Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

Nguyễn Thị Thụy Vũ














http://phannguyenartist.blogspot.com/



Nguyễn Thị Thụy Vũ

tên thật: Nguyễn Băng Lĩnh
(19/8/1937 - .......) Vĩnh Long
Nhà văn












Tôi đang tập buông bỏ phiền não, trách móc trong những ngày tháng cuối cuộc đời mình.
Thật không dễ chút nào!
10/12/2018









Đôi nét về nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ




Nguyễn Thị Thụy Vũ
Thủ bút và chữ ký
Tạ Tỵ ký họa







Đoàn Dự ghi chép


Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. “Băng” là băng giá, băng tuyết; “lĩnh” là ngọn núi cao; “băng lĩnh” là ngọn núi cao quanh năm băng giá. Nhưng văn chương của chị Thụy Vũ thì chẳng băng giá một tí nào mà nó sinh động, hấp dẫn, hết sức tự nhiên, gần như… hơi can đảm vì dám nói thẳng ra những gì mình nghĩ, không sợ phái nữ phiền lòng.

Đây, chúng ta hãy coi thử những câu chị viết trong truyện ngắn “Lìa sông”:

“Em lo lắng lắm, không muốn dạy ở đây lâu hơn. Lật bật rồi đây học trò cũ có cháu nội cháu ngoại, mình phải làm bà cố bà cốc thì còn gì là đời em nữa. Nước mắm càng để lâu càng ngon, con gái để lâu như hũ mắm treo đầu giường, mà lại treo bằng loại chỉ rút ở thân cây chuối bẹ thơm thì thảm ghê gớm lắm! Nhiều khi nghĩ ngợi xa xôi, em ngáp ồn ào, chán đời nhưng không có can đảm cắt tóc đi tu”.

Ngay đến phái nam chị cũng chẳng tha: “Vào một buổi sáng, ông Trưởng ty chợt nhớ tới trường tụi em đã lọt sổ nhiều năm nay. Ổng dùng xuồng máy cùng ông Thanh tra rẽ nước lướt sóng mấy giờ đồng hồ mới tới nơi. Còn cách trường chừng một trăm mét, ông Trưởng ty muốn gặp quả tang cách làm việc và tác phong của bọn thầy giáo, cô giáo ở xa Ty, bèn đề nghị ông Thanh tra tắt máy ho-bo, dùng dầm bơi vô để không gây tiếng động. Hai ông có dáng dấp khác nhau. Ông Trưởng ty ốm như cây tre miễu, ông Thanh tra có vẻ xổ sữa hơn. Hai ông cột ho-bo cách chừng mười thước, đổ bộ lên núp sau hè lớp giống như cặp hề, chú ốm chú mập, Laurel và Hardy trong phim chọc cười. Ông Hiệu trưởng vẫn thản nhiên nằm lim dim trên võng phơi bụng, thịt da chảy nhì nhùng. Mùi rượu đế nặc nồng tỏa một góc lớp. Hai ông nhìn nhau thì thầm điều gì không rõ. Ông Hiệu trưởng ngỡ là mấy đứa học trò lớp nào đi tiểu ngoài hè. Ông tằng hắng một tiếng cho hạ đàm rồi nhiếc: “Quân nào rình mò ngoài vách đó? Tao bận xà-rông chớ chưa ở truồng mà!”. Hai ông bèn qua lớp khác thì thầy giáo đã đi đánh bài đâu mất, bỏ lũ học trò nhốn nháo như đàn vịt. Thua buồn, hai ông xuống ho-bo ra về. May quá, hôm đó các ông tới muộn, em đã ăn sáng xong, lá tẩy em chưa bị lật!”. Thật, hết chỗ nói và… hơi tức cười!

Năm 28 tuổi, chán không muốn làm cô giáo làng và không chịu nổi không khí bí bách, ngột ngạt ở nơi tỉnh nhỏ, Thụy Vũ bỏ Vĩnh Long tìm lên Sài Gòn để sống và viết. Khởi nghiệp từ năm 1965, chị viết truyện ngắn gửi đăng trên các tạp chí văn nghệ và nhanh chóng được chú ý nhờ lối viết sắc sảo, mạnh bạo, có duyên, nhất là với các đề tài riêng biệt khác hẳn các cây viết nữ cùng thời lúc đó. Chị viết về giới bán phấn buôn hương, các cô gái “snack bar”, các me Mỹ và các chuyện phá thai, những giấc mơ bị cưỡng hiếp, những người đàn bà bán trôn nuôi miệng nhưng luôn luôn sợ hãi một ngày nào đó mông teo ngực nhão không còn kiếm ra tiền, đói nghèo sẽ tới, bệnh hoạn sẽ cướp đi cuộc sống. Những đề tài này không lạ đối với các tác giả phái nam nhưng lại do một cây bút phái nữ đề cập, đó là chuyện lạ. Tại Sài Gòn, chị thuê một căn nhà mái tôn, vách ván, nằm trong một xóm lao động nghèo ở phía đối diện với chợ Đũi, quận 3, gần Tòa đại sứ Miên ở chỗ ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu, gần rạp ciné Nam Quang).

Cách Tòa Đại sứ Miên một khoảng có đình Phú Thạnh và phía sau ngôi đình ấy là “thế giới” của các cư dân nghèo, của những cảnh đời sa đọa, đầy rẫy đĩ điếm, ma cô, hút xách, rượu chè, cờ bạc, v.v… Thụy Vũ viết lách và làm thêm nghề dạy tiếng Anh cho các me Mỹ, các cô gái bán ba trong khu lao động đó. Cũng chính nhờ những sự tiếp xúc này, chị biết được nhiều chuyện do họ tỉ tê kể lại, làm chất liệu cho những tác phẩm cả truyện dài lẫn truyện ngắn chị viết về sau. Chúng ta thử xem chị mô tả một đoạn lúc đến dạy Anh văn cho mụ gái điếm đã gần tàn xuân sắc mang tên Mi-sen (Michèle). Từ thuở nhỏ Mi-sen chưa từng biết chữ, kể cả chữ Việt, nay vì nhu cầu giao dịch với ngoại kiều, bắt buộc nàng phải học. Cái tên Michèle do người khác đặt cho, nàng cũng không biết phải viết ra sao, mỗi lần lên quận làm giấy tờ, thay vì ký, Mi-sen đánh dấu chữ thập.

“… Hôm nay như thường lệ, tôi đến dạy Mi-sen vào những buổi trưa nắng gắt. Vào giờ này cánh cửa sắt trước nhà đã được chị Tư mở sẵn. Tôi cứ việc ung dung dẫn xe đạp vào và tự tay đóng cửa lại, không phải gọi chuông inh ỏi nữa. Đi ngang qua phòng khách tôi rẽ tấm màn quẹo qua buồng ngủ Mi-sen, rồi gõ nhẹ cửa.

“Cô giáo đó hả, vô đi.”

Tôi đẩy cửa bước vào, rồi bất chợt dừng lại. Mi-sen cười ngặt ngoẹo:

“Vào đi cưng. Chờ chị làm massage một chút nghen.”

Tôi tìm chiếc ghế ngồi cạnh giường, Mi-sen pha trò:

“Cô giáo hôm nay bắt gặp học trò trần truồng như nhộng. Chỗ đàn bà với nhau cả phải không cô.”

