Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Trầm Tữ Thiêng (1937 - 2000)













Trầm Tử Thiêng

Nguyễn Văn Lợi
(1937 Quảng Nam - 2000 California)
Hưởng thọ 63 tuỗi
Nhạc sĩ

Ca khúc tiêu biểu Cơn mưa hạ, Hối tiếc, Mười năm yêu em, Tưởng niệm, Đưa em vào hạ, Những con đường trắng, Kinh khổ, Bài hương ca vô tận, "Trộm nhìn nhau", "Trong cơn hy vọng"

Trầm Tử Thiêng là một nhạc sĩ của dòng nhạc vàng và tình ca giai đoạn 1954 - 1975 tại miền Nam Việt Nam.

Trầm Tử Thiêng tên thật là Nguyễn Văn Lợi, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1937 tại Đại Lộc, Quảng Nam, nhưng trên giấy tờ ghi ông sinh năm 1940. Lớn lên ở miền Nam, Trầm Tử Thiêng bắt đầu ca hát từ năm lên 10. Sau đó ông lên Sài Gòn tiếp tục học và tham gia hoạt động âm nhạc ở các học đường với giới trẻ.

Năm 1958 Trầm Tử Thiêng tốt nghiệp trường Sư phạm và bắt đầu dạy học.

Năm 1966, Trầm Tử Thiêng nhập ngũ, thuộc Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị Quân lực VNCH. Thời gian này ông viết các bản nhạc về người lính như: "Quân trường vang tiếng gọi", "Đêm di hành", "Mưa trên poncho". Năm Tết Mậu Thân 1968, Trầm Tử Thiêng viết bài "Chuyện một chiếc cầu đã gãy" nói về cầu Trường Tiền trên sông Hương bị giật sập. Năm 1970 ông viết "Tôn Nữ còn buồn" về trận bão tàn phá miền Nam. Ngoài ra, ông cũng tham gia vào phong trào Du ca Việt Nam.

Từ năm 1970, Trầm Tử Thiêng làm việc trong ngành Phát thanh Học đường cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Sau nhiều lần vượt biên không thành, ông bị tù cải tạo một thời gian. Sau đó, ông đến Hoa Kỳ và định cư tại Little Saigon, tiểu bang California năm 1985. Ông là cố vấn ban chấp hành Hội Ký giả Việt Nam Hải ngoại 2 nhiệm kỳ 1996 - 2000. Cuối năm 1999, ông cùng các bạn văn nghệ sĩ sáng tác lập Thư viện Việt Nam tại Little Saigon.

Tại Hoa Kỳ, cộng tác với Mây Productions, Hollywood Night và trung tâm Asia, Trầm Tử Thiêng đã cùng Trúc Hồ sáng tác nhiều ca khúc cho thể loại nhạc đồng ca như: "Bước chân Việt Nam", "Việt Nam niềm nhớ", "Một ngày Việt Nam", "Tình đầu thời áo trắng", "Cám ơn anh"... và những tình khúc như "Cơn mưa hạ", "Đêm", "Đã qua thời mong chờ". Một bài hát khác của ông là "Đêm nhớ về Sài Gòn" viết 1987 cũng được nhiều người biết đến.

Tháng 8 năm 1996, Trầm Tử Thiêng viết ca khúc "Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng" nhân sự kiện một làng Việt Nam được xây dựng ở Philippines dành cho người Việt lưu vong. Bài hát nổi tiếng với tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly.

Ngày 25 tháng 1 năm 2000, Trầm Tử Thiêng mất tại trung tâm y tế Anaheim Tây.
Hưởng thọ 63 tuổi.








Tác phẩm

Các sáng tác của Trầm Tử Thiêng khá đa dạng nhiều thể loại, từ âm hưởng dân ca cho đến tình ca. Một số ca khúc nổi tiếng từ trước 1975 như: "Kinh khổ", "Chợt nghĩ về hai nơi", "Mười năm yêu em", "Tình ca mùa đông", "Mây hạ"...






1
Ai biểu anh làm thinh


Ai đón em vào xuân


Bài hương ca vô tận


Bài nhã ca thứ nhất

5
Bài tình ca mùa đông


Bài vinh thăng cho một loài chim


Bài xuân này xin hát quanh năm


Bên em đang có ta
(sáng tác với Trúc Hồ)


Bảy ngàn đêm góp lại

10
Biển tối


Biệt khúc


Bước chân Việt Nam
(sáng tác với Trúc Hồ)


Cách biệt


Cám ơn anh
(sáng tác với Trúc Hồ)

15
Chợt nghĩ về hai nơi


Chuyện một chiếc cầu đã gãy


Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng


Cơn mưa hạ
(sáng tác với Trúc Hồ)


Cõi nghìn trùng

20
Con quốc Việt Nam


Đêm hạnh ngộ


Đã qua thời mong chờ
(sáng tác với Trúc Hồ)


Đêm nhớ về Sài Gòn


Đêm trên quê hương

25
Đò dọc


Đời không như là mơ


Đưa em vào hạ


Dứt bão bắt đầu nước mắt


Em có còn trở lại

30
Gởi em hành lý


Gửi người ở lại


Hành ca trên nông trường oan nghiệt


Hành khúc cho quê hương


Hạnh phúc ta, hạnh phúc người

35
Hẹn nhau năm 2000
(sáng tác với Trúc Hồ)


Hãy vui lên
(khi lòng còn biết buồn)


Hòa bình ơi! Việt Nam ơi!


Hối tiếc


Kinh khổ

40
Lời chúc đầu xuân


Lời tạ từ


Lời tiền thân của cát


Lời vỗ về cho ngày sầu muộn


Mai kia hòa bình

45
Mây hạ


Mẹ Hậu Giang


Mộng sầu


Một đời áo mẹ, áo em


Một ngày Việt Nam
(sáng tác với Trúc Hồ)

50
Một sớm mai về


Một thời để nhớ


Một thời uyên ương


Mùa xuân không đợi


Mùa xuân trên cao

55
Mưa trên Poncho


Mười năm yêu em


Ngày chưa nguôi yêu dấu


Nghìn đêm như một


Người hùng cô đơn

60
Người em Ngọc Thụy


Người mang tên Cô Đơn


Người ở lại đưa đò


Người tình mùa hạ


Người vợ nghèo

65
Những con đường trắng
(thơ Tô Kiều Ngân)


Những ngày chưa nguôi yêu dấu


Phố nhỏ tình người


Quên hay nhớ


Quê hương ngày em lớn

70
Rồi hai mươi năm sau
(đồng sáng tác với Tấn An)


Ru nắng


Ta hát tình thương về biển Đông


Thầm thì


Thư xuân hải ngoại

75
Thuở em hờn tủi


Tình đầu một thời áo trắng


Tình khúc sau cùng


Tôn Nữ còn buồn


Tống biệt hành

80
Trả lời thư em


Trên đỉnh yêu thương


Trộm nhìn nhau


Trong cơn hy vọng


Tuyết và người hùng

85
Từ đó đến nay


Từ tiếng hát tiếp nối


Tuổi trẻ lên đường


Tưởng không còn nhìn thấy nhau


Tưởng niệm

90
Vùng trước mặt


Việt Nam về trong nỗi nhớ
(sáng tác với Trúc Hồ)

92
Yêu dấu chưa nguôi








TRẦM TỬ THIÊNG - TÌNH CHIA TRONG ĐÊM SẦU!

