Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Nguyễn Thị Hậu





















"Hậu khảo cổ"

Tên Thật: Nguyễn Thị Hậu
(1958 .........) Hà Nội
Nhà khảo cổ. Nhà Văn. Nhà Giáo.













Đi, và tìm trong đất ... thấy Người
Saigon 2 tháng Tư 2013









Nguyễn Thị Hậu sinh năm 1958 tại Hà Nội. 
Quê quán An Giang, thuộc gia đình nam bộ tập kết ra bắc những năm 54-55 của thế kỷ trước. 
Một thế hệ có hai quê để đi và ... về. 
Là Tiến sĩ khảo cổ học, chị giảng dạy tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố HCM. 
Ngoài chuyện khoa học chuyên ngành, làm "công tác bảo tàng viện", chị đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nền Văn hóa Óc Eo, Đồng Nai, Sa Huỳnh, khảo cổ học đô thị Sài Gòn/TP Hồ Chí Minh v.v...Các bài báo và những bài trả lời phỏng vấn của chị chủ yếu về đề tài bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Nguyễn Thị Hậu hiện là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP/HCM,
 Phó Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Việt Nam 
và Tổng Thư ký Hội Sử học TP/HCM.







Những bài viết mới của 

Nguyễn Thị Hậu:



Tản Mạn Về Truyền Thông, Biển Đông Và Lòng Yêu Nước
http://www.viet-studies.info/NguyenThiHau_TanManBienDong.htm



Nước Mỹ, tháng năm
http://www.viet-studies.info/NguyenThiHau_NuocMyThangNam.htm



Những điều bình thường ở nước Mỹ

http://www.viet-studies.info/NguyenThiHau_BinhThuongOMy.htm













Tác phẩm đã xuất bản








Khảo Cổ Học


Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Tp/HCM








Tìm Hiểu Kỹ Thuật Sản Xuất Lu Gốm
Xóm Làm Bếp Lò Gốm Làng Phú Định (Quận 6 Tp/HCM)
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11892



Hệ Thống Di Tích Khảo Cổ Học ở Tp/Hồ Chí Minh
Vài Nét Về Văn Hóa Khảo Cổ Đồng Nai










Cần Giờ Hai Ngàn Năm Trước
Văn Hóa Óc Eo, Một Nền Văn Hóa Cổ ở Nam Bộ
Khu Di Tích Gò Tháp (Đồng Tháp) Trong Bối Cảnh Văn Hóa Óc Eo
Khu Di Tích Ba Thê - Óc Eo (An Giang)
Và Vấn Đề Bảo Tồn Di Tích Văn Hóa Óc Eo Hiện Nay
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11826



Vài Nét Về Vũ Khí Cổ Việt Nam

NXB Tổng Hợp






Khảo Cổ Học Và Môi Trường Sinh Thái
Đồ Gốm Cổ Tìm Thấy Ở Sông Đồng Nai
Táng Tục Mộ Chum Ở Đông Nam Á

NXB Thanh Niên







Vật Liệu Kiến Trúc Bằng Đất Nung Tại Di Tích Hoàng Thành Thăng Long
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=5438



Về Một Loại Trang Sức Cổ Độc Đáo: Khuyên Tai Hình Hai Đầu Thú






















Lịch Sử





Nguyễn Hoàng Và Bước Đầu Tiến Vào Vùng Nam Trung Bộ

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8901




Truyền Thông Và Vai Trò Cảnh Báo Thiên Tai, Bảo Vệ Môi Trường - Từ Góc Nhìn Lịch Sử

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11466




Đô Thị Sài Gòn - Một Góc Nhìn 

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6431




Đô Thị Nam Bộ Thời Cận Đại

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7921






























Đường Đến Siem Riep - Angkor
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6245




Paris, Mùa Thu Tím ...

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=5489



Một Nửa Sự Thật

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17141



Đất Và Người Bến Tre

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=5912



Sắc Màu Vùng Cao Nguyên Đá

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18531




Trường Sa Của Tôi

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19033




Về Bình Dương Thăm Nhà Cổ
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6827

























Văn Học







Tập Truyện Cực Ngắn


NXB Hội Nhà Văn







Bệnh lạ


Nó mắc chứng bệnh lạ. 

Có khách đến bảo chào bác Ba đi con thì nó nói " Con chào bác Tư; - Dì tám về kìa con, - "Dạ thưa dì chín"; " Ra chợ mua năm ngàn rau giùm mẹ" - "Bán cho con sáu ngàn" ... Nói mời Nội mai qua ăn cơm" thì " Ba con mời Nội mốt qua nhà" ...

Bác sĩ chẩn đoán: Đây là biểu hiện của bệnh "rối loạn số đếm" rất khó chữa. Đến lớn sẽ chuyển sang giai đoạn "bệnh thành tích".


Cả nhà mừng lắm: nó sẽ không bao giờ thất nghiệp!




..............




Không đề 



Trời mưa. Cô mơ màng: Bây giờ ngồi quán với một cốc cà phê sữa nóng và nghe nhạc thì tuyệt. Anh lắc đầu: Trời mát thế này nhậu thịt chó mắm tôm là nhất ... 

                                           ... Thế là tan vỡ một mối tình.



................



Tu



Vợ chồng ly dị. Buồn. Hắn lên chùa trên núi, vui với thiên nhiên, nghiền ngẫm kinh kệ giáo lý nhà Phật. 

Một thời gian sau hắn quyết định xuất gia.
Trở về thành phố chia tay bạn bè. Mọi người chia sẻ: Thôi cứ làm những gì mày muốn. Có cần gì thì cứ mail cho bọn tao nhé.

Hắn ngẩn người: Ừ nhỉ, trên đó không có Net, làm sao tao tu?!


Bèn thôi không tu nữa.





Và những truyện khác ...





























Tản Văn
NXB Văn Hóa Văn Nghệ








Buổi trưa trong quán cà phê




Những khoảng lặng Sài Gòn
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10673






Nơi tôi gửi lại tuổi thơ
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=5372






Sơ Tán
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16039





Tản mạn về người Sài Gòn

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19804







Và nhiều văn bản khác ...























Quay Qua Quay Lại
Tản Văn
NXB Tổng Hợp TP/HCM






Say Bờ

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11160




http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11732



Ký ức ngày đầu đông ...

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7053





Sài Gòn Tôi Yêu
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15029



Về Cà Mau, nhớ ...
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15681
...............

















Ngắn & Rất Ngắn
NXB Thanh Niên 
In chung với Nguyễn Thị Minh Thái












Chùm tạp bút ngắn (1)
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11217



Chùm tạp bút ngắn (2)
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11425



Chùm tạp bút ngắn (3)
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11966

































Phỏng Vấn

Minh Nga thực hiện:
Về Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa Sài Gòn
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16962










Và nhiều "truyện rất ngắn" đăng rải rác trên các báo mạng với một tên chung:


"Những Mảnh Vỡ"














Ký họa: Đỗ Hoàng Tường









Tham khảo thêm về tác giả Nguyễn Thị Hậu 









Nguyễn Thị Hậu - người xa Hà Nội yêu Hà Nội



Ít người biết chị sống ở Sài Gòn đã 35 năm vì chất giọng Hà Nội “đặc sệt” của chị… Không phải chỉ là thói quen, mà đây là chủ ý của Nguyễn Thị Hậu - như một bảo chứng về một mảnh đời sống mà chị không bao giờ quên - mảnh Hà Nội. Bao giờ chị cũng có hai quê, một - Chợ Mới, An Giang, và một - Hà Nội.

Vào những năm 1954-1955, cha mẹ chị cùng hàng vạn người con Nam Bộ đã tập kết ra miền Bắc. Mãi hai mươi năm sau, những người di cư vì công việc và thời cuộc ấy mới lại đặt chân về quê hương… Hai mươi năm, một thế hệ mới đã kịp ra đời và lớn lên ở Hà Nội - miền Bắc, đó là thế hệ của Nguyễn Thị Hậu - một thế hệ có hai quê.

Năm 1975, thống nhất đất nước, Nguyễn Thị Hậu là cô gái Hà Nội 17 tuổi, bỗng nhận ra mình còn một miền quê có thật, chứ không phải chỉ trong lời kể. Trong con người chị có sự nhẹ nhàng, tinh tế, thanh lịch của người Hà Nội, và sự mạnh mẽ, chân thành, thẳng thắn của người phương Nam. 

Trong chị, ký ức về một Hà Nội nghèo khó mà nên thơ còn mạnh hơn nhiều người Hà Nội cùng thời, vì với chị, Hà Nội là kỷ niệm cần lưu giữ. Đó là những sớm mùa đông, tiếng tàu điện; tiếng ve mùa Hè, là kem cốm Tràng Tiền; là hoa violet Hà Nội gần Tết, là đạn bom trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, là đi sơ tán...

Gặp chị giữa đám bạn bè văn nghệ, đọc tản văn và truyện ngắn của chị, không ít người ngạc nhiên khi biết chị là tiến sĩ khảo cổ học có đóng góp nhiều cho việc nghiên cứu Hoàng Thành - Thăng Long và giai đoạn tiền - sơ sử vùng đất Sài Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhìn vẻ bình dân, xuề xòa của chị cùng bạn bè trong những quán cơm bụi, bên cốc bia hơi Hà Nội, khó hình dung chị hiện là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và là nhà giáo (dạy ở Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều trường khác) và tại Hội khoa học lịch sử Việt Nam, chị là Phó Tổng thư ký. Ở chị, chất hồn hậu, thực chất luôn khiến người ta gần gũi và quý trọng, trước hết như một người bạn hiểu biết, chứ không phải như là một nhà khoa học đạo mạo, càng không phải một quan chức diệu vợi.

Với Nguyễn Thị Hậu, lịch sử là đời sống với đầy đủ nghĩa. Chị say sưa nói về việc phát hiện di tích di vật từ trong lòng đất và những nghiên cứu sử liệu chữ viết để phác dựng lại sự phát triển từ Chạ Chủ (làng Chủ) đến kinh đô Cổ Loa trong thời đại kim khí.

Ngành khảo cổ đã tìm thấy ở đây hàng vạn mũi tên, hàng trăm lưỡi cày, rìu cuốc và nhiều trống đồng. Trống Cổ Loa là một trong ba chiếc trống Đông Sơn đẹp nhất và cổ xưa nhất. Cổ Loa sớm trở thành trung tâm giao lưu với nhiều vùng và là trung tâm kinh tế. Trên cơ sở đó vua Thục An Dương Vương đã cho xây dựng tòa thành Cổ Loa. Đây là công trình vĩ đại thể hiện tài trí và sức lực của những tộc người Việt cổ cùng góp công sức xây dựng kinh đô đầu tiên của quốc gia.

Nguyễn Thị Hậu là một trong những người tổ chức cuộc trưng bày “Cổ vật Hoàng thành Thăng Long” (tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam-Thành phố Hồ Chí Minh). Với chị, đây không chỉ vì trách nhiệm công việc, mà còn là một lời cám ơn với mảnh đất nơi mình đã lớn lên. Chị nhắc câu thơ nổi tiếng của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ: 

“Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng.
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

Tôi đủ biết tình chị với Hà Nội. Nó vừa đầy xúc cảm nguyên sơ bồng bột, vừa sâu thẳm của người đã thấm cái lẽ có và mất.

Biết chị là nhà khoa học, và viết văn, tôi và Nguyễn Thị Hậu đã có nhiều cuộc trao đổi, tranh luận về các chủ đề nhân văn. Phải nói, Hậu là người có tư duy thông thoáng và cởi mở. Chị đọc nhiều, chịu lắng nghe, thậm chí chị nghe và hiểu được ngay tinh thần hậu hiện đại do một số văn hữu chúng tôi, vốn hay phổ biến bằng cách phát ngôn và phát tiết khá văng mạng, chủ yếu trong những cuộc nhậu.

Thời chị học, chưa có những lý thuyết như thế, nhưng chị rất chịu khó cập nhật. Bởi theo chị, lịch sử là quá trình đi tìm dấu vết con người. Mà đời sống con người, thời nào cũng thế, chứa đầy những điều nghịch dị, không bao giờ xuôi xị và thẳng thớm như nhiều diễn giải giản đơn, vì ngây thơ hoặc vì minh họa.

Trong con người chị, dường như mọi việc được sắp xếp gọn gàng đâu ra đấy, mà vẫn rất uyển chuyển. Chị đi nhiều vì nghề nghiệp, và vì thích xê dịch. Nhưng chị cũng là con người của gia đình và con cái. Khoa học, quản lý, văn chương, gia đình, con cái, bạn bè... Tất cả chu toàn vì bản tính thích chăm lo và nhường nhịn của chị. Cộng đồng khoa học biết đến TS Nguyễn Thị Hậu nghiên cứu nghiêm túc, cộng đồng blogger biết đến cái nick Hậu - khảo - cổ vui vẻ, ấm áp.

Và người Hà Nội, luôn nhớ đến Hậu, như nhớ một người Hà Nội.

Cũng như Hậu, luôn nhớ về Hà Nội, nhớ để trở về. Tôi nhớ những đoạn văn của chị, có thể khiến người ta rưng rưng: “Bao lần trở về, mình đã muốn cùng bạn lang thang chợ hoa Nhật Tân vào lúc rạng ngày đang sáng, để cùng ngắm những cành hoa đủ màu đủ sắc còn đẫm sương đêm, nồng nàn hương thơm...”./. 


(TT&VH/Vietnam+)











TS Nguyễn Thị Hậu - người phụ nữ mải mê đi và tìm trong đất..



PNO - "Hậu khảo cổ" - nickname thân mật bạn bè, đồng nghiệp gọi, gắn với Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu - nhà khoa học say mê và chuyên tâm với hoạt động khảo cổ. Nhiều năm qua, người phụ nữ ấy mải mê đi và tìm trong đất, để tìm kiếm những giá trị trăm, nghìn năm; góp phần giới thiệu những vẻ đẹp và giá trị của những di sản văn hoá - lịch sử dân tộc với công chúng.


Tham gia nhiều công trình khai quật các di tích khảo cổ học, tác giả nhiều đề tài nghiên cứu, chuyên khảo và bài viết về khảo cổ học, về di sản văn hoá có sức lôi cuốn, lay động người đọc, công trình khảo sát khảo cổ học ở Cần Giờ (TS Nguyễn Thị Hậu làm chủ nhiệm đề tài) cung cấp cho công chúng những kiến thức, cái nhìn mới mẻ về "khảo cổ học bình dân", giá trị văn hoá, lịch sử của một vùng đất giàu truyền thống của TP.HCM.


* Xin chị cho biết rõ hơn về mối liên quan giữa công trình khảo sát khảo cổ học ở Cần Giờ đóng góp cụ thể ra sao cho vấn đề quy hoạch, xây dựng và phát triển huyện Cần Giờ hiện nay và tương lai?
- Các di tích khảo cổ ở Cần Giờ được khảo sát khai quật nhiều lần nhằm nghiên cứu lịch sử - văn hóa mà chưa thực sự gắn với mục đích phát triển kinh tế - xã hội nơi đây. Vì vậy đề tài khảo sát hệ thống di tích khảo cổ do tôi làm chủ nhiệm ngòai việc bổ sung tư liệu khoa học còn nhằm mục đích chính là cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và quy họach, để họ có thể sử dụng trong việc họach định phát triển, xây dựng Cần Giờ một cách phù hợp với tiểm năng tự nhiên và nhân văn, và khai thác sử dụng tốt những di sản văn hóa, đồng thời tránh việc phá hủy di tích trong quá trình đô thị hóa.


* Khi tham gia khai quật, khảo sát một di tích khảo cổ, điều gì thu hút sự quan tâm của chị nhất? Điều gì làm nên giá trị cho một công trình khảo sát, khai quật : vật dụng đắt tiền vì giá trị trăm, ngàn năm hay những câu chuyện có giá trị văn hóa, lịch sử được kể qua hiện vật?
- Mỗi cuộc khai quật, mỗi đợt khảo sát khảo cổ học đều có khả năng mang lại những điều mới mẻ, bất ngờ, và đó là sức hấp dẫn đối với người trong ngành, thu hút sự quan tâm của người ngòai ngành, nhất là giới truyền thông. Giá trị của một công trình khảo cổ học (từ khi khảo sát, khai quật đến khi hòan thành báo cáo khai quật hay xuất bản công trình nghiên cứu) là ở giá trị lịch sử - văn hóa của di tích và di vật: có thể là niên đại xa xưa, có thể là lọai hình chất liệu quý hiếm, có thể là một di tích khác lạ chưa từng biết… tất cả đều chứa đựng những câu chuyện của con người thời cổ mà khảo cổ học phải “giải mã” qua nghiên cứu tất cả những gì được tìm thấy. Những câu chuyện này không phải là có thể hiểu ngay, hiểu hết mà có khi phải qua nhiều năm nghiên cứu mới đi đến nhận thức rõ ràng về đời sống con người trong quá khứ. Tổng hợp tất cả những cái đó làm nên giá trị một công trình khảo cổ học.


* “Khảo cổ học bình dân” là cụm từ mới mẻ (với người “ngoại đạo”) nhưng nó có sức hút không nhỏ. Vì sao lại gọi là bình dân, phải chăng muốn nói những di vật còn “mới”, không đắt tiền, hay…?

- Đây không phải là một khái niệm mới, trên thế giới đã dùng và phổ biến khá lâu rồi. Nói ngắn gọn là những nghiên cứu khoa học không giới hạn “trong phòng” mà hướng đến cộng đồng, những người dân bình thường, ở cả 2 góc độ: thu nhặt kiến thức từ người dân – nghiên cứu để trở thành những tri thức khoa học và phổ cập trở lại giúp người dân có thêm những hiểu biết mới về những di sản văn hóa của cộng đồng, ngay nơi họ sinh sống. Khơi gợi cho họ lòng yêu thích và luôn tìm hiểu về những vốn quý của chính họ.

Còn nói nôm na là: từ những thực phẩm sạch, không độc hại, thậm chí cao cấp, nhưng chế biến thành món ăn bình dân, quen thuộc, ai cũng ăn được và ăn hòai không ngán. Một quy luật bình thường là con người sẽ biết bảo vệ những gì mình yêu quý. Trong việc bảo tồn di sản văn hóa biết vận dụng quy luật này là rất hữu ích.


* Xin chị cho biết nét độc đáo của hệ thống di tích khảo cổ học ở Cần Giờ, điều gì khiến nó được xếp là lọai hình di sản văn hóa độc đáo của Nam bộ?
- Hệ thống di tích khảo cổ học huyện Cần Giờ TP.HCM tiêu biểu cho các giá trị văn hoá thời tiền sử của vùng đất thành phố và khu vực Miền Đông Nam bộ, mang tính chất độc đáo của văn hoá tiền sử Đông Nam Á. Việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống di tích này là vấn đề được nhiều nhà khảo cổ, các học giả trong nước và quốc tế quan tâm. Trong khoảng Thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, tại vùng rừng ngập mặn nơi cửa sông – vịnh biển thuộc địa bàn huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, đã tồn tại một hệ thống di tích khảo cổ học đặc biệt là những di tích cư trú – sản xuất gốm – mộ táng phát triển liên tục từ khoảng 3000 – 1500 năm cách ngày nay.

Phương thức mai táng của cư dân cổ nơi đây gồm mộ huyệt đất sét, mộ chum và mộ đất, trong đó hung táng trong mộ chum là chủ đạo. Đây là tài liệu quan trọng để nghiên cứu vấn đề táng tục và chủ nhân của các táng thức nói trên trong thời đại sắt sớm ở Việt Nam và Đông Nam Á. Di vật tìm thấy trong văn hóa Cần Giờ cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng và độc đáo về loại hình, thể hiện một số đặc trưng văn hóa riêng biệt và những mối quan hệ giao lưu mật thiết với văn hóa Đồng Nai, văn hóa Sa Huỳnh, với một số di tích mộ chum ở Đông Nam Á.