Bây giờ tôi được dịp quan sát Mi-sen kỹ hơn. Nàng nằm trên một chiếc khăn lông màu hồng trải trên tấm nệm mút phủ “ra” trắng. Bà làm massage quỳ hai gối xuống nệm, hai bàn tay thoăn thoắt trên các bắp thịt mông và lưng nàng. Mồ hôi rịn ướt trên đôi tay gân guốc của bà. Mắt Mi-sen lim dim, dáng điệu nàng như con mèo sưởi nắng một cách khoan khoái. Lúc nào nhìn người đàn bà khỏa thân tôi cũng có một cảm giác lạnh lẽo và tê tái như nhìn một bức tranh tĩnh vật với màu sắc hết sức ảm đạm. Riêng đối với Mi-sen, tôi nghĩ rằng tấm thân nõn nà, với làn da mịn màng đó, có cái gì mong manh. Tuổi già đã gần kề nàng. Chẳng bao lâu nữa, những bắp thịt thon đẹp kia sẽ nở bung ra, bụng sẽ nhão nhoẹt. Nghĩ tới giai đoạn đó, tôi cảm thấy buồn hơn là ganh tị…” (trích “Đợi chuyến đi xa”, trong tập truyện ngắn “Mèo đêm”)

Từ khi rời Vĩnh Long lên Sài Gòn cho tới 30/4/1975, Thụy Vũ đã viết được 10 tác phẩm, trong đó có 7 truyện dài và 3 tập truyện ngắn.


– 7 truyện dài gồm: Ngọn Pháo Bông, Thú Hoang, Khung Rêu (đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc năm 1971), Như Thiên Đường Lạnh, Nhang Tàn Thắp Khuya, Chiều Xuống Êm Đềm, Cho Trận Gió Kinh Thiên

– 3 tập truyện ngắn gồm: 1.Mèo Đêm (gồm 6 truyện: “Một Buổi Chiều”, “Đợi Chuyến Đi Xa”, “Mèo Đêm”, “Nắng Chiều Vàng”, “Bóng Mát Trên Đường” và “Miền Ngoại Ô Tình Lẻ”); 2.Lao Vào Lửa (gồm 3 truyện: “Chiếc Giường”, “Lao Vào Lửa”, “Đêm Nổi Lửa” – Truyện “Chiếc Giường” và truyện “Lao Vào Lửa” lấy bối cảnh tại một snack bar ở Sài Gòn. Còn truyện “Đêm Nổi Lửa” lấy bối cảnh ở nhà thương khám bệnh hoa liễu mà thời đó thường gọi là Nhà Thương Bạc Hà); 3.Chiều Mênh Mông (gồm 6 truyện: “Chiều Mênh Mông”, “Tiếng Hát”, “Lìa Sông”, “Cây Độc Không Trái”, “Trôi Sông” và “Đêm Tối Bao La”).

Chúng ta thử điểm qua các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã xuất bản.

Trước hết là 7 truyện dài của chị:

1. Thú Hoang: Mô tả thế giới nữ sinh trong một trường công lập tại tỉnh nhỏ. Ba nhân vật nữ chính, cô thứ ba bị tên nam sinh trường khác cưỡng dâm. Cô thứ hai dan díu với tên nam sinh sở khanh, có thai và phải đi phá thai. Còn cô thứ nhất xưng tôi, vì chán không khí tù túng nơi tỉnh lỵ cố hương nên bỏ nhà lên Sài Gòn với hy vọng có cuộc đời mới. Nhưng trên chuyến xe đò, cô gặp một tên nam sinh sở khanh và cảm thấy mềm lòng trước sự ve vãn của hắn. Tới đây tác giả chấm dứt câu chuyện, không ai biết sự đam mê sẽ đưa cô tới đâu.

2. Ngọn Pháo Bông: Mô tả tâm trạng của một cô gái buôn hương bán phấn về chiều nhưng vẫn còn hấp dẫn đối với mấy anh lính Mỹ trẻ trung. Cô kiếm ra tiền song lại thích bọn trai trong nước và bị chúng bòn rút, kiếm tiền của cô. Cuối cùng, cô bị đâm chết trong căn apartment mà nhà chức trách không sao tìm ra thủ phạm.

3. Như Thiên Đường Lạnh: Mô tả đời sống của cặp vợ chồng định cư trên cù lao sông Cổ Chiên gần chợ Vĩnh Long. Chồng là thầy giáo tiểu học, không hẳn là người ham thú vui tửu sắc nhưng chán cảnh sống vô vị ngày nào cũng lặp đi lặp lại không hề thay đổi. Vợ là người đàn bà nóng nảy, hỗn hào, tính hay ghen tuông nhưng rất mực đảm đang và một lòng một dạ thương yêu chồng. Người chồng chán sống, chán sự ngưng đọng ở nơi nửa quê nửa tỉnh song vì tinh thần yếu đuối, không có tài năng nên cuối cùng vẫn giữ nghề gõ đầu trẻ với sự uể oải không có niềm vui đó.

4. Nhang Tàn Thắp Khuya: Đây là câu chuyện về một người vợ mực thước, gánh vác giang sơn nhà chồng mà chồng là một “đại gia” thuộc hạng giàu có. Bất ngờ, một người bạn của chồng hiện diện. Y hiền lành, ít nói, tính tình thụ động, trái hẳn sự vững chắc, mạnh mẽ của chồng. Người vợ vốn rất bao dung và hay mềm lòng đối với kẻ yếu đuối. Nàng không ngờ từ sự thông cảm của mình, dần dần làm nàng lún sâu vào tình yêu. Người bạn của chồng và nàng đều thầm hiểu rằng họ đã yêu nhau, người bạn hăm hở tiến tới, còn người vợ vì lễ giáo nên chỉ đau khổ trốn vào bổn phận vợ hiền. Song song với tình yêu chồng, người vợ có một niềm bí mật ngàn lần lộng lẫy nàng vẫn cất giấu trong kho tàng kỷ niệm của riêng mình.

5. Chiều Xuống Êm Đềm: Truyện xảy ra vào thập niên cuối của thế kỷ 19. Cặp vợ chồng già trưởng giả ở làng Đạo Thạnh tỉnh Mỹ Tho, sống cô đơn, nương tựa vào nhau. Ngày xa xưa, khi còn nhỏ tuổi, người chồng đã từng chứng kiến người cô ruột của mình hãy còn là một xử nữ, trong chuyến hải trình từ Huế vào Nam Kỳ, đi thuyền, gặp sóng to gió lớn, chủ thuyền và bọn hành khách mê tín đã nhẫn tâm liệng người cô ấy xuống biển cho Long Vương làm vợ bé để cầu biển lặng sóng êm. Khi cậu bé lớn lên, cậu cưới một thiếu nữ thuộc họ hàng thân thích của Tả quân Lê Văn Duyệt.

Nhưng sau khi Tả quân qua đời, Lê Văn Khôi, con nuôi của Tả quân, làm loan nên bị triều đình tiêu diệt và cả họ hàng của Tả quân bị liên lụy, bị xử chém theo án tru di tam tộc. Người vợ họ Lê dùng bột tỳ sương tự vận để khỏi bị lôi ra pháp trường xử trảm. Thời gian trôi qua, ít lâu sau người chồng tục huyền với một thiếu nữ khác. Dù được người vợ sau yêu thương và tận tụy săn sóc, nhưng hai vết thương lòng–cái chết của người cô ruột trên thuyền và người vợ cũ tự vận–không thể nào tàn phai trong tâm trí người chồng khốn khổ đó.

