một lần nữa, Kiệt Tấn đã bày một lằn ranh minh định: bên này là Kiệt Tấn, bên kia là người khác. Ai chịu thì ở lại, còn không ...cũng không sao, nhưng đọc ai cũng dzậy, đọc tui, tui cảm ơn. 

*** 

Kiệt Tấn có một lối diễn tả nội tâm nhân vật, nhất là những nhân vật nữ, khá tài tình. Ông không dẫn giải chi li, mà ngược lại, dùng hình ảnh nói thay cho sự chuyển đổi trong suy nghĩ của họ. Tôi tin rằng những hình ảnh này, nếu lên phim, chắc chắn sẽ là những thước phim đẹp. 

Ở truyện ngắn, Người Em Xóm Học, trong tập Thương Nàng Bấy Nhiêu, chẳng hạn. Ông cùng Diane quấn quýt bên nhau như đôi sam trong những ngày hè khi ông từ Quebec qua Paris, thăm Lộc. Sắp hết ngày hè, giờ chia tay sắp đến. Dẫu chậm thế nào thì cũng phải chia tay. Những kỷ niệm, vấn vương, xao xuyến, bồi hồi làm cho cuộc chia tay nào cũng cảm động. Nhưng cho nhau gì đây để nhớ mãi, giữ lại gì đây để mỗi khi nhìn vật sẽ nhớ người. Kiệt Tấn cắc cớ, xin người tình một chiếc quần lót của nàng, anh viện dẫn để nhớ mãi mùi hương thầm kín. Nhưng Diane dẫy nẫy và nhất định không cho. Nhưng nàng tặng chàng một cái khác. Cái gì đây? 

“Ngẫm nghĩ một hồi, bỗng nhiên nàng tháo váy, cởi quần lót ra, tôi tưởng nàng đã đổi ý muốn tôi giữ mùi hương thầm kín của nàng. Nhưng không, nàng cầm kéo quay mặt vào tường lúi húi. Nàng cắt tặng tôi một chùm cỏ ở gò tình, cũng màu auburn nhưng nhạt hơn và xoắn tít như lông cừu. Nàng bảo tôi nhổ cho nàng sợi tóc, nàng buộc cùm cỏ và bỏ vào hộp thiếc đậy nắp lại. Tôi cảm động thấy thương nàng hết sức.”(Thương Nàng Bấy Nhiêu, Trang 112) 

Có người cho đây là một hình ảnh dung tục. Nhưng thực ra đây là một hình ảnh hết sức nghệ thuật. Diễn biến nội tâm của Diane được Kiệt Tấn mô tả rất tuyệt. Nàng ngẫm nghĩ, do dự khá lâu. Cũng phải thôi. Yêu người tình tha thiết, nhưng .... Đúng, sự thay đổi trong ý nghĩ của nàng bắt đầu từ cái nhưng này. Và khi đã vượt được cái nấc đó, nàng đã quyết định thật nhanh và dứt khoát như một cái máy. Rồi sau đó, bỏ nó vào hộp, đậy nắp lại. Hành động này còn bẫy lên được một điều trong tận đáy lòng của Diane: đã yêu nhau thật sự thì cái gì còn làm được, huống hồ gì một lời cầu xin nhỏ nhặt của chàng. 

Ở một truyện ngắn khác, Yêu Em Xứ Tuyết, trong tập Nghe Mưa, sự thay đổi, cái dùng dằng của người con gái, và cái quyết định dứt khoát của cô, khi giấu người yêu của mình, đi lấy chồng, rất sắc xảo qua ngòi bút của Kiệt Tấn. 

“Ngọn đèn lại được thắp lên lần nữa để nàng thổi tắt. Và trong bóng tối nàng ôm tôi siết thiệt chặt và hôn lên má tôi một nụ hôn rất dài, son môi nàng có hương vị hoa hồng. Nàng xô ngã tôi lên giường và tiếp tục đóng vai chủ động. (...) Nàng nói lảm nhảm những gì tôi không nghe rõ, chỉ loáng thoáng tiếng còn tiếng mất như nấc khóc...(...). 