Cần Giờ với vị trí đặc biệt của nó đã hình thành một “cảng thị sơ khai” vào những thế kỷ trước sau Công nguyên. Xét về lịch đại, những bằng chứng của sự phát triển từ văn hoá Cần Giờ lên văn hóa Óc Eo đã góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc bản địa của văn hóa Óc Eo. Đồng thời đóng góp những vấn đề lý luận cho việc nghiên cứu quá trình chuyển biến từ thời Tiền – Sơ sử đến thời cận đại ở Nam bộ và Trung bộ Việt Nam.


TS Nguyễn Thị Hậu và hai con gái


* Chị là nhiều nhà trong một: nhà khoa học, nhà quản lí, nhà văn, thích du lịch, chơi blog, tham gia diễn đàn mạng…Làm sao có thể tích hợp từng ấy “nhà”, từng ấy sở thích hài hoà với nhau để ra một bà “Hậu khảo cổ” tài năng, nhẹ nhàng, duyên dáng, an nhiên và rất trẻ trung nữa chứ…Viết là cách chị trải mình, thư giãn hay “xả” năng lượng viết của mình?

- Chả biết có là nhiều “nhà” như nhà báo ưu ái gọi thế không… nhưng nói thật nhé, tôi cứ nghĩ ai được gọi là “nhà này nhà khác” thì khổ như con rùa ấy, suốt đời vác cái mai nặng trên lưng… đi đứng khó nhọc chậm chạp… có nguy hiểm gì thụt đầu vào mai thì chỉ làm cho người ta túm dễ dàng và nhanh hơn…(cười)


Cứ nghĩ thế và sống như chính mình thôi. Công việc của xã hội thì cố gắng làm một cách có trách nhiệm, với các mối quan hệ thì như lời bài hát Điều giản dị của Phú Quang “hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế…”, sống sao cho hội ngộ thì ấm áp vui vẻ và chia tay thì thanh thản nhẹ nhõm… 
Tôi thích gặp gỡ trò chuyện cùng bạn bè, vì học hỏi và biết thêm nhiều điều mình không thể học từ nhà trường hay sách vở… cuộc sống sinh động và thay đổi nhanh chóng lắm… Giao lưu trên thế giới mạng cũng vậy. Viết là một cách chia sẻ với bạn bè, cũng như khi đọc của mọi người mình cũng chia sẻ và nhẹ nhõm được ít nhiều.


* “Đi và tìm trong đất” khái quát đầy đủ nghề nghiệp và nick của chị. Say sưa và chuyên tâm với hoạt động khảo cổ, sau một đời tìm kiếm chị đã tìm được gì cho đời và cho mình?
- Do phải chuyển công tác nên về danh nghĩa tôi không được làm khảo cổ từ 6,7 năm nay, nhưng “Đi và tìm trong đất… thấy người”, đó là điều mà đến giờ tôi mới hiểu. Có lẽ đó là tài sản quý giá nhất mà tới giờ tự tôi đã tích lũy được.


* Bà Hậu khảo cổ trong gia đình là một người phụ nữ như thế nào với “công trình gia đình” của mình?
- À, có lẽ cũng như mọi người phụ nữ khác. Về nhà thì vẫn những công việc “đàn bà” cơm nước, chăm sóc con cái nhà cửa, và bây giờ khi con đã lớn thì đỡ vất vả hơn, tôi thường trò chuyện, chia sẻ với chồng con nhiều điều… Nói chung tôi nghĩ, nếu thiết lập được một “tình bạn” giữa những thành viên trong gia đình thì sẽ đỡ đi nhiều “ràng buộc” đôi khi làm cho chúng ta mệt mỏi… điều mà không ai muốn nhưng vẫn vô tình gây ra.


* Ngoài công việc, thú vui giải trí của chị là gì?
Thích đi du lịch, nhưng tôi chưa đi du lịch đúng nghĩa. May mắn là tôi hay đi công tác nên bao giờ cũng tìm thấy, ngoài mục đích công việc, là những điều tốt đẹp mà cuộc sống mang lại: phong cảnh, con người, những câu chuyện, phong tục tập quán, văn hóa vùng miền… Ngoài ra, đọc sách là thói quen từ nhỏ của tôi, bây giờ còn thích đi cà phê “tám” với bạn bè thân thiết…



ĐỖ NGỌC (thực hiện)












Blog "Hậu khảo cổ"
























Phan Nguyên & Nguyễn Thị Hậu
2013





















Trở về


MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.

















Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013

Địa Ngục Có Thật (Dương Nghiễm Mậu)














Dương Nghiễm Mậu

(19/11/1936 Hà Đông - 2/8/2016 Sài Gòn)
thọ 80 tuổi
Tên thật: Phí Ích Nghiễm
Bút danh khác: Hương Việt Hương

Nhà văn












ĐỊA NGỤC CÓ THẬT
Bút Ký 

THƯ ẤN QUÁN TÁI BẢN
Hoa Kỳ - 2013 






ĐỊA NGỤC CÓ THẬT bút ký của Dương Nghiễm Mậu Văn-Xã xuất bản tại Sài-gòn năm 1969 Thư Ấn Quán tái bản tại Hoa Kỳ tháng 1 năm 2013 In tại nhà in riêng của cơ sở Thư Ấn Quán 

@Tác giả giữ bản quyền Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam _____ Hình bìa trước: Chụp lại từ hình bìa của bản gốc với chú thích: Một người đang ra khỏi cổng thành trong thời gian địa ngục. Hình bìa sau: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu đứng trên cầu xà lan quân đội bắc tạm sau khi cầu Trường Tiền bị giựt sập. Ảnh tư liệu của họa sĩ Đinh Cường. 




Nghĩ về Huế 


Năm giờ sáng ngày ba mươi Tết tôi thức dậy trong thành phố Huế, trời lạnh buốt, sương muối đọng trên những lá cây rơi xuống mặt, xuống cổ buốt như những mũi kim nhọn chích vào da thịt. Những người bạn mới thân và những người bạn cũ đã đến, chúng tôi hẹn nhau đi ăn sáng trước khi tôi trở về Sài Gòn sau một tuần lễ ở lại cố đô, người bạn hơn tôi hai tuổi vừa ở trong quân ngũ bốn năm ra nói với tôi: đã thay đổi ý kiến chưa. Tôi cười nói chưa, tôi đã nói tôi cũng muốn ở lại, câu chuyện còn dài lắm, nhưng tôi nghĩ có những điều mình không phải nói với

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 6 

nhau mà đã hiểu rồi, tôi trở về vì ở trong đó còn cha già và những người thân yêu, tôi vẫn không ngừng cố gắng để làm những gì tôi có thể làm được, dù đó là một việc nhỏ nhưng tôi không nghĩ việc có mặt của người con cả trong một gia đình trong đêm giao thừa là một việc nhỏ. Anh bạn nhìn tôi. Khu Thành-Nội vẫn còn yên ngủ, những đêm liên tiếp không nhắm mắt với tiếng đại bác nổ từ xa, những tiếng súng nhỏ đơn lẻ, tiếng máy bay tải thương đậu xuống trong khu bệnh viện dã chiến khiến cho người tôi khô đi tỉnh táo theo với những điếu thuốc đốt không ngừng cháy trên môi. Tôi leo lên sau chiếc xe gắn máy của người bạn, hành lý không có gì ngoài mấy gói kẹo mè xửng, mấy quả nem chua, trong đó còn có quà Tết của một người bạn gửi cho cha mẹ hiện sống ở Sài Gòn. Con đường Hòa-Bình, Hiền Nhơn, Đông Ba mù trong sương sớm, chưa có một cánh cửa nào mở, thành phố chừng như vẫn chập chờn trong giấc ngủ cổ tích của mình, giấu hơi ấm và nhịp thở sau những tường gạch nâu mốc ẩm rêu phong, dưới những mái ngói nâu cũ và những tàn 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 7 
cây thấp xanh đen. Cửa thành Đông Ba lẩn trong nền trời tối, mấy ngọn điện sáng đơn lẻ. Con đường Gia Long những cửa phố đóng kín, một vài người đi xuôi ra phía chợ trong đó có người vác theo một cây mai lớn, vài quán ăn đã mở cửa, trên cầu Gia Hội đã đông người đi lại, trong bến xe, nơi hiên chợ, dưới những quán nhỏ thấp thoáng bóng người qua lại rộn rịp, bến sông những chiếc thuyền chúc đầu vào bờ im lìm với những ngọn đèn nhỏ leo lét không rõ những khuôn mặt qua lại. Bọn chúng tôi, sáu người ghé vào một quán ăn nơi phía ngoài chợ, quán đông người, không còn một ghế trống, những ly cà phê, người bạn nói phải tiễn anh bằng một chầu bún bò Huế mới được. Nhưng hàng bún mọi ngày chưa có, chúng tôi quay xe chạy qua cầu sang nhà ga, trạm xe lên phi trường đặt ở đó, tôi coi đồng hồ: sáu giờ ba mươi, tôi lo trễ, gió thổi ngược lạnh buốt trên da mặt, cây cầu chừng như dài hơn mỗi ngày, dòng sông đen sâu phía dưới, lấp lánh những ngọn đèn ẩn hiện nơi những lùm cây xa trên hai mạn bờ. Khu bến phà sáng chói, ánh sáng làm bật rõ khu đại học màu 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 8 
vôi trắng mỏng. Đài phát thanh, khu đại học, trường Đồng Khánh, trường Quốc học… Nhà ga hiện ra trong bóng tối nhòa nhập, những ngọn đèn xanh, những chiếc xe ca nằm ngổn ngang ngoài khoảng sân trống rộng. Trong nhà những hành khách lặng lẽ trên những băng ghế, chuyến xe chưa bắt đầu, những người tài xế còn đang hí hoáy coi lại máy, bánh xe, chúng tôi vào trong quán gọi mỗi người một ly cà phê sữa, những hơi thuốc đầu tiên trong ngày, những lời dặn dò sau chót, những cái bắt tay thắm thiết… Ngồi trên băng ghế lạnh trống, trong xe chỉ có bốn người, một người đàn bà ngồi thu mình im lặng, hai người đàn ông ngồi đối diện nói không ngừng những câu chuyện riêng không rõ ràng. Chuyến xe lăn bánh, tôi vẫy tay từ biệt những người bạn, từ biệt Huế sau những ngày gặp lại cách nhau hơn mười ba năm. Chuyến xe chạy nhanh trên những con đường vắng, dưới những lùm cây mù sương. An Cựu, Dạ Lê, Phú Bài, con đường bé nhỏ chạy giữa những lùm tre xanh lả ngọn, giữa những ruộng lúa xanh trĩu ngọn vì sương mai còn đọng óng ánh. Buổi sáng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 9 
chạng vạng, những cơn gió lạnh thổi đầy ắp lòng xe, dưới chân những ngọn núi phía xa sương còn đục lờ như những đợt mây thấp. Cánh đồng lúa, những cơn gió lạnh khiến tôi nghĩ tới quê hương miền Bắc. Ở ngoài đó, rất xa, những năm thơ ấu, mưa phùn gió bấc căm căm… Từ biệt Huế sau mười ba năm gặp trở lại, từ biệt bạn hữu, từ biệt căn nhà có vườn cây xanh, có bể nước, có giếng gạch sâu, có tiếng nói một người: bây chừ anh đã thay đổi những ý kiến về Huế chưa… * Khi tôi viết những dòng này là ngày mồng bốn Tết, buổi tối trong căn nhà im lặng của những con đường, khu phố chung quanh. Cơn choáng váng của biến cố còn làm tôi vật vờ. Những lo âu, uất ức như còn ứ nghẹn trong lồng ngực. Đêm giao thừa cùng với tiếng pháo nổ thì cũng là tiếng súng của những người cộng sản nổ vào bảy thị trấn miền Trung, trong đó có Huế, chưa trọn một ngày tôi dời khỏi, lo âu về những người thân ở lại đó còn thắc thỏm trong lòng, khuya đêm mồng một tết, những tiếng nổ từ xa 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 10 
cùng với trái sáng đầy trên bầu trời Sài-gòn khiến tôi lo âu. Bọn họ cũng trở về đây nữa sao, biến cố đã xảy ra như thế nào sau bức màn của hậu trường chính trị, của những tham vọng chót ngất… Chỉ có ba mươi sáu giờ hưu chiến cũng không thể có được sao? Sao nói tới những một tuần? Không thể quên đi súng đạn, giết chóc, tàn sát, chất nổ trong một ít giờ sao? Không thể ngồi yên lặng, bên một ly rượu suông, một chén trà nhạt nghĩ tới những ngày đã qua sao? Không muốn nhớ t ới những người đã chết, những người thân yêu xa cách mong chờ sao? Không muốn gợi lại một vài kỷ niệm vui buồn, đắng cay trong đời sao? Người ta đã quên hết, quên hết, như một người con gái đã mất hết, quên cả tiếng người như trong một bài hát của Sơn sao? Tôi không muốn nghĩ như vậy, tôi không muốn như vậy. Cuộc chiến này chúng ta đều không mong muốn có phải vậy không các người anh em của tôi, những người đã sinh ra lớn lên trong đất nước này, trong cuộc chiến không nguôi này? Mở cửa ra đứng ngoài con đường ngơ ngác ngó lên những trái hỏa châu chói 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 11 
sáng, lòng nghi hoặc, biết hỏi ai, ai biết, bao nhiêu người đã thức dậy trong đêm đó ở thủ đô nhìn nhau tự h ỏi với những giả thiết mơ hồ, trong đêm đó những ai còn say mê bên bàn bạc, còn ngủ trong hơi rượu, còn thiếp đi hạnh phúc trong chiếu chăn nồng ấm của vợ trẻ con thơ… Có điều nhiều người đã nghe thấy tiếng súng nổ tưởng như tiếng pháo của những người nào ngái ngủ thức dậy trong đêm nhìn thấy còn phong pháo trong nhà… Nhưng sự thật thì súng đã nổ, nhưng sự thật thì có những người anh em đã ôm lấy súng vượt những quãng đường xa lạ, lặng lẽ tiến tới những mục tiêu giữa lúc mọi người tưởng như ngày xuân còn dài với những hy vọng… Không bao giờ những người cộng sản muốn chúng ta hy vọng, những người cầm súng từ khu trở về muốn chúng ta sống với thực tại: một cuộc chiến không trận tuyến, một cuộc chiến như định mệnh khắc nghiệt ôm khít lấy thân thể và số phận chúng ta… Đó là điều chúng ta không mong muốn, nhưng đó là điều chúng ta phải biết nếu muốn còn được sống, dù sống khổ đau… 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 12 
* Tiếng đài phát thanh mất hút trong đêm, tiếng nói ấy nhiều khi là giá trị của thực tại, của một hiện diện, tiếng nói ấy mất đi như bằng cớ của một sự hoang vắng, của sự vô danh. Tôi nghĩ thầm: lại những biến cố nào đây? Buổi sáng ngơ ngác trên những con ngõ còn ngập xác pháo hồng, những thùng rác để ngổn ngang tràn đầy, tiếng nói từ đài phát thanh, lệnh thiết quân luật 24 trên 24 được ban bố, cộng sản quấy phá tại đô thành và nhiều tỉnh, kêu gọi dân chúng bình tĩnh ở lại trong nhà, một vài mẩu tin không rõ ràng: cộng sản tấn công dinh Độc-lập qua ngả cổng đường Nguyễn Du, bắn hai phát 57 ly, một xe cam- nhông chất nổ, mười tên bị chết tại bộ tư lệnh hải quân, hai tên bị bắt sống, mười bốn tên chết tại đài phát thanh, đài phát thanh hư hại không xử dụng được, tiếng nói nhiều lúc tắt nghẽn, tiếng kêu gọi dân chúng dời khỏi vùng Bà-quẹo trước mười tám giờ, một số người nóng ruột, hiếu kỳ túa ra đường, những tin truyền miệng không rõ ràng: một người làm cảnh sát trong xóm chết tại ngã tư Yên Đổ – Trương Minh 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 13 
Giảng, một người nói người ta chạy từ những Phúthọ, Bà-quẹo vào Sài-gòn. Một bà nói: họ ùa vào nhà tôi đòi nấu cơm cho ăn, giọng nói nghe không được. Một thanh niên nói: họ đi ngang qua cửa hỏi đường vào khám Chí Hòa phần lớn họ đi chân không, có mang ở tay hoặc ở c ổ m ột miếng vải đỏ… Một người ở Cổng-xe-lửa số 10 chạy xuống nói: giữa đêm có ba người gõ cửa vào nhà, bắt trong nhà ở im, nấu cơm cho ăn… Lệnh cấm đốt pháo được loan truyền, nhưng sau đó một nhà chừng như còn tiếc bánh pháo còn lại mang đốt, tiếng nổ khiến mọi người giật mình chửi lớn… Những lời bàn tán, những dự đoán… Nhưng tất cả đều không biết gì, máy thu thanh tại tất cả mọi nhà đều mở thường trực, tiếng hát có những mấp lại, những tin tức về những vùng đang đánh nhau: Trường nữ quân nhân, Ngã tư Xa lộ – Hàng Xanh, giặc bị thương chạy ra khu chợ Bến Thành bị bắt, tại khắp các thị trấn đều có cuộc tấn công, đài phát thanh Hà-nội loan báo về sự thừa thắng… Tôi cố gắng phác họa trong đầu về cuộc tấn công với hai mặt chính: một từ phía Quang Trung, 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 14 
Bà Quẹo xâm nhập xuống Ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ; một từ mạn Thủ Đức xâm nhập vào Xa lộ, vào Phú Nhuận, Đa Kao… Tôi cũng nghĩ tới một số những toán cảm tử, vào để chết, xâm nhập nhân dịp hưu chiến, lợi dụng giới nghiêm được hủy bỏ, chắc họ đã vào từ đêm giao thừa giữa lúc Sài-gòn ngập tiếng pháo… Chúng ta có dự liệu những trường hợp này không, chúng ta có nghĩ tới những người không lúc nào ngủ, lúc nào cũng cầm chắc súng trong tay không? Buổi sáng tan dần, buổi trưa nắng lên nhàn nhạt, nền trời nhiều mây thấy u ám, nhiều máy bay lượn trên bầu trời, máy thu thanh vẫn những đĩa nhạc cũ chạy rè rè thỉnh thoảng một vài lời nói về tin tức, nhắc nhở, thông điệp thứ hai đầu năm của Tổng thống, buổi trưa trôi qua, buổi chiều âm u thêm, những chiếc máy bay chúc xuống mạn Gò-vấp, Bà-quẹo, những tiếng nổ l ớn vang động. Đêm xuống, hỏa châu sáng cả một vùng trời, cột khói bốc cao mạn Xa lộ, một vài tiếng nổ lẻ tẻ… Đài phát thanh liên tiếp những nguồn tin không rõ ràng, đêm trôi qua nặng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 15 
nhọc… Những bản tin trên các đài phát thanh nói về những trận đánh ở Nha-trang, Qui-nhơn, Kon-tum, Đà-nẵng, Huế b ị tràn ngập và đang chiến đấu gay go. Tôi nghĩ tới những người bạn mới chia tay nhau hôm ba mươi tết, người bạn hỏi tôi: chúng ta phải làm gì? Tôi nói không bao giờ chấp nhận cộng sản, người bạn đưa cho tôi một lời kêu gọi in ronéo với tiếng Việt và tiếng Anh, đó là lời kêu gọi của các phe tham chiến kéo dài hưu chiến vô hạn định, tiến tới hòa đàm, dưới đó ký tên những giáo sư khoa bảng, một số có những tiếng tăm nào đó, một số đã từng được ưu đãi và thường tự nhận như những phần tử tiến bộ trong giới giáo sư khoa bảng. Người bạn hỏi: nghĩ sao. Tôi cười nói ai có việc của người đó, tôi lựa chọn sự minh bạch, đừng ai quên bài học trước đây của cha chú mình, tôi không bao giờ tin cộng sản có nhân đạo, họ chỉ có một sự thật, chúng ta có nhiều sự thật, chúng ta yếu trên một phương diện nào đó, yếu vì nắm giữ nhiều sự thật nhưng đó là mối hy vọng để chúng ta thoát ra sống sót và phục hưng. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 16 
* Sáng mồng ba, những tin tức vẫn mù mờ. Tôi ra đường đi ngược lên phố, mọi con đường vào trung tâm đều bị phong tỏa, hai bên đường cờ treo trong dịp Tết vẫn phấp phới, trời âm u không có nắng, những người mang theo bị, va-ly đi hớt hải trên đường phố, những chiếc xe nhà binh, binh sĩ cầm súng ngang chạy qua vun vút, những xe cứu thương còi réo hối hả, người ta tụ lại những góc đường, cửa nhà hỏi thăm tin tức. Ông bà ở đâu tới – Dạ trên Phú Nhuận – Tôi ở trên Cây Thị – Nghe nói chúng vào trong bệnh viện Cộng Hòa lấy hết máu, thuốc men và bắt đi những bác sĩ và y tá trực… Gặp một người bạn đi tìm tin tức của vợ chưa cưới, anh nói: nhà phía trong đường Ngô Tùng Châu, Gia Định, bây giờ chỉ có người chạy ra, không ai được vào, nghe nói bọn nó đang kéo vào đó sau khi bị dồn từ khu Tổng-tham- mưu sang. Có người còn nói chúng đang đào hầm ở trong khu đó nữa, có lẽ chúng tìm đường chạy về phía Gò-vấp cũng như cánh quân ở khu Hàng-xanh, Cầu-sơn đang chạy về phía Thủ