Người vợ sau chỉ sinh được hai cô con gái. Cả hai đều xinh đẹp, hiếu hạnh và lấy chồng có địa vị cao sang trong xã hội, làm vẻ vang cho cha mẹ. Rồi các cô lần lượt theo chồng. Dưới mái nhà âm u, cổ kính chỉ còn đôi vợ chồng già. Đây là lúc lão ông sống với dĩ vãng đau thương, còn lão bà thì lúc nào cũng lo sợ cái chết sẽ cướp đi một trong hai vợ chồng, người ở lại sẽ phải chịu cảnh lẻ loi trong buổi hoàng hôn của cuộc đời…

6. Cho Trận Gió Kinh Thiên: Đây là một xã hội thu nhỏ của xóm lao động ở gần chợ Đũi và bót cảnh sát Quận 3, cùng bên với Tòa Đại sứ Miên trước năm 1975 (nay là trụ sở UBND Quận 3). Ở đấy có đình Phú Thạnh. Khu phía sau đình là xóm có nhà chứa điếm, có quán nhậu, có sòng bài, có chỗ hút á phiện… Trong khung cảnh bệ rạc “tứ đổ tường” ấy, chỉ trừ hai nhân vật chính có ăn học là đôi tình nhân Đồng và Nguyệt, còn thì toàn là thứ đá cá lăn dưa, chằng ăn trăn quấn. Gặp thời buổi lính Mỹ đổ qua Việt Nam tham chiến, đàn bà con gái trong khu đua nhau lấy Mỹ, ngoại tình, bài bạc…

Thậm chí, một bà mẹ trong căn gác xép, ngồi niệm Phật thì cô con gái lợi dụng đêm tối, chỗ khuất cột đèn, đem tình nhân về hì hục làm tình ở ngoài bao lơn khiến bà than trời như bọng: “Mèn ơi, mỗi khi mình mở miệng niệm Phật thì ở ngoải tụi nó làm đùng đùng như cù dậy”. Lại có chuyện đôi vợ chồng già, chỉ còn sống chung với nhau vì nghĩa, hết còn vì tình. Ông chồng đau ốm dây dưa làm phiền bà vợ trong khi bà rất mê bài bạc. Lúc ông hấp hối, đứa cháu đến sòng tứ sắc báo tin, bà nhứt định đánh cho tới “đứt chến” mới về nhà lo ma chay. Bà già này có đứa em gái vừa câm vừa điếc, vậy mà không hiểu sao cũng có tên đàn ông nào đó “gieo giống” khiến y thị có thai, lần lượt đẻ hai đứa con cho chị mình nuôi. Đến khi y thị lăn đùng ra chết, bà già mê bài bạc vẫn tiếp tục đánh tứ sắc trong khi xác đứa em gái còn nằm trên gác chưa tẩn liệm…

7. Khung Rêu: Truyện này được Giải thưởng Văn học toàn quốc năm 1971, lấy thời điểm là khoảng năm 1945, từ thời Pháp thuộc chuyển sang thời kỳ “cách mạng” của Việt Minh. Gia đình ông Phủ – một vị quan lại quyền cao chức trọng dưới thời Pháp thuộc đã về hưu (không nói rõ ông Phủ tên gì) – rất nhiều ruộng đất và quyền lực đối với tá điền, nay đã khánh kiệt do tình thế nhiễu nhương, không thu được lúa ruộng nhưng vẫn giữ nếp sống phong kiến đầy rẫy bê bối của một gia đình giàu có, quan lại. Ông Phủ đã lớn tuổi, cưỡng dâm cô người hầu mơn mởn tên Ngà, khiến cô này có thai. Bà Phủ tức giận, dọn ra ở riêng và sống như người tu hành, không thèm nhìn mặt ông Phủ nữa.

Rồi Canh, gã trưởng nam ngỗ nghịch, chỉ muốn cha mình sớm chia gia tài cho mình để được ăn chơi phung phí. Rồi Thụ, người thứ nam tương đối có cá tính rõ rệt, rất hưởng ứng phong trào “cách mạng”, vào chiến khu theo Việt Minh nhưng chẳng làm nên trò trống gì. Rồi Tịnh, cô cháu gái gọi ông Phủ bằng cậu, yêu Hoàng – chàng nam sinh ở trọ ăn cơm tháng có tài chơi đàn. Hai người yêu nhau tha thiết nhưng bị ông Phủ cấm đoán, họ bỏ nhà, trốn đi xây dựng tổ ấm được ít lâu, sau đó vì nghèo túng, không biết làm gì để sống nên lại phải trở về.

Ông Phủ đuổi Hoàng không cho ở nữa. Tịnh nhớ người yêu, phát điên rồi chết trong Dưỡng trí viện Biên Hòa…, câu chuyện cứ thế tiếp diễn. Cuối cùng, ông Phủ mất về bệnh đau tim. Rồi bà Phủ cũng mất, cái “khung rêu” đó mục nát, ly tán, những người còn lại sống chẳng ra sao…

Có lẽ tác phẩm nói trên dựa vào phần lớn sự thực nên trong phần “Thay Lời Tựa”, tác giả trần tình:

“Từ hồi còn nhỏ tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. (Cái thịnh mãn của hạng điền chủ ở miền Nam trước đây). Nguyên nhân chánh của sự suy sụp bệ rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. Một cuộc chiến tranh dằng dai hai mươi lăm năm, khoảng thời gian gần bằng số tuổi của tôi.

Tôi sanh ra và lớn lên trong một dòng dõi đã đến hồi ly tán. Cái họ của tôi gồm hai chữ có gạch nối có thể sẽ gợi lên những cảnh sống huy hoàng, vương giả của một thành phần xã hội trong trí nhớ ao tù của những ông già bà lão, những cảnh sống mà tôi chỉ nghe kể lại như một chuyện hoang đường trong những lần giỗ chạp.

Bây giờ chỉ còn lại một ngôi nhà thừa tự, cột kèo chạm trổ tinh vi đã mục rệu, và chẳng bao giờ lành những vết thẹo của chiến tranh; những điền sản cò bay thẳng cánh chỉ biết đến qua một đống bằng khoán vô dụng mà giấy đã ố vàng và giòn tan, một đám bà con xa gần chi chít, nhỏ nhen ích kỷ như sò hến và hoàn toàn vô tích sự.

Tâm lý của hạng người này khá đặc biệt. Đó là những thằng chồng trôi dạt lềnh bềnh trên giòng sông hung tợn, một hạng người khư khư ôm lấy cái quá vãng vàng son (nát dậu cũng còn bờ tre), dở thầy dở thợ dở cu ly, bất lực trước sự biến đổi nhãn tiền của cảnh ngộ, bấu víu vào nhau mà sống sót. Trong ngôi nhà thừa tự đó, mỗi người là một hòn đảo của những thói hư tật xấu… Có phải con người một khi đã mất thăng bằng trong cuộc sống vật chất thường để lộ ra rõ rệt hơn bao giờ hết những xấu xa tàn tệ của mình? Và một giai cấp cũng vậy.

Khi khởi công quyển truyện này, tôi đặt trước cho tôi một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thời nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong.

Lẽ hiển nhiên, tôi không hề có ý định làm công việc của nhà xã hội học hay của nhà đạo đức học. Những công việc này vượt quá sức của tôi. Vả lại, chúng cũng chẳng lợi lộc gì cho tôi.

Tôi cũng không có ý định phân tích các nguyên nhân, và nhất là phê phán một ai hay một điều gì. Cho riêng tôi, tôi chỉ muốn dựng lại cái thế giới khốn đốn đã bao trùm tôi cho đến ngày nay. Tôi chỉ muốn mô tả một hiện tượng xã hội hoàn toàn thân thuộc mà thôi.

Tiểu thuyết là tưởng tượng, ai cũng biết vậy, nhưng có tưởng tượng nào không bắt nguồn từ một phần sự thật?

Sở dĩ tôi trình bày như vậy, là để xin những người thân thích của tôi, nếu có dịp tình cờ nào đọc quyển truyện này, hãy rộng lòng tha thứ cho tôi”.

