Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Hồ Hữu Tường (1910 - 1980)

















Hồ Hữu Tường

(1910-1980) 

chính trị gia, nhà văn, nhà báo.








Bút tích và chữ ký của tác giả HHT


Việc đời may rủi hỡi này ai
Thành bại nào do một chữ tài?
Lắm lúc không mong mà lại được
Cho hay chờ đợi hóa ra sai! 
Hà Nội, Xuân Bính Tuất
HHT







Tiểu sử



Ông sinh tại làng Thường Thạnh, quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ.

Năm 1926, Hồ Hữu Tường sang Pháp học tại trường Đại học Marseille và nạp luận án thi Cao học Toán tại Đại học Lyon. Tại Pháp ông kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh v.v. và gia nhập Đệ Tứ Quốc tế.






Vận động thời Pháp thuộc

Năm 1930, Hồ Hữu Tường được giao làm chủ nhiệm tờ báo bí mật tên là Tiền quân. Thành viên của ban biên tập là những chính khách sau này như Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương, Lê Bá Cang... Báo chưa phát hành số đầu thì ban biên tập bị bắt vì tổ chức cuộc biểu tình ngày 22 tháng 5 năm 1930 trước điện Élysée (dinh Tổng thống Pháp) để xin giảm án cho các liệt sĩ trong cuộc Khởi nghĩa Yên Bái bị kết tội tử hình. Cả nhóm bị trục xuất về Việt Nam, ngoại trừ Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường trốn thoát sang Bỉ. Sau đó ông về nước.

Tháng 11 năm 1932, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt vì phụ trách tạp chí lý luận chính trị bí mật Tháng Mười (theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng Cộng Sản Đông Dương), đến ngày 1 tháng 5 năm 1933 bị xử án treo ba năm. Sau đó ông được mời gia nhập ban biên tập của nhật báo Công luận và tuần báo Đồng Nai.

Năm 1936, Hồ Hữu Tường xuất bản tạp chí Thường trực Cách mạng, một tạp chí bí mật duy nhất trong nước được in bằng chữ in. Tạp chí này được dùng làm công cụ đối lập với Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này ông bỏ nhóm La Lutte và cho xuất bản một tuần báo tiếng Pháp tên là Le Militant (Chiến sĩ), công khai công kích chủ nghĩa Stalin. Cùng với Đào Hưng Long ông cho ra tờ Thày Thợ cổ xúy đường lối của Đệ tứ Quốc tế.



Từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản

Tháng 6 năm 1939, ông tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác. Ngày 29 tháng 9 năm 1939, chính phủ thuộc địa mở chiến dịch tổng đàn áp, bắt hết những đảng phái đối lập. Đến cuối năm 1940 Hồ Hữu Tường bị đày ra Côn Đảo cùng với các nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... Năm 1944, ông được trả tự do. Trong thời gian ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ thuộc Tây, Tàu, Nga, Mỹ. Ông tuyên bố: "Tôi trở về con đường dân tộc; tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ 19 và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ 20."

Năm 1945, Hồ Hữu Tường ra Bắc Kỳ. Trong thời gian này ông viết Xã hội học nhập môn, chống lại phép biện chứng và một loạt sách chính trị, kinh tế khác như: Muốn hiểu chánh trị, Kinh tế học, Kinh tế chánh trị nhập môn, Tương lai kinh tế Việt Nam, Vấn đề dân tộc, Tương lai văn hóa Việt Nam. Tháng 8 cùng năm ông cùng với các nhà trí thức Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kon Tum, Nguyễn Xiển đã cùng ký tên vào bức điện gửi cho vua Bảo Đại yêu cầu thoái vị

Năm 1946, Hồ Hữu Tường được mời tham dự hội nghị Đà Lạt với tư cách cố vấn trong phái đoàn Việt Nam đang điều đình với Pháp. Sau đó, ông tham gia soạn chương trình sách giáo khoa bằng tiếng Việt cho bậc trung học cho bộ Giáo dục Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Năm 1947, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt trong lúc tản cư về Hải Dương. Sau đó ông trở về Sài Gòn viết văn, làm báo. Năm 1948, Hồ Hữu Tường hợp tác với báo Sài Gòn Mới và bắt đầu viết tiểu thuyết Phi Lạc sang Tầu.