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 17 
đức. Tôi không biết gia đình cô bạn chạy đi đâu hay vẫn còn mắc kẹt trong đó, đi hỏi thăm những người quen nhưng vẫn không được tin gì. Trông anh bạn phờ phạc lo âu. Tôi nói sau đây mấy ngày chắc một số người phải chịu tang những người thân, một cái Tết người ta sẽ không quên được. Buổi chiều một ông bạn của cha tôi ghé lại chơi, ông đi chúc Tết, ông nói: ở nhà buồn quá không có ai tới chơi, mà mình cũng không dám đi đâu, loanh quanh mãi tôi đi liều, ra ngõ thì gặp một người bị chết nằm đó, người ta nói đừng đi nhưng tôi cứ đi, ông mừng tuổi cho mấy đứa nhỏ, ông ăn mặc cẩn thận như ngày Tết mà sao trông lạc lõng, đó cũng là hình ảnh tôi gặp ngoài đường, nhiều người vẫn như tiếc rẻ về bộ đồ Tết của mình chưa được dùng đến, ông nói vùng Ngã-bẩy người ta chạy lên nhiều quá, bọn nó giữ cả một khu lớn từ Ngã-bẩy xuống tận Phú-thọ, bọn nó chết đầy trên đường Nguyễn Tri Phương, nhiều nhà bị đốt… Những nhân viên chính phủ không chạy kịp bị bắt và bị giết, chúng dùng từng đoàn trẻ con làm bia đỡ đạn để di chuyển, bởi vậy 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 18 
nhiều đàn bà trẻ con chết một cách oan uổng… Thằng con tôi đi xuống mạn Nguyễn Văn Thoại về nói trông những xác chết cháy còn lại một chút, những xác chết không toàn thây ở d ọc đường… Ngồi nói chuyện một lúc ông nói: bây giờ nghĩ tới đường về tôi thấy lo. Nhà ông ở mãi dưới Phan Thanh Giản. Chiều xuống những con đường đã vắng ngắt, người ta rút vào trong nhà đóng kín cửa. Tôi ngồi im nghe hết đài phát thanh này tới đài phát thanh khác. Trận chiến vẫn tiếp diễn nặng tại nhiều nơi như Huế, Đàlạt, Bến-tre… * Bây giờ Huế ra sao trong cơn lửa đạn này. Tôi nghĩ tới những người bạn, đêm nào Sơn hát một bài còn dở dang, Nhân danh ai anh bắn vào người đồng loại… bài hát viết cho một người đã bị b ắn vào bụng, người đó là Ngô Vương Toại, trong buổi Sơn hát cho các sinh viên nghe tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Bây giờ Sơn ra sao? Căn nhà vườn cây xanh trong Thành nội, vợ chồng Cường, đứa con 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 19 
nhỏ, cô bé Trang ra sao? Quân có còn cơn say không bao giờ dứt, tài thiện xạ của anh có được dùng đến? Những cô gái Huế mái tóc dài, đôi mắt đen lánh quyến rũ sớm mai thức dậy có còn ngồi trước bàn phấn? Bẽ bàng soi sắc gương Tư Mã. Ai điểm trang mà em phấn son… Kha có còn nhớ lời tôi vặn hỏi: tôi mong cho tới khi Kha có một đứa con, đứa con đó một tuổi mà vẫn không thay đổi, khi đó tôi sẽ chờ đợi thêm hai mươi năm để… Những cậu con trai mang mốt Sài-gòn về đi bát trên con đường Trần Hưng Đạo bây giờ làm gì… Những khoang thuyền trống bây giờ chờ đợi ai?… Kha có còn nhớ tôi nói về một bài thơ của Nguyễn Văn Phụng, những hình ảnh không thể quên, những điều phải nhớ như: tình yêu thì bị gậm mòn như đôi guốc mộc, em kéo trên con đường… và phi lý vô cùng, phi lý không chịu nổi, khi những bạn bè thân tôi vì chủ nghĩa. Nhưng tôi không bao giờ đồng ý hay chịu được những điều khác, quê hương ta thì nghèo, điều đó đúng, nhưng nhất định không bao giờ người dân ngu dốt, người ngoại quốc có thể nhầm để nói như thế, dân ta không 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 20 
ngu, mà dân ta không được học. Nhưng Phụng đã nhận thấy đúng, đúng một cách chua chát khi nghĩ và viết: Này các anh, khi các anh bàn với tôi về quê hương đất nước bàn với tôi về vai trò trí thức tôi thấy các anh đang ngồi uống cà phê trong thành phố tôi thấy các anh đèo xe Honda đến lớp học tôi thấy các anh hút thuốc lá Mỹ khi ăn những chiếc bánh Tàu-chợ-lớn thứ chính cống Này các anh, khi các anh nói với tôi về chiến tranh bàn với tôi về bổn phận và yêu cầu tôi đọc thơ giữa đám đông tôi thấy các anh mặc veston thắt cravate leo lên một ngôi nhà ba tầng làm trường học đổ thơ ra trên những bánh ngọt đổ thơ ra trên những ly cà phê thủy tinh tôi đã thấy các anh xưng tụng những bài thơ phản chiến nhất 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 21 
với những đứa con gái đánh phấn và để móng tay dài với những đứa con gái thích dự bal và yêu nhạc kích động (1) 

Mười ba năm xa cách trở lại Huế, tôi thấy thành phố vẫn như xưa, có chăng một vài thay đổi nhỏ trên những khu thương mãi, và tôi nhớ những điều khi xưa viết về Huế. Sao lại chọn đất này để làm vua? Tôi muốn một ông vua nào đó của nhà Nguyễn thức dậy nơi những lăng tẩm nguy nga cổ kính trả lời cho mình: sao lại chọn đất này để làm vua? Vẫn những con đường năm xưa, những ngôi nhà năm xưa, khác chăng nhiều con đường đã được mang những tên mới như Đinh Bộ L ĩnh, Nguyễn Hiệu, Mai Thúc Loan, Tăng Bạt Hổ, Đoàn Thị Điểm thay cho những Hộ Thành, Âm Hồn, Đông Ba, Mã Khái, Hiền Nhơn… Không còn muốn cho Huế sống với lịch sử của nó sao? Hãy để cho những thị trấn, những làng mạc giữ lại lịch sử của mình, chính lịch sử nó làm nên tinh thần yêu nước. Những danh nhân chẳng bao 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 22 
giờ muốn mình xóa đi những gì mà người dân sống đã quen thuộc với nó… Tôi nghĩ thế. Bây giờ Huế ra sao? Những cành mai vàng, những chậu cúc, thược dược, những bông hải đường vẫn trổ bông đón chào một mùa xuân không đến với người? * Buổi sáng, những cơn thiếp ngủ chập chờn trong đêm khiến người mệt mỏi, tôi vòng lên phía Tân Sơn Nhất, đường vắng tanh, chỉ có những binh sĩ vác súng đứng nơi dọc đường hoặc di chuyển, loáng thoáng một vài người qua lại. Những hàng rào kẽm gai giăng ngang đường, gần các cơ sở, bót cảnh sát, nơi những ngõ vào Sài-gòn, nơi những đầu cầu từng đám người tụ lại vì không được qua, nhiều phát súng chỉ thiên bắn lên khiến những người tụ lại tản ra. Những xe cứu thương, xe tuần tiễu chạy không ngừng. Những lời nói qua lại về những cuộc lùng kiếm, bắn nhau tại vùng Ngã Năm Bình Hòa, Phú Nhuận, Nguyễn Tri Phương, Sư Vạn Hạnh, Chuồng Bò, Ngã Bảy. Buổi trưa những cột khói cao trên bầu trời xám. Mặt trời úa đỏ. Cháy ở Cầu Sơn, Hàng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 23 
Xanh, Ngã Bảy. Những khuôn mặt hốc hác trên đường phố… * Đài phát thanh liên tiếp những thông cáo, kêu gọi và những bản nhạc đủ loại lộn xộn. Theo những lời khuyên tôi không trở về nhà, ngủ trên một cái bàn. Tin cho thấy trận chiến đã lắng xuống, cộng quân hoặc tìm cách bám sát vào những khu đông dân chúng, luồn sâu vào trung tâm, tìm cách lẩn ra ngoài hoặc đầu hàng, trái sáng thả đầy trên nền trời cùng những chiếc máy bay đủ loại, tiếng nổ ngoài Xa Lộ, khu Cầu Sơn, những con phố vắng hoe không một bóng người. Tin Huế vẫn hoàn toàn đen tối: hai bên vẫn đánh, những cánh quân tìm cách bám lấy những cứ điểm then chốt nơi hai đầu những cây cầu trong khu Thành-nội. Những họng súng nào đang hờm ở Tây-lộc, Kim-long, An-cựu, Bến-ngự… Tới Huế trong những ngày cuối năm, Huế không phải nơi tôi muốn dừng chân lâu, tôi muốn đến một vài nơi khác, như Quảng-trị, La-vang, Bến-hải… Nhưng tôi không tới được những nơi dự định tới đó. Cuộc chiến đang 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 24 
diễn ra ác liệt ở Đông-hà, Khe-sanh… Dự đám tang ông thân một người bạn cũ, người bạn mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ngào: về tới nơi thì ba em đã mê đi rồi, không nói được nữa, nhưng khi tới bên ông biết, mở mắt nhìn, miệng mấp máy và ôm lấy đầu… chừng như ba em chờ các con trở về… Nhưng chỉ có người con gái có mặt bên người cha khi hấp hối, người con trai đi trình diện nhập ngũ không trở về k ịp, cùng những đứa cháu. Cuộc chiến ở nhiều khuôn mặt tĩnh vẻ đau đớn nhiều hơn, một người cha, người mẹ chết không có một người con ở bên vuốt mắt, chúng đang học ở xa, đang chiến đấu ở mặt trận, ở một tiền đồn nào. Người bạn nói về cái chết của một giáo sư có nhiều con, ông chết ngồi trên ghế một mình… Phần mộ nằm trên một sườn núi cao ngó ra phía cửa biển Thuận An, những viên đá xám tím, đám tang đi trên một con đường gập ghềnh bánh xe tăng, trên sườn đồi không lâu còn là chiến trường, một người kêu đám trẻ không được lên cao, trên đó có đồn binh, một trái mìn nào đó còn quanh đây, chiếc quan tài mệt nhọc trên tay những người thân và phu đám leo 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 25 
lên theo những con đường mòn nhỏ một cách khó khăn. Chiếc quan tài trong lòng huyệt, những nắm đất ném xuống, giọng hò nện buồn buồn vang lên trong không khí tịch mịch: còn vài ba bữa nữa, sao đã vội ra đi bỏ lại con thơ vợ dại, sao không ở lại vui cùng các bạn thân quen, bây giờ chia tay đôi ngả, cách biệt nghìn trùng… Những tiếng khóc nghẹn ngào… Sao không vui cho người đã chết, quên đi cuộc sống này, chết yên lành và được nằm xuống một nấm mộ riêng? Bao nhiêu người chết phơi thây trong những khu rừng hoang vu, bao nhiêu người chết tan xác trong lửa đạn… Bây giờ chiến tranh đã ở Sài Gòn, Huế, những thị trấn, chiến tranh một cách thực sự, nhưng không có nghĩa trước đó chiến tranh không có mặt ở Huế. Chiến tranh có mặt ở Huế với tiếng súng vọng vào mỗi đêm, là những bao cát chất trên những cỗ ngựa láng bóng trong những ngôi nhà cổ kính, là những thùng dầu hôi cất giấu trong những hóc tối cùng với những bao gạo Mỹ. Và trên đường phố đông đặc những người lam lũ không sinh trưởng ở Huế và những khuôn mặt 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 26 
bảnh bao làm lạ với Huế. Bên đó là những người hành khất chen nhau nơi các quán ăn. Tôi đã rùng mình khi thấy một bàn tay đen bẩn từ phía sau đưa tới cầm lấy miếng thịt chân giò trong tô bún tôi vừa để xuống bàn. Tôi lánh mình ra bên, một đứa nhỏ và một bà già… Chiến tranh vẽ ra trên khuôn mặt Huế những nét đó, những nét xưa kia không có, có thể ngày nay còn nhiều khía cạnh khác… Nhưng rồi sau biến cố này Huế có thay đổi gì không? Chắc là không trên những con đường, những căn nhà, những nếp sống như lăng tẩm, cổ thành, nhưng chắc biến đổi nơi hành động, những bàn tay lật đi lật lại, những đổi trắng thay đen, những dao động, những lựa chọn? Phải thế không? Người ta sẽ không sống được như gỗ đá. Chắc Sơn hiểu điều tôi đã nói: vì sao mình lại viết? Không bao giờ tôi chấp nhận một thái độ hư vô, tôi cố gắng trong phạm vi nào mà tôi có thể cố gắng được, cố gắng từ cái nhỏ nhất, trong công việc, trong đời sống, bởi tôi nghĩ những cái không đáng gì (hay rất thiết thân) đó đang là những mầm mống chính nếu như chúng ta còn 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 27 
muốn thoát ra, gây dựng lại một cái gì, tôi nói với các anh về một phục hưng phẩm cách, một làm lại, mà đầu tiên khởi từ trong mỗi chúng ta. Chỉ có thể bắt đầu từ đó… Những tin tức mơ hồ, những lời truyền miệng không rõ ràng khiến tôi lo âu hơn, tôi muốn trở về nhà, hôm nay là mồng bốn Tết, công chức vẫn được lệnh ở nhà, giờ giới nghiêm vẫn như cũ, người ta vẫn tìm cách ra đường được tới mức có thể đi, những tiếng súng vẫn nổ ở khu Gò-vấp, Gia-định, Hàng-xanh, và mạn dưới là Ngã-bảy, Sư Vạn Hạnh, Minh Mạng, Phú-thọ, Phú-lâm… Người ta nói về những toán cộng quân tìm cách chạy theo những toán người tị nạn, trước đó chúng đã xé nhiều sổ gia đình, căn cước của dân chúng, đột nhập nhà thương Nhi Đồng, một vài toán nhỏ xâm nhập khu Bàn-cờ tuyên truyền, với những lời nhắc đi nhắc lại giống nhau khoảng mươi dòng được học thuộc, đó là những cán bộ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi gồm cả phụ nữ. Tin về một vài cán bộ tại Bàn-cờ, Cầu Ông Lãnh bị dân chúng bắt sống đánh chết. Buổi trưa nắng đục, 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 28 
những ngọn khói cao phía Ngã-bảy, Gò-vấp khiến tôi nóng ruột lo âu, nhà mình, nhà những người thân có thoát ngọn lửa hung tàn không. Nhiều vùng ngoại ô vẫn hoàn toàn mất liên lạc. Buổi chiều tôi trở về nhà theo đường Đa-kao, nơi cầu Bông từng đoàn người từ phía Gia-định chạy sang, nơi cửa một tiệm bánh mì người ta bu quanh tranh nhau mua. Một vài cửa tiệm hủ tiếu mở cửa, giá cắt cổ với tô hủ tiếu lỏng bỏng những nước trong veo. Đường Trần Quang Khải bị cô lập nơi bót cảnh sát, trên các cửa rạp chớp bóng vẫn còn những quảng cáo cho các phim đầu năm với những dòng chữ chúc Tết. Tôi quay trở lại đường Hiền Vương, rẽ xuống Hai Bà Trưng, cầu Kiệu bị chận lại, tôi rẽ Yên Đổ, không có lối sang, tôi rẽ Công Lý trở về Trương Minh Giảng, những con đường vắng hoe, những chuyến xe tuần tiễu, xe cứu thương và xe nhặt xác chạy trên con đường không người, trên lề đường nơi nào cũng còn vương đầy xác pháo hồng, cùng đó những đống rác cao nghệu hôi thối, trước những cửa nhà, bên những đống rác nhiều khóm hoa cúc vàng, thược dược héo 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 29 
rũ. Đó là những tặng vật của ngày Tết để lại trên đường phố hoang vu. Thất lạc, chết chóc, nhà cháy, đói… những người từ ngoại ô trở vào hỏi nơi tạm trú và trạm tiếp tế. Một người đàn ông đứng tuổi nói tới cảnh trở về khu nhà mình ở gần Cầu Sơn: thúi quá, cách xa tôi đã thấy thúi, không về được, người vật chết trong những căn nhà đổ, cháy… Một người nói, ở Phú-nhuận dọc theo đường rầy xác chết ngổn ngang, đường rầy bật tung… Một người nói, ở dưới nghĩa trang Đô-thành người ta đào những hố lớn lấp nhiều người xuống bằng xe ủi đất. Xóm tôi ở đêm trước chúng về tuyên truyền dân chúng khua thùng sắt tây, bắn bị thương một tên, chúng rút chạy xuống lạch bỏ lại hai chiếc xuồng, nhiều con ngõ được rào bít lại. Nhiều nhà đông nghịt vì người ở những vùng lửa đạn chạy về tá túc. Những bà nội trợ kiểm điểm lại gạo, dầu, nước mắm… Trong hơn hai mươi năm trời nay lúc nào người dân Việt cũng sống trong thắc thỏm, lo âu, sửa soạn… những biến cố dồn dập trong một tình cảnh kinh hoàng, nghẹt thở cho nên chừng như ai cũng phòng bị, sống như trong những truyện 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 30 
trinh thám nghẹt thở, có lẽ vì vậy những người Việt không còn thích đọc truyện trinh thám nữa vì đã sống hơn cả trinh thám; tình, tiền, máu, nước mắt, đàn bà những cái đó làm thành những chất liệu trinh thám. Ngoài những cái đó người Việt còn phải sống với những chất liệu khác nữa: tham vọng, quyền lực, những chất liệu cao độ nghẹt thở, chết chóc… Trong lúc tôi cùng bao nhiêu người khác với những lo âu chồng chất, nhìn đứa trẻ tha thủi hất chân trong những đống xác pháo tìm kiếm, chắc nó muốn tìm những chiếc pháo xịt, tôi thấy như mình đã mất đi một cái gì, những đứa trẻ ấy rồi đây nó có quên đi được nó đã lớn lên trong một tình cảnh như thế nào không? Và đến khi nó lớn cuộc chiến này đã hết chưa? Tôi mong cho tới lúc nó lớn sẽ còn đi tìm những chiếc pháo như hiện nay thay vì phải chơi với súng đạn, nghe những tiếng nổ chát chúa. Nước Việt Nam ta rồi đây phải xây dựng như thế nào? Sơn nhắc tôi ở Huế khi về hãy viết về quê hương ngày mai đó: nhà ở, vườn cây, lối đi, y phục trong một nước Việt tương lai phải như thế nào? Một 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 31 
đền thờ Việt Nam phải ra sao? Có phải chúng ta muốn mang đến một hy vọng trong tình cảnh đen tối hiện tại? Có phải chúng ta tự tìm cách an ủi chúng ta? Còn thực tại này thì sao? Đó là điều tôi muốn được hỏi những người anh em. Cho tới khi tôi viết những dòng này vẫn còn những người đang chết, súng vẫn nổ… K. thân mến, khi tôi viết cho anh những dòng này thì trên tờ lịch ghi ngày mồng mười Tết, chúng ta chia tay vừa đúng 11 ngày, sáng sớm tinh mơ, sương muối lạnh buốt, trời chạng vạng ở Huế chúng ta đã uống những cà phê sữa trong sân ga chia tay nhau, mới đây mà tưởng như đã xa lắm, có lẽ vì chúng ta cũng như mọi người đã phải sống những giờ phút dài nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, bao nhiêu biến cố đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu gia đình đã tan nát, bao nhiêu viên đạn đã nổ thay cho những tiếng pháo đầu xuân, và tôi đang cố hình dung, tự hỏi: Huế bây giờ ra sao, các bạn hữu mình ra sao? Những trận chiến đã diễn ra trên đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, cầu Trường-tiền, cửa 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 32 
Thượng-tứ, Đông-ba… những nơi mà mấy ngày trước chúng ta đã từng đi dạo, từng ngồi uống cà phê nói những chuyện nghiêm trọng và nhiều chuyện tầm phào khác? Trận chiến cũng đã tới con đường Hòa Bình có căn nhà êm ấm của gia đình Cường, lan tới quán cà phê Cô Dung, quán cà phê Mợ Tôn, quán bún bò mà nhiều người biết tiếng dưới hầm nhà Sẹc? Những gói thuốc nổ đã làm sập cầu Trường Tiền những nhịp cong trắng soi mình xuống dòng Hươnggiang, làm gục cầu Bạch Hổ trên đó có con đường sắt xuyên Việt? Tôi cố nhớ, cố hình dung xem với trận chiến đang diễn ra đó đã làm khuôn mặt Huế hôm nay như thế nào nhưng quả thật tôi không thể hình dung ra được. Có điều chắc chắn trong vòng mười ngày qua lửa đạn đã trở lại Huế… K. còn nhớ không, trong những ngày cuối năm ngắn ngủi, ngồi giữa những bạn bè tôi đã nói với anh tất cả những gì tôi nghĩ một cách thiết tha. Tôi cũng xác nhận với K. rằng: tôi không chấp nhận cộng sản, tôi cũng không có một ảo tưởng gì về nó. Tôi đã phải nói trước như vậy với K. để sau đó chúng ta có thể 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 33 
nói với nhau một cách rõ ràng. Điều này K. cũng xác nhận với tôi. Con người cộng sản cho đến nay đã trở thành một con người lạc hậu, nó không còn là giai đoạn của những Gorki, Lỗ Tấn… của những ngày khởi đầu cách mạng, chúng ta cũng xác nhận kinh nghiệm mà cuộc cách mạng vô sản đã mang đến cho chúng ta. Chúng ta - bằng năng lực và sáng suốt của tuổi trẻ - đã nhìn thấy những khuyết điểm, những tệ trạng ở phần đất và xã hội chúng ta đang sống, chính trong môi trường đó chúng ta tin rằng chúng ta có thể làm được một cái gì. Có thể tôi là một người lạc quan, như K. đã thấy, nhất là khi tôi nói với K.: những người quốc gia ở miền Nam, chúng ta là hy vọng của thế giới này, chúng ta đang phải chịu những thử thách, hy sinh lớn lao nhất, chúng ta có kinh nghiệm của cả hai con đường hư hỏng, chúng ta, mỗi người đều cầm nắm nhiều sự thật trong tay, chính điều đó khiến chúng ta yếu, nhưng cũng chính điều đó khiến chúng ta giữ được chúng ta không lao xuống vực thẳm… những anh em miền Bắc của chúng ta cùng những người cộng sản khác tại miền 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 34 
Nam chỉ có trong tay một sự thật, chỉ nhìn thấy một con đường, bởi vậy lúc này họ khỏe hơn chúng ta, nhưng chính con đường độc nhất đó, sự thật độc nhất đó đang đưa họ tới vực thẳm vì đó là sức khỏe của cuồng tín… Tôi thành thật tin như vậy. Anh đã đọc cho tôi nghe những bài thơ phản chiến, tôi và K. đã cùng đọc những lời kêu gọi của những giáo sư khoa bảng về việc kéo dài hưu chiến vô hạn định… Chúng ta đã nói về cảnh huống dân tộc ta trong cuộc chiến tàn khốc này. Tôi cũng đã nói với K. hãy giữ những ý kiến riêng của mình nếu tin đó là đúng, nhưng không được ngụy biện, không bao giờ đòi người khác phải chấp nhận ý kiến của mình… Những điều đó liên hệ với nhau nói lên một sự thật: chấp nhận cuộc chiến, chiến đấu và phấn đấu trong bao dung, với con tim và khối óc của một người. K. thân mến, cuộc chiến đã không chỉ diễn ra trong những đồng ruộng núi đồi, cuộc chiến đã diễn ra ngay trên những đường phố quen thuộc, sự thật nói lên đây là một cuộc chiến không có trận tuyến, bao nhiêu bế tắc, bao nhiêu mâu thuẫn, bao nhiêu quyền 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 35 
lợi, bao nhiêu tranh chấp đang dồn chứa trên quê hương này. Sức chúng ta có hạn, trong tầm sức có được chúng ta làm việc. Nếu mỗi người chúng ta đều như thế chúng ta sẽ làm thành một sức mạnh lớn. Tôi mong mỏi cho tới khi những dòng chữ này đến được với K. cuộc chiến đã đến một giai đoạn khác, K. vẫn không thay đổi, K. vẫn còn là những người sống sót cùng với những bạn hữu khác. Chúng ta phải sống, sống cho tới lúc chúng ta có thể vừa làm việc, vừa có giờ nghỉ ngơi dẫn người vợ hiền, đàn con nhỏ đi dạo trên những bến sông và nhìn thấy cuộc chiến này như m ột dĩ vãng không bao giờ muốn nhắc lại, đó là niềm mong ước của tôi và chắc cũng là niềm mong ước của K. và những người Việt khác… (2-68) 
(1): Trích 10 năm Giáo Dục Đại Học Huế. Đặc san 1968 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 36 