Còn sau đây là 3 tập truyện ngắn của chị Thụy Vũ:

1. Tập Mèo Đêm: Khi tập truyện này do nhà Thời Mới của nhà văn Võ Phiến xuất bản thì chỉ có 4 truyện ngắn: hai truyện “Một Buổi Chiều”, “Đợi Chuyến Đi Xa” nói về tâm trạng ray rứt, thèm thuồng tình yêu lẫn tình dục của một cô gái già; hai truyện “Mèo Đêm” và “Nắng Chiều Vàng” nói về các cô bán bar dan díu với bọn lính Mỹ. Khi được nhà xuất bản Kim Anh tái bản thì có thêm 2 truyện “Bóng Mát Trên Đường” và “Miền Ngoại Ô Tình Lẻ”. Hai truyện này nói lên niềm cô đơn của tác giả được thể hiện qua hai nhân vật nữ, văn chương êm dịu, đôi lúc thơ mộng nhưng có khi lại le lói mầm mống nổi loạn.

2. Tập Lao Vào Lửa: Viết về nếp sinh hoạt của các cô gái điếm trá hình làm chiêu đãi viên trong các snack bar. Như phần bên trên đã nói, hai truyện “Chiếc Giường” và “Lao Vào Lửa” lấy bối cảnh tại một snack bar ở Sài Gòn, còn truyện “Đêm Nổi Lửa” lấy bối cảnh ở nhà thương khám bệnh hoa liễu mà thời đó gọi là Nhà thương Bạc Hà. Nhân vật chính bị bắt đi “lục-xì” (look and see) tức đi khám bệnh xem có vi trùng giang mai hay không, và bị giam lỏng trong nhà thương đó. Muốn thoát ra khỏi nhà thương, đương sự thông đồng với mấy người đồng cảnh ngộ bị giam và người tình ở bên ngoài. Đợi tới đêm giáp Tết, cả bọn nổi lửa gây hỏa hoạn để thừa lúc hỗn loạn chạy ra ngoài. Các cô chạy thoát nhưng rách te tua do leo qua hàng rào, nhiều cô trầy sứt và chỉ còn chiếc quần xi-líp.

3. Tập Chiều Mênh Mông: Gồm truyện “Chiều Mênh Mông” (cùng tựa với tập truyện), mô tả tâm trạng của những nhân vật cô đơn. Truyện “Tiếng Hát” mô tả sự bỡ ngỡ của cô thiếu nữ lạc loài theo kiểu tha phương cầu thực. Tình cờ cô bước vào cái xã hội văn nghệ sĩ thời thượng và chịu ăn nằm với một chàng du ca mà không nghĩ sự dan díu đó sẽ đi tới đâu sau cuộc làm tình không mấy hào hứng. Truyện “Lìa Sông” là lời kể của một cô giáo làng mô tả về chuyện dạy dỗ và thân phận hẩm hiu của mình trong khi cô đủ cả công dung ngôn hạnh.

Cuối cùng, cô may mắn có được tấm chồng và sống hạnh phúc. Truyện “Cây Độc Không Trái” mô tả cô gái bán bar đi phá thai. Cách phá thai được tác giả trình bày chi tiết khiến người đọc rùng mình. Rồi tác giả mô tả luôn mặc cảm phạm tội của cô gái cùng cái ý tưởng lo sợ mai sau cô sẽ tuyệt tự. Truyện “Trôi Sông” và truyện “Đêm Tối Bao La” với bút pháp dữ dằn, cốt truyện phanh phui tàn nhẫn cái bản năng giông bão của những hạng cùng đinh trong xã hội.

Sau 1975, chị Thụy Vũ thôi không viết lách gì nữa, chỉ buôn bán lặt vặt, kể cả làm lơ xe đò để có tiền nuôi 3 đứa con nhỏ dại có với nhà thơ Tô Thùy Yên. Đời sống quá khổ cực, nhờ bà mẹ cho một khu đất rừng trồng cà phê ở Lộc Ninh, chị bán căn nhà ở Làng Báo Chí được mấy chỉ vàng, cộng với chút ít vốn liếng đã tích cóp được, lên Lộc Ninh dựng căn nhà chòi, mua được hai con bò và mấy con dê, trồng trọt rau cỏ, trông nom cà phê, đời sống hết sức khốn quẫn. Sau, có một nhà văn (tôi không nhớ rõ tên), từ bên Mỹ về, lên thăm, thấy chị khổ cực quá nên khi trở lại Mỹ, viết bài “Thụy Vũ chăn dê” (lấy tích Tô Vũ chăn dê trong truyện Chiêu Quan cống Hồ đời Tống bên Tàu), đăng lên các báo bên ấy. Các văn hữu và nhiều độc giả ở Mỹ biết tin, gom góp nhau gửi tiền về giúp đỡ. Được sự trợ giúp, chị bán dê, bán bò, mua được một miếng đất gần đường nhựa (từ phía Lộc Ninh đi xuống), xây được căn nhà cấp 4 nho nhỏ, mái lợp tôn, có giếng nước, đời sống cũng tạm ổn định.


Bà Văn Quang, nhà văn Thụy Vũ


Từ thời còn con gái, làm nghề viết văn và dạy học, chị Thụy Vũ chung sống với nhà thơ Tô Thùy Yên, sinh được 3 con, hai gái, một trai. Cháu lớn tên Khôi Hạnh. Cháu trai tên Khôi Hạo. Cháu gái nhỏ nhất tên Khôi Thụy (sinh năm 1973). Nhưng chẳng may, cháu Thụy lúc mới chưa đầy 2 tuổi, chị người làm không cẩn thận khiến cháu bị té ngửa từ trên giường xuống nền gạch, chấn thương sọ não rất nặng. Suốt bao nhiêu năm nay cháu sống đời sống thực vật, chỉ nằm một chỗ, u mơ không biết gì hết. Nhà văn Văn Quang cho biết, vào những năm tháng đầu sau biến cố tháng 4-1975, có một thời gian tác giả “Chiều xuống êm đềm” đã phải làm lơ xe đò, chạy đường Sài Gòn-Thủ Đức. Suốt ngày chị chỉ đứng một chân… Tới khi kiệt sức, không kham nổi nữa, chị đem con cái về Lộc Ninh. Chốn ở mới của chị là một nơi “không có điện, không có nước, Thụy Vũ và các con sống như người rừng!”

Sau đây là lời kể của nhà văn Văn Quang, để bạn đọc biết rõ thêm về tình mẫu tử của chị Thụy Vũ (trong lời kể có nhân vật tên “Ngân”, đó là chị Văn Quang):

“Suốt ngày hôm đó, cái hình ảnh cháu Khôi Thụy ám ảnh tôi không rời. Buổi trưa tôi ngồi với Ngân ngay trên sàn gạch nhà ngoài. Tôi nghe phòng bên văng vẳng tiếng cười rúc rích của Thụy Vũ, tiếng chị nựng nịu, tiếng nước chảy ào ào rửa nhà và tiếng hát ru của chị vẳng lên giữa núi rừng. Tôi có cảm tưởng như chị sống rất hồn nhiên, vui vẻ bên đứa con thơ hai ba tuổi. Càng nghe chị cười, chị thủ thỉ với con, tôi càng thấy nghẹn ngào. Đôi mắt Ngân chớp mau, cô nói như để che lấp nỗi lòng mình:

– “Anh thấy không, đó là nét đặc biệt nhất của Thụy Vũ. Chị luôn coi đứa con chị như khi còn hai tuổi và chị cứ hình dung cháu không hề bị bệnh, chị vẫn nựng nịu cháu, cười đùa hồn nhiên với cháu. Có miếng gì ngon chị cũng để phần cho cháu, dù chị biết rõ hơn ai hết rằng nó không hề phân biệt được cái gì là thức ăn chứ đừng nói đến ngon dở. Nhưng đó là tấm lòng bao la của người mẹ…”

– “Phải nói rằng đó là một người mẹ tuyệt vời và một tấm lòng can đảm vô bờ bến…”.