Cổ võ con đường Trung lập

Năm 1953, Hồ Hữu Tường đưa ra giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.

Tháng 3 năm 1955, Hồ Hữu Tường bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia (Cao Đài, Hòa Hảo, Lực lượng Bình Xuyên) chống lại chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Năm 1957, Hồ Hữu Tường bị kết án tử hình, nhưng nhờ Albert Camus và những trí thức khác như thủ tướng Ấn Độ Nehru viết thư can thiệp nên chỉ bị đày ra Côn Đảo. Ngày 31 tháng 1 năm 1964 (sau khi Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ) Hồ Hữu Tường được trả tự do rồi được đại xá ngày 14 Tháng Bảy 1967.[1] Ra tù, ông viết bài cho tờ Ánh Sáng và đưa ra giải pháp: đề nghị Liên Hiệp Quốc hóa miền Nam Việt Nam.

Năm 1965, ông làm Phó Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và vào ban biên tập tuần báo Hòa đồng Tôn giáo.

Năm 1967, Hồ Hữu Tường trúng cử dân biểu đối lập trong Hạ Viện Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, thời gian này ông tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v...

Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, Hồ Hữu Tường chưa bị chính quyền mới bắt đưa đi học tập cải tạo cho đến khi ông có sáng kiến là in một tập tài liệu gởi trực tiếp bằng đường bưu điện cho giới lãnh đạo Đảng về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh tình hình của khu vực Á Châu, vào năm 1978[2]. Khi ông bệnh nặng, khó có thể cứu chữa thì được trả tự do và mất vài ngày sau đó (26 tháng 6 năm 1980) tại Sài Gòn.












 





Tác phẩm tiêu biểu






Chính trị, kinh tế, triết học:





1
Xã hội học nhập môn
(Minh Đức, 1945)





2
Kinh tế học và kinh tế chánh trị nhập môn
(Tân Việt, 1945)





3
Tương lai kinh tế Việt-nam
(Hàn Thuyên, 1945)





4
Phong kiến là gì?
(Minh Đức,1946)





5
Vấn đề dân tộc
(Minh Đức,1946)





6
Muốn tìm hiểu chánh trị
(Minh Đức,1946)





7
Tương lai văn hóa Việt-nam
(Minh Đức,1946, Huệ Minh, 1965).












Văn học sử:




8
Lịch sử văn chương Việt-nam
(quyển 1) (Lê Lợi, 1950)













Văn phạm:


9
Phép nói và viết hỏi ngã
(1950)








10
Em học tiếng mẹ
(1950)








11
Em tập đọc
(1951)











Dịch:


12
Tam quốc chí
(quyển 1, 1951)











Truyện:





13
Bộ Ngàn năm một thuở
(truyện trào phúng chính trị)
gồm có:

Phi Lạc sang Tàu
(Sống Chung, 1949)

Phi Lạc náo Hoa Kỳ
(Vannay, Paris, 1955)

Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn
(Nam Cường, 1966)

Diễm Hồng xuất giá
(Nam Cường, 1966).







14
Bộ Hồn bướm mơ hoa

(tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu Giang)
gồm 4 tập:
Mai Thoại Dung
Tam nhơn đồng hành
Ông thầy Quảng
Bủa lưới người
(Nam Cường, 1966)








15
Bộ Gái nước Nam làm gì?
(tiểu thuyết tranh đấu chống Pháp) 
gồm:
Thu Hương
Chị Tập
(Sống Chung, 1949)








16
Nỗi lòng thằng Hiệp
(Lê Lợi, 1949)








17
Kế thế
(tiểu thuyết dã sử) (Huệ Minh, 1964)








18
Bộ Thuốc trường sanh

gồm 3 tập: 
Xây mộng
Phúc đức
Vẹn nguyền
(Huệ Minh, 1964)








19
Hoa dinh cẩm trận






20

Người Mỹ ưu tư
(tác giả xuất bản, Paris, 1968)








Tiểu luận:





21
Những kỹ thuật căn bản của người viết báo
(in tại Paris, 1951, Hòa Đồng, 1965)









22
 Trầm tư của một tên tội tử hình




23

 Luận lâm I

(Huệ Minh, 1965)









24
Nói tại Phú Xuân
(những bài tham luận đọc tại Đại học Huế) (Huệ Minh, 1965)









Truyện ngắn, tạp văn:




25
Quả trứng thần
(1952)








26
Kể chuyện




27

Nợ tinh thần
(Huệ Minh, 1965)









Tự truyện và hồi ký:





28
Thằng Thuộc con nhà nông
(An Tiêm, 1966)







29
41 năm làm báo
(Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984)








30
Un fétu de paille dans la tourmente
(Paris, 1969, chưa in)






Tham khảo và chú thích

^ Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". Khởi hành năm XIV, số 166. Tháng 8, 2010
^ Cuốn "Bên thắng cuộc", tác giả Huy Đức phát hành ngày 12 tháng 12 năm 2012 bằng 2 phương thức: sách in do tác giả tự xuất bản và sách điện tử do Amazon phát hành dưới hình thức Kindle.
Hémery, Révolutionnaires vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine, Francois Maspero, Paris Vè, 1975
Đỗ Thái Nhiên, Hồ Hữu Tường: Người Chết U Uẩn, Tài liệu chép trên Internet, VMAFORUM, 2-18-02
Hồ Hữu Tường, 41 Năm Làm Báo, Hồi Ký, ISBN 2-85881-011-7, Đông Nam Á, Imprimerie Sudestasie, 17 rue Cardinal Lemoine-75005, Paris, 1984.
Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, ISBN 2-908744-14-7, L’Insomniaque, Paris, juillet 1995.
Ngô Văn, VIỆT NAM 1920-1945, ISBN 2-908744-40-06, Chuông Rè-L’Insomniaque, California, USA, 2000





















Hồ Hữu Tường
Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp

(truyện ngắn)

1

Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.

Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng :

- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.

Nhà sư ung dung, chắp tay đáp :

- Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.

Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp :

- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước....

Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi :

- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào ?

Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp :

- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra.... Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.

Một người khách hỏi :

- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng ?

- Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời ? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy : Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được ỵ, ấy là tôi sẽ đắc đạo.

Người khách thứ hai hỏi :

- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi ?

- Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy....

Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng....

2

Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu :

- Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ ; rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là nguồn gốc của sự chi li. Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.

- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng : Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng ?

Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư : là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu.... Rồi nó nghĩ : nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn ? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay ?

Rồi con thằn lằn quyết định : Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế : Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.

Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện : chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn : bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ : hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.

Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.

Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng :

- Loài nghiệt sức ! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo !

Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.

3

Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy :

- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào ! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều : bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được.

Tội ngươi lới lắm, phải rán tu luyện thật nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả.

Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy :

- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là mười.

Con thằn lằn lạy mà thưa rằng :

- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi ?

Phật phán :

- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người ? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại ?

Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội :

- Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.

Phật đáp :

- Ta cho ngươi được toại nguyện.

Hồn con thằn lằn vưà muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng :

- Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi ?

Phật đáp :

- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.

4

Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề có lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổng đến thế.....

Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong hai người khách đã đến am thủơ nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm đau khổ.

Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn :

- Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.

Người đáp :

- Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu độ muôn vàn chúng sinh do những hạt tro mà đầu thai nên. Tâm ấy là lửa thiêng. Nó đốt lòng ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho được ? Âu là, ngươi nghe theo nó mà hành cái hạnh ấy đi !

- Nhưng mà, làm sao bây giờ ?

- Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh. Kinh dạy bài học căn bản là Bi. Ngươi phải có lòng Bi, mà thương muôn vàn hột tro ấy !

- Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm cho nhà sư phát nộ. Thì tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà những hạt tro ấy đầu thai nên.

- Tốt lắm ! Tốt lắm. Đã có Đại Bi, phải thêm có Đại Trí . Muốn cứu độ muôn vàn hột tro ấy, ngươi hãy lấy Trí mà tìm biện pháp nào để cứu độ chúng. Chớ tình thương mà không có thêm phương pháp để thực hiện tình thương ấy, thì tình thương chỉ là một sự than khóc sướt mướt và vô bổ mà thôi.

Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ một lần nữa. Nó phóng quang mà nhìn khắp trần gian, để kiếm xem hiện nay, những hạt tro do các vị Kim Cang, La Hán tung rải đang đầu thai nên gì. Lạ thay, những hạt tro này, bởi tiền kiếp mắc tội Tham Sân Si nên chẳng được đầu thai làm người, lại đầu thai là lũ chuột. Chúng không được sống dưới thanh thiên bạch nhật ; ngày chúng phải chui rúc trong hang ; tối lén bò ra ăn vụng, ăn vặt. Thế mà chẳng được yên thân, chúng bị một lão mèo to tướng, mắt sáng như sao, nhìn thấy rõ trong đêm tối, vuốt bén như gươm, tay lẹ như chớp, thêm thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão mèo ngày lừ đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột mà ăn tươi nuốt sống. Đời của chuột đã khổ rồi, mà bị lão mèo càng thêm khổ não, lòng phập phồng lo sợ. Rút vào hang cả ngày lẫn đêm, thì đói. Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn. Hồn con thằn lằn, thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng.

5

Bỗng nhiên nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn mà khai đại hội. Nó bèn vận thần thông nhĩ, mà nghe lũ chuột nói với nhau những gì. Nó nghe một con chuột cống khởi nói như thế này :

- Hỡi đồng loại chúng chuột ! Đời của chúng ta khổ não lắm rồi. Ngày ở hang để tránh người đập giết, tối mới dám ló ra mà ăn vụng. Thế mà chồng lên cái khổ ấy, chúng chuột ta còn gặp cái đại họa là lão mèo. Vì lẽ đó mà tôi triệu tập tất cả lại, để bàn tính coi có cách nào để thoát cái đại họa ấy chăng ?

Một chuột con, còn hăng tiết, hùng biện hỏi :

- Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết ! Chúng ta phải hiệp bầy lại, một lượt tiến tới mà cắn mèo. Một mình mèo làm sao cự lại cả bầy chuột ?

Một chuột già, mình đầy thẹo, kêu chít chít nói :

- Đừng có dại ! Đừng có dại ! Thuở tôi còn trẻ, tôi có nghe theo luận điệu ấy. Chúng tôi có tổ chứa một bộ đội chuột, đến mấy trăm con, xông tới mà toan cắn mèo. Thế mà mèo chỉ quơ tay một cái, là ngủm một chuột. Mấy trăm con chuột của bộ đội chết sạch. May mà tôi rán được. đầy mình thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới lành. Kinh nghiệm của chuột già này, xin các thanh niên chuột nên gẫm cho kỹ. Chớ liều lĩnh mà thiệt mạng, lại không có chút kết quả nào !

Lời của chuột già như gáo nước lạnh làm dập tắt lửa hăng của chuột con. Các chuột im lặng khá lâu, thì có một con chuột nhỏ nhẹ nói :

- Chuột mà tranh đấu với mèo, thật là không nổi. Ta tránh nó thì hơn.

- Đúng vậy !

- Phải lắm !

- Hay lắm!

Chuột kia nói tiếp :

- Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo cho ta biết sự hiện diện của mèo. Để ta tránh trước, khỏi sợ bị mèo chụp. Cách ấy, tôi nghĩ rằng ta nên treo một cái lục lạc nơi cổ của lão mèo. Lão đi đến đâu, lục lạc rung vang báo tin cho chuột ta hay, mà lánh trước.

Hồn cho thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho người nghe. Và phê bình :

- Quả là Đại Trí !

Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột im phăng phắc, chẳng có chuột nào động đậy, chẳng chuột nào thốt một lời, mà cũng chẳng chịu giải tán, cho chuột nào trở về hang nấy. Hồn con thằn lằn hỏi người :

- Sao lũ chuột lại như vậy ?