Đi bên những xác người 
1 Đà-nẵng 9-3. Tôi đã tới được nơi tôi mong muốn tới. Trời không có nắng, trời xám thấp… Trên chuyến máy bay những câu chuyện về biến cố được nói nhỏ cho những người ngồi gần bên nghe, những gương mặt bùi ngùi, nhiều hành khách từ Phan-thiết muốn trở lại Quảng-ngãi đã phải vào Sài-gòn, từ Sài-gòn đi Đà-nẵng, rồi từ Đà-nẵng trở lại Quảng-ngãi. Những hỏi thăm về đường đi, về những người nào đó, nhà ở 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 37 
chỗ này chỗ khác. Không có chuyện gì ngoài chuyện những tang tóc, nhà người này cháy, người kia chết… Từ máy bay nhìn xuống, trên những ngọn núi tôi có thể nhận thấy những hố bom, những vùng rừng bị cháy, những ngôi làng với những lũy tre, những hàng rào và những nền nhà… Cuộc chiến không vắng mặt ở một nơi nào. Phi trường mênh mông những mái nhà xám, những máy bay, tiếng nói người nữ chiêu đãi lạc lõng… Chúng tôi được dẫn qua những lối đi có hàng rào kẽm gai, vượt qua những hầm cá nhân… Ba chuyến xe ca cũ kỹ chờ đợi. Những người bịt mắt ngồi xổm trong một khoảng sân trống… Chuyến xe chạy ngang qua những vùng phố ngoại ô, những mái nhà tôn thấp, tạm bợ, đường không hề đi. Viện bảo tàng Chàm đóng cửa, những người lính hờm súng. Đài tử s ĩ đang xây cất. Căn nhà đầu tiên tôi bước vào, chiếc hầm trú ẩn với những bao cát chất cao chiếm hết nửa gian phòng bên cạnh chiếc giường ngủ. Chiến tranh lặng lẽ thân mật chung quanh mỗi người. Những cánh diều giấy xanh đỏ trong lòng phố, những chiếc 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 38 

đuôi diều với giấy đủ màu đỏ mắc lại trên những sợi dây điện bay theo chiều gió như một cánh chim lạ tơi tả trên một hoang địa có những ngọn cây khô. Đêm Ba-mươi Tết súng cũng đã nổ ở đây, một người đàn ông nói. Bọn nó vào không nổi, chỉ có vùng Hòa-cường bị thiệt hại, hồi bọn nó đi rồi người ta kéo xác lên, nhìn hai mươi mấy xác chết nằm còng queo trở về đêm ngủ nhắm mắt lại là thấy người chết… Người chết. Người chết. Kẻ m ất đầu. Kẻ không còn chân tay. Kẻ cháy thui. Những xác chết nhiều khi không còn gây nổi những xúc động. Buổi chiều mưa bay. Phố xám. Những lo âu. Còn lại quãng đường 15 phút đường máy bay. Những chuyến xe phải nối đuôi nhau chạy vào những ngày không được biết trước. Tôi nhớ tới chuyến xe lửa ngày nào vượt qua những hầm tối, vượt qua ven bờ cát, ven đồi hùng vĩ đưa tôi dời khỏi Huế vào đây. Bây giờ xe lửa không còn chạy nữa, thiếu mùi khói than ngột ngạt nhưng thân mật, thiếu tiếng còi kéo dài vang lên, thiếu tiếng sắt chát chúa cọ sát vào nhau. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 39 
Những cửa tửu điếm màu sơn lòe loẹt, chỉ còn lại vẻ tiêu điều… Một người nói thời vàng son đã trôi qua… Vàng son thật ư? Vàng son cho ai? Giấc ngủ chập chờn trong căn nhà lạ. Những tiếng máy bay lên xuống không ngừng. Tiếng đại bác từ ngoài biển bắn vào trong núi… 
2 Sáng hôm sau. Mãi trưa mới biết có chuyến côngvoa vượt đèo sáng nay tới Huế. Trời mưa. Tôi lang thang trong nhiều đường phố lạ. Tôi không nhớ gì về những con đường ngày xưa đã đi qua. Không một chút gì. Những học sinh từng tốp trên đường phố tham dự cuộc lạc quyên cứu trợ đồng bào Huế. Những khẩu hiệu trên tường, căng ngang qua đường phố… Anh đi gìn giữ quê hương, phần em đắp lũy đào mương diệt thù… Ngồi trong quán cà phê nhìn sang cửa nhà thờ, buổi sáng chủ nhật, bên này một đầu máy xe cam-nhông kéo theo sau một thùng xe lớn như một toa xe lửa, những đứa con gái quần áo diêm dúa, son phấn, đứng ngồi. Người tài xế cao lớn, 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 40 
da trắng, mắt xanh, chiếc mũ lưỡi trai màu biển, đội trượt về phía sau gáy, nụ cười, những tiếng nói, chiếc tay ngoắc, chuyến xe trong cõi hồng trần như bay… Còn ở bên kia đèo? Còn ở ngoài xa thành phố? Còn ở những xóm quê? 