1.
Sinh năm một ngàn chín trăm ba mươi bảy và mất vào năm hai ngàn, hoàn tất một vòng sinh tử của mình, Trầm Tử Thiêng đã để lại cho đời hơn hai trăm ca khúc viết về tình yêu, thân phận, quê hương và chiến tranh.
Ông là một trong số không nhiều những nhạc sĩ hiện đại, nhận được tình cảm của khán thính giả Việt Nam khắp nơi. Ông từng là thầy giáo dạy học và từng có nhiều đóng góp vào phong trào Du Ca Việt Nam.
******
2.
Đêm Nhớ Về Sài Gòn được viết vào năm một ngàn chín trăm tám mươi bảy, hai năm sau khi tác giả được bảo lãnh sang Mỹ.
Không phải ký ức nào cũng chôn sâu, vùi kỹ, trổ xanh cành, mọc chắc rễ. Vẫn luôn có những ký ức từng bị mờ phai, mờ phai vì lòng người đã chẳng còn muốn giữ làm chi, cùng câu hỏi, giữ thì được lợi ích gì. Nhưng lại có những ký ức, không thể, nhứt định không thể mờ phai, đó là ký ức về quê hương, xứ sở. Ký ức ấy, thuộc về bản năng, theo kiểu, ai sinh ra trong cõi đời này mà không có mẹ, để thương.
Ai sinh ra trong cõi đời này mà không có quê hương, để nhớ!
******
3.
Trong bài Đêm Nhớ Về Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng, đặc biệt, có hai chỗ, mà mỗi khi hát, hoặc nghe ai hát, tôi lại buồn ơi là buồn.
Đó là câu “ai sầu trong quán úa” và từ “để lớn”.
Ai sầu trong quán úa, nghe thương quá chừng chừng một thế hệ, không, nói đúng hơn là hai thế hệ, thế hệ của những thanh niên trong thời loạn và thế hệ của cha mẹ họ, những người đã tìm vào Nam bằng cuộc di cư khổng lồ năm một ngàn chín trăm năm mươi tư, trước đó.
Còn cái từ “để lớn”, mỗi lần nghe là mỗi lần rưng rưng muốn khóc. Chẳng chỉ một ông Trầm Tử Thiêng mới thấy mình giống như cậu bé mồ côi, mà gần hết người dân miền Nam, khi ấy, đều cảm ra, thấy ra, mình rất giống những đứa bé bị mồ côi - mồ côi quê hương: ta như cậu bé mồ côi / cố vui cuộc sống nhỏ nhoi / cố quên ngày tháng lẻ loi. Để chi?
Để lớn!
**
ĐÊM NHỚ VỀ SÀI GÒN
Đêm nhớ về Sài Gòn
Thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi
Những con đường thèm đôi chân vui, đã bao lâu chờ đợi
Đường im nghe quá khứ trong sầu
Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau
Tình lẻ loi canh thâu
Đêm nhớ về Sài Gòn
Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa
Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa, ai sầu trong quán úa
Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song
Mắt người tình một trời mênh mông
Gợi bao nhiêu cho cùng
Yêu me, một khối tình quê
Yêu em, từng bước tình si
Đêm đêm, mộng thấy đường đi đường về
Ta như cậu bé mồ côi
Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi
Cố quên ngày tháng lẻ loi, để lớn
Để đêm đêm nhớ về Sài Gòn
Thấy mình vừa trở lại quê hương
Đã gặp người một trời yêu thương, cho lòng thêm chút ấm
Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau
Tình chia trong đêm sầu.
******
4.
Tại sao đêm mới nhớ về Sài Gòn, mà không là một giấc khác trong ngày? Thì đêm mới có thể được nghỉ ngơi đôi chút. Chớ ngày, còn lo làm lấm mặt lấm mũi, lấy dư dả thời gian đâu mà nhớ.
Nhớ Sài Gòn, trước hết là nhớ về những con phố, rồi tự hỏi, không biết bây giờ phố đã nguôi chưa, nỗi buồn xưa? Có bạn sẽ hỏi, nỗi buồn xưa là nỗi buồn gì vậy? Nỗi buồn xưa là nỗi buồn bị mất tên đó bạn ơi. Mất tên Sài Gòn. Mất tên mà buồn đến thế ư? Buồn chớ. Mất cái sổ nhận gạo, còn buồn, còn khổ, còn lo, huống hồ gì, bị mất cả cái tên. Mất cái tên tổ tiên, ông bà, cha mẹ nâng niu đặt cho, đau lòng lắm. Đẹp xấu gì, nó cũng là căn cước, là nguồn gốc, là quê hương, là kỷ niệm quý của đời mình, sao mà không buồn cho đặng.
Hỏi con đường, mà hệt như đang hỏi chính mình. Tại sao ư? Vì những con đường xưa quen thuộc ấy, nay còn đâu. Chính mình cũng đã xa lắc xa lơ đến ngần này rồi. Hè phố Sài Gòn, ngày cũng như đêm, khi nào cũng dập dìu những đôi chân vui, tung tăng, hẹn ước. Bây giờ nó im tiếng. Nếu có chân người, thì cũng chỉ là những bước chân đầy e dè, ngại ngần, lo lắng. Nếu có chân người, thì cũng chỉ là những bước chân vội, như chạy, như trốn, của những người bán hàng rong, bán chợ trời, bán những thứ lấy ra từ nhà của mình, hồi đó đến giờ chắt chiu được, bán cho đến khi nào không còn gì để bán, mới thôi. Những con đường, ngày nao, có còn chờ đợi lũ chúng tao không, bầy chim tứ xứ, không hẹn ước được ngày về. Còn chờ đợi không, hỡi những con đường thân quen khắp chốn.
Không có tiếng trả lời. Những con đường xưa, chúng lặng im, lặng im cúi đầu. Cúi đầu nhận lỗi vì đã làm mất tên xưa? Hay cúi đầu tìm một chút niềm vui, an ủi, còn sót trong đáy sầu quá khứ, để mà nương vào đó, dựa vào đó, mà thoi thóp sống cho qua ngày đoạn tháng?
Không có tiếng trả lời. Những con đường xưa, chúng lặng im, dõi mắt nhìn xa xôi. Những con đường mang tên chia ly, chúng vẫn dõi tin nhau, ngóng tin nhau, dù rằng, chỉ rất ít hồi âm và rất nhiều thất lạc. Mịt mùng vẫn cứ mịt mùng. Mất tăm vẫn cứ mất tăm, như từng đã.
Đêm vì thế dài. Đêm vì thế canh thâu. Và tình thì một mình, lẻ loi, đơn chiếc!
**
Đêm nay, cũng như bao đêm rồi, lại nhớ về Sài Gòn. Nỗi nhớ, dầu không ai mời mọc, dầu không ai đón chào, nó vẫn cứ nghiễm nhiên đến, nghênh ngang chiếm cứ hồn ta.
Tiếng nhạc vàng đang rung lên gọi từng âm xưa, như tiếng điểm danh, Lan còn không? Huệ đang ở đâu? Hùng bây giờ làm gì? Sơn bây giờ ra sao? Đứa nào còn quê nhà? Đứa nào đã xứ người? Đứa nào đã gởi thân vào lòng biển lạnh?
Màu của ánh đèn vàng như nhạt nhòa hơn trong đêm mưa, như màu của chia ly, như màu của mất mát. Còn không, người ngồi về đêm trong quán. Còn không, người ngồi chờ nhau trong quán.
Và, ai sầu trong quán úa!