Người đáp rằng :

- Bởi lũ chuột hèn nhát. Tuy kế là hay, song chẳng có chuột nào có cái Dũng, dám đeo lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, để tự cứu, mà cũng để cứu đồng loại. Có Bi mà không Trí, là vô bổ. Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu. Bi, Trí, Dũng là ba cái chân vạc, thiếu một chân ấy là vạc nghiêng đổ đi.

- Làm sao bây giờ ?

- Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột. Ngươi phải đầu thai làm con chuột có Đại Bi mà biết thương đồng loại, có Đại Trí mà biết đem lục lạc mang vào cổ của lão mèo, có Đại Dũng mà dám hi sinh, liều mình, chẳng sợ mèo ăn tươi nuốt sống, mang lục lạc xông đến gần lão mèo.

Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ lần nữa. Muốn cứu độ hạng nào, phải hoà mình vào hạng ấỵ Thích Ca đã từ chối ngôi báu, vì Thích Ca muốn hòa mình vào chúng dân, để cứu độ chúng dân. Hồn con thằn lằn muốn cứu độ lũ chuột thì hồn con thằn lằn phải hòa mình vào lũ chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn vàn cạnh khía, thảy đều không khác gì với giống chuột. Chỉ khác có một chút xíu là trong tâm hồn của con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng mà thôi. Có được đại ngộ ấy, thằn lằn ta bèn đâu thai làm chuột.

6

Bởi là do con thằn lằn đâu thai, nên khi chuột ta sanh ra, thì hình vóc còn mang máng giống con thằn lằn. Mẹ nó lầm tưởng là rồng. Bèn đặt tên cho nó là Long Thử.

Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo. Lời nó kêu chít chít nào, nghe cũng có ý nghĩa u thời mẫn thế. Một hôm nó gọi một bạn chuột lực lưỡng theo nó. Té ra, nó đã gặp được nơi góc tàu ngựa, một cái lục lạc to bằng quả trứng, nên về gọi bạn theo nó. Đến nơi, nó nằm ngữa ra, ôm lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi mà kéo, như là kéo xe vậy. Kéo nó tới đâu, thì tiếng lục lạc kêu lên rổn rảng. Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó mà kéo đi chỉ nghe theo lịnh nó chít chít điều khiển, nên chẳng biết trước sẽ hướng vào đâu, thành ra không sợ sệt chi. Long Thử ra lịnh cho kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, như trước kia, lúc nó còn là hồn con thằn lằn, nó đã nghe nói vậy.

Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng lục lạc. Bèn giương mắt nhìn, chẳng biết con gì, đầu chẳng thấy mặt mũi chi, chỉ thấy một cái vòi quơ qua quơ lại, để tìm phương hướng, lại có đến tám chân lại chổng lên mà nghỉ, mà kêu rống chẳng ngơi. Lão mèo quá sợ, nhảy phóc lên nóc nhà, kêu "miao!" rất là kinh hãi.

Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo rình, không dám ra. Con nào đói thì mau mau đi tìm mà ăn vụng. Một số đông lại bu quanh Long Thử, lên tiếng chê bai :

- Việc này có gì là khó ? Ai mà nằm ngửa ôm lục lạc chẳng được ? Vì lối ăn cắp trứng ấy, chuột nào mà chẳng biết ? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con chuột cắn đuôi nhau, lầm tưởng là con quái gì, mà sanh ra sợ thôi !

Chẳng dè, nằm trên mái nhà, lão mèo nghe và hiểu tiếng chuột, lão nhìn xuống, thấy quả là Long Thử ôm lục lạc, nằm ngửa cho một chuột khác cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy tưởng đâu là cái vòi quơ qua quơ lại, thật sự, chỉ là cái đuôi chuột ! Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử đa mưu, vưà phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ mới cứu mình khỏi nạn. Từ trên mái nhà, lão mèo phóng xuống, mỗi một tay hay chân, sè vuốt mà móc họng một chuột.