5 Huế 13-3. Rời Huế ngày 29-1. Hơn một tháng sau gặp lại. Chiếc C.130 bỏ tôi xuống phi trường những người lạ. Không còn những người ngồi bên quầy hàng. Không còn có những chiếc nem xanh, những chiếc tré treo trên kệ, không còn những chai la-de. Chỉ còn những người lạ. Mấy học sinh, mấy bà sơ đứng áp nơi những cửa kính vỡ chờ đợi một chuyến đi tình cờ may rủi nào đó… Lóng ngóng trong những hàng kẽm gai. Những chiếc xe lướt nhanh trên khoảng sân bụi đỏ. Tôi tưởng như lạc tới một nơi nào. Buổi trưa nắng hanh, khô khan… Chiếc xe vận tải đưa ra khỏi phi trường, ngừng lại trong một khu chợ thưa thớt… Tôi hiểu dần ra. Người bạn đồng hành độc nhất, như một định mệnh, đó là người 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 41 
đã gặp tôi hôm tới Huế lần trước… Cám ơn những may mắn đã giúp tôi tới được đây như mong ước. Chuyến xe lam hai người chạy như bay trên con đường vắng, thoát khỏi những khu có làng xóm, cánh đồng lúa xanh. Những cột sắt cao. Có lúc chiếc xe chạy uốn éo. Tôi kêu lên: coi chừng. Người tài xế, da mặt đen sạm, tóc bù rối, hai tay vững vàng ngó lại, mặt nghiêm trang: từ sáng tới giờ có hai vụ mìn nổ, hai chết, sáu bị thương… Tôi chạy vậy phòng hờ… Người đồng hành nhìn tôi. Cả hai không nói. Những chiếc cầu êm ả đã gẫy, những chiếc cầu mới vượt cao khỏi mặt đường. Một chiếc xe lam ngược chiều chở theo chiếc quan tài màu tro thừa ra phía sau. Một người đàn bà ngồi bên… Những hàng rào đang được làm lại. Một chiếc quan tài nhỏ dán giấy đỏ, hai người khiêng trên một khúc tre tươi. Con nhà ai? Sao không có người khóc? Một chiếc quan tài để trên chiếc xe kéo. Một người đàn ông phía trước, một người đàn bà phía sau đang tìm cách vượt sang bên kia đường… Địa ngục đã mở ra… An-cựu, khu chợ sầm uất hôm nào còn lại những 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 42 
đống gạch vụn, chiếc cầu hôm nào gục xuống dòng nước… Tôi bàng hoàng, còn trong kia, nơi sắp tới, trong những khu phố… Những ngôi biệt thự với những lỗ thủng lớn, những mảnh tường chơ v ơ, những cánh cửa mở rộng không bóng người, trên đường những người đi ngơ ngác… Cầu Trường Tiền, giữa dòng nước hai nhịp chúc xuống làm thành những đường đi dốc trước khi bước xuống chiếc cầu nổi, những chiếc xe đạp vác lên vai, những người già run rẩy giữ lấy chiếc dây thừng. Hôm nay người ta ra giữa dòng nước giặt giũ, rửa tay chân… Những vành khăn sô thấp thoáng… Hai chiếc mộ bên góc đường, một mộ bia bằng giấy cắt từ một chiếc thùng sữa nào. Bốn năm mộ khác nơi Thương Bạc, những chân hương đỏ, không một mộ bia. Rạp Hưng Đạo, tờ quảng cáo phim chiếu trong ngày tết: Le Temps du Massacre. Cuốn phim coi hai lần: một ở Sài-gòn, một tại Huế đêm 29 tết… Một mối thù… Thằng người bằng bìa cầm khẩu súng còn toòng teng trên cửa rạp, phía trong không còn một cái ghế, không còn một miếng tôn trên mái… Ngồi trong Cà phê 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 43 
Phấn, lon bia lạnh, những người nháo nhác, chiếc xe hốt rác không ngừng nghỉ, bụi đỏ quạch, những mảnh tường, những mặt nhà cháy đen, sụp đổ… Những nền nhà phơi ra, những cột kèo màu gỗ cũ phơi trống trải. Chợ Đông Ba, khuôn chợ mới vượt lên cao giữa những đống gạch vụn… Ven bờ sông Gia-hội mấy ngôi mộ nằm bên đường. Con đường Phan Bội Châu, những đống gạch vụn ngoài đường, những chiếc xe hốt gạch, tiếng động cơ khó chịu. Khoảng đất trống, hôm nào còn cái sạp Loto làm bằng tôn với những tấm lá cọt nay chỉ còn lại khoảng đất hoang, sáu cái mộ, trên một mộ có một chiếc dù màu đỏ (chiếc hoa của một người tình nào đã héo rũ?). Một nấm mộ, bên những chân hương tấm hình nhỏ chụp một gia đình có những đứa trẻ. Những mộ bia bằng bìa cứng, có chiếc được bao lại bằng một lần nhựa trong. Cổng thành Đông Ba, chiếc tháp Chàm nào đó trong những vùng đổ nát. Những hố lớn phía ngoài, chiếc xe ủi đất đang hoạt động, những gạch vụn, qua chiếc cửa lưu thông độc nhất, những tiếng xe, bụi, người chen chúc. Hai dãy 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 44 
nhà hai bên: những nền gạch, vài khoảng tường, vài chiếc cột còn sót… Như thế đã xong… mộ bên dọc đường, năm sáu chiếc một trong những vườn nhỏ, phía trong những hàng cây xanh. Thấp thoáng vượt lên tươi tắn những bông đào, những bông hồng đỏ thắm như những giọt máu còn lơ lửng trong không gian… Căn nhà hôm nào còn đây, vườn cây xanh, giếng nước, nụ cười bùi ngùi… Trải qua một cuộc bể dâu… 
9 N. cố gắng đi khắp thành phố trong chiều nay để xem chiến tranh tàn phá Huế đến độ nào. Đường sá trơn ướt và nhớp bẩn. Hai bên đường những hàng cây cháy sém, hoặc đen sì, hoặc gẫy ngã, mà lẽ ra mùa này chúng phải xanh tốt với cành lá mới thay. N. chỉ có thể nói tới cỏ cây. Những sự rùng rợn khác N. không muốn biết, không muốn nghe, cũng không muốn tưởng tượng… giờ đây không muốn tâm thần bị ám ảnh nỗi kinh khiếp ấy nữa. N. muốn quên, muốn kể lể, muốn thật nhiều được yêu mến những 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 45 
kẻ còn sống sót chung quanh. Ở trong thành phố này anh thấy N. may mắn hay rủi ro? N. thì không tiếc, không trách gì. Huế ngày trước dịu dàng êm ả quá đã nuôi dưỡng tâm hồn N. từ lúc ra đời. N. sẽ ở đây để thấy mình trưởng thành dần dần trong khung cảnh mới mà tan nát hết nỗi yên vui cũ. Bóng tối đã chùng xuống, bầu trời độc một màu xám và không có mây. Tất cả im lặng, trong thoáng chốc N. thấy lại sự bình thản và bước ra cổng, bóng tối che lấp sự hoang tàn. Đèn đường hư. Chỉ còn những vì sao là vẫn thắp sáng. Thỉnh thoảng trái sáng làm rực trời, N. thấy bóng lá rọi trên cột trụ chiếc cổng, trên thân thể, dưới mặt đất, trí óc như chao đi chao lại. Có một cái gì đó vừa rỗng không vừa nặng nề, anh sẽ không hiểu. N muốn cay mắt. Trở vào nhà, đốt cây nến, N. phải viết, tại sao lại cho anh. Người ta càng trưởng thành càng khó ưa, lại nữa, anh tỉnh táo quá. Không được thế. N. tin anh chẳng đến đỗi nào… Chẳng ai thế được cái bóng mình soi trên gương. Anh không thể khóc được bằng mắt người khác… Ngày hồi cư không hiểu mừng ít hay nhiều. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 46 
Có con bồ câu nằm chết giữa sân. Anh tìm dịp về mà xem. Thật chẳng còn gì, chỉ còn gạch vụn nhất là ở phố chính. Căn nhà N. may không thay đổi mấy nhưng mất hẳn vẻ đầm ấm, cây vẫn xanh và giếng nước thì trong hơn… 
10 Những khoảng tường thành bị phá vỡ, màu gạch phơi đỏ. Con đường những tường rêu phong không bóng người. Ngày xưa những ông vua và những hoàng hậu đi trên những con đường này. Bây giờ có hai người. Người đàn bà mặc áo màu tro ngồi giữa điện Thái Hòa, không còn chiếc ngai vàng vô ích. Còn lại những gạch vụn, lỗ hổng trên mái. Hãy im đi trái tim khó bảo. Tôi nói với tôi, hãy ngủ ngon trái tim đã khô, với nỗi bùi ngùi lặng lẽ… Khổ để biết những người khác đã phải sống như thế nào. 
12 Tôi không mang một cái gì đến cho những người thân quen. Tôi mang tiếng nói của một người xa đến 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 47 
một thành phố đã mất, đã bị cô lập trong những ngày tháng đằng đẵng… Tôi mang đến những lời thăm hỏi với ý muốn chia xẻ phần nào những cay đắng. Tôi mang đến những tâm sự. Mái ngói đã được sửa lại. Vết đạn còn trên tường, trên khung bố, trên nền tranh. Những ngày tản cư, con chó vàng quanh quẩn trong căn nhà vắng gặm những góc tranh cho đỡ buồn miệng. Chậu cúc còn lại những tàu lá héo khô. Chúng tôi đã cố chọn một chiếc chậu không sứt, nhưng bây giờ thì nó đã bể hẳn một nửa. Những câu chuyện. Bao nhiêu sự việc đã diễn ra trong căn nhà nhỏ bé đó. Tôi chỉ thấy được phần nào những điều mà người khác phải sống. Đứa bé sinh thiếu tháng trong những ngày loạn. Căn nhà thu hẹp lại. Những tiếng nói nhỏ cho những người nơi hiên đủ nghe. Ngọn nến trắng cháy leo lét trên bàn. Những ngọn cây bí mật chốc chốc ánh hỏa châu làm sáng lên qua những khoảng cách. Cơn ác mộng còn nặng trĩu trên cái nhìn, trong tiếng nói, trên khuôn mặt, qua khói thuốc ngập ngừng, trong di động nhẹ nhàng chậm chạp. Những khoảng im lặng kéo dài lắng nghe như 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 48 
đã lâu lắm. Tiếng cười đầy ắp trong căn nhà, ánh sáng chan hòa trên những khoảng màu rực rỡ, tiếng nói mang theo giọng cười… K. chịu tang một ông chú. S. đã chạy khỏi căn nhà sập mái tới thư viện ngồi im trong những đêm, những ngày lạnh cóng không nhắm mắt giữa những người khác. Q. chạy thoát khỏi vùng Gia-hội đầy những họng súng hờm sẵn và những hố sâu đã đào chờ đợi, lần theo những con phố tối tăm đầy xác người chết và gạch ngói. T. mất tích, tin nói về m ột xác chết đã được nhận thấy… C. rút mình nằm trong căn nhà tối, rồi theo những người cùng xóm dời khỏi khu vực lửa đạn, ngày về không bao nhiêu, trong đêm đốt đuốc cùng người em đưa người vợ trẻ vào trong trại binh giữa những loạt súng còn chát chúa, đứa con gái ra đời trong những ngày tháng kinh hoàng với một cái tên thời cuộc: Dạ Châu… Căn nhà phía sau, cách khoảng hơn trăm thước, đạn đại bác rớt xuống bảy người trong căn nhà chết hết, nấm mộ chung còn ngoài sân nhà. Người ở núi lạc quan: về ở luôn, trước sau gì cũng phải vác súng… X. đã quên, đó là 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 49 
điều không ai mong muốn, đó là điều không ai chờ đợi, và đáng lẽ các anh phải hiểu rằng các anh không thể nào ở lại đây được. Tại sao các anh nhầm lẫn như thế, tại sao các anh lạc quan như thế, có thật các anh tin tưởng như thế không? Những tên gọi được nhắc đến, những thảm kịch được khơi dậy. Và N. lặng lẽ với nụ cười bùi ngùi: em không biết gì hết, không nhớ gì hết… 
13 “Đêm hôm đó tôi sang bên nhà S. uống rượu với một số bạn, rồi cùng đánh bài cho vui, lúc đó chẳng ai nghĩ tới chuyện đánh nhau hay chiến tranh gì hết… Khoảng mười một giờ đêm mồng một, nghĩ tới thằng con mình ra về, lúc ở trên đường mình thấy có gì khác thường, đường vắng ngắt, hôm đó không có giới nghiêm, khi ngang qua cổng thành thấy có những người lạ đứng gác, lúc đó súng chưa nổ, nghĩa là bọn ở núi đã vào từ lúc nào không biết. Về sau được biết, sau đó độ nửa giờ B. cũng dời nhà S. qua cầu, về bên Phú-cam thì bị b ắt. (B. nhắn về cho 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 50 
người dì: coi như đã chết. Vành khăn sô không vấn trên mái tóc xanh cho người tình đã đính hôn). Nghĩa là họ đã vào nhiều nơi trong đêm đó. Bốn năm giờ thì nghe súng nổ, những tiếng nổ thật khó chịu, nghe như những tiếng súng ma, không biết ở gần hay xa. Và từ đó cho tới sáng hôm sau nhiều tiếng súng, sáng mồng hai Tết nhiều người còn không biết là những người ở núi đã giữ thành phố, nhiều người còn mặc quần áo Tết ra đường… Ai cũng khiếp. Nhiều người không biết ra sao. Khi thấy những người trên núi về nhiều người ngạc nhiên, nhưng ai cũng nghĩ họ chỉ về trong một hai ngày mà thôi, vì ai cũng biết không cách nào họ ở lại được. Hỏi những người ở núi, mới đầu họ nói về 3 ngày, sau nói 7 ngày, sau lại nói 10 ngày… Thời gian kéo dài làm cho nhiều người phải tính tới chuyện chạy khỏi. Nhất là tới khi nghe họ nói về ở luôn. Những tò mò ngày đầu trở thành lo sợ, không ai còn muốn nghĩ tới chuyện ra đường nữa, mọi người bắt đầu tìm nơi an toàn... Nhiều chuyện xẩy ra ngoài sự tưởng tượng. Cô Đ. Tr., một sinh viên, xưa kia cô ở Huế là một 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 51 
người hết sức dễ thương, sau đó cô ta đi Sài-gòn, học y khoa, hai năm thi đều rớt, cô ta trở lại Huế đầu năm học rồi và học văn khoa, trở về cô ta khác hẳn khi trước, trong giới trẻ thấy cô là một người sống theo đợt sống mới, đi xe Mô-by-lét, điều mà ở Huế người ta không nghĩ được, không những thế cô ta còn giao du với nhiều thanh niên khác... đến lúc biến cố mọi người thấy cô ta mặc quần jean đeo súng và chạy cùng khắp trong thành phố, nhiều người bị cô ta chỉ vào mặt và tất nhiên nhiều hậu quả đã xẩy ra... Sau đó nghe nói cô ta bị thương và được một thanh niên khác chở đi, nhưng đã chết... Gia đình ông Đ. thì ở đây ai cũng biết hết. Không thể hiểu, có một cái gì vô lý, không thể ngờ có những sự việc, người này hôm nay thế này, hôm sau khác, hôm nay mình tưởng họ như thế này, hôm sau thấy thế khác… Cho nên bây giờ người ta thấy có một cái gì nghi ngờ, không dám tin, không dám tỏ thái độ với ai, không dám nói với ai vì có thể chính người đó có những sự thật khác, không như mình đứng từ ngoài nhìn vào... Tan hoang hết, phân tán 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 52 
hết, những người đi, những người ở lại, những lựa chọn. Có điều người ta không thể đứng ở giữa được. Người ta không muốn là nạn nhân của tất cả. Người ta chọn để làm nạn nhân của một bên. Cuối cùng rồi bọn mình phải tản cư, mỗi người hai cái va-ly, thì cũng chạy quanh chứ biết đi đâu, may có người quen ở dưới gần Sư đoàn, xuống đó gặp nhiều người quen, không phải là nhà mình nên có nhiều chuyện khó chịu... Nhưng làm sao được. Cô em ngồi lặng khóc. Đạn bắn ở ngoài thằng con không chịu nằm xuống, mỗi lần nằm là nó khóc. Những cái chết thật nhanh chóng. Ở trong nhà mọi người vẫn sinh hoạt bỗng nghe tiếng nổ, rồi một người đàn bà kêu lên ở ngoài sân, chạy ra thấy bà ta ngã xuống chết. Hết sức kinh hoàng, cũng như phía sau nhà đó, bảy người cùng chết, những ngày đó chẳng ai chết mà có được quan tài. Người ta lo đào một cái huyệt vùi xuống cho xong. Tội nghiệp, một bà vợ ở xóm trên này, ông chồng bị bắt đi, bị bắn chết, bắn chết trước mặt, rồi trận đánh tới, bà vợ chỉ còn đủ thời giờ kéo xác ông chồng về b ỏ trong 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 53 
buồng, đóng cửa lại rồi dắt con chạy đạn, mấy hôm sau mới trở lại được... Ngay trên đường Hiền-nhơn, cái khoảng ông đã đi qua đó, hai cậu chết từ hôm nào không biết, khi yên người ta nhờ quần áo mới biết là hai cậu học sinh, bây giờ còn mồ đó... Chưa thảm bằng anh chàng tài xế trên chiếc xe dép ở cửa Đông-ba, anh ta bị bắn chết từ ngay phút đầu, chiếc xe bị cháy, anh ta ngồi đó trong gần một tháng, ngày đầu đi qua chỉ thấy còn một bộ xương ngồi trên ghế trước tay lái... Ông đã ngang qua cửa Đông-ba rồi chứ gì, trông khiếp chưa, con đường Mai Thúc Loan có lúc là trận tuyến đó... Còn phía ngoài thì xác chết nhiều lắm, hôm qua này người ta còn lo đắp thêm đất lên, vì xác chết ở đó nhiều lắm... Chỗ nào cũng có xác chết hết. Người này người khác, ai ở Huế cũng có tang, hoặc xa hoặc gần, có người chịu một lúc nhiều cái tang, không còn nước mắt nữa để mà khóc... Người nào trông cũng thất thần, không còn gì nữa. Nghĩ tới Tết năm tới, nhà nào cũng có giỗ, ý nghĩa về ngày Tết đâu còn nữa… Con đường Âm-hồn, hồi thất thủ Huế 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 54 
ở đó người ta chạy giẵm lên nhau mà chết, ai ngờ con đường nay đã đổi tên nhưng vẫn là con đường nhiều người chết, có những mảnh vườn nhỏ tí mà năm cái mồ... Không tưởng tượng được. Khiếp luôn...” 
14 Bỗng hỏa châu rực trên nền trời, những tiếng đại bác vọng xa. Khoảng hiên tối. N. nói tới người bạn gái mồ côi mẹ phải trông nom đàn em trong khi người cha lo lắng kiếm sống, nay người cha lại chết... Tội nghiệp. Lớn lên trong một gia đình khá giả, lúc nào cũng được nuông chiều, sống trong những điều kiện êm lành nhất, tới lúc phải sống chung đụng với những người lạ, trong căn nhà lạ, tiếng động lạ, thiếu thốn đủ điều... Phải khổ mới biết người khác khổ ra sao. Chắc chắn đối với tôi đó cũng không bao giờ là một ước muốn, một mơ tưởng, đó chỉ là một an ủi cho chính mình và cho người khác. (Chiếc bàn bên cửa sổ, ngọn đèn trên cành cây khô, chiếc lọ cắm một bông hồng đỏ, trên miếng vải có một hòn đá 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 55 
màu tím đất, con đường hàng cây lạnh trong đêm cuối năm, bây giờ con đường những hàng cây xơ xác, đêm không ánh đèn, không bóng người ngang qua, ngoài những xác người nằm im lặng quanh đó. Vạt áo màu thảm cỏ hoa, con đường buổi sáng còn ngái ngủ, ly cà phê trong quán ven đường, đã thoáng qua những ngày kinh hoàng không muốn nhắc lại, nhưng chắc sẽ không quên đi được... Con chim bồ câu chết trong sân. Không còn chiếc bàn bên cửa sổ, không còn bông hồng. Chỉ còn lại cánh hoa bưởi khiêm tốn trên mặt gối và giấc ngủ nôn nao một ngày nào dời khỏi thành phố thân thuộc những kỷ niệm ngày ấu thơ...). Con đường đông vui hôm nào bây giờ là một con đường bụi, những qua lại vội vàng hấp tấp, những chiếc nón nghiêng xuống, phía trong, những dãy nhà chợ hôm nào nay chỉ còn đống gạch vụn, trong đó, vượt lên cao khung của ngôi chợ mới chơ vơ buồn rầu trong nền trời xám chì. Sát với đường nhựa những người đàn bà giấu mặt dưới vành nón ngồi sau những hàng lặt vặt: ít đồ hộp Mỹ, những gói 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 56 
thuốc, một vài trái su, bó rau... Trên lề đường, phía ngoài dãy nhà buôn bán sầm uất khi xưa nay cũng đầy những hàng quán nhỏ, những hàng quán như cố gắng che khuất phần nào những nền nhà, những căn nhà trống rỗng. Trên những khung cửa nhà thỉnh thoảng người ta đọc thấy những hàng chữ phấn, hoặc viết vội vàng trên những mảnh giấy: nhà này có chủ. Một xác nhận chua chát. Tôi cũng còn nhìn thấy những khẩu hiệu đã bị bôi bỏ nhưng chưa mất nét chữ. Cũng có những hàng chữ khác trong, trước những dãy nhà như: gia đình tôi vẫn được bình yên... một lời thông báo cần thiết trong một thành phố đầy ắp tin đồn. Tôi cũng còn nhìn thấy những tấm biển khác như: ở đây bán cà phê và bún bò. Những tấm biển ấy treo nơi cửa những gian nhà sụp đổ nửa chừng, trong những ngôi nhà trước kia thuộc thành phần khá giả... Nhiều nữa những hàng chữ, những khung cảnh như đủ nói lên rất nhiều điều về Huế... 
17 Buổi chiều. 15 tháng 3. Tôi và C. chở nhau trên 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 57 
chiếc xe gắn máy sang Gia-hội, khu vực được coi như có nhiều nạn nhân nhất của biến cố. Cầu Gia-hội vẫn còn đó ngoài một lỗ thủng trên cầu. Con phố quen thuộc vẫn còn nguyên, có thể nói trên khung cảnh Gia-hội không có một bề mặt điêu tàn, chúng tôi vượt sâu mãi xuống con đường đi Bãi Dâu, nhưng sau chót chúng tôi theo con đường nhỏ hai bên có những hàng rào cây xanh thấp, con đường mỗi lúc một vắng, sự vắng lặng ghê khiếp, tôi không gặp một người nào trên đường đi, chúng tôi vào trường Gia-hội, nơi có những hầm chôn người nhiều nhất. Trước mặt trường là một cái hồ rộng, một con đường nhỏ vòng vào, chung quanh cây cối um tùm, không một bóng người, ngôi nhà ở giữa đã sạt hẳn mặt tiền, trên đó có một ngọn cờ cắm ngả nghiêng, tay mặt là một dãy nhà hai tầng mới xây, nước vôi còn mới, những cửa kính bể, bên tay trái là mấy căn nhà thấp. Khoảng sân đất rộng, phía trong, nơi tay trái còn những ngôi mả mới. C. nói đó là nơi đã có nhiều người chết, một số xác không nhận được hiện còn ở đó. Bên tay mặt, phía đầu dãy nhà hai tầng sát 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 58 
với bờ tre cũng còn những nấm mồ. (Những ngày đầu tiên, sau khi tiếng súng ngừng nổ, người ta đã đổ xô tới đó nhìn mặt những người chết đã nát, nhiều xác để bừa bãi, mặt che bằng những tàu lá chuối, bằng những tờ báo, những con chó quanh quẩn, những người bao khẩu nhìn ngó…). Không một bóng người, tôi cảm thấy như có một sự đe dọa nào. Hai đứa vội vàng leo lên xe phóng chạy. Con đường nhỏ cong queo, những bờ tường cây, những căn nhà kín cửa, không một người ngoài đường… Khu đất trống hình tam giác của khu Mả Ông Trạng, vườn hoa với những chiếc ghế đá dưới những tàn cây um tùm hôm nào nay không còn một khoảng trống, toàn những mồ mả, một người đàn bà đang lúi húi thu vén cho một ngôi mộ mới. Chúng tôi lại gần, những nén hương thắp bên một tấm ảnh nhỏ để dưới đất, hình một cô gái có khuôn mặt xinh tươi, tôi hỏi một cậu trai mặc áo đen đứng gần đó, cậu là em của cô gái, người đàn bà là chị. Khuôn mặt buồn rầu, nước mắt chạy quanh, bà chỉ vào căn nhà phía bên kia đường: đó là căn nhà của bà, đó là căn nhà của cô T. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 59 
cô gái 20 tuổi đầu, bây giờ đã nằm trong lòng đất. Cô đã chết cùng với hai người thân trong gia đình. Xác tìm thấy trong trường Gia-hội. (Ngày đó những người có súng đi tới cửa, nhìn vào căn nhà, tiếng nói đến với cô gái: trong nhà có đàn ông không? Nỗi kinh hoàng đến với cô, có đàn ông không. Có. Những người thân của cô. Việc gì sẽ xảy ra sau đó. Cô gái giọng luống cuống lo âu cố gắng trong gian dối cần thiết: không có. Những người lạ mặt mở cửa xông vào: hai người đàn ông. Lúc đó cô nghĩ gì? Lo âu như thế nào? Ba người cùng bị dẫn đi cùng những người khác. Sau đó, trong ngôi trường học, cái chết. Và bây giờ nấm mộ với những giọt nước mắt trên má, trên môi người chị, tiếng nói nghẹn ngào với người em trai mới lớn…). Bao nhiêu cái chết. Bao nhiêu tiếng thét la. (Những đàn ông, những đàn bà lần lượt tới một bàn giấy, những lời nói khoan hồng bao dung, tờ giấy nhỏ, có chữ ký bỏ trong túi trở về nhà, sau đó tới trình diện và không trở về… Những người nhạy cảm, trong đêm lần khỏi nhà, vượt khu phố, vượt qua sông thoát đi, những tiếng súng ma 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 60 
quái trong đêm khuya lạnh vắng… Số phận cho bao nhiêu người? Định mệnh nào cho hàng mấy trăm người? Số tử vi nào cho mấy trăm người? Nỗi nghẹn ngào chia xẻ được với từng ấy cái chết, với từng ấy vành khăn, với bao nhiêu đứa trẻ…). Tôi không thể hiểu được. Tôi không tìm thấy được một giải thích nào cho tôi hết. 
17B Đại úy V. nói tới cuộc hành quân từ Đà-nẵng ra. Biệt động được đưa từ trong ra thẳng Phú-bài với một mệnh lệnh, bằng bất cứ giá nào phải vào Gia-hội. Không có phương tiện chúng tôi chạy bộ xuống, lúc đó mình đã giữ được bên này, nhưng qua sông đâu phải dễ, khi qua bằng thuyền máy chúng tôi bị đẩy ra, không được, chúng tôi tiến quân xuống Vĩ-dạ, theo đường sông đổ quân xuống Bao-vinh, rồi từ đó mới tiến lên Bãi-dâu… Anh hiểu, cả một sự khó khăn để có lương thực và đạn, bọn chúng cố thủ mà… kinh nhất là khi chúng tôi tấn công vào bộ chỉ huy của chúng ở chùa Áo Vàng, anh hiểu. Trung úy 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 61 
Đ., anh ta đã lăn mình vào với những lựu đạn trong khi chúng tôi gần như không thể tiến được một bước…Trời ơi, anh không thể tưởng tượng được chúng tôi đã phấn khởi như thế nào khi gặp lại dân chúng. Họ nói sao chúng tôi tới quá muộn, họ còn gì là dành cho chúng tôi. Phải, chính chúng tôi đã tới nơi họ chôn người tập thể đó, rồi nhờ người ta chỉ chúng tôi khui ra những hầm vũ khí, có một người đã giúp chúng tôi thật nhiều, chính anh ta bị bắt, bị mang ra xử tử nhưng trong khi đào hố thì anh ta cùng một người khác liều tháo chạy, bị bắn nhưng anh ta thoát, khi xong rồi chúng tôi muốn thưởng công cho anh nhưng anh không chịu, những người như vậy không phải là ít…Khi chúng tôi tiến được vào thì đêm bọn nó tìm cách qua sông… Một anh lính nói khi tiến vào đường phố, mọi người chợt nhận thấy một người đàn ông khoảng bốn mươi, mặc chiếc áo vét cũ, anh ta giơ hai tay, nhảy lên kêu: hớ, hớ như một thằng điên, chúng tôi không hiểu sao, anh ta cứ chạy theo chúng tôi mà kêu như thế, mới đầu chúng tôi sợ đó là kẻ báo hiệu cho bọn 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 62 
nó chạy, tôi tức quá la lên: hớ gì, bắn chết cha bây giờ… mỗi lần nghe thì người kia lại lẩn đi, nhưng rồi anh ta lại tiếp tục làm vậy, sau mới biết anh ta sướng quá, anh ta trốn trên trần nhà suốt trong thời gian, đến nỗi nói không được, khi anh thấy bọn tôi đến thì mừng vậy thôi… 
17C Một người nói tới ông Ph., ông ấy bị bắt rồi bị tuyên án tử hình, ông hết sức bình tĩnh xin trở lại nhà để chết bên vợ con. Không hiểu sao họ lại cho, khi về ông xin phép được uống chỗ rượu Tết còn lại trong nhà, ông uống rượu, dặn dò vợ con đủ điều, vợ con khóc, ông thì không, sau cùng ông đào huyệt cho mình trước sân và họ bắn. Một tấn thảm kịch như thế có ai tưởng tượng được không, rồi đâu đã hết, người con gái lại chết nữa, hai cha con chết nằm bên nhau, còn người vợ, đàn con nhỏ, người ta không thể hiểu. Những người trình diện lần thứ nhất trở về, lần thứ hai không còn thấy mặt. Có những người sống nhờ trong đêm đã ngủ dưới thuyền, thuyền khi nghe súng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 63 
nổ liền chạy ra mãi cửa Thuận… Đây là vùng mà họ đã ở nhiều nhất, nhiều người bị chết nhất… 18 Quán nước nơi đầu cầu. Hôm nào tôi đứng trên cầu nhìn xuống chờ đợi bánh pháo dài sắp đốt. Những chai la-de. Những câu chuyện ngắt quãng. Chúng tôi ngồi đó nhìn xuống dòng sông. Những chiếc thuyền máy từ ngoài chạy vào, tiếng máy khô khan, những chiếc thuyền vào mang theo những chiếc quan tài sơn màu tro buồn bã. Bây giờ chết có hòm… Hôm nào những xác người được lấp vội xuống. Những xác người nào được vứt xuống dòng nước kia? Những xác nào còn lập lờ dưới đó. Rượu chưa đủ. Tôi nhớ lại câu chuyện năm nào. Rượu chẳng bao giờ đủ, vâng, chẳng bao giờ… Và tin chiến thắng trên trang đầu những tờ báo ngoài Hà-nội… Chua chát biết bao nhiêu… Bây giờ chúng tôi chỉ có một cổng thành để ra vào. Chúng tôi chỉ có những con đường mù bụi đỏ để ngang qua. Và đó, cái chết đồng đều cho anh lính C.S và anh lính quốc gia cùng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 64 
người dân vô tội… Bác Hồ, Bác còn lời chúc Tết nào hay hơn không?... 
19 Bãi Dâu… Bãi Dâu… (Bãi Dâu, Bãi Dâu tiếng ai hò reo…) Nắng khô, bốn người đàn ông. Những đôi mắt đỏ ngầu. Hơi rượu cay sè. Những miếng vải trắng bịt ngang miệng. Những chiếc cuốc. Những xác rã được bế lên để trên mặt đất. Những con mắt lặng lẽ khô ráo cúi nhìn quần áo, răng… Những tiếng khóc nào òa lên. Những cái lắc đầu… Những cái xác nào được mang đi. Một sung sướng mãn nguyện: tin chắc người thân đã chết, còn đây nắm xương. Những cái xác nào bị đào lên dập xuống nhiều lần. Những đồng bạc được đếm trên những xác người đã sình thối… Hai ngàn, rồi năm ngàn. Những xác chết trở thành tiền cho những người nào đó… 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 65 