Sau khi quần áo chỉnh tề, nàng mở ví tay lấy thỏi son mùi hoa hồng thoa lên môi, tô đi tô lại nhiều lượt trước tủ gương nhỏ máng quần áo của tôi. Xong nàng đặt môi áp hôn cửa kiếng in lại nguyên vẹn vết tích đôi môi nàng rồi dùng thỏi son viết khít ngay bên dưới “jet’aime!”. Nàng mở ngăn kéo bàn viết học trò của tôi quăng thỏi son vào đó và đóng lại, ngó tôi chăm chú: 

-Thôi em về! 

Chưa bao giờ tôi thấy nàng hấp tấp như vậy. Tiếng chân nàng chạy nhanh đột nhiên dừng lại ở khoảng giữa cầu thang như chần chờ. Một giây, hai giây, ba giây ... Bước chân lại tiếp tục đi xuống. Cánh cửa ở cuối cầu thang mở ra rồi đóng lại.” (Nghe Mưa, trang 106-07) 

Nàng chủ động trao thân cho người yêu trong lần cuối cùng gặp mặt. Trong những giây phút yêu đương đó, nàng lảm nhảm như nấc khóc là dấu hiệu của dằn co, ray rứt. Bởi đây là một quyết định quan trọng, một quyết định của sự một đi không trở lại. Như tức tưởi, như nghẹn ngào. Nàng để lại vết son trên cửa kiếng của người tình như muốn nhắn chàng rằng hãy nhớ mãi vết son này. Và cuối cùng gởi lại cho chàng thỏi son trong ngăn kéo bàn viết. Tại sao lại thỏi son? Thỏi son cũng giống như vật bất ly thân của người phụ nữ phương Tây. Thiếu gì thì thiếu, trong ví của họ không thể thiếu thỏi son khi ra đường. Để thỏi son ở lại, như để lại kỷ niệm cuối cùng, trong một tâm trạng bã bời. Rồi cũng phải ra đi. Sự chuyển đổi tâm lý từ trạng thái giằng co qua sự quyết định bằng sự hấp tấp và những tiếng bước chân chạy nhanh. Phải thật nhanh, nếu không, sợ chính mình sẽ đổi ý. Nhưng chân đi mà hồn để lại. Nàng như lừng khừng. Thật ra, cái lừng khừng bắt đầu từ khi “tô đi tô lại nhiều lượt” son môi. Không phải vô tình mà Kiệt Tấn “bắt” nàng tô đi tô lại nhiều lần. Ông không nói thẳng. Bởi nói thẳng thì còn gì là nghệ thuật. Sự dùng dằng, quyến luyến càng rõ rệt hơn khi nàng chạy ra khỏi phòng, rồi dừng lại. “Một giây, hai giây, ba giây ...” và cuối cùng là sự dứt khoát, dứt khoát nhưng không giấu nỗi sự đau lòng. “Bước chân lại tiếp tục đi xuống. Cánh cửa cuối cầu thang mở ra rồi đóng lại”. Chấm hết. Ở câu cuối cùng ta lại bắt gặp một nét đẹp khác. Cánh cửa không chỉ khép lại để ngăn cầu thang và dãy phòng ngủ. Nó còn như một vật chắn, khép lại một mối tình, làm một bức ngăn, chia cách người đi, kẻ ở. Như một nhát kéo, cắt sợi dây oan, mỗi người giữ một nữa rời, nghiệt ngã. Hình ảnh tuy đơn giản nhưng không phải ai cũng đặt nó được trên trang sách đúng vào vị trí của những sự chuyển đổi và tâm trạng rối bời của nhân vật một cách đắc địa như Kiệt Tấn. 