7

Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán. Long Thử và bạn nó cũng giựt mình, hoảng hốt chạy theo, chun vào hang mà trốn. Chừng tinh thần định tỉnh lại lũ chuột bèn lập tòa án chuột để mà xử Long Thử. Long Thử bị buộc tội là Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của mình. Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ móc họng được một chuột mà thôi; còn bây giờ, mèo và Long Thử toa rập, để cho mèo giết một lần đến 4 trự chuột. Nếu không nhờ Thử gian đồng lõa mà giúp, dễ gì mèo chụp một lượt đến 4 chuột ? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy, đủ bằng cớ thiết thực như vậy, dễ gì Long Thử đem tâm tình của mình, một tâm tình vô hình, không biết tựa vào đâu mà chứng minh, để nói rằng mình chỉ có lòng cứu độ loài chuột, chớ chẳng có dạ phụng sự cho mèo để hại chuột ? Long Thử bị kết án tử hình. Điều này nó dễ chấp nhận, nếu nó phải đem cái chết của nó làm điều kiện, để cứu độ loài chuột, mà nó quá thương yêu. Song cái bản án của nó, "tội Thử gian", làm cho nó đau khổ vô cùng ; vì nó mang một cái oan vô tận, không ai giải cho được.

8

Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở lực, tận đến cõi trời Đâu Suất. Ở cõi trần không thấy chi cả. Còn ở trên kia, trở lực ngăn cho Thần Tiên không lui tới được làm cho lưu thông phải nghẽn. Thần Tiên phải hội nhau lại, tính làm sao cho việc đại bất công này được giải, thì vũ trụ mới tuần hoàn theo trật tự. Bàn cãi rất lâu, Thần Tiên tìm ra được một biện pháp, là bấy lâu nay, người ta đếm mười hai chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi), thì mỗi chữ này vốn là trừu tượng, không có nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải cho loài người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ Tí, phải dành để cho Long Thử tượng trưng. Những đức tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm chủ tể cho luân lý, thì vũ trụ mới vận hành điều hòa được.

Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết "tí là con chuột". Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ lầm tưởng chuột ấy là thứ "chuột tham, sân, si" kia. Chừng nào, đứng đầu cho cuộc vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra, nguồn Thanh Bình mới khai được.












Ngô Văn nhớ về Hồ Hữu Tường


Ngô Văn, nhà biên khảo, nhà hoạt động cách mạng trong nhóm Đệ Tứ, sinh năm 1912 ở xóm Tân Lộ, gần Thủ Đức. Đi làm từ 14 tuổi. Gia nhập xu hướng Cộng Sản tả đối lập năm 1932. Sau 45 sang Pháp, làm việc trong các xí nghiệp, và tích lũy những tài liệu để biên khảo. Các tác phẩm chính: Vụ án Moscou (Nxb Chống trào lưu, Sài Gòn, 1937), Divination, magie et politique dans la Chine ancienne (PUF, Paris, 1976), Revolutionaries They Could Not Break (Index Book Centre, London, 1995), Vietnam 1920-1945, révolution et contre-révolution sous la domination coloniale (L'insomniaque, 1996; Nautilus, 2000),Việt Nam 1920-1945, cách mạng và phản cách mạng thời đô hộ thực dân(L'insomniaque, Paris, 2000), Avec Maximilien Rubel, une amitié, une lutte1954-1996 (L'insomniaque, 1997), Au pays de la cloche félée (L'insomniaque, 2000) ...

Tôi gặp Hồ Hữu Tường năm 1932 (ông ở Pháp về năm 1931), lúc ấy ông đang làm tờ Phụ Nữ Giới Chung ở Sài Gòn. Tôi vừa dịch xong bản Tuyên ngôn Cộng Sản của Marx, có người bạn tôi đem lại trình với ông để đăng báo Phụ Nữ Giới Chung. Đọc xong, Hồ Hữu Tường cho biết muốn gặp tôi. Đó là lý do tại sao tôi gặp Hồ Hữu Tường.

Ông là một người thông minh, hiền hậu và duyên dáng lắm. Lúc đó Hồ Hữu Tường đã có một tổ chức bí mật, kêu bằng nhóm Tháng Mười, xuất bản tạp chí bí mật Tháng Mười, theo xu hướng Trotsky để chỉ trích hoạt động của đảng Cộng Sản Đông Dương lúc ấy. Ông không trực tiếp giới thiệu tôi vào nhóm của ông, mà ông đưa Đào Hưng Long, một chiến hữu trong nhóm, giao thiệp với tôi. Tới cuối năm 32, Hồ Hữu Tường bị bắt, năm 33 bị kết án ba năm tù treo.