Đêm khuya, hàng quán đèn vàng. Đêm khuya, hàng quán hẹn nhau. Đêm khuya, chứng kiến biết bao mối tình đẹp, biết bao mối tình đau. Đêm khuya, lắng nghe biết bao lời thì thầm to nhỏ. Mấy giờ ngoài bãi? Tín hiệu nhận nhau là gì? Và, đằng sau tất cả những mái đầu xanh đang chụm vào nhau ấy, là bóng mẹ hiền mờ mờ bên song, đợi con gọi cửa, chờ con về, miệng thì mắng nhưng tay này đưa khăn cho lau mưa ướt, tay kia đưa chén cơm nguội, giục, con ăn đi, kẻo đói.
Trong đêm sâu thăm thẳm ấy, hiện ra đôi mắt người tình, đôi mắt người tình trong bóng đêm, với một trời mênh mông hờn dỗi, trách cứ. Một trời mênh mông của những ngày tháng: bước nhẹ mà sâu / mà cũng nhoà mau / tưởng đã phai màu / đường chiều hoa cỏ / mười năm rồi ngọ / tình cờ qua đây / cây xưa vẫn gầy / phơi nghiêng ráng đỏ / ao em ngày nọ / phai nhạt mấy màu / chân tìm theo nhau / còn là vang vọng / đời như biển động / xoá dấu ngày qua / tay ngắt chùm hoa / mà thương mà nhớ / phố ơi muôn thuở / giữ vết chân tình / tìm xưa quẩn quanh / ai mang bụi đỏ / dáng em nho nhỏ / trong cõi xa vời / tình ơi tình ơi (Ngày Xưa Hoàng Thị - Phạm Thiên Thư)
Gợi bao nhiêu cho cùng!
**
Đêm nhớ về Sài Gòn, vì Sài Gòn có mẹ. Đêm nhớ về Sài Gòn, vì Sài Gòn chính là quê hương. Đêm nhớ về Sài Gòn, vì Sài Gòn là tất cả trái tim của tác giả, của những người đã từng gắn bó đến nửa đời mình tại chốn này đây.
Đêm nhớ về Sài Gòn vì Sài Gòn có em. Có em để đón đưa. Có em để chung đường về suốt hai mùa mưa nắng. Có em để biết thất tình, để tập tành khói thuốc, tập tành ngụm rượu say. Có em để hiểu ước hẹn là gì. Có em để biết nghĩ xa xôi về một mái ấm gia đình, nơi đó có em, và con của chúng ta, bi bô tập nói.
Vì thế, nên đêm đêm, cả thức lẫn mơ, cả thức lẫn mộng, đều chỉ thấy trong hồn ta, trong lòng ta, những con đường. Những con đường đi và những con đường về.
Ta có quê mà phải xa quê. Ta có mẹ mà đành phải như không còn mẹ. Ta mồ côi. Mồ côi hiểu theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Mất thật rồi. Mất hết thật rồi. Bờ bên này và bờ bên kia, thăm thẳm một đại dương, biết bao giờ gặp lại.
Thì đành vậy vui, thì đành vậy sống, chớ biết phải làm sao bây giờ. Lục tìm trong ký ức, trong quá khứ, xem có cái gì còn vui đỡ được không, thì đem ra, mang ra mà gặm dần, như con gấu ngủ đông, chờ mùa sang vậy: anh về mớ gọi tên nàng / giấu vào đêm đợi cho tàn mùa đông / mút tay rồi lại mút chân / trái bần chín mọng mùa đông chẳng tàn (Con Gấu Buồn Ngủ Đông - Trần Thiên Thị).
Cuộc sống không cho mình lớn lao. Cuộc sống bắt mình cúi xuống, cúi mặt xuống, khom người, thu lại, nhỏ nhoi, nhỏ nhoi, như con sâu cái kiến, thì đành chịu sầu, chớ biết phải sao hơn? Gắng mà quên ngày tháng buồn tênh. Gắng mà quên đời vốn lẻ loi. Để lớn.
Để lớn!
**
Và để đêm, để đêm đêm lại nhớ về Sài Gòn. Nhớ về nơi mà mình đành đoạn cất bước ra đi, dẫu lòng chẳng muốn. Nhớ về nơi mà mình đành đoạn bỏ lại hết sau lưng, dẫu biết đi là khó lòng trở lại, thậm chí, vĩnh viễn chẳng còn được gặp mặt nhau.
Đêm nào cũng nhớ về Sài Gòn, và rồi trong giấc mộng, thấy mình vừa trở lại quê hương, vừa trở lại con đường xưa, gặp mẹ, gặp em.
Thấy mình như vừa gặp lại một trời yêu thương, cho lòng mình thêm chút ấm sau những ngày lạnh giá quê người.
Thấy mình như vừa gặp lại bạn bè xưa, nghe thèm ngồi bên nhau, nghe thèm bạn gọi tên mình, nghe thèm nhắc đứa này đứa kia, nghe thèm hàn huyên, dẫu chuyện người, chuyện đời, còn biết bao nhiêu thương đau, lận đận.
Còn bao nhiêu tình, chúng ta chia nhé, hết trong đêm nay.
Tình chia trong đêm sầu!
******
5.
Đêm Nhớ Về Sài Gòn là một trong những ca khúc hay nhứt của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
Nhưng, nếu muốn nghe cho tới, tới được tận cùng cái hay nằm trong ca khúc, cái khắc khoải, thắt lòng; cái bứt rứt, cồn cào; cái thẫn thờ, ngơ ngẩn; tôi nghĩ, người nghe cần phải từng xa Sài Gòn thật.
Xa thật. Thăm thẳm. Và nếu muốn về để thăm lại thì cũng là điều rất khó.
******
Theo nhà thơ Du Tử Lê, Trầm Tử Thiêng là một người có đời sống riêng tư khá kín đáo.
Trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo Trường Kỳ, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng nói: Mỗi giai đoạn trong tác phẩm của ông đều có sự hiện diện của tình yêu, hoặc thân phận của con người qua mọi biến chuyển của cuộc sống. Dĩ nhiên, nó xen lẫn nỗi đau thương và niềm hạnh phúc.
Đó là một Trầm Tử Thiêng, người đau nỗi đau quê hương trong bài Hương Ca Vô Tận, là Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy, là Kinh Khổ, một sáng tác dùng hoàn toàn chỉ bốn nốt nhạc. Tương tợ như những bài thơ, chỉ dùng duy nhứt một phụ âm M hoặc phụ âm T, chẳng hạn.
Kế tiếp, đó là một Trầm Tử Thiêng, người tình thủy chung trong bài Đêm Nhớ Về Sài Gòn và Mười Năm Yêu Em.
Cuối cùng, đó là một Trầm Tử Thiêng, hòa cùng vận mệnh của đất nước, trong những bài như Bên Em Đang Có Ta, Bước Chân Việt Nam.
******
6.
Tôi nhìn những di ảnh ông để lại cho đời, và nhận ra, ông, Trầm Tử Thiêng, đã chọn cho mình một cuộc đời trầm lặng. Trầm lặng như bút hiệu ông đặt riêng cho mình. Trầm lặng như định mệnh của cuộc đời dành sẵn cho ông, cô đơn, riêng lẻ. Và, trầm lặng như một quyết định của ông trước các biến cố của đời mình.
Phạm Duy rồi Cung Tiến, rồi Nguyễn Văn Đông, rồi Hoàng Thi Thơ, rồi Phạm Đình Chương, rồi Lam Phương, rồi Hoàng Trọng, rồi Nguyễn Đình Toàn, rồi Trầm Tử Thiêng, cũng như còn nhiều nhạc sĩ khác nữa, trước khi trở thành những người muôn năm cũ, hết thảy, họ đều đã từng:
Tình Chia Trong Đêm Sầu!