Đêm 16-3. Cửa An-hòa còn đứng cao, nhiều góc đã bị mài nhẵn, lần vôi ngoài những viên đạn đã cạy mất để trơ ra lần gạch đỏ, màu trên một tấm tranh Mễ-tây-cơ trong mùa nắng khô chói chang. Những hàng cây chỉ còn những cành khô cháy. Mồ bên vệ đường, trong vườn cam, trong ruộng rau. Những mảnh tường đứng trơ vơ… Chúng tôi đã đi ngang qua con đường đất ven bờ thành suốt từ cửa An-hòa tới Cửa Sập. Con đường xưa kia chạy qua những bóng cây cao, những nhãn, sầu đông, tre nay còn lại một vài đoạn hình ảnh con đường thơ mộng cũ… Trên thượng thành chiếc xe ủi đất làm việc không ngừng. Đại úy L. chỉ cho chúng tôi thấy những hố sâu, trên đó xưa kia đầy những nhà ở nay chỉ còn nền nhà và chiếc xe ủi, lâu lâu những xác người trồi lên lại được dập xuống, chúng tôi đi trên đó nói lại trận đánh. Những binh sĩ tiến lên từng bước. Nơi Ụ Ông Voi quân ta chỉ cách địch khoảng năm thước, dưới những cái hầm. (Người lính gan dạ bắn về phía trước, thòng sợi dây ném sang phía trước kéo một xác chết lại gần lấy khẩu súng nhỏ trong người xác 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 66 
chết làm vật kỷ niệm. Người đeo khẩu súng sau đó chết. Người thứ hai giữ chết. Người thứ ba giữ b ị thương vào bệnh viện. Cuối cùng không ai dám giữ, nó được gửi tặng cho một người treo chơi trong văn phòng. Khẩu súng như một định mệnh khắc nghiệt bất trắc.) Cửa Chánh Tây không còn gì, con đường qua thành đã được đổ đầy đất xuống. Không còn đường vào hay ra. Một người lính kể lại những ngày chiến đấu cam go: nhiều bữa nhịn đói trong hầm, kẻ địch sát phía trước, ngóc đầu lên là toi mạng, chiếc thùng cơm được buộc vào một sợi thừng ném tới những miệng hầm, chiếc thùng cơm được kéo qua những miệng hầm cho người ở dưới bốc lấy một nắm... Những điếu thuốc sau đó trở thành những điếu thuốc vàng. Đêm ngủ trong gian nhà không còn mái, những câu chuyện được nói đến. Những anh hùng đều đã chết. Họ hành động không nghĩ mình anh hùng. Cuộc chiến và những ngày tháng gian nan trên gương mặt những người chiến đấu. Câu chuyện không muốn hết trong đêm cùng với ánh hỏa châu trong bầu trời, với 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 67 
tiếng súng vọng gần đâu đó. Q. hôm nào mái tóc cắt cao, gương mặt tươi sáng, cơn say chất ngất. Hôm nay chỉ còn men rượu, mái tóc đã dài, râu đã rậm, tiếng nói trầm xuống lấp lửng, chiếc mũ chụp thấp và khẩu súng nhỏ giắt trên thắt lưng… Có khẩu súng trong tay chết không ân hận. Tôi không muốn chết một cách lãng nhách. Tiếng nói của nhiều người sau biến cố… Buổi sáng mai thức dậy, trời gây lạnh, sương còn nặng trĩu, mùi hoa sầu đông ngai ngái, mùi hoa bưởi ngọt mát… Nếu không có cuộc chiến. Nếu mình có một ngôi nhà, một khu vườn, một người vợ trẻ, buổi sớm mai ngồi uống nước trà trong hàng hiên, cúi mình sửa những khóm hồng, khóm cúc trong vườn… Đó không phải là sự thật bây giờ. Đó là một sự thật đã cũ, đã mất… Sao những bông hồng vẫn nở đỏ thắm trong khu vườn xơ xác. Sao hương sầu đông vẫn tỏa trong không khí? Sao mầm non vẫn nhú ra trên thân cây. Những bông hoa nào, những trái ngọt nào sẽ nở ra, sẽ k ết trái trên những xác người… Tiếng hát nào vẳng trong ký ức. Buổi sáng nay thức 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 68 
dậy, nghe tin em gục ngã nơi chiến trường, nhưng trong vườn anh, đóa tường vi vẫn nở thêm một đóa, tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn, và tôi vẫn thở… biết bao giờ… 
23 S. ngồi lặng lẽ trong căn nhà đổ nát. Căn nhà ấm cúng trong dãy phố có hàng cây nối ngôi giáo đường với nó bằng một nhịp cầu nay đã sập mái, cây cầu đã gẫy, ngôi giáo đường xây dang dở đổ nát thêm. Những đêm những ngày ngồi trong thư viện, trời mưa lạnh, những ngày ngồi trong trường Kiểu-mẫu, trường Sư-phạm trời mưa rét. Bây giờ là căn nhà một người thân, ngôi nhà hai từng còn lại những khung xe cháy đen quăn queo, những mặt tường trơ gạch nám đen. Mái tóc bù xù, những sợi râu thưa, khuôn mặt vàng khô hốc hác. Bao nhiêu cảnh tượng đã diễn ra. Bao nhiêu lo âu váng vất... Những cay đắng không nói ra được... Đôi mắt đục nhìn xuống nặng trĩu. (Trời mưa lạnh cóng, con đường ven sông vắng bóng những người lính chiến súng trên tay, 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 69 
tiếng súng nổ không ngừng bên kia sông, những chiếc máy bay chao đi chao lại, ngọn cờ trong nền trời đục tối. Một chiếc xe kéo chạy từ phía đầu cầu lại, một người đàn ông cúi người xuống, trên đó xác một đứa trẻ, trời mưa, con đường nhớp nháp, vẻ quạnh hiu hoang vắng, những con mắt ngó ra, một người đàn bà, tóc rũ chạy qua chạy lại vòng quanh chiếc xe, hai tay đưa lên như vỗ vào nhau và những tiếng nói, chừng như bà mẹ ấy cất tiếng hát nhưng tiếng nổ, bầu không khí nặng trong mưa khiến tiếng nói đọng lại, có phải tiếng nói gì đó đọng lại thành những giọt nước lạnh buốt đang lăn trên đầu trên mặt, trên xác chết, trên tạo vật… Chiếc xe tiếp tục đi cùng với nhịp vỗ tay cho người chết nghe thấy. Tiếng vỗ tay thay cho nhịp sinh tiền trước những cỗ áo quan trên đường đến huyệt lạnh… Đứa trẻ Việt Nam nào đó? Người mẹ Việt Nam nào đó? Tiếng vỗ tay hoan hô chiến tranh? Tiếng vỗ tay cho chính mình hay cho kẻ khác?) S. chỉ vào chiếc áo đang mặc, S. chỉ vào vết sẹo trên thái dương người em trai. S. nói về khẩu súng một người nào vứt ra ngoài 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 70 
cửa nhà. S. nói về buổi sáng trời rét cóng ra đứng bên này bờ sông ngó sang chờ đợi lá cờ tơi tả bị hạ xuống sau gần một tháng bay trên kỳ đài… 
25 Phú-cam, ngày 18-3. Buổi trưa nắng đục, chúng tôi vượt qua cây cầu Bến Ngự, những vết đạn thủng cách khoảng nhau, những thanh sắt oằn bật lên, những hàng kẽm, chúng tôi đã ngang qua căn nhà của D. căn nhà cửa đóng, phía ngoài treo một tấm bảng báo tin người trong nhà đã đi khỏi, trong khoảng sân đất hẹp, bên cạnh khóm dạ lan hương và những tàn cây dày lá có hai nấm mộ nằm song song, trên đó những cánh lá khô phủ đầy, S. nói, tôi nghe. Chúng tôi vào trong cửa thánh đường, vị linh mục đứng trong cảnh hoang vắng tịch liêu: Bẩy mươi người bị giết, gần ba trăm người bị bắt đi. Chúng tôi có trách nhiệm trong hướng dẫn lương tâm những người con của Chúa… Chúng tôi đi sâu mãi vào những con đường vắng lạnh, những cửa nhà đóng kín, không một tiếng người. Những ngôi nhà nằm 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 71 
sau những khoảng sân, những vườn cây, cảnh tiêu sơ trên cây cỏ, trên vách tường, trên mái ngói. Người dân Phú-cam vẫn chưa trở l ại nhà mình. Trong những giờ phút đầu tiên nơi đây cuộc kháng cự đã diễn ra và kết cục là một thảm kịch. Chúng tôi đi nghe tiếng chân mình vọng bên tai, thỉnh thoảng mới gặp một thanh niên, những bóng người mất hút. Chợt chúng tôi bị gọi lại, một cụ già tiến lại, bà nhận ra Q., bà cụ có vẻ mừng, bà rối rít nói: Vào nhà mẹ chơi, trời ơi, nhà mẹ đẹp lắm, nhà mẹ đẹp lắm, đi, đi vào nhà mẹ chơi, nhà đẹp lắm. Bà cụ vừa nói vừa bước và hối thúc chúng tôi bước theo. Những con đường vắng bóng người đã khiến chúng tôi muốn lui bước. Bà cụ khuôn mặt tỉnh táo nói luôn miệng, chân bước vội, tới một ngã ba đường bà cụ chỉ vào căn nhà đổ nát trước mặt: đó, nhà mẹ đó, đẹp không, đẹp không mấy cháu… Khuôn mặt lạnh nhạt, bằng phẳng, không một cảm xúc hiện ra. Chúng tôi bước vào nền nhà những gạch ngói, gian nhà trống rỗng, chúng tôi vào khu vườn, những bờ tre bị đạn tiện ngang thân gục đổ ngổn ngang, trên đất đầy những 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 72 
vỏ đạn, đuôi đạn B.40, bà cụ chỉ cho thấy những đạn chưa nổ được đánh dấu lại trong vườn… Đó là căn nhà của bà cụ, căn nhà bà muốn được chụp hình giữ lại cùng với những tượng Chúa, tượng Đức Mẹ bể nát… Chúng tôi trở lại cây cầu đổ, con đường tới nhà thờ không một bóng người. (Những ngày lạnh, những họng súng hờm trong những cửa sổ, trong hàng cây, dưới những hầm hố, trong buổi sáng tinh mơ đứa bé gái bế đứa em vừa sinh ra đã không còn tiếng khóc đi trên đó. Đứa bé gái với đứa em đi trước những họng súng căm thù, đi bên cái chết, đi trong con phố không người để tới giáo đường, ở đó đứa em yêu dấu xấu số được rửa tội và người chị bé bỏng đó bế đứa em tới nghĩa trang. Bao nhiêu trẻ sơ sinh đã chọn lầm giờ làm người, lầm giờ đầu thai…). Tiếng hát của S. Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh… Chị vỗ tay hoan hô hòa bình. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay cho đều gian nan. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 73 
Chiều ngày 19-3. Cách nhau hơn một tháng tôi lại bước chân vào sân trường Đồng Khánh, không còn không khí êm tĩnh của những ngày cuối năm khi những nữ sinh đã trở lại gia đình ăn Tết. Bây giờ là không khí ồn ào vang lên từ mọi nơi, trên sân cỏ bảy cái mồ đất, những chân hương tàn lạnh nhạt. Trong những phòng học, những chiếc bàn còn lại được dẹp vào những ven tường chồng chất những va-ly, vật dụng. Dưới nền gạch những chiếc chiếu trải sát vào nhau… Gian phòng nào cũng đầy ắp những người, ngoài hàng hiên những cái lò để gần nhau làm thành một dãy. Ngoài những lối đi chính, có những cái cầu được bắc qua cửa sổ bằng những cánh cửa: lối ra vào của những căn phòng ở giữa dãy nhà. Dưới những gốc cây có những sạp thuốc lá, đồ Mỹ, hàng hớt tóc, hàng nước ngọt la-de, những hố rác cùng khắp, mùi nước mắm, hơi người nồng nặc trong những lối đi… Trên sân cỏ những đứa trẻ nô đùa… Những ngày tháng đói lạnh đã trôi qua như một cơn ác mộng hãi hùng, nhưng bây giờ họ trở về đâu và cuộc sống những ngày tháng sắp tới… 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 74 
Trường Quốc Học còn đó, đầy ắp những người, tôi tiến tới khu đông đúc phía trong, một cái chợ đã họp ở đó, hàng ăn uống, rau cỏ… không khí huyên náo… Trường Văn Khoa và Luật trở thành trại binh ngổn ngang những xe cộ. Bến phà tiếng máy ủi đất kêu đều đều, những chuyến trực thăng là theo mặt sông đáp xuống thổi lên cao đám bụi mù đỏ… Bến phà những người chèo thuyền kéo níu… Trên đường phố những chiếc xe chạy qua mang theo những vết đạn trên kính, trên sườn… Những đồng bạc chì cháy đen trên tay người này qua tay người khác… Một vài chai rượu, ít hột dưa còn lại trong ngày Tết. Chiến tranh để lại những tặng vật, vỏ đạn bỏ trên bàn, trong ngăn kéo, là chiếc bình hoa, là những khối chì chảy ra thành những tác phẩm điêu khắc. Chiến tranh làm thành những tác phẩm hội họa vô hình dung trên những vách tường, trên bờ thành rêu mốc. Chiến tranh đưa đến những đồng đều tài sản… 
29 Bế đứa con trên tay, C. nói nếu con nhỏ chưa ra đời 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 75 
thì bọn mình đi rồi, mọi việc thu xếp xong mà không đi được, chậm lại một đêm thôi thì bọn này không gặp ông, mình nghĩ thế nào ông cũng ra. Nghĩ lại chuyện dẫn bà ấy đi sinh mà khiếp. Mười hai giờ đêm bà ấy đau bụng, tính còn cả tháng nữa, mình lo bắt đi, sợ rồi chạy không kịp. Hai anh em cầm hai bó đuốc dìu bà ấy đi. Lính thấy bóng hô lên và nổ súng, bọn mình phải la lên: đi đẻ. Sau nghĩ lại thấy tức cười, đi đẻ, bình thường ai nói thế, nói đi sinh, nhưng lúc đó phải nói vậy, nói cho người nghe rõ. Bà ấy ríu chân muốn ngã vì sợ. Họ bắt đứng lại và khám vì cái bụng còn nhỏ quá, nghĩ mà khiếp, cũng may… Nhiều người đẻ dọc đường chạy rớt mất con, nhiều người chết nữa… Chúng tôi đã thức với nhau trong nhiều đêm, hoàn cảnh chúng tôi phải sống, mối lo âu, những sự việc nhỏ nhặt phải giải quyết. Sống như một giấc mơ. Mỗi đứa đầy những vấn đề, mỗi đứa những hạn hẹp kỳ quặc… 
30 Long-thọ. 20-3. Với một cái máy, một cuốn sổ tay, 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 76 
tôi không ngừng chạy khắp mọi nơi, nhìn và lắng nghe. Chuyện một người 25 ngày ngâm mình dưới nước, dưới một bụi cỏ cùng với người bạn, anh đã nghĩ tới cái chết, hai người cố ở cách xa nhau, với dấu hiệu riêng hy vọng khi chết người ta không nhận nhầm. Chuyện người lính ngủ trên thượng thành, đêm trời mưa, sáng dậy cuốn tấm vải nhựa thấy chỗ mình nằm trũng xuống và dưới đó những tay chân trồi lên khỏi lớp đất mềm mỏng. Người điên của thành phố vẫn còn sống để dạo chơi. Chuyện người đàn ông chạy “dích-dắc” khi đi lấy nước uống bị bắn chết. Chuyện người thanh niên chạy qua cầu Trường Tiền bị bắn thủng phổi thoát chết. Chuyện một người từ Sài-gòn trở ra đi tìm cái nền nhà… Cà phê Mệ Tôn không còn trên con đường vắng, bây giờ tiệm đổi tên, đổi nhà… Những câu chuyện đau lòng về cứu trợ, những cái mền bị lấy lại, góc chiếc bắp su dành cho 50 người ăn với một chén dầu. Hẹn với anh Đ. 15 giờ đi Long-thọ, tin nói về những hầm người chết tìm thấy ở Từ Hiếu, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh. Chiếc xe dép chạy khỏi đầu cầu 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 77 
Bạch Hổ, men theo dòng sông Hương, bên kia sông là vùng Kim-long, Thiên-mụ. Bên này Long-thọ. Con đường chạy giữa những hàng tre xanh cao, có khoảng một bên là sông, một bên là đồng lúa xanh. Con đường vắng lặng, chiếc xe phóng nhanh. Chúng tôi tới khoảng giữa thì đã thấy không khí ồn ào, hai bên đường đã có những ngôi nhà nhìn vào nhau qua con đường. Những tà áo tang. Người ta chỉ cho chúng tôi đi tới nữa, con đường hơi vòng, qua chiếc cầu sắt chúng tôi kinh hoàng với khung cảnh trước mắt: trên khoảng đất trống ven sông một nhà sạp chạy dài, trong đó hơn mười chiếc quan tài đủ cỡ để song song với nhau sau những bàn thờ, quanh đó những người mặc áo, đội khăn tang, trong đó có xác một học sinh đệ nhị, một ông già 68 tuổi… Người ta vẫn còn tiếp tục tìm xác, chỉ mới có 32 xác được tìm thấy. Nào là mời đi họp, nào là đi trình diện. Cô gái giọng nghẹn ngào, quầng mắt đỏ: người ta đến nói em tôi đi họp, không đi họp người ta bắt thì đừng trách, lúc đó em tôi trốn bên nhà bác, tôi phải sang gọi về đi họp nhưng không thấy về, tôi với mẹ tôi 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 78 
thức suốt đêm chờ… Hôm qua theo người ta đi tìm thì nhận được xác… Chiếc xe vận tải người đàn bà đang cong người kéo qua chiếc cầu sắt nhỏ, một bà già đi theo la lối lảm nhảm, chân tay múa may, những chiếc khăn tang mới quàng trên cổ, khuôn mặt khô ráo. Một đứa con 16 tuổi tìm thấy xác buổi sáng. Buổi chiều tìm thấy xác người con cả đã có 5 con, người vợ đang kéo xác người chồng tới cái sạp bằng tôn phía trong, dưới một gốc cây mát, bà mẹ chạy lăng quăng la thét: buổi sáng một đứa rồi, năm nay mười sáu, đây là thằng lớn một vợ năm con… ông cho tôi chết. Tôi không muốn chết đêm, chết hôm, tôi già rồi, ông cho tôi chết, ông cho tôi vào với con tôi… Người mẹ lăn dưới đất, người vợ vén vạt áo lau mồ hôi trên trán. Mấy đứa nhỏ mặc chiếc áo tang rộng chạy đi chạy lại với khuôn mặt bình thường. Chiếc quan tài mộc nhỏ, những khe gỗ còn hở, hai vòng lạt tre cố giữ cho chặt tấm ván thiên hơi cong… Không khí nặng nề u uất. Chợt bóng hai người đàn bà mặc quần áo đen, đi chân đất, vạt áo dài sau vấn lên thắt lưng. Hai người khiêng một cây 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 79 
tre trên đó có một xác chết bó kín trong vải nhựa. Cái xác cột chặt vào thân tre. Hai người bước vào trong nhà tôn, hạ tay kê hai đầu xác chết vào hai cái đòn, một người đàn ông để lại tấm tôn che ánh nắng hắt vào trong. Người đàn bà phía trong bây giờ mới òa lên khóc, chị ta ngồi rũ xuống. Một ông già, tóc bạc từ trong đám đông đi ra, tay cầm một bó hương, ông châm đốt và để vào mỗi chỗ m ột ít… Còn những ai nữa sẽ được nhận ra. Còn những ai nữa nằm trong những cái hố nhỏ chất bẩy tám người chỉ cần lấy tay moi nhẹ là thấy. Những đau khổ không nói thành lời. Những sự việc không có lời giải thích. Tại sao vậy? Tại sao vậy? Con đường trở về, những ý nghĩ quay cuồng trong óc, nỗi ngao ngán khiến chúng tôi thấy có gì để nói với nhau. Tiếng la khóc bên dọc đường, người đàn bà quần trắng áo ngắn đen lăn lộn trong căn nhà sụp đổ, bên chiếc áo quan đang được chét mạch, giữa sáu đứa con nhỏ: ới anh ơi là anh ơi, mà anh đi học tập 15 ngày, tội là lớn cho đi học tập, tôi đã lăn khóc, kêu xin mà tôi quên lạy, cho đi học tập 15 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 80 
ngày rồi về mà nuôi con… ới anh ơi là anh ơi… Chiếc xe phóng nhanh trên con đường vắng đầy đe dọa, những căn nhà: một xác chết, hai xác, ba xác chết, nào cha con, cháu… Mùi khói hương và tử khí… Một chiếc quan tài bỏ bên bờ cỏ, một ông lão tóc hoa râm đứng ngơ ngác, hỏi về người chết, ông nói thằng cháu, không biết tên, quen gọi là thằng Tư, người ta mới tìm thấy đang chờ mang xác về… Ngồi trong quán nước tôi hỏi anh Đ: tại sao vậy. Anh lắc đầu nhìn tôi… Chúng tôi không thể hiểu được và trước đó chúng tôi cũng không tưởng tượng được… Có phải đó là lễ vật mà những anh em thù nghịch tặng cho dân chúng nhân dịp kéo cao ngọn cờ máu mạ lên kỳ đài? Có phải đó là chiến thắng… Nếu cụ Hồ Chí Minh có mặt ở đây, nếu những người khác có mặt ở đây… 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 81 