*** 

Như bao lưu dân khác, đi đâu thì đi, Kiệt Tấn cũng có một chỗ để nhớ về: quê hương. Viết gì thì viết, Kiệt Tấn cũng không khỏi viết về nơi chốn sinh ra: quê hương. Đứng bên này trời, nhìn về bên kia biển lớn (ở những năm 80), nghe lòng se thắt, từng nhịp tim đập rộn lên nỗi nhớ nhà. Quê hương trên những trang sách của Kiệt Tấn không những đậm nét những vùng ông đã đi qua, để lại ít nhiều những mối tình, mà còn là hình ảnh những bà già. Từ bà-già-bán-cà rem, bà-già-bán-đậu-phộng-lép, đến bà-già-lượm-lon, bà-già-điên trong thành phố .v.v.... Những bà già ít nhiều để lại trong ông những niềm thương nhớ vô vàn, da diết, và không ít nổi xót xa. Trong số những bà già quê hương đó, có một người ông nhắc tới rất nhiều, đó là người mẹ thân yêu của ông. Ông viết về mẹ mình thật đẹp. Thật ra, khi viết về Mẹ, không riêng gì mẹ mình, mà là tất cả những người mẹ Việt Nam, ông dụng lối viết nhẹ nhàng, đằm thắm. Ở đây, người đọc như đọc được ý nghĩ của ông: chữ nghĩa văn hoa không chở hết tâm hồn đôn hậu của mẹ hiền; câu cú thời thượng không mang nổi tấm lòng cưu mang không một lời than thở của những bà già chốn cũ. Bóng mát của mẹ, nụ cười của mẹ là cả một trời, một biển. Vặn vẹo chữ nghĩa sẽ xiêu lạc những tấm lòng quê. Vì thế, Kiệt Tấn lấy hình ảnh đơn sơ của ruộng đồng mà viết về Mẹ, tạo nên những hình ảnh liên tưởng đẹp ngút ngàn. 

“Mặt bà nhăn nheo hiền hậu, cười móm, giống bà già bán cà rem ở trường tiểu học, lúc tôi học lớp nhứt, mười tuổi. Buổi trưa, khi ngồi vá áo bên cửa sổ, bà ngó tôi cười móm trong vuông nắng, tự nhiên tôi có cảm giác đang nằm dưới một gốc tre già bên bờ ao, lá tre trên cao thoảng gió rì rào, giọt nắng trộn lẫn bóng lá tre nhảy nhót trên khuôn mặt tôi mát rượu, tôi thiu thỉu ngủ, giấc mơ thơi thới…(...) Cho dù má tôi không cười thành tiếng, tôi vẫn nghe có tiếng rì rào thanh thoát của tre trúc rộng lượng chở che. Tôi là con trâu nghé nằm trong bóng lá im buổi trưa hè nắng gắt.” (Nụ Cười Tre Trúc, trang 15) 

Một trong rất nhiều những đoạn văn, tôi cho là đẹp, mà Kiệt Tấn viết về mẹ ông, những người mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn, nhưng có trái tim to bằng bồ lúa. 

“Nếu ngọc trai là ngọc của sò biển, nếu gạo thóc là ngọc của trời thì nước mắt là ngọc của má tôi. Cả đời má tôi buông nhả loại ngọc đó rất nhiều, cho bất cứ gì, cho bất cứ ai, vô tình hay cố ý, đến gõ cửa trái tim bà. Tôi thường ví trái tim bà là bồ lúa, mà mỗi hột lúa là một mối thương tâm, một mối thương tâm rất gần với từ bi, khiến cho bà sa nước mắt ngùi ngùi vô số kể, suốt cuộc đời bà. (...) Cả đời tôi chưa hề nghe tiếng “hy sinh” thốt ra từ cửa miệng của bà. Bởi vậy, khi thấy má tôi khóc, đừng tưởng bà đau khổ, đừng tưởng bà đang nghĩ bụng mình hy sinh rút ruột cho con ăn, mình thức đêm thức hôm dầm sương dang nắng vì con cái. Khi sung sướng, người ta cũng có thể chảy nước mắt lắm chớ, phải không? Vì vậy nước mắt của má tôi cũng rì rào như nụ cười tre trúc của bà: thương yêu, chở che, rộng lượng.” (Nụ Cười Tre Trúc, trang 20-21) 