Năùm 33, dù bị tù treo nhưng ông vẫn nhập vào nhóm tranh đấu do Nguyễn An Ninh thành lập tháng 4 năm 1933, nhân dịp có cuộc bầu Hội Đồng Quản Hạt, lợi dụng tuyên truyền chống chánh phủ thuộc địa một cách công khai.

Nguyễn An Ninh là một nhà cách mạng đàn anh mà những người Cộng Sản Đệ Tam lẫn Đệ Tứ, và cả quốc gia nữa, đều là đàn em, cho nên ông rất có uy tín đối với họ; ông lập nhóm La lutte, quy tụ tất cả những khuynh hướng chính trị chống Pháp lúc đó, và Hồ Hữu Tường tham gia tờ La lutte.
Tới năm 1936, nhóm La lutte chia hai. Nhưng muốn hiểu sự chia rẽ đó, phải trở lại tình hình chính trị ở Pháp năm 1935.

Năm 1935, Pháp-Nga ký hiệp ước Laval-Staline: Pháp và Nga liên kết quân lực. Do đó, đảng Cộng Sản Pháp không còn chống chính sách quân phiệt nữa, mà cổ võ cho chính sách quân sự, chống lại sự đòi độc lập của Cộng sản Đông Dương và ủng hộ việc giữ vững các thuộc địa. Đảng Cộng Sản Đông Dương, vẫn theo đảng Cộng Sản Pháp cho nên không còn theo con đường chống Pháp để giải phóng dân tộc nữa, mà dần dần họ chọn con đường chống Nhật.

Nhóm La lutte lúc ấy có hai khuynh hướng:

- Một khuynh hướng ủng hộ Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire), đảng cầm quyền ở Pháp, tức là ủng hộ chính sách thuộc địa, trong đó có những người Cộng Sản Đệ Tam.
- Một khuynh hướng chống Mặt Trận Bình Dân trong đó có những người Đệ Tứ.

Nhưng khi thành lập nhóm La lutte đã có lời giao ước là Đệ Tam và Đệ Tứ không gây chuyện với nhau, cho nên nhóm Đệ Tứ phải ngậm miệng.
Hồ Hữu Tường mới lập một nhóm bí mật mà ông làm cố vấn, gọi tên là Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa, phái tán thành Đệ Tứ Quốc Tế, và tôi là một thành viên, mục đích chỉ trích đảng Cộng Sản Đông Dương đi theo đường lối của chính phủ thuộc địa và tách ra khỏi nhóm La lutte.
Giữa năm 1936, ở Pháp có tổng đình công. Nhóm Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa bí mật cổ động tổng đình công, tháng 6 năm 1936 tại Sài Gòn. Cả nhóm bị bắt, cả Hồ Hữu Tường, nhưng vì là "cố vấn" nên ông không bị truy tố.

Ra khỏi nhóm La lutte, Hồ Hữu Tường công khai xuất bản tờ Militant (lúc đó các đảng đối lập không được quyền ra báo tiếng Việt), để tự do đả kích đảng Cộng Sản, theo tinh thần Trotsky, nhưng trong vòng bán bí mật vẫn tiếp tục hoạt động cho nhóm Chánh Đoàn Cộng Sản Quốc Tế Chủ Nghĩa vừa bị tiêu hủy, đồng thời tiếp tục phong trào tranh đấu bán công khai. Hai năm 36-37 là những năm phong trào thợ thuyền và nông dân nổi lên cực độ.

Nhưng đến tháng 5 năm 1937, nhóm La lutte tan rã vì đảng Cộng Sản Pháp theo lệnh của Moscou, ra lệnh cho đảng Cộng Sản Đông Dương không được cộng tác với Đệ Tứ nữa. Các phong trào thợ thuyền đình công do Đệ Tứ tổ chức, bên Đệ Tam không tham gia, chỉ lập những hội ái hữu thôi. Đệ Tam chỉ huy ở nông thôn, vừa ủng hộ Mặt Trận Bình Dân, vừa chống đối những áp bức ở nông thôn.