Sài Gòn 17.04.2024










Những ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng

























Trầm Tử Thiêng: Người Nhạc Sĩ Của Thời Cuộc
Nguyễn Ngọc Chấn




Vào một chiều cuối năm, tôi và nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng không hẹn mà gặp trong một quán vắng. Cali bị El Nino hoành hành, lúc nắng, khi mưa, đang nắng chang chang, mây đen bỗng kéo đến, mưa trút xuống ào ạt. Ngồi chờ nắng, uống đến tuần trà thứ ba, trời chưa tạnh hẳn, bị mưa gío cầm chân, tôi bèn gợi ý để nghe Trầm Tử Thiêng tâm sự về quá trình sinh hoạt văn hóa của anh. 
Tôi vẫn gọi anh là một nhạc sĩ của thời cuộc, Bất chợt chính tôi bị cuốn hút vào một cuộc đời rất ngoạn mục của người bạn từ 30 năm nay Thế nhưng, tôi lại thất bại, một lần nữa, lại với câu hỏi: "Tại sao lại là "TRẦM-TỬ-THIÊNG"? Anh vẫn cười bí mật, lắc đầu với tôi như đã lắc đầu với hàng chục người, hỏi anh từ mấy chục năm trước. Thì thôi, anh có lý của anh, tôi xin chào thua. Năm 1971 tôi biệt phái về Bộ Văn Hoá Giáo dục, trình diện phòng Truyền hình học đường, Trung tâm học liệu. Tôi vô cùng thích thú gặp lại Trầm Tử Thiêng, được làm chung trong cùng một nhiệm sợ Chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 3 năm tại Trung Tâm Học Liệu. Sau biến cố 1975, tôi nhanh chân đi trước, Trầm Tử Thiêng kẹt, 10 năm sau gặp lại, chúng tôi tiếp tục sinh hoạt mật thiết hơn tại thủ đô tỵ nạn. Là một nhà giáo, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung, trong thời gian gần 10 năm tại ngũ, tôi đã góp mặt trong nhiều đơn vị, nhiệm sở, chức vụ, khoác những mầu áo, kỳ hiệu khác nhau. Tuy có những gian truân, khó nhọc nhưng tôi vô cùng trân quí những ngày được mặc quân phục. Dù là một chuyên viên vận tải hay một trưởng đoàn quân xa, sát cánh với các chiến đoàn Biệt động quân. Dù là một ký gỉa chiến trường hay là một thuyền trưởng tiếp vận tôi luôn luôn hãnh diện về những đóng góp khiêm nhường của cá nhân mình, cũng như chuyên ngành Quân vận của tôi. Những ký ức ấy đã giúp cho tôi thêm chất liệu hiếm quí, để khi trở về nhiệm sở dân sự, tô điểm cho kỹ thuật điện ảnh của tôi phong phú hơn, đa năng hơn sau này. Tương tự như tôi, Trầm Tử Thiêng may mắn hơn, mặc quân phục nhưng công việc có ít nhiều liên quan đến sở trường âm nhạc của anh. Là một quân nhân phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, Trầm Tử Thiêng đã theo dõi cuộc chiến, điều nghiên lãnh vực tâm lý, từ tiền đồn đến hậu phương, từ trung tâm huấn luyện đến quân y viện. Nơi anh phục vụ được góp nhặt những tin vui chiến thắng, xen kẽ với những bất hạnh của đồng bào bị kẻ thù bách hại. Từ những dữ kiện chung quanh ấy, anh trở thành chứng nhân của cuộc chiến. Như các sử gia viết nên những trang quân sử, Trầm Tử Thiêng dùng khuông nhạc ghi lại hành trình cuộc chiến, chiếm mất một quãng đời thanh xuân của chúng tôi. Chứng nhân qua âm nhạc. Nếu sách sử được lưu trữ trong kho tàng văn khố quốc gia, thì nhạc Trầm Tử Thiêng đi vào kho tàng nhạc Việt của dân gian. Âm nhạc có lợi thế phổ thông, đại chúng dễ ghi sâu vào lòng người, loan truyền mau lẹ và bén nhậy hơn sử sách. Rất sớm, từ cuối thập niên 50 Trầm Tử Thiêng đã bắt đầu sáng tác nhưng mãi đến giữa thập niên 50, tác phẩm anh mới có dịp được phổ biến trên các đài phát thanh và truyền hình... Trầm Tử Thiêng mơ màng dẫn tôi về những ngày cuối năm 1967. Trong lúc đồng bào chuẩn bị đón xuân. Cả nước chào đón những giờ phút linh thiêng nhất của một năm. Như một số anh em quân dân chính được phép ở nhà, đang chuẩn bị cúng ông bà, Trầm Tử Thiêng bị gọi trở lại Cục Tâm Lý Chiến sau nửa đêm giao thừa, để đón nhận những tin chẳng lành của một trận chiến khốc liệt: trận tổng công kích tết Mậu Thân. Tin chẳng lành dồn dập báo về não bộ Cục tâm lý chiến: Giờ này, một tiền đồn bị địch quân tràn ngập, phút khác, một thôn xóm bị Cộng quân thiêu rụi, nơi đây, quân ta đẩy lui Cộng quân khỏi một khu phố, chỗ nọ, giặc phá nát một đoạn đường. 
Những ngày kế tiếp Quân lực Việt Nam Cộng Hoà phản công mãnh liệt, bẻ gẫy kế hoạch tổng công kích của địch. Kẻ xâm lăng trở nên hung bạo, quay mũi dùi tàn sát thường dân cả nước. Cố đô Huế hứng chịu nhiều đau thương nhất, cầu Trường Tiền gẫy một nhịp, cắt đứt con đường huyết mạch thân quen của đất thần kinh. Xuân Mậu Thân Cảm thông với nỗi xót xa của người dân xứ Huế, Trầm Tử Thiêng viết bài ca bất hủ "Chuyện một chiếc cầu đã gẫy", không chỉ khóc than cho một nhịp cầu vô tri vô giác, nhưng, anh đã chia sẻ niềm đau, với hơn 4 ngàn gia đình Huế, gẫy nhịp với người thân trong những nấm mồ tập thệ Hàng chục ngàn đồng bào khắp nước, bị bức tử ngay trong những giờ phút linh thiêng nhất của một niên lịch. Nhạc phẩm "Chuyện một chiếc cầu đã gẫy" trở thành bản kinh cầu tang chung của đất nước. Nhạc phẩm này đã dính liền với hàng chục ngàn sinh mạng, chết tức tưởi trong dịp tết Mậu thân. Cho đến nay, đồng bào vẫn hát mãi bài ca và Tết vẫn là ngày giỗ chung cho cả nước, đông đảo nhất vẫn là gia đình đồng bào xứ huế. 
Sang năm, để kỷ niệm 30 năm sau Tết Mậu Thân đồng bào sẽ khoác lại vành tang, tưởng niệm người quá vãng, Trầm Tử Thiêng sẽ gợi lại cho chúng ta vết thương của một nhịp cầu gẫy. 