Vâng, đúng như thế, chị Thụy Vũ là một người trầm lặng, ít nói nhưng hết sức can đảm. Có một điều ít ai để ý rằng, tuy chung sống với nhà thơ Tô Thùy Yên khi anh đã có người vợ chính thức là cô giáo Huỳnh Diệu Bích và các con, thời gian chung sống chỉ 5-6 năm nhưng sau 1975, anh bị đi cải tạo 10 năm, được thả về rồi lại bị bắt lại, ở tù thêm 3 năm do có tập thơ “chống cộng” ai đó xuất bản ở bên Mỹ, từ đấy đến nay chị vẫn sống thầm lặng một cách hết sức khó khăn để lo cho các con, không “bước đi bước nữa” hoặc quen biết với ai khác. Tôi nghĩ tình yêu của chị đối với anh Tô Thùy Yên rất lớn và chị là người đàn bà chung thủy, tuy nghèo cùng cực nhưng lòng chị vững như đá núi.

Về phần Tô Thùy Yên, anh là một nhà thơ nổi tiếng trước năm 1975, tác giả bài thơ được Trần Thiện Thanh phổ nhạc Chiều Trên Phá Tam Giang.

Anh tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy.

Thuở nhỏ Tô Thùy Yên học trung học tại trường Petrus Ký, đậu xong tú tài, học Đại học Văn khoa Sài Gòn ban Văn chương Pháp, đang học thì bị động viên đi sĩ quan Thủ Đức, ra thiếu úy (lúc đó chưa có cấp bậc chuẩn úy) rồi được bổ về một đơn vị tác chiến thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Anh ăn nói giỏi, đọc nhiều, tư tưởng chính trị rất cao nên anh em vận động bốc thẳng anh từ Vùng IV Chiến Thuật về trung ương để làm trong ngành Tâm lý chiến (lúc đó chưa đổi tên thành Chiến tranh chính trị) và có phương tiện hoạt động văn nghệ.

Tô Thùy Yên bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới trước khi hiện diện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo: Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những nhân vật nòng cốt trong nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ Tự Do” trên văn đàn miền Nam vào khoảng thập niên 1960.

Sau 30/4/1975, với cấp bậc cuối cùng là Thiếu tá trưởng phòng Chiến tranh chính trị QĐVNCH, anh bị đi cải tạo 10 năm, được thả về rồi lại bị đi tù 3 năm, tổng cộng là gần 13 năm.

Cuối năm 1993, anh cùng người vợ chính thức là cô giáo Huỳnh Diệu Bích và các con sang Mỹ định cư theo diện HO, hiện nay đang ở Houston, tiểu bang Texas.

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi ta (chị sinh năm 1937), tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Đinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Đinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. Mỗi tháng cứ đến khoảng 27, 28 là cháu gửi $100 về cho em. Ở cái xứ Lộc Ninh nghèo nàn ấy, có mấy người mua cá kiểng đâu, nếu mỗi tháng không có $100 của người chị, con gái anh Tô Thùy Yên từ bên Mỹ gửi về giúp đỡ, thì không biết cái gia đình của nhà văn nữ đã một thời nổi tiếng Nguyễn Thị Thụy Vũ – người đã từng đoạt giải Văn học toàn quốc năm 1971 – sẽ sống ra sao.


Đoàn Dự ghi chép 















Tác phẩm đã xuất bản







7 truyện dài








1
Ngọn Pháo Bông
 

Nxb Hiện Đại 1968








2
Thú Hoang

nxb Hồng Đức 1968









3
Khung Rêu

Nxb Kẻ Sĩ 1969
(Giải nhì văn chương toàn quốc 1970)









4
Như Thiên Đường Lạnh

Nxb Kẻ Sĩ 1972








5
Nhang Tàn Thắp Khuya

Nxb Cửu Long








6
Chiều Xuống Êm Đềm

Nxb Cửu Long









7
Cho Trận Gió Kinh Thiên

Nxb Nguyễn Đình Vượng 1973











3 tập truyện ngắn










1
Mèo Đêm


(gồm 6 truyện: Một Buổi Chiều, Đợi Chuyến Đi Xa, Mèo Đêm, Nắng Chiều Vàng, Bóng Mát Trên Đường và Miền Ngoại Ô Tỉnh Lẻ)










2
Lao Vào Lửa

(gồm 3 truyện: Chiếc Giường, Lao Vào Lửa, Đêm Nổi Lửa – Truyện Chiếc Giường và truyện Lao Vào Lửa lấy bối cảnh tại một snack bar ở Sài Gòn. Còn truyện Đêm Nổi Lửa lấy bối cảnh ở nhà thương khám bệnh hoa liễu mà thời đó thường gọi là Nhà Thương Bạc Hà)









3
Chiều Mênh Mông

(gồm 6 truyện: Chiều Mênh Mông, Tiếng Hát, Lìa Sông, Cây Độc Không Trái, Trôi Sông và Đêm Tối Bao La).













Nguyễn Thị Thụy Vũ

Đàn Kiến Lửa


Trường Hợp Nguyễn Thị Thụy Vũ

Năm 1963, trên tạp chí Bách Khoa, xuất bản tại Saigòn, bắt đầu xuất hiện một số truyện ngắn của một cây bút nữ lạ huơ lạ hoắc. Sự huơ, hoắc này không chỉ mang ý nghĩa một tên tuổi mới, mà, nó còn huơ hoắc ở cả phương diện nội dung nữa. Đó là những truyện ngắn ký tên Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Nguyễn Thị Thụy Vũ xuất hiện trên văn đàn miền Nam khi Nhã Ca đã có một chỗ đứng riêng biệt vững vàng cả về thơ lẫn truyện; khi Túy Hồng đã định hình lấy cho mình bằng một lối văn chanh ớt, rất địa phương, rất Huế; khi Trùng Dương được nhìn ngắm như kẻ đang cầm ngọn cờ đầu trong nỗ lực đuổi theo phong trào văn chương hiện sinh; và, khi Nguyễn Thị Hoàng vừa chính ngọ với tác phẩm "Vòng Tay Học Trò," như một táo tợn bất ngờ hiếm thấy của với văn chương Việt Nam ở thời kỳ còn quá nhiều rào cản.

Tuy xuất hiện có phần muộn màng so với những cây bút nữ vừa kể, nhưng Nguyễn Thị Thụy Vũ cũng đã có lấy cho mình một tư thế, một móng vuốt riêng.

Tư thế xuất hiện mang tên Nguyễn Thị Thụy Vũ kia, là sự trần trụi của những chuyện kể mang nhiều tính tự sự về phần đời khuất lấp của cô. Đó là mặt thật của một người phụ nữ làm nghề dậy Anh văn cho những cô gái bán “bar,” cho những vũ nữ, những cô me mới tỉnh lẻ. Đó là thời điểm những người lính Mỹ ngơ ngáo, hùng hục xuất hiện trên phần đất miền Nam Việt Nam. Những truyện ngắn có cốt truyện, lớp lang đâu ra đấy, đã hấp dẫn số đông, lớp độc giả chỉ thích đọc những truyện có có cốt chuyện và câu truyện đáp ứng được tính tò mò.

Móng vuốt mang tên Nguyễn Thị Thụy Vũ kia, là những mô tả thật thà, mộc mạc với những suy nghĩ và đối thoại rất đường phố, rất gần gụi với bản năng cùng dục tính.