Một lần trở lại 
19-4. Tôi trở lại Huế một lần nữa, chuyến đi thứ ba trong một thời gian ngắn, thời gian ngắn những biến cố lớn xẩy đến dồn dập. Khi tới Huế lần đầu: cuộc chiến tàn khốc nhưng những thị trấn đang trong cuộc sống cực điểm của sự phồn thịnh giả tạo, của những cách biệt lớn lao với nông thôn, không phải chỉ là sự xa hoa nhưng là giữa một nơi tan hoang vì cuộc chiến và một nơi phồn thịnh vì cuộc chiến. Đời sống giữa những hầm hố trong những cánh đồng trống và đời sống trong những cao ốc với đầy đủ máy lạnh, ti 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 82 
vi... Sửa soạn một cái Tết lớn không phải chỉ có ở Sài-gòn mà Huế cũng có những bánh pháo thật dài cùng với rượu mạnh bánh mứt, những quần áo mới may cất trong ngăn tủ. Giữa những chầu rượu whisky, bên những gói thuốc lá Mỹ, kẹo Mỹ mọi người nói đến chiến tranh hòa bình, chống chiến tranh. Tôi sống không khí đó ở Huế lần thứ nhất khi tới đây. Cố đô đông vui, những buổi chiều uống rượu cười ngất, những người con đất Huế đi làm ăn xa trở về với những bộ mặt tươi cười. Rời Huế lần thứ nhất hai ngày sau đó tiếng súng nổ, những bộ quần áo mới chưa kịp mặc, rượu chưa kịp uống, lời chúc chưa được gửi tới những người khác, những canh bạc lớn ngồi chưa ấm chỗ, và Huế kéo dài một thời gian kinh khiếp trong tiếng súng AK, bom đạn, B40 và những huyệt tập thể. Tôi tới Huế lần thứ hai khi những tiếng kêu thất thanh vừa ngừng nhường cho những lời khóc than thảm thiết, những xác chết được đào lên, những miếng vải trắng được quấn trên đầu, thị trấn với những ngôi nhà rỗng, những khuôn mặt thất thần, những lo âu tràn ngập, những vội vàng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 83 
ra đi. Huế sống những ngày hớt hải khi vừa thoát ra khỏi cơn ác mộng hãi hùng, những nhìn ngó hoài nghi, những thầm thì lén lút cùng với những điều không muốn nói, không muốn nhắc. Không phải chỉ là dấu vết những lỗ đạn, hố bom... Những dấu vết có thể hàn gắn được, những đổ nát có thể dựng lại, nhưng có những dấu vết sẽ không mất được, không phai được, không phải cho người đang sống mà còn cho những người phải sống nữa... Đó là nỗi tan hoang của tin tưởng, dấu chàm bất lực trong lương tâm, sự thật trong kiếp sống, nỗi cay đắng ngọt ngào một ảo tưởng. Trở lại Huế lần thứ ba dư vang những ngày cũ vẫn còn đó: vẫn mối lo âu phập phồng cùng với những hàng tít lớn trên những tờ nhật báo đến muộn, đó là áp lực của địch, con số những sư đoàn địch có mặt chung quanh thành phố, những tiên đoán về một trận tấn công mới. Những người có của, có thế lực dời khỏi thành phố một cách lặng lẽ, những thuyên chuyển vì công vụ... Đường phố đã bớt bụi đỏ với chiếc xe phun nước chạy qua, một ít căn nhà đã được sửa chữa lại, ít khoảng tường vôi mới, cây 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 84 
cỏ đã hồi sinh sau một vài trận mưa, bây giờ Huế không đông vui như trong năm, không hớt hải như sau biến cố mà bây giờ Huế lặng lẽ bùi ngùi hẳn xuống trong sinh hoạt bình thường của nó... Chừng như Huế đang cúi đầu sống lui trở lại không khí những ngày cách đây trên mười năm với những băn khoăn, dằn vặt lặng lẽ ẩn giấu... 
Nét mới trong sinh hoạt: những nữ sinh áo trắng tới trường chen nhau qua cầu, trên phà, qua thuyền. Những sinh viên với chiếc huy hiệu bức tường thành xanh biển, nền trời đỏ và mũi nhọn đâm thẳng gắn trên vai áo, trên mũ; bộ quần áo ka-ki màu vàng, họ nói cười trên đường phố, tụ tập trước Phú-văn lâu. Một giáo sư nói với tôi về không khí lớp học, tới sự ngỡ ngàng buồn chán của chính mình và sự ngơ ngác của những người ngồi trên những băng dài. Đi học, chắc là thời nào cũng thế, những học sinh chỉ học khi nghĩ về, hướng về một tương lai nào đó, và tất nhiên không khí học phải là một không khí yên tâm, không những lo âu vây quấn lấy quanh mình. 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 85 
Còn bây giờ? Tương lai của họ? Thực tế họ đang sống và cái chết? Sự trái ngược giữa những điều giảng dạy và thực tế họ đang sống. Còn sự phi lý nào hơn? Bài tập đọc về một làng quê thanh bình có lũy tre xanh, con sông hiền lành uốn khúc, có tiếng sáo diều. Còn bây giờ làng quê ở đâu? Những nền đất trống, con sông đục ngầu lờ đờ những xác chết, tiếng bom đạn ngày đêm... Còn bao nhiêu cái khác nữa... Vị giáo sư nói rồi mồi một điếu thuốc châm hút, nhưng vẫn làm những việc phi lý đó, học sinh, sinh viên vẫn tới trường, giáo sư vẫn tới lớp và cuối tháng lĩnh lương cùng với cuộc chiến...
Câu chuyện về hoàn cảnh cô bé không biết mặt ấy lại được nhắc đến với tất cả vẻ tội nghiệp. Với người cha mất tích, đàn em nhỏ, với tuổi mười tám của một cô gái trong thành phố đã phải bôi nhọ lên mặt theo chân những đám đông đi tìm xác người cha, tôi nghĩ tới hai bàn chân nhỏ nhắn, trắng trẻo không giày dép 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 86 
với bộ quần áo rách bẩn đi lẩn vào trong những đám đông, nhìn mặt hết xác chết này tới xác chết khác để rồi lại trở về với những khắc khoải. Nhưng sau đó xác người cha đã được kiếm thấy, dấu vết nhận mặt là chiếc mũ. Ba tháng rồi mà những cuộc tìm kiếm người đi vẫn còn tiếp tục. Dấu vết cho ta thấy những người đi đều đã chết, trừ một số thật ít ỏi. Điều đó khiến cho những ai có người thân còn biệt tăm chưa tìm thấy xác không thể yên tâm: không muốn xác chết kia được chôn vùi một cách tội nghiệp. 