Thu Mậu Thân. Vành khăn xô chưa mục, Huế chưa ráo lệ, mùa thu năm ấy lại gặp thêm tai hoạ,lần này Trầm Tử Thiêng sáng tác một ca khúc bi thương khác, xót xa, chua chát cho đồng bào ngoài nớ, tai trời giáng xuống sau cái họa do con người gây ra. Nhạc khúc "Tôn nữ còn buồn" nói về trận bão lụt vĩ đại, tàn phá miền trung, trong đó anh mở đầu bằng lời than não nuột. Thay vì câu: sau cơn mưa, trời lại sáng, anh hát rằng: "sau cơn mưa, trời vẫn thế sao em!" rồi Trầm Tử Thiêng viết tiếp: "Giặc về còn đánh, còn xua, ai đi ngăn nổi gió mưa của trời! Dù mai con nước chưa vơi, mưa bão tơi bời, vẫn về thăm em..." Trầm Tử Thiêng không là một nhạc sĩ viết bài ca tuyên truyền, anh dùng nét nhạc để ghi lại những giai thoại lịch sử, đôi khi có gởi gấm một vài phê phán với cảm xúc đầy nhân bản của một bộ môn nghệ thuật, ngợi ca những mối tình trong thời chiến, những lần hẹn hò, những xao xuyến chờ mong, những lo âu bồi hồi, những cách ngăn ly biệt. 
Bên các anh có chúng tôi. Phục vụ tại cục tâm lý chiến Trầm Tử Thiêng, theo dõi, cập nhật hoá các mặt trận, nhiều ca khúc anh ghi lại chứng tích kiêu dũng của các chiến sĩ quân lực việt nam cộng hoạ Anh rất hãnh diện được đóng góp khả năng sáng tác vào quân vụ của mình. Trầm Tử Thiêng sáng tác rất nhiều, một số nhạc phẩm được phát xuất từ ngưỡng cửa đời binh nghiệp như: "Quân trường vang tiếng gọi", "Đêm di hành", "Mưa trên poncho" ..v..v. đó là một vài nhạc phẩm được anh em hát nhiều. 
Sau những ca khúc viết cho người tân binh, Trầm Tử Thiêng đi song song với nhịp bước của các chiến sĩ, anh đã đến nhiều tiền đồn, khích lệ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ. Thăm viếng, ủy lạo, chia sẻ nỗi đau với anh em thương binh tại quân y viện. v...v. 
Dõi theo bước chân các trận đánh hào hùng, Trầm Tử Thiêng viết lên những bài ngợi ca tinh thần các chiến sĩ .Thời gian này có đến hàng chục ca khúc. (tiếc thay anh không lưu trữ được, vì sau biến cố 1975 các ca khúc này đã trở thành tai họa, anh đã phải thiêu hủy một số, và, thất lạc nhiều trên bước đường lẩn tránh). 
Thời gian này Trầm Tử Thiêng phối hợp với các phái đoàn chiến tranh chính trị vùng, các sinh viên, học sinh tổ chức các chuyến viếng thăm tiền đồn. "Ðưa em vào hạ", một ca khúc mang hình ảnh khá cảm động mà anh muốn gởi gấm đến người hậu phương: 
-"Mùa hè năm nay, anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày, qua miền xa mà nghe rừng thiêng gọi lạ 
-Tiếng nỉ tiếng non, khi chiến trường năm yên thở khói. Ðứa bé nhìn cha đang chờ giặc dưới giao thông hào". 
Viếng thăm tiền đồn gây cho anh nỗi xúc động, có đến tận nơi chúng ta mới thấy cuộc sống thật của anh em lính chiến, vợ con họ phải sống ngoài chiến tuyến, những bé thơ mon men bên giao thông hào nhìn cha cầm súng chờ giặc. 
"Bài vinh thăng cho một loài chim", anh viết cho phi công Trần Thế Vinh, người chiến sĩ không quân đã kiêu hùng hạ 21 xe tăng bắc việt, trong trận chiến mùa hè đỏ lửa, sau đó phi cơ của anh hùng Trần Thế Vinh đã bị việt cộng bắn hạ. 
Mười năm tang thương (1975-1985) Sau khi cuộc chiến chấm dứt, Trầm Tử Thiêng còn ở lại Việt Nam. May mắn tránh né khỏi đi học tập cải tạo, sinh hoạt văn hóa của anh bị chậm lại. Trầm Tử Thiêng thuộc thành phần ngụy. Trong suốt cuộc chiến nhiều ca khúc anh sáng tác, ca ngợi sự chiến đấu dũng cảm của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Một số bài hát trong đó có "Chuyện một chiếc cầu đã gẫy" và "Bài hương ca vô tận" biến thành bản án của anh đối với chế độ, nhạc anh bi khép vào loại văn hóa phản động, được đưa về bắc bộ phủ để nghiên cứu từ nhạc đến lời. 
Thời gian này Trầm Tử Thiêng trốn tránh, tìm đường vượt biên nhiều lần nhưng bất thành, bị bắt ở tù. Tại khám lớn rạch gía, Trầm Tử Thiêng viết bài "Tâm ca của người tù vượt biển", sau đó anh bị đầy xuống trại cải tạo lao động U minh, sống chung với anh em công chức cao cấp và sĩ quan QLVNCH. 
Xót xa nhìn những người hùng một thời, nay sa cơ nằm trong tay giặc, một buổi chiều từ láng nhìn ra, từng đám tù cải tạo, sau một ngày lao động trở về, tả tơi như những thây ma, tủi nhục, Trầm Tử Thiêng viết nên bài "Hành ca trên nông trường oan nghiệt": 
"Anh em độ vài trăm, anh em độ vài ngàn, anh em chừng vài mươi vạn, chới với dưới mặt trời hắc ám, như không hẹn hò ai, đau thương chung một ngày. Ngước mắt anh em nhìn nhau. Cười vang vương đồng loại. Bao năm chưa nghỉ ngơi Ðiêu linh qua từng thời. Anh em mù loà nhân đạo, đua nhau nuôi thù hằn tiếp nối. 
Những tình khúc chia ly. Thời gian mười năm kẹt lại với nhà cầm quyền cộng sản, Trầm Tử Thiêng vẫn sáng tác, ghi dấu những cuộc chia ly: Người vượt biển ra đi, kẻ tìm đường di tản, Trầm Tử Thiêng viết một số ca khúc như: "Gởi em hành lý" như một lời nhắn gởi ra nước ngoài, cảm nhận nỗi đau thương nơi quê nhà, những phút chia ly thật cảm động. Kế đó là những bài "Tình khúc sau cùng" "Một thời uyên ương" ; " Dứt bão, bắt đầu nước mắt". 
Ca khúc nói đến chia ly có những bài như "Người ở lại đưa đò", nói về một người cựu chiến binh Việt nam cộng hòa, ở lại, làm nghề đưa đò cho người vượt biển. Bài đưa đò thứ hai, cảm động hơn chí tình hơn: "Mẹ Hậu Giang". Ngày xưa bà mẹ Hậu Giang đưa đò cho những người con theo kháng chiến chống Pháp, đánh đồn, sập bóp. Giai đoạn kế, bà mẹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến, nhưng lại không ở cùng chiến tuyến với ta, hỗ trợ con theo chiêu bài kháng chiến. Sau khi quê hương bị chụp mũ bởi mỹ từ "giải phóng" mẹ Hậu Giang bừng mắt, nhận biết mình bị lừa, bà lại đưa đò chở những người con lần lượt bỏ nước ra đi sau năm 1975. Trầm Tử Thiêng viết rằng: 
"Mẹ Hậu Giang âm thầm quày dìa hậu giang, chèo chống thêm cảnh ly tan ly tan, tình mẹ hậu giang. Ngày xưa thương con đưa đò, ngày nay thương con đưa đò" 