Không kể Nhã Ca và Túy Hồng, có một hướng đi khác; trước Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương và Nguyễn Thị Hoàng cũng khai thác thể tài tình dục, hoặc ẩn ức tâm sinh lý như cốt lõi hình thành tác phẩm. Nhưng trước một Trùng Dương còn cố tình mặc khoác cho tình dục chiếc áo ngủ triết lý và trí thức, trước một Nguyễn Thị Hoàng còn nỗ lực son phấn, chồng chéo nhiều mẫu mã thời trang diêm dúa cho tình dục thì, Nguyễn Thị Thụy Vũ lại giữ nguyên trạng, giữ nguyên cái trần trụi, cái thô tháp rất bản năng, rất con người của tình dục. Sự trần trụi, thô tháp này, khiến không ít những người nhân danh đạo đức, nhân danh truyền thống, một thời, đã phải nhăn mặt, lên án... Và, đấy cũng là mặt thành công của hành trình vào văn chương của Nguyễn Thị Thụy Vũ vậy.

Tên thật là Nguyễn Băng Lĩnh, Nguyễn Thị Thụy Vũ sinh năm 1939 tại Vĩnh Long. Cô làm nghề gõ đầu trẻ tại tỉnh lỵ này cho tới năm 1961 thì dời lên Saigòn.

(từ Du Tử Lê)° ° °


Châu dẫn Biểu, người đánh xe thổ mộ đến trình diện bà Tư. Mọi việc đều thỏa thuận êm xuôi. Biểu đem một cặp vịt xiêm, hai chai rượu nếp than, một lít rượu đế xuống nhà bà mẹ nuôi để làm lễ ra mắt họ hàng bên vợ. Hôm đó, ông anh bà con của Biểu từ miệt Củ Chi cũng xuống chứng đám. Thế là Châu, hăm hở lên ngã Ba Cây Quéo để coi sóc nhà cửa cho chồng.
Bà Tư vẫn cờ bạc đều đều, vẫn chửi lộn hà rầm với hàng xóm. Cuộc đời không tiến mà cũng không lùi. Một hôm bà đang ngồi trên bộ ngựa gõ têm trầu thì Châu gánh một gánh rau bước vô, nét mặt lo lắng. Chị ta lột chiếc khăn rằn bịt trên đầu, lau mồ hôi, hổn hển nói:
- Má nên lo gã chồng cho con Ngọc đi. Nó đang có chửa với thằng Chơn ở mướn cho thiếm Bảy Bụng.
Bà Tư sững sờ, chết điếng:
- Ai nói mày vậy?
- Không tin thì má thử hỏi đầu trên xóm dưới đi. Ở trong nhà chẳng ai hay mà người ngoài biết ráo trọi rồi.
Bà Tư hét:
- Sao hồi đó tới giờ mày không nói cho tao biết?
- Tui thấy cũng chưa có chuyện gì. Nhưng bây giờ, nó thú thật với tui là nó có thai được hai tháng.
Bà Tư trợn mắt:
- Thiệt vậy hả? Chắc phen này tao phải đội quần hết thảy bàng dân thiên hạ xóm này còn gì.
Châu nói nhỏ:
- Thủng thỉnh rồi tính. Má làm inh ỏi lên thì người ngoài hay hết trọi bây giờ.
- Mày nghĩ coi, còn non nước gì nữa mà giấu, vài ba tháng nữa là cái bụng nó thè lè ra. Bộ mày tưởng lấy thúng úp miệng voi được à?
- Mình phải o bế thằng Chơn để nó làm đám thú phạt với con Ngọc. Có vậy mới vớt vát mặt mũi mẹ con mình.
Bà Tư ra lệnh:
- Mày đi tầm con Ngọc, kéo đầu nó về đây cho tao.
Châu bước lẹ ra khỏi cửa. Bà Tư nhai nát miếng trầu, nhưng cớ sao miệng bà lạt nhách. Càng nghĩ bà càng tức âm ách. Ngọc không bằng một phần ngàn của bà thuở trước. Trong cuộc hôn nhân, bà luôn lèo lái một con ngựa ngoan hiền. Mỗi tiếng ho, mỗi cái ngáp của bà cũng đủ làm cho họ mất vía. Vừa mãn tang người chồng thứ nhất, bà nghĩ ra ý định chiêu phu. Điều kiện rất dễ dàng: nuôi bà ngày hai bữa cơm và cho tiền bà đậu vài chếnh bài tứ sắc mỗi ngày. Bà không cần bông vàng, trầu rượu, heo gà gì hết.
Từ khi ý định chiêu phu của bà được phổ biến trong xóm thì biết bao nhiêu gã si tình đến quán cơm của bà chầu chực. Sau hết, một tay anh chị Lăng Tô lọt vào mắt xanh của bà, nhưng trớ trêu một nỗi là gã đã có vợ. Bà vợ lớn tìm tới khóc lóc, năn nỉ bà Tư. Nhưng bà Tư thản nhiên:
- Ai mà thèm giữ chồng chị? Nó lủi đầu vô ở với tui, chớ phải tui rủ quyến gì nó đâu.
Người vợ bất hạnh từng nghe đồn bà Tư là tay đâm thuê, chém mướn nên chịu lép một bề. Bà cùng người con trai chở bàn thờ cha mẹ chồng xuống giao cho bà Tư thờ phụng giỗ quẩy.
Trong đời tình ái của bà Tư, đàn ông chỉ là thứ Thiên Lôi để bà sai đâu đánh đó. Đằng này Ngọc khờ khạo quá, bị người tình cướp trên tay đời con gái mà không dám mở miệng buộc hắn làm đám cưới. Được rồi, bà nhất quyết ra tay trừng trị thằng tiểu yêu đã làm bại hoại gia phong nhà bà. Bà đi xuống bếp, lấy con dao xắt chuối, cất dưới gầm giường.
Ngọc đã về, rón rén sau lưng bà như một con mèo hoang, không dám hó hé gì cả. Châu lên tiếng:
- Nó về đó má.
Bà Tư quay lại:
- Nè con đỉ chó, mày cặp xách với thằng Chơn đằng nhà bà Bảy Bụng phải không?
Ngọc thổn thức gật đầu, nói:
- Dạ con dại có bầu với ảnh…
Bà Tư nổi xung, túm lấy tóc Ngọc:
- Mày ngựa quá mà. Bây giờ nó tính sao với mày đây?
Ngọc khóc ấm ức. Bà Tư bạt tai nàng xiểng niểng vì cái tội ngu, chứ không phải vì tội làm điếm nhục gia phong. Ngọc ấp úng:
- Tuần sau ảnh đi quân dịch rồi nên ảnh hẹn lúc nào về phép sẽ mời ba má ảnh lên để nói chuyện với má.
Bà Tư rít lên:
- Mày là đồ uống máu dơ. Đợi đến lúc nó về phép thì cái bụng mày chình ình rồi. Nếu nó thiệt bụng thương mày thì đâu có hẹn lần, hẹn lữa…
Bà Tư ngó qua Châu:
- Mày qua mời bà Bảy Bụng với thằng Chơn nhín chút thời giờ lại đây cho tao hỏi thăm vài câu chuyện… quan hệ. Đừng có lộn xộn phanh phui về chuyện con Ngọc nghe chưa?
Một lát sau, Châu trở về với hai người khác. Một bà tuổi xồn xồn, bụng phệ, mặt mày sần sượng vì giấc ngủ trưa bị lủng đoạn. Gã con trai mặc quần xám, áo sơ mi trắng, chợt lộ vẻ lo lắng khi thấy Ngọc ngồi củ rủ ở mép giường.
Bà Bảy Bụng hỏi:
- Có đủ “tay xòe” chưa chị Tư?
- Ối, hôm nay không có cờ bạc gì hết. Tui mời chị lại nói chuyện đời cho đở buồn vậy thôi.
Bà Tư quay qua Chơn, chỉ chiếc ghế đẩu:
- Em ngồi đây chơi.
Chơn khép nép sợ sệt. Ngọc cúi mặt nhìn xuống đất. Bà Tư đứng dậy khóa trái cửa lại, giữ chìa khóa trong túi áo, rồi thong thả nhả xác trầu vào ống nhổ và hớp nước trà súc miệng:
- Chắc cậu em cũng đoán biết tại sao qua mời cậu em qua đây? Bà gằn giọng – và gài kín cửa như vầy?
Chơn ấp úng:
- Dạ… dì Tư có điều chi dạy cháu?
Bà Tư cười lạt, nói với bà Bảy Bụng:
- Nó là thằng làm công cho chị, tui coi như là chị thay mặt cho cha mẹ nó.
Bà Bảy Bụng hơi ngạc nhiên, ngó Chơn rồi day qua bà Tư:
- Gì vậy chị Tư?
- Còn chuyện gì nữa? Thằng Chơn rủ quyến con Ngọc cho tới mang bầu rồi làm lơ chị biết hôn?
Bà Bảy ré lên:
- Trời đất quỉ thần thiên địa ơi, ai mà dè.
Bà Tư ngó Chơn không chớp mắt, rồi thò tay lấy con dao xắt chuối bén ngọt lạnh lùng đặt trước mặt Chơn làm Chơn xanh mặt:
- Nè, cậu em. Tui hỏi cậu điều này, nếu cậu trả lời suông thì thôi. Còn ngược lại, tui sẽ chém cậu từng lóng tay, nghe chưa. Cậu thử hỏi chị Bảy đây coi con già này hồi xưa như thế nào. Tui coi việc tù tội như đi hứng mát Ô Cấp vậy.
Bà Bảy Bụng hạ thấp giọng:
- Chị cứ dạy cháu. Bao giờ nó không nghe thì trừng trị nó sau.
Bà Tư nhếch mép cười:
- Cậu có dám nhận là cậu đã lấy con Ngọc nhà tui cho tới nó mang bầu không?
- Dạ hai đứa con lỡ dại… thương nhau.
- Rồi cậu tính làm ngơ chuyện cưới hỏi phải không?
Chơn sợ sệt, ấp úng:
- Dạ con đã nói với con Ngọc, đợi lúc con về phép thăm nhà rồi sẽ…
Bà Tư quắc mắt:
- Trời đất! Từ đây tới ba tháng nữa cậu mới tính tới chuyện cưới hỏi thì con nhỏ tui có nước đội quần thiên hạ. Bộ cậu muốn rút êm hả?
Rồi bà gằn giọng, dữ tợn:
- Tui nói cho cậu biết. Nội trong ngày mai nếu cậu không về mời ba má cậu lên đây thì tôi quyết liều sống chết với cậu, nói có chị Bảy đây làm chứng.
Chơn cúi mặt buồn xo:
- Ba má cháu nghèo lắm. Dì Tư rán huởn cho con vài tháng nữa. Cần phải có vài chục ngàn mới làm đám cưới không đến nổi xập xệ.
Bà Tư lắc đầu lia lịa:
- Tui chỉ cần một lời nói phải quấy của tía má cậu thôi. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Tui không đòi hỏi giết heo mổ gà gì cả.
Chơn lặng thinh. Ngọc vẫn khóc rấm rức. Bà Bảy Bụng chen vào:
- Chuyện đâu còn có đó. Để tui lảnh phần làm mai cho.
Bà Tư nhai trầu ngấu nghiến:
- Cậu phải tính cho xong trước khi cậu đi lính. Nếu không, tui sẽ chém cậu ra làm ba khúc rồi sau đó có ra sao thì ra. Nếu cậu trổ mòi đoản hậu, tôi nói thiệt, dẫu có chạy lên trời cũng không thoát khỏi tay tôi đâu.
Bà Tư chụp lấy con dao hoa lên vài đường trông ớn lạnh, rồi đặt mạnh xuống bàn:
- Bây giờ tui tu rồi đó. Nếu chuyện này mà xảy ra vào cái thuở tôi còn mạnh tay khỏe chân thì không được êm thắm như vầy đâu.
Chơn đã giẫm phải ổ kiến lửa rồi. Không phải gã định đánh trống bỏ dùi, nhưng gã cần phải chờ hốt vài chân hụi để sắm một đôi bông búp bằng vàng làm sính lễ, cùng heo gà để bày tiệc đãi đằng. Bây giờ bà Tư ví gã vào thế kẹt quá. Khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào. Nếu bà đừng buộc gã làm con rễ gì trơn thì gã đâu có lúng túng khổ sở như vậy?
Bà Tư nghiến răng:
- Cậu hứa trước mặt chị Bảy là cậu sẽ đi cưới con Ngọc đàng hoàng trong nội tuần này đi.
- Dạ… con xin phép dì Tư cho ngày mốt con mới rảnh rang công việc.
- Đâu có được. Cậu phải gật đầu liền bây giờ hè. Cậu cưới vợ cho cậu chớ đâu có phải cho tía cậu. Nếu cậu không có tiền sắm nổi đôi bông cho nó thì tui cũng phải bù đắp, bao chi hết. Tui muốn vớt vát chút ít danh dự cho nhà tui, chớ tui đâu dám thèm tiền bạc của cậu. Con gái tôi tuy buôn gánh bán bưng chớ vòng vàng đeo đỏ tay, có thua gì con gái ông Phủ, ông Huyện đâu mà.
Bà Bảy can:
- Chị cứ tin lời nó. Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
- Ờ đúng vậy đó. Đừng ai giởn mặt với con già này mà chuốc họa vào thân nghe.
Khi khách ra về rồi, bà Tư lấy cái tô đá múc nước mưa, uống ừng ực. Nước tới đâu mát tới đó. Ngọc cầm khăn mù xoa quẹt nước mắt. Cử chỉ đó làm xốn mắt bà mẹ nuôi. Bà têm trầu, quát:
- Thấy con đỉ ngu si này khóc mà sao tao ứa gan? Mày lấy bậy cho sướng thây mày để cho tao phải mỏi miệng, rát nước miếng.