*** 

Rời vùng truyện ngắn, Kiệt Tấn bước vào truyện dài bằng Lớp Lớp Phù Sa. Một tác phẩm viết về đời sống và tâm tình của người dân miền Nam, trên ruộng đồng, trên sông nước. Ở đây, Kiệt Tấn không còn kể chuyện mình, mà bắt đầu kể chuyện người, chuyện đời. Dẫu rằng trong những cảnh đời đó, người đọc bắt gặp một số nhân vật và dễ dàng nhận ra ngay những nhân vật này đã được ông đề cập đến trong các tập truyện ngắn, như chú câm, như lão thần y và dăm nhân vật khác. Ông mượn hình ảnh những người chung quanh mình để dựng truyện. Khi vay mượn, dĩ nhiên phải tính toán. Người đi buôn mượn vốn thì tính thiệt, hơn. Nhà văn mượn hình ảnh cuộc đời, mượn chân dung người khác thì thường chắc lọc, thêm bớt. Ở Lớp Lớp Phù Sa, hình ảnh nhân vật có chắc lọc nhưng hình như vẫn còn thiếu chất sống. Cái chất sống cần thiết để tạo ra những mảng đời sống, khó trùng lặp trên vùng phì nhiêu, sông nước miền Nam. Giọng điệu câu văn cũng thế. Nhiều lúc ông rề rà quá sức ở những chỗ không cần cái rề rà. Cái khác biệt lớn giữa truyện ngắn và truyện dài của Kiệt Tấn là ở chữ nghĩa. Chữ nghĩa ở truyện dài không còn cái quyến rũ, cái thôi miên, như ở truyện ngắn. Theo tôi, truyện dài của Kiệt Tấn không sắc xảo và lôi cuốn bằng truyện ngắn của ông, dù rằng nó là một truyện dài có thể xem là “đọc được”, so với một số truyện dài ngoài nước mà ta đọc được từ đó đến nay. 

*** 

Khi Kiệt Tấn viết về quê hương, người đọc thấy hình ảnh người mẹ hiền ấp ủ trong lòng người viết; trái tim nhân hậu, tấm lòng cởi mở của bà theo suốt cuộc đời của ông, cùng những giọt nước mắt buồn, vui thấm suốt đời người. Khi viết về tình ái, người đọc thả hồn mình vào những chuỗi tháng ngày mới lớn của Kiệt Tấn, cùng chia xẻ với ông những mời gọi, rũ rê đó. Tất cả những điều này đến với độc giả không ngoài chữ nghĩa. Cái đẹp của chữ nghĩa là nét đẹp của nghệ thuật. Khi nghệ thuật đạt đến một mức độ nào đó, người ta không còn thấy lớp vỏ nghệ thuật hiện hữu nữa, mà chỉ thấy hình ảnh rực sáng bên ngoài, những biến chuyển nội tâm sục sôi bên trong, tạo thành một hiện tượng, mạnh mẽ nhưng khá ngắn ngủi: hiện tượng Kiệt Tấn. Hiện tượng này như tia sáng lóe lên từ mũi hàn với nhiệt độ cao. Bùng lên. Sáng xanh. Khi hết hơi, mũi hàn tắt, thôi thúc đã hết, đam mê đã ngừng. Ông ngưng viết trong sự luyến tiếc của độc giả, nhưng điều này cũng cho thấy rằng: ông đã tìm được cho mình một thế quân bình trong trong đời sống, mà ở trạng thái này, dù không viết, ông vẫn thấy hạnh phúc, một niềm hạnh phúc của đời thường. 

Ngắn gọn, văn chương Kiệt Tấn như những đường kiếm đẹp, khi kiếm rời khỏi võ, kiếm và người là một; chiêu thức không còn nữa, chỉ thấy cái uy lực, vũ bão của nó. 


Đoàn Nhã Văn 
Viết xong 9/2000, sửa lại 1/2005










1957







1961






Anh em Lê Tấn Lộc, Lê Tấn Kiệt
Champs Élysées 1961




















Kiết Tấn & Lê Tài Điển 








Lê Tài Điển, Du Tử Lê, Vũ Thư Hiên, Kiệt Tấn











Kiệt Tấn làm dấu tay cho E.E
tháng 3/2017








Kiệt Tấn & Phan Nguyên














Hiện sống và làm việc tại Pháp








Trở về


MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.