Cuối cùng Trầm Tử Thiêng cũng thoát đi sau khi để lại nhạc khúc đầu tiên, ghi dấu giai đoạn đầu đen tối của đất nước, gói ghém trong bài "Du ca trên thành phố đỏ", "Một thời uyên ương" 
Nhắc đến "du ca", xin mở một cái ngoặc kép, nói về một thể nhạc khác của Trầm Tử Thiêng, viết cho tuổi trẻ trong phong trào du ca. Thời gian đó, anh đã về Trung tâm học liệu, gần gũi hơn với hoạt động giới trẹ Lúc bấy giờ thanh thiếu niên bị xao xuyến trước những biến động thời cuộc, họ cảm thấy lạc lõng, lo sợ trước viễn tượng của đất nước. 
Trầm Tử Thiêng cùng các nhạc sĩ thân hữu khởi xướng phong trào du ca, hát tập thể, ràng kết những người trẻ với nhau, nối nối vòng tay nhau, nhìn rõ mặt nhau, tìm ý nghĩa cho cuộc sống, xoá đi mặc cảm lạc lõng. 
Hiện nay phong trào du ca cũng vẫn được phát triển tại hải ngoại, Trầm Tử Thiêng vẫn hăng hái đóng góp như lúc anh trẻ lại 20 năm trước. Nhạc "du ca" của Trầm Tử Thiêng nổi rõ trong thời hiệp định Paris, khi mọi người chờ đợi hình ảnh của môt ngày hòa bình. "Hòa bình ơi ! Việt nam ơi! đã được phổ biến mạnh mẽ đến với mọi người. Nhưng bài "Làng hòa bình giả tưởng" mới chính là điều anh cảm nhận thời bấy giờ. Con sâu thoát khỏi cái kén. Trở lại với Trầm Tử Thiêng, khi đến trại tỵ nạn anh tiếp tục sáng tác hăng hơn, tự do hơn. Tự ví mình như con sâu, gói tròn trong cái kén, 10 năm sau mới mọc cánh, mới cắn lũng nổi cái vỏ để thoát ra, bay đi thành cánh bướm: 
"Ta như con sâu, 10 năm nhốt đời trong cái kén, cố xé đau thương từng đêm đen. Mộng tìm một không gian rộng thênh thang, trút nỗi đau và ca lên.... 
Trầm Tử Thiêng không vì cái kén đã kềm hãm anh 10 năm mà trở thành cùn nhụt. Anh vẫn tiếp tục sáng tác. Bên cạnh những bài viết cho cuộc sống mới như "Mười năm yêu em" , "Chợt nghĩ về hai nơi", "Hãy ngủ yên tình yêu", anh vẫn khắc khoải hướng về đất nước bằng tâm trạng của kẻ lưu vong. "Ðêm nhớ về sàigòn" là một điển hình: 
"Ta như cậu bé mồ côi. Cố vui cuộc sống nhỏ nhoi. Cố quên ngày tháng lẻ loi để lớn: Ðể đêm đêm nhớ về sàigòn..... 
Giai đoạn chao động. Vừa đặt chân đến hải ngoại Trầm Tử thiên chào ra mắt bằng ca khúc "Mười năm yêu em". Qua cái nhìn khách quan, đó là một tình khúc, nhưng bên trong, Trầm Tử Thiêng có gởi gấm, ẩn dụ, nói với những người sống ở hải ngoại đang thấy mỏi mệt với cuộc sống mới. Trong "Mười năm yêu em" anh cảm nhận phần nào khác biệt với tâm trạng mỏi mệt của người khác. Cuộc sống nơi bến bờ tự do là lý tưởng, thực sự đối với anh, nhưng, nhiều người không ý thức cái lý tưởng đó, có thể họ đã để lý tưởng quá cao, trước khi bước chân đi, khi va chạm thực tế, họ bị hụt hững. Trầm Tử Thiêng lưu ý hai tiền đề trong Mười năm yêu em: 
"Dường như trong ta em có điều tuyệt vọng! Dường như trong em ta vẫn đầy hoài mong." 
Ðó là điều Trầm Tử Thiêng nói đến giữa lý tưởng và con người. Lý tưởng gọi con người là "EM", mang thông điệp tình yêu. "EM" có thể thất vọng với lý tưởng, nhưng lý tưởng thì làm sao biết thất vọng 
Giai đoạn nổi trôi. 
Ðược chắp cánh bay, được hít thở cái không khí tự do, Trầm Tử Thiêng trân trọng những ưu ái đọ Ðường anh đi chỉ gặp những ngọn sóng lăn tăn làm mình chao đảo, gập ghềnh. Nhưng nhìn về hướng Ðông, anh nghĩ đến hàng trăm ngàn đồng bào vẫn còn lênh đênh trên biển. Trong các trại tỵ nạn, hàng chục ngàn người còn gặp khó khăn, tình trạng định cư bi đát lắm. Trầm Tử Thiêng viết cho trại tỵ nạn ca khúc "Trại tỵ nan Galang" lúc ở Indonesia. 
Hướng về biển Ðông anh chia sẻ bằng ca khúc "Ta hát tình thương về biển đông". Ai đã từng lênh đênh trên biển, biết hàng ngày đồng bào vẫn lũ lượt bỏ đi, bất chấp tình trạng sức khoẻ, phương tiện chỉ là những chiếc thuyền mục rữa. 
Con tầu Tình thương về biển Ðông cứu vớt bao người khỏi cơn thịnh nộ của tạo hoá, cũng như, dành lại những người dân yếu đuối khỏi bàn tay thô bạo của bọn hải tặc. 
"Ta hát tình tương về bển Ðông" là thông điệp của một người từ biển vừa bám được đất liền, gởi cho người đang sống bình yên trên đất liền: 
"Ta ca vang cho mỗi hy vọng vượt cao hơn thủy triều.Ta ca vang cho tắt bão bùng, đại dương cũng hòa theo....."Xin hẹn tấm lòng mang tình thương muôn nơi mãi vì tình người. Ðất liền vẫn đầy dẫy tai biến như bao bất hạnh ngoài khơi... 
Giai đoạn cảm thương. 
Những biến cố của thế giới đôi khi cũng ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của anh. Cuối năm 89, toàn thể khối cộng sản Ðông âu hoàn toàn tan rã, anh nghe như một tin mừng. Bài "Từ mùa xuân Ðông âu" đã biểu lộ nỗi vui mừng..đầy nước mắt đó: 
"Có lúc ta mơ thật lạ lùng.Thấy đất quê ta ươm mầu xuân.Người bạn Ðông âu ơi, hãy nhớ,quê ta cũng chờ một mùa xuân.." 
Nhìn về trại tỵ nạn mỗi ngày mỗi tàn lụi đi, lương tâm nhân loại đã cằn cỗi theo tháng năm. Chánh sách định cư ngày một thay đổi, gây khó khăn cho những người còn kẹt lại trên các hải đảo. Hàng ngàn trẻ em mồ côi, có em sinh ra, lớn lên ngay trong hàng rào kẽm gai trại tỵ nạn, chưa từng một lần bước ra khỏi khuôn viên nhà tù, không một tia sáng cuối đường hầm. Yếu tố ấy thúc đẩy Trầm Tử Thiêng viết lời ca bài "Bên em đang có ta" dựa theo ý và nhạc của Trúc Hồ: 
"Cha yêu em thiết tha mang gởi con cho tình người. Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi...." 
Cũng như trước đó anh đã viết cho các trại tỵ nạn (đã đóng cửa). những bài "Nói với Hồng kông", "Thà chết nơi này"..v..v. 