Đám cưới của Ngọc thật đơn sơ. Bữa nhóm họ, bà Tư mời miệng chòm xóm đến nhà bà để dùng tiệc trà. Chính bà đích thân đến từng nhà trong xóm, nên khó ai từ chối.
Nguyệt thắc mắc, không biết phải mua quà như thế nào để mừng Ngọc.
Ngỡi thành thạo:
- Ở đây không ai ưa nhận quà đâu. Mình đi tiền là tiện nhứt.
Nguyệt rủ:
- Chiều nay, tui đi làm về xong, tụi mình cùng đi một lượt. Chị tính đi bao nhiêu coi cho được?
Ngỡi nói không cần suy nghĩ:
- Qua bên đó, tụi mình chỉ hớp được ly nước ngọt. Đi nhiều uổng tiền. Tiền nhiều để dành cho ăn mày còn được phước hơn.
Thấy Nguyệt chưa kịp hiểu lời. Ngỡi giải thích:
- Nhà đó là chúa tham. Để rồi chị coi, qua cái đám thú phạt này là họ cải nhau giành phần chia chác. Họ ó ré, sâu xé rùm xóm, chịu đời không thấu.
Ngỡi nhìn ra cửa sổ:
- Lại nữa, đi ăn cưới thì không sao. Đi ăn đám thú phạt xui lắm. Tưởng họ mổ gà, vật heo gì đó. Hên lắm mình được ăn bánh mua trong tiệm Khách Trú.
Nguyệt hỏi:
- Mình nên đi chải tóc, phun keo và làm móng tay coi cho được mắt một chút. Để u trệ người ta quở.
- Ồ, hơi nào! Uổng tiền lắm. Bộ chị tưởng bên đó dập dìu tài tử giai nhân gì sao mà phải bỏ công chải chuốc tóc tai?
Đến chiều, Nguyệt và Ngỡi mặc áo đồng một màu xanh ve chai, không son phấn bước qua nhà bà Tư. Ngoài hàng ba, ánh đèn “măng sông” trong vắt quét một vệt ánh sáng vào bên trong. Tiếng radio mở ồn ào hòa lẫn tiếng ó ré của mấy người bà ngoài hẻm tưởng chừng ở đây có một đám giặc. Các bợm nhậu kéo giọng nhừa nhựa, nói những câu đầu Ngô mình Sở, không ai chịu nổi.
Bà Tư hớn hở kéo ghế mời Nguyệt và Ngỡi ngồi. Nguyệt liếc vào phía trong. Chiếc màn ni-lông trắng chen hồng lay động. Ngọc bẻn lẻn bước ra. Chiếc áo dài màu gạch thêu kim tuyến trắng bó sát lấy tấm thân bụ bẫm của cô ta, và đố kỵ nước da đen mốc của cô ta. Ngọc nghiêng đầu chào hai người, Ngỡi đứng dậy, cầm bao thư đựng tiền mừng trao cho Ngọc. Cô ả lí nhí cám ơn khi Nguyệt chúc cho cô được trăm năm hạnh phúc.
Bà Tư lật phong thư không dán kín, lôi món tiền ra trước mặt Nguyệt, giọng thản nhiên:
- Châu biên vào sổ đi… Cô Nguyệt đi năm trăm đồng, còn cô Ngỡi ba trăm.
Châu khom người xuống tập giấy, nắn nót từng chữ một. Nguyệt ngượng chín người. Ngỡi nheo mắt nhìn qua Nguyệt, cười tinh quái.
Bà Tư mời Nguyệt:
- Mời cô Hai dùng chút nước ngọt mừng cho em đi.
Tuyệt nhiên, bà không đá động tới Ngỡi. Ngọc lẹ miệng mời thay:
- Mời chị Ngỡi ăn chút bánh lấy thảo.
Nguyệt hớp ngụm xá xị rồi đứng dậy kiếu từ. Khi bước ra ngoài sân. Ngỡi nói nhỏ:
- Cái bọn họ tiếp khách tùy theo món tiền của người đi mừng. Phải dè, tôi không thèm bỏ tiền vào bao thư làm chi cho mắc công.
Nguyệt cười ngất:
- Từ cha sanh mẹ đẻ cho tới bây giờ, tôi chưa thấy cái đám cưới nào thâu tiền bừa bãi, kỳ quái như vầy. Thiệt, mấy người đó thấy tiền còn hơn thấy Phật.