Hồ Hữu Tường vẫn tiếp tục tổ chức và chỉ huy Đệ Tứ trong vòng bí mật. Nguyễn An Ninh theo phái Đệ Tam. Tạ Thu Thâu tiếp tục La lutte, làm cho tờ La lutte trở nên cơ quan có khuynh hướng quốc tế. Sau khi tờ La lutte trở thành xu hướng Đệ Tứ quốc tế, Hồ Hữu Tường ngưng tờ Militant. Đến năm 1938, khi chính phủ Mặt Trận Bình dân đổ ở Pháp, chính phủ cấp tiến Doladier cho phép các đảng đối lập ra báo quốc ngữ, tờ La lutte trở thành tờ Tranh Đấu và Hồ Hữu Tường ra báo Tháng Mười.

Đến tháng 9 năm 1939, khởi đầu thế chiến, chính phủ thuộc địa mở phong trào tổng đàn áp, bắt hết những đảng phái đối lập, giam trong các trại giam rồi đầy đi Côn Lôn, 5 năm. Nguyễn An Ninh, Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu ... đều bị bắt hết. Lúc ấy tôi ở trên Nam Vang nên chỉ bị bắt và bị tù 8 tháng.

Đến năm 1945, Hồ Hữu Tường được trở về, bị quản thúc ở Cần Thơ. Tôi gặp ông vì lúc ấy tôi đang làm việc ở Cần Thơ. Tôi có giúp đỡ vợ con ông. Ông bảo năm năm ở Côn Lôn, ông đã suy nghĩ kỹ rồi, ông không theo Đệ Tứ nữa, ông quay trở lại con đường quốc gia, quay về với tổ quốc.

Trong cuốn Un fétu de paille dans la tourmente, đánh máy ở Paris năm 1969, có một sai lầm mà tôi muốn đánh chánh sau đây: Ông cho rằng năm 1945, trong sự thanh trừng những người Đệ Tứ, Việt Minh vẫn còn một chút cảm tình (quelques sentiments). Cho nên thay vì giết hết trước khi bỏ Sài Gòn để lên chiến khu, họ đem giam tất cả vào tù, và cảnh sát Pháp đã thả tất cả. Sự thật thì Dương Bạch Mai hạ ngục những người Đệ Tứ cốt là để sẽ đưa họ ra tòa án nhân dân. Nhưng binh lính Anh-Ấn thình lình chiếm khám lớn, trước khi giúp binh Pháp tái chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945. Sau đó, binh Anh-Ấn giao mấy người Đệ Tứ lại cho mật thám Pháp. Một thời gian sau những người Đệ Tứ mới được thả ra. Cho nên việc khỏi bị Đệ Tam tàn sát là một sự tình cờ chớ không phải vì lòng tốt của phái Đệ Tam.


Paris tháng 5/2003


© Copyright Thuy Khue 2003












Hồ Hữu Tường hồi trẻ











Chân dung Hồ Hữu Tường
tranh Tạ Tỵ









Hờ Hữu Tường và các văn hữu


TỪ TRÁI QUA PHẢI:



ĐỨNG: Nguyễn Mạnh Đan (nhiếp ảnh gia) – Phan Nhật Nam – Lê Ngộ Châu (* Chủ Báo Bách Khoa) – Mặc Thu (*) – Nguyễn Đình Tuyến – Trần Văn Minh (1932-1997) – Hùng Lân (*) – Thế Phong (tác giả) – Phạm Xuân Ninh (Hà Thượng Nhân) – Mai Thảo (1927-1998) – X... – Nguyễn Đức Bổn (*–thân sinh nhà văn Hoàng Khởi Phong)

NGỒI: Nguyễn Bá (* chủ nhà in) – Lê Tràng Kiều (*) – Hồ Hữu Tường(*) – Phạm Đình Tân (*) – Đào Đăng Vỹ (* nhà làm tự điển) – Dã Lan Nguyễn Đức Dụ (nhà gia phả học). 

(*): đã qua đời.










Trở về 




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.