Ca khúc "Bước chân việt nam", một lần nữa Trầm Tử Thiêng viết lời cho nhạc Trúc Hồ, đánh dấu 20 năm tỵ nạn. Nghe bản nhạc như xem một khúc phim từ ngày đầu, người việt tỵ nạn, ngơ ngác bước chân ra khỏi quê hương điêu tàn, túa ra sống trên bao nhiêu đất nước xa lạ. Thế rồi, sau 20 năm cần cù nhẫn nại, cố gắng bơi chèo, nhiều người Việt Nam đã thành công rực rỡ. Ðến nay, hầu như nơi nào trên thế giới cũng có những bước chân của người Việt Nam, ở đâu chúng ta cũng cố gắng vươn lên và mạnh hơn. Trong "Bước chân Việt Nam" Trầm Tử Thiêng và Trúc Hồ cũng gởi lời cám ơn thế giới tự do đã giang tay đón nhận, cưu mang những người lưu lạc, cho chúng ta cơ hội tạo dựng cuộc sống tốt lành. 
Niềm xúc cảm sâu xa. 
Thế rồi khi các quốc gia tự do, vì áp lực kinh tế khó khăn, người tỵ nạn bỗng trở thành gánh nặng cho họ, thế giới đồng lòng ngỏanh mặt làm ngơ trước nỗi lo âu của hàng chục ngàn đồng bào còn kẹt trong các trại tạm cư. Viễn tượng bị trả lại nơi họ đã hy sinh cả mạng sống để ra đi. Cánh cửa tự do khép lại, xua đuổi người việt tỵ nạn. Nỗi tuyệt vọng dâng cao, nhiều người tự tử thay vì bị cưỡng bách hồi hương về với chế độ cộng sản. 
Trong lúc ấy chỉ có Phi luật tân đã can đảm, đơn phương chấp thuận cho người việt được lưu lại, lập nghiệp tại quốc gia họ, dưới sự bảo bọc của hội đồng Giám mục Phi. Nguồn tin naỳ như một gáo nước cứu người đang chết khô, cái phao cho người sắp chết đuối. Trầm Tử Thiêng xuất thần viết bài "Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng", diễn tả nỗi vui mừng của những người Việt Nam khỏi bị cưỡng bách hồi hương. 
"Hãy nói cho mọi người cùng nghe; "người đã cứu người" "Hãy nói cho mọi người cùng nghe: "làng Việt Nam đang xây thêm bên ngoài Việt nam"..... 
"Một ngày Việt Nam" viết chung với Trúc Hồ, Trầm Tử Thiêng nói lên niềm mơ ước của người việt nam lưu vong, thoát khỏi những đau thương của trăm năm này, nghìn năm nọ. 
Bài này những người Việt Nam bị chính quyền cộng sản bán đi lao động tại các quốc gia Ðông âu cảm thấy tác giả diễn tả đúng, cảm thông với tâm trạng của ho Khi Việt cộng cần ngoại tệ, đã xuất khẩu họ ra nước ngoài như những tên nô lệ, bán đi để trả nợ. Vì không muốn trở về sống với bạo tàn vô nhân đạo, những công nhân lao động này trốn tránh ở lại, sống lạc lõng tại các quốc gia Ðông âu. Trong khi đó cộng đồng Việt tỵ nạn vẫn chưa hoàn toàn cảm thông, chấp nhận họ vào đại gia đình tỵ nạn. Những lần họp mặt với nhau, họ cùng hát lên bài "Một ngày Việt Nam" như một bản quốc ca mới cho một nhóm người Việt lưu vong vô tổ quốc. Ā ớc cứu người đang chết khô, cái phao cho người sắp chết đuối. Trầm Tử Thiêng xuất thần viết bài "Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng", diễn tả nỗi vui mừng của những người việt nam khỏi bị cưỡng bách hồi hương. 
Cộng sản Việt Nam lên án bài "Một ngày việt nam", cho là một khúc ca cực kỳ phản động: 
"Từng vòng tử sinh quay thấm thoát cũng vài ngàn năm, nhiều lần nằm mơ, ôi đất nước bao lần đổi mới" 
Anh cố tình dùng chữ "đổi mới" của Cộng sản, phác họa mấy ngàn năm lịch sử Việt nam, nhưng cộng sản vẫn mặc cảm tự ti với hai chữ đổi mới này Một sự đổi mới mỗi ngày thêm tệ hại và tang thương. Ðổi mới ra sao: 
"Bằng cuộc bể dâu, xương trắng vẫn cao nghệu thành non, Giòng máu vẫn tuôn trào thành sông. Chưa thấy bóng thanh bình một lần ! Sau đó anh mạnh dạn kêu gọi tình ruột thịt: Dù nhục dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt nam. Hãy tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu.” 
Chứng nhân thành quả. 
Tháng 4 năm 1997 Trầm Tử Thiêng tháp tùng phái đoàn báo chí, văn nghệ sĩ hải ngoại đến tham dự lễ khánh thành "Làng Việt nam" ở phi luật tân. Các anh đã chứng kiến ngôi "làng Việt nam đang xây, bên ngoài Việt nam" (lời bài có tin vui). 
Thành quả của gần 2 triệu dollars do đồng bào hải ngoại đóng góp, trợ giúp, xây dựng ngôi làng Việt nam cho dân tỵ nạn, được chính phủ Phi luật tân cho phép ngụ cư vĩnh viễn trên quê hương ho Theo anh đây là một chuyến đi thật cảm động và lý thú. 
Từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc. 
Khi đồng bào quốc nội nổi dậy chống lại bạo quyền việt nam, phát xuất từ vựa lúa Thái bình. Các đảng viên cộng sản về vườn, sau khi dâng trọn đời cho chủ nghĩa cộng sản. Bạo quyền đàn áp thân quyến những cựu chiến binh của ho Cuộc nổi dậy của Thái bình làm nức lòng đồng bào hải ngoại, quyết tâm yểm trợ cuộc đấu tranh của ho Trầm Tử Thiêng vội viết ca khúc "Từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc", tức tốc thâu thanh suốt đêm để kịp thời trình diễn trong ngày biểu tình tháng 9 tại Little Sàigòn. Trong ngày biểu tình, với 12,000 đồng bào tham dự, ca khúc từ đốm lửa Thái bình Xuân lộc được trình diễn liên tục, trên các làn sóng radio tại little sàigòn, và tiếp vận đến các tiêu bang khắp Hoa kỳ. 
Bài này viết: 
"Những nhánh lúa đã được cấy xuống, dân làng ta về nhà chợ Nghĩ đến lúc có hạt thóc mới, đêm nào cũng nằm mơ. 
Nhưng người dân Thái bình cũng như cả nước đã bị bọn cường quyền ác bá bóc lột không thương tiếc:
"Nếu tránh thoát những phường ác bá, cũng gặp bọn cường quyền.' 
Ðồng thời phía nam, đồng bào giáo dân Xuân lộc cũng nổi lên chống chính phủ, đòi lại quyền tự do tín ngưỡng. Hiện nay đã lan rộng tới đồng nai Cộng sản đàn áp cuộc nổi dậy, nhưng họ biết những người đang bị họ cưỡng bức cũng là những đồng chí của họ trong suốt quá trình năm mươi năm xây dựng chủ nghĩa cộng sản: 
"Năm mươi năm bơi chèo chới với,trong hồ ao đục ngầuNăm mươi năm chung đường sớm tối,đã nhìn rõ mặt nhau." 
Trong "Hãy vui lên, khi lòng còn biết buồn" anh kêu gọi mọi người hãy tiếp tục nuôi dưỡng và duy trì tình cảm bén nhạy của đời sống. Trong đó Trầm Tử Thiêng nói đến hai điểm nóng thời sự: 