ĐOẠN CỦA NGỌC VIẾT CHO MỘT NGƯỜI BẠN: Hai đứa đi dọc theo bờ sông vượt qua chiếc cầu nhỏ thì đến trường. Sương vẫn chưa tan. Trên ngọn cây, dưới mặt sông lờ nhờ những vệt trắng đục. Hoa sầu đông còn xòa cành xuống nước. Đã cuối mùa xuân rồi đó. Hoa thương nhớ ai mà hoa mọc đường đi. Tôi hát thầm như dỗ dành mình qua cơn lao lung bồi hồi. Quỳnh lặng lẽ dắt chiếc xe đạp đi bên. Lời kể nghẹn ngào cách quãng. Tôi biết tôi đang nghe và tôi cũng biết tôi đang khóc. Nước mắt ấy cho tôi hay 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 87 
một người nào khác? Sân trường vắng, còn quá sớm. Trường Văn-khoa đã đổ nát nên dời lên vùng Bến Ngự xa xôi này, trước kia là trường Mỹ-thuật. Chúng tôi đứng bên nhau. Tôi thoáng thấy đôi mắt Quỳnh những sợi gân máu đỏ, không còn đôi mắt trong xanh những ngày nào... Những ngày tháng cũ thấp thoáng trong trí nhớ: những năm trung học trong trường Đồng Khánh, ngày mười tuổi năm đệ thất chúng tôi quen nhau. Nửa năm sau đó mẹ Quỳnh qua đời. Bảy năm trung học tôi không thân với Quỳnh dù rất yêu thương vì Quỳnh hiền, đằm thắm, lặng lẽ còn tôi thì tinh quái, nghịch ngợm, ham vui. Trong một lần tâm sự, Quỳnh khóc nhớ người mẹ hiền, tôi đã viết cho Quỳnh một lá thư, chừng như trong đó tôi muốn Quỳnh nghĩ tới một thứ kiêu hãnh trong bất hạnh. Bây giờ tôi muốn nhắc lại với Quỳnh những kỷ niệm nhạt nhòa nhưng đằm thắm, thiết tha ấy, nhưng tôi sợ nghe thấy tiếng nói của chính mình trong buổi sớm mai lặng lẽ. Trận chiến thê thiết đã đến với thành phố d ịu dàng những kỷ niệm ấu thơ, đã cướp mất ba yêu của Quỳnh. Giọng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 88 
Quỳnh trở lại đều đều: Mình không nhớ đã đi đến bao nhiêu hầm xác. Khuôn mặt nào mình cũng cúi nhìn thật gần nhưng không thấy ba mình. Đường gồ ghề nhiều lúc phải đi chân đất. Chẳng biết sợ là gì nữa. Lá trầu phải nhét đầy mũi. Da mặt bỏng rát vì nắng và các loại dầu để tránh mùi tử khí. Mình không để cho nước mắt chảy giữa những tiếng khóc la của những người chung quanh. Có lúc mình tưởng mình đã trở thành chai cứng. Mấy đứa em thì chưa biết gì. Mỗi lần thấy mình trở về liền theo sau hỏi: tìm ra không? Thấy không? Chúng tỉnh táo vô tư như thăm hỏi một ai xa lạ. Mình thấy khổ tâm vô hạn và ngờ vực luôn nghị lực của mình... Lâu rồi, đêm đến mình không nhắm mắt được. Hình ảnh xác chết và bao nhiêu điều phải nghĩ. Nhiều lúc ao ước được ngủ để xem ba có hiện về không... Nhưng qua những cơn thiếp ngủ chập chờn mình không nghe thấy một tiếng nói chờ đợi nào... Mình vẫn cố hy vọng là ba mình chưa chết... Tôi nín thinh nhìn ra đoạn sông quanh co. Tôi không có gì để nói, để an ủi người bạn. Tôi không muốn dối mình và dối ai. Tôi 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 89 
nghĩ tới niềm hy vọng mong manh của Quỳnh. Bè bạn đã đến đông đủ, tôi cố nghĩ thế. Chúng tôi không còn tiếp tục câu chuyện. Ông khoa trưởng bảo nam sinh viên ghi tên học quân sự còn chúng tôi thì chờ ngày đi học. Tôi nghe loáng thoáng về những câu chuyện chung quanh, chuyện tổng động viên, hoãn dịch, giáo sư trong Sài-gòn không chịu ra dạy dù đã được bảo đảm về chỗ ở, máy bay, những di chuyển cần thiết, chuyện người lên núi, chuyện di chuyển trường vào Sài-Gòn, chuyện một số chứng chỉ phải bỏ, chuyện bạn bè và những kỷ niệm bản thân ngày kinh hoàng cũ... Tôi và Quỳnh trở về con đường cũ, Quỳnh đạp xe về chợ, tôi lững thững một mình trên đường vắng. Khi tới cây cầu gẫy, dốc đứng. Tôi nghĩ sao quên không đi đò. Tôi xách giày, níu sợi dây thừng bước từng bước ngắn. Tôi nghĩ tới quãng thời gian chúng tôi vừa trải qua, bất giác tôi nôn nao bồi hồi. Nhiều đêm thức dậy, tôi nghe như có một tiếng nói nào đấy. Có định mệnh cho mỗi người? Tôi là kẻ hạnh phúc sao? Hương sầu đông, hương dạ hợp nào đó trong đêm? Có lúc tôi cảm 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 90 
thấy bâng khuâng dịu dàng. Cảm giác như xô tôi tới một khoảng không chới với, bao la nhưng êm dịu dị thường. Có thật không? Trái tim vẫn khó bảo. Có phải định mệnh đã bắt đầu đó không? Vực thẳm hay vườn cây trái chín? Những điều nào đó tôi không thể nói. Cũng như với Quỳnh. Có phép lạ nào chăng. Phép lạ nào khiến những người thân yêu mất tích trở về tươi cười với giọng nói đầm ấm thân thuộc. Phép lạ nào cho những người một sớm một chiều nằm xuống, chết đi đứng dậy khỏi những nấm mồ không áo quan, đi qua những con đường thân quen, bước qua ngưỡng cửa với bóng dáng quen thuộc với tiếng nói ngọt ngào. (Như một người ở xa trở về nhà sau một thời gian vắng mặt). 
Ngày 20-4. Trở lại Huế lần này với tôi là một trạm đỗ, tôi muốn ngừng lại đó trước khi lên đường đi Quảng-trị, Khe-sanh... Những nơi người ta đã nói nhiều tới mà tôi muốn nhìn tận nơi, nghe tận nơi về cuộc chiến tranh này, cuộc chiến mà nhiều khi với tôi như một bóng ma, một cuộc chiến không biết bao 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 91 
khuôn mặt mà nhiều khi tôi thấy lạ với nó. Có những điều tôi có thể hiểu, có những điều tôi có thể nghe giải thích để hiểu, nhưng có những điều tôi không hiểu mà cũng không ai giúp tôi hiểu được. Cuộc chiến nào rồi cũng chấm dứt. Tới Huế lần này với bối cảnh của một viễn tượng đã mở ra: Mỹ và Bắc Việt đã đồng ý mở cuộc gặp gỡ nhưng chưa thỏa thuận nơi hẹn gặp, và như thế có một hy vọng nào đó. Riêng tôi, tôi không tin một kết cấu đơn giản. Không bận bịu với công việc trong khi chờ đợi lên đường tôi có nhiều thì giờ để đi lang thang hơn, có nhiều dịp hàn huyên với bạn hữu hơn. Một vài người đang trên đường hành quân, một vài người đã đi khỏi, chỉ còn lại một vài người. K. sau một thời gian vắng mặt đã trở lại. C. và gia đình đã trở lại cuộc sống bình thường với chờ đợi một ngày dời khỏi thị trấn... Đi sống ở Huế khiến tôi không thể quên anh T. một bạn thân lớn tuổi đã sinh trưởng, lớn lên ở Huế rồi ra đi... Tôi không quên những điều anh đã nói về Huế, nhất là vào thời những đoàn thanh niên lên đường vào Nam-bộ, những tiếng hát đầy nhiệt 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 92 
tình, hào khí, thời của những anh hùng. Tôi vẫn nghĩ như thế, hình ảnh những chuyến xe lửa rời sân ga hú còi ra đi cùng với những tiếng hát, những lời hò reo và đâu đó những giọt nước mắt bùi ngùi thân thiết, những người ra đi độ đó nay còn những ai? Rồi thời gian những ống nước trong thành phố được đào lên đúc lựu đạn, những ra đi thầm lặng... Bảo-Đại đã thoái vị ở đó, kiếm vàng được trao tay ở đó, và cũng ở đó, sau này nhà vua cuối cùng của nhà Nguyễn trở về khôi phục một triều đại mới. Tôi có nhiều kỷ niệm với Huế trong thời gian Huế truất phế Bảo-Đại, thời kỳ những cuộc biểu tình võ trang tuần hành... Những hình ảnh nay vẫn chưa phai nhòa... Bao nhiêu dời đổi, bao nhiêu biến cố trong thành phố đó, tôi nghĩ tới tình cảnh một người nào đó sống qua từng ấy biến cố, từng ấy những tháng ngày của một lịch sử... Và rồi còn những ngày tháng sẽ tới đây nữa... C. nói tới chuyện ông R.V. đã phải mua một viên đá năm ngàn đồng, một viên đá để kê chân trong khi bị ông C. giam vào trong hầm, nơi đó chỉ đứng vừa người, dưới là nước bẩn đầy những chuột mò lên cắn 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 93 
chân, không nhúc nhích được, trên đầu thì nước chảy xuống... Tôi hình dung cảnh giam cầm đó mà rùng mình, không phải chỉ có một hầm, có những chín hầm và không phải một mà nhiều người đã phải chịu cảnh đó... Tôi cũng nghe nhiều chuyện nữa về thủ hiến G. và những người con gái tội nghiệp nào đó. Cùng đó tình cảnh những bà thứ phi suốt đời không được biết tới ông vua... Cố đô ấy bao nhiêu trang thảm sử kỳ bí, bao nhiêu nước mắt, bao lời kêu than, bao cuộc đời nằm xuống không nhắm được mắt, bao nhiêu thầm vụng vùi sâu, giấu kín... Đi trong những lòng đường buổi chiều sau cơn mưa ẩm ướt, sương lam vương trên những ngọn cây, cỏ d ại hai bên, trong không khí tịch mịch tôi tưởng như đi trong một cõi âm nào mà tiếng thở dài bằn bặt của những cô gái Chiêm chừng như còn quanh quất đâu đó... Con đường hơi thở lạnh lùng nào còn trờn trợ ma quái... L ần này trở lại Huế tôi nghe tin V.L. đã lấy chồng, đám cưới trên hai chiếc xe xích-lô, rồi cũng trên một chiếc xích-lô hai vợ chồng đi thăm những người bà con... Tôi muốn tìm gặp cặp vợ chồng đã 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 94 
cưới nhau trong ngày khói lửa cũ, khi cây cầu đã bị sập, dù vậy đám cưới vẫn diễn ra, người cha cùng người con qua cầu đón người con dâu trở về rồi cùng nhau đi chạy loạn, nhưng tôi đã không tìm gặp được, tôi mong cho cặp vợ chồng đó cho tới ngày hôm nay vẫn còn tiếp tục tuần trăng mật ở một nơi yên hàn. Nhưng trên quê hương chúng ta còn chỗ nào yên hàn, còn chỗ nào không có tiếng súng nổ... Chúng tôi quả thật đã không được biết thế nào là một gương mặt hạnh phúc toàn vẹn... Cha chú chúng tôi đã có hạnh phúc dù trong nô lệ... Đêm nay tôi ngửi thấy mùi hương dạ-hợp, thứ hoa lần đầu tiên tôi được biết, còn bao nhiêu hương thơm, bao nhiêu những giống hoa lạ, còn bao nhiêu những tặng vật tạo hóa trao tặng cho con người mà chúng ta không nhận được. Giác quan và trí khôn của chúng ta mù lòa thui chột, què quặt mà chúng ta không biết. Tội nghiệp cho chúng ta biết bao nhiêu. Phải thế không? Cám ơn người. Trở về ngồi trên hiên nhà này tôi nghĩ tới một lúc trở lại: căn nhà không còn, người xưa đã ra đi... Sân rêu chẳng vẽ dấu giày. Tiếng kiều đồng 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 95 
vọng... Nếu lần trở về ấy là một mùa xuân tôi nhớ tới Thôi Hộ và câu thơ của Nguyễn Du Hoa đào năm trước còn cười gió đông... Se sắt biết chừng nào nếu trong một lần trở về như thế... 
H. nói với tôi: anh mâu thuẫn trong bài viết đó... Tôi không giải thích thêm một điều nào, từ lâu nay tôi không còn giải thích bởi vì mỗi lúc tôi một nhận thấy: tiếng nói mất nghĩa, tự nó bằng những lời đã có còn hơn là thêm vào. Có những ngộ nhận nhưng tôi nghĩ tới một lúc những ngộ nhận đó sẽ hết, chỉ còn lại sự thật, còn lại điều tôi muốn nói với người này người khác. Sống làm người hùng hoặc làm thằng hèn. X. có còn nhớ điều đó của anh D. đã nói không? Tôi nghe anh D. nói với tôi điều đó. Nhưng nếu tôi không chọn như anh D. nói? Không có cách chọn lựa nào khác sao? Tôi muốn những anh em lên núi nghĩ tới, tôi thành thực nghĩ như thế. Có lúc tôi nghĩ: có lẽ vì vậy tôi đã không hành động được, nhưng... Th. nói với tôi những hoạt động, những liên hệ, tôi nói tới một phương thức khác... Đêm ngủ trong nhà 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 96 
bác D. chiếc giường ba người, câu chuyện chạy quanh một sự thực... bao giờ cho mọi người cùng nghĩ tới một việc, quên mình, bỏ những tranh chấp nhỏ nhặt về quyền, lợi, danh... Bao giờ? Nếu mình ngồi lại được với nhau. Bài học của những kinh nghiệm nào đã đến rồi đi? Đọc tờ báo, N. nói với tôi về một dòng ghi về chiến tranh đáng kể nhất: Không không. Tôi không nghĩ gì hết. Nếu cần thì nên chép câu này: Chiến tranh, ôi quá ngụy, quá ngụy! Đâu phải chỉ bây giờ mới có. Nhưng chúng ta trong nhiều thời gian đã ngoảnh mặt đi. Đã bịt tai... N. nói với tôi: hãy quên, hãy quên. Tôi cũng mong ước như thế. Tôi đọc được mấy dòng đầu một bài thơ: 

Cho tôi trở lại một ngày Nhìn rõ mặt anh em bè bạn Sum họp dưới mái trường Không còn ai ghi danh chỉ điểm Không còn ai chủ nghĩa đấu tranh Không còn ai nhân danh lý tưởng cao xa mơ hồ 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 97 
Cho tôi trở lại một ngày Không còn nghe tiếng khóc căm hờn dưới mộ Không còn nghe tiếng khóc ngậm ngùi trên thế gian Tôi phải làm gì đây Khi nghe tin những trẻ thơ vô tội Cũng bị chết như những kẻ gian tà Hay anh cho rằng những kẻ vô tội hôm nay ngày mai sẽ phải phạm tội. Hay anh cho rằng con người sinh ra vốn tội lỗi Nên phải giết chết con người Cho tôi trở lại một ngày Được thấy bầu trời xanh buổi sáng (1) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (1) Thơ Phạm Đăng Thiêm, trong Thực hiện 

Bầu trời xanh buổi sáng, điều đó vẫn có nhưng chúng ta không được thấy. Còn bao nhiêu tặng phẩm khác của tạo hóa dành cho chúng ta. Tôi nhớ tới: thích gì ta thích ngủ thôi... 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 98 
Ví dụ anh hoặc em được sinh ra, sống trong một căn nhà, chỉ có một căn nhà, bốn bức tường phẳng thản nhiên, căn phòng ấy rộng hoặc hẹp, ở đó không có gì khác với những bức tường và một vài vật dụng khác như cái bàn, cái ghế, chén ăn cơm... ở đó không có bóng dáng một sự vật nào khác, không hề có tới một bóng cây, ngọn cỏ, ở đó không ai nói tới một ý niệm nào về ngôi nhà, khu vườn, quê hương, tổ quốc, dân tộc, không bao giờ nói về gia đình, anh em... tất cả chỉ có một mình anh, hoặc một mình em, hay một mình bất cứ con người nào (em hãy nhớ: đó vẫn chỉ là một ví dụ). Cho tới một khi mình lớn lên, lúc đó có người sẽ nói với chúng ta một quê hương, một ngôi làng, một tổ quốc, một thành phố... Em thử nghĩ: lúc đó em sẽ thấy thế nào? Ví dụ thế. Anh nghĩ lúc đó em sẽ lắc đầu, bởi vì trong tâm trí em, cũng có thể nếu là anh thì trong tâm trí, cũng chỉ vang lên tiếng gọi mơ hồ về một ý niệm nào đó, không có gì khác, trong tâm trí chúng ta sẽ không có hình bóng một lũy tre xanh, cây đa đầu làng, dòng sông nước chảy êm đềm, con phố hàng cây cao, ngôi nhà trong 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 99 
khu vườn cây trái... Chúng ta sẽ không biết được, phân biệt được đâu là hương sầu-đông, hương dạhợp hay hương hoa bưởi buổi sớm mai trong vườn nhà, chúng ta không biết một cái sân nhà, hiên nhà... Có lẽ ngay bây giờ nữa khi được hỏi như thế chắc em cũng lắc đầu: không bao giờ như thế, cho dù anh vẫn nói đó là một điều giả dụ... Ví dụ thế. Điều ví dụ đó không phải là một điều bỗng nhiên chợt đến chợt đi, không phải là nó không thể không đến... Điều gì cũng có thể xẩy ra được. Câu nói đó thường được gợi đến, nhắc đến trong thời đại chúng ta. Một sớm mai này thức dậy em có thể nghe tin hòa bình đã đến, không còn ai đánh nhau, cũng có thể em được tin anh đã chết. Cũng như anh hôm nào nghe tin em đã biệt tích... Điều gì cũng có thể xẩy ra. Cũng có thể sớm mai này khi thức dậy em thấy anh đang ngồi nơi hàng hiên nhà... và rồi ngay đó em nhìn thấy anh đã nằm chết thản nhiên và em có thể tìm thấy một viên đạn ghim vào ngực máu nóng chảy chan hòa... Điều gì cũng có thể xẩy ra, như cơn bão thản nhiên 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 100 
của cơn cuồng nộ một sớm kia đã đến thành phố, buổi sáng mai thức dậy em nhìn thấy ngọn cờ máu mạ trên kỳ đài và lòng bàng hoàng... cũng như anh đã đến tình cờ như một định mệnh và gặp em. Điều gì cũng có thể xẩy ra nhưng có một điều: những gì đã mất sẽ không bao giờ còn trở lại một lần thứ hai. Em sắp dời khỏi thành phố thân yêu đó, nó không phải là nơi em sinh trưởng, anh vẫn muốn nghĩ như thế. Nhưng chính tại đó em đã lớn lên, đã sống với, đời sống nó gắn liền với đời sống em, nó trở nên thành phố quê hương, có lẽ niềm gắn bó giữa em và thành phố đó cũng như sự gắn bó giữa anh với ngôi làng, nay anh đã dời khỏi, để từ đó sống nay đây mai đó không còn có nơi để trở về như một quê hương, quê hương lớn còn đây nhưng quê hương nhỏ đã mất khiến cho quê hương nhiều khi cũng mất đi trong anh phần nào gắn bó. Anh sợ em sắp mất đi điều anh đã mất... Em có bao giờ nghĩ tới điều đó không?... T ấn thảm kịch đã qua đi màn thứ mấy? Rồi những màn nào sẽ diễn tiếp trên sân khấu của quê hương này? Chúng ta có thể làm được gì? Quả thật 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 101 
chúng ta đã bất lực quá lắm. Nhưng không có nghĩa... Anh vẫn nghĩ rằng anh đang trở về một quê hương mong ước. Chúng ta không có một ĐẤT HỨA nào khác ngoài mảnh đất nhỏ bé và đau khổ này. Phải thế không? 

22.4. Quảng Trị. ………………. ………………. ………………. 


Dương Nghiễm Mậu 





ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 102 
Dương Nghiễm Mậu - Phóng viên chiến trường 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 103 
Đinh Cường - Dương Nghiễm Mậu trên phố Ngã Giữa - Huế tháng 3-1968 (ảnh TCS chụp – Tư liệu của ĐC) 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 104 
Về việc thực hiện Bút ký “Địa Ngục Có Thật” Thư Ấn Quán 

Tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 55 chủ đề về nhà văn Dương Nghiễm Mậu được kèm theo một phụ ấn bản đặc biệt do chúng tôi sưu tầm được. Đó là tập bút ký Địa Ngục Có Thật. Chúng tôi chọn tập bút ký này bởi lý do, nó là một tác phẩm giá trị. Giá trị về văn chương và giá trị về sử liệu. Nhà xuất bản Thư Ấn Quán ví như một thư viện nhỏ, lập ra không ngoài mục đích là hồi phục và lưu trữ di sản văn chương miền Nam đang có nguy cơ b ị mai một; là nhịp cầu giúp tác giả nhìn lại đứa con biệt tích của mình, giúp quí vị lưu tâm đến nền văn học miền Nam trước 1975 không có cơ hội hay phương tiện đến được thư viện Yale hay Cornell – nơi lưu trữ tác phẩm - để tham khảo tài liệu. Tác phẩm chỉ được in theo yêu cầu, và dành để biếu tặng. 

Vì trang giấy quá cũ, màu giấy quá ố vàng, sách lại bị đóng kim, lề (margin) rất hẹp, gáy sách dán tape nhựa nên việc in chụp lại rất khó khăn. Riêng những phụ bản hình giá trị thì xem như hoàn toàn không rõ, nên chúng tôi đành phải chừa lại. Đặc biệt, có tấm hình “Con phố Trần Hưng Đạo ngày còn chiến cuộc, tấm bảng quảng cáo phim Le Temps du Massacre”. Quí bạn nào muốn thấy rõ hình ảnh của rạp Hưng Đạo Huế với cuốn phim mang nhan đề “Thời Thảm Sát” như điềm báo trước một tai ương khủng khiếp cho Huế, có thể vào địa chỉ trên Net: 

ĐỊA NGỤC CÓ THẬT ● 105 
http://www.corbisimages.com/images/CorbisBE026248.jpg?size=67&uid=3afb90d4-542f-4478a707-cdba37c931fd 


Cuối cùng, chúng tôi xin được cám ơn thư viện đại học Yale đã lưu trữ ĐNCT. Chúng tôi cũng phải cám ơn căn bệnh Gout đã chừa chân phải của chúng tôi, chỉ chọn đầu gối trái mà sưng vù buốt nhức. Để chân phải chúng tôi có thể đạp thắng, đạp bàn đạp gia tốc mà không đau. Để hai lần trong vòng ba ngày chúng tôi có thể lái xe lên Yale hầu sao chụp được cuốn bút ký này. Xin được cám ơn các cô Trần thị Nguyệt Mai, Ngô Kim Chi và nhà văn Nguyễn thị Hải Hà đã bỏ công sức đánh máy trong thời gian kỷ lục. Đặc biệt Nguyệt Mai đã dò, sửa lỗi chính tả và cho những ý kiến hữu ích. Chúng tôi cũng xin được cám ơn họa sĩ Đinh Cường đã sốt sắng giúp chúng tôi trong việc thực hiện dự án. Anh đã cung cấp tranh và hình rất giá trị cho chủ đề DNM cũng như tập bút ký ĐNCT. Và thêm một người nữa. Đó là nhà tôi. Mặc dù nhà tôi không bao giờ muốn tôi nhắc đến. Nhưng nếu tôi không nhắc về cái công giúp tôi lái xe, làm bạn đường, khuyến khích tôi khi tôi muốn bỏ cuộc, thì lòng tôi rất bất an. 


Trân trọng, 

Trần Hoài Thư Chủ trương Thư Ấn Quán 
http://www.corbisimages.com/images/CorbisBE026248.jpg?size=67&uid=3afb90d4-542f-4478a707-cdba37c931fd 



ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC 
Nhà Xuất bản: Trần Hoài Thư P.O Box 58 South Brook, NJ 08880 Email: tranhoaithu@verizon.net