Trường hợp cơ quan NASA thám hiểm hoả tinh, thâu thập dữ kiện, hy vọng có đời sống và một tia hy vọng con người có thể lên sống trên ấy trong tương lai. 


Trường hợp thứ hai, Pete Peterson, một người tù binh của Cộng sản Việt nam ngày trước, đã trở thành một nhà ngoại giao, đại diện cường quốc mạnh nhất thế giới, làm đại sứ tại quốc gia đã cầm tù ông. Văn phòng đại sứ không mấy cách xa nơi giam ông suốt sáu năm trước.


Bài Exodus, nhạc của Ernest Gold, Trầm Tử Thiêng viết lời việt: "Lưu vong khúc của người Việt nam" (6/97), nói lên thân phận của người Việt qua những thời chiến tranh và những cuộc dời đổi, chia ly, dưới cái nhìn của một người Việt lưu vong. Hy vọng độc gỉa đã có dịp thưởng thức và thấm thía qua 2 ca khúc mới này trên video Hollywood night 17.Trên 30 năm sáng tác, Trầm Tử Thiêng đã có trên dưới 300 ca khúc, bao gồm những bài tình ca viết cho lứa đôi, hàng trăm ca khúc viết cho thiếu nhi, trong khoảng thời gian anh phụ trách chương trình phát thanh học đường tại Trung tâm học liệu, với hai cố nhạc sĩ Lê Thương và Hùng Lân, phát tuyến trên đài phát thanh quốc gia (không đề cập trong bài viết này). Một số tác phẩm của anh đã trở thành bất Tử, gắn liền tên anh với những biến chuyển, thăng trầm của đất nước.Trầm Tử Thiêng còn đóng góp nhiều tình khúc mang đầy nhân bản từ cảm xúc bén nhạy của anh.
LỜI CUỐI CHO ANH. 
Khi tìm đọc lại bài viết này thì hàng ngàn thân hữu, khán, thính gỉa ái mộ đến với anh lần cuối, để tiễn đưa TRẦM TỬ THIÊNG về nơi yên lành. Trong cuộc sống trên 60 năm đầy ý nghĩa, anh đã để lại nhiều tuyệt phẩm, hàng triệu người đã hát theo anh. Anh chỉ giã từ cõi tạm nhưng nơi này anh đã trở thành bất tử trong lòng mọi người.
Là một người bạn trong suốt 35 năm; Từ các quân trường Quang Trung, Ðà Lạt, Thủ đức, nào những chuyến ủy lạo thương binh, đến viếng thăm tiền đồn, và rồi 3 năm cuối tại Trung Tâm Học Liệu. Tôi và anh Trầm Tử Thiêng có hàng trăm kỷ niệm. Cuộc đời đầy nghiệt ngã, dù anh còn nghị lực nhưng định mệnh đã thắng, cướp anh đi khi anh vừa kiệt lực.
Xin cúi đầu giã biệt anh. Hẹn một ngày không xa, mình sẽ xum họp dưới sự quan phòng của Thượng đế. 
Vĩnh Biệt TRẦM TỬ THIÊNG

Nguyễn Ngọc Chấn 
Xuân 2000

















Trở về 





MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.