Bỗng có tiếng ú ớ của người đàn bà vang đột ngột giữa lúc đám cưới bớt ồn ào, Nguyệt đã gặp bà này một vài lần ở bên nhà bà Tư. Hôm nay, bà mặc áo dài màu hường tươi, màu áo chửi rủa tuổi tác năm mươi ngoài của bà. Bà là mẹ đẻ của Châu và Ngọc. Ít khi bà đến nhà bà Tư, trừ những ngày giỗ chạp, tết nhứt, hoặc những dịp Châu sanh nở. Bà ở miệt Hòa Hưng, suốt ngày chỉ tới các chùa lân cận, làm công quả để kiếm chác hai bữa cơm chay. Bà mê Phật còn hơn mê nhân tình. Tuy không thể đọc được kinh, không rành lần chuỗi hột, nhưng không ngày nào bà không đến chánh điện để chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thích Ca Mâu Ni.
Nguyệt lủi vào nhà, kéo Ngỡi theo. Cả hai châu đầu ngó qua cửa sổ. Nguyệt chắc lưỡi:
- Bả già ngắt mà ăn bận lòe loẹt, hực hỡ giống như ma bóng quá.
- Tuy vừa câm vừa điếc mà bả ngựa giàn trời. Bả không có chồng mà vẫn sanh con mệ Châu và con Ngọc như thường.
Nguyệt tò mò:
- Ai lấy bả vậy chị?
- Ai mà biết. Bà Tư chưa tìm ra thủ phạm thay.
Nguyệt tinh quái:
- Không lẽ Hộ Pháp trong chùa nửa đêm tuột xuống bàn thờ để lấy bả?
- Nghe nói hồi xưa, lúc hai mươi tuổi bà Cam coi cũng ngọt mắt, sắc lẻm lắm chớ. Bả đi nấu cơm cho một tiệm sắt nguội trong Chợ Lớn. Tối, trời nực bả kê ghế bố ngoài hàng ba hóng mát. Bọn du thủ du thực nửa đêm đi coi hát về, làm bậy vài phát là bả ôm trống chầu, đẻ ra con mẹ Châu.
- Còn trường hợp của Ngọc?
- Ối, ai mà biết. Bả đâu có nói được mà tố cáo ai? Đã vậy lại không biết chữ nữa.
Nguyệt ngậm ngùi:
- Tội nghiệp quá!
Ngỡi trề môi:
- Xí, biết đâu bả sướng thứ điều bay tới chín từng mây. Tôi hỏi chị, có ai nở gièm siểm, bắt bẻ một người vừa câm, vừa điếc không?
Bỗng Nguyệt kêu khẽ:

- Ủa, bà Năm Út tới kìa.
Năm Út hôm nay tô son, trét phấn, đeo cẩm thạch, xách bóp đầm. Chiếc áo màu xanh thẫm điểm bông lớn bằng cái trứng gà không hợp với màu phấn tô mặt của mụ.
Ngỡi nói:
- Ý cha! Bả nịt bụng hay sao mà có co, có eo, coi được quá chớ?
Nguyệt thường trầm trồ đôi bàn tay mềm mụp, mát rượi của mụ. Ngón tay mụ suông đuột, phao móng tay hình hột hạnh nhân, trời nóng cũng như trời lạnh đều ửng hồng. Bàn tay đó không hề làm bếp hay giặt giũ quần áo, chỉ biết xòe những lá bài tứ sắc suốt ngày.
Trước kia Năm Út có nhiều tiền và cất mấy dãy phố lầu nhờ nghề cho vay đặt nợ ở mấy gánh hát để cho muớn. Thỉnh thoảng, mụ ta cũng nổi máu nghệ sĩ tính, xin soạn giả cải lương , đóng mấy vai con tỳ nữ giễu cợt với bọn hề mặt mốc, hoặc biểu diễn những màn chưng bươm bướm trước khi đoàn hát diễn tuồng nồng cốt. Sau đó, mụ ta bị mẹ ép gả cho ông Năm Út. Thua buồn hoặc bất mãn về tình duyên nào đó, mụ đâm ra bài bạc, bán đứt mấy dãy phố lầu rồi dọn về đây. Ông chồng thì bán cà phê, nước giải khát. Còn mụ vẫn đỏ đen lu bù, lâu lâu bày ra bán cháo trắng thịt phá lấu hoặc cơm tấm bì.
Năm Út chợt thấy bà Cam mặc áo hường, đúng bên bình bông huệ, liền ứng khẩu hát lảnh lót:
“ Người ngọc bên hoa, hoa ửng sáng,
Hoa cười bên ngọc, ngọc thêm trong”.
Mọi người cười ồ ồ. Bà Cam tuy không hiểu trọn câu nói của bà bạn hàng xóm, cũng cười bẻn lẻn, tình tứ như công chúa bị hoàng tử ve vãn trong phim Ấn Độ.
Bà Tư mừng rỡ:
- Thiệt tao bằng bụng lắm, Năm Út à. Mày tới đây chia vui với em út, quí biết chừng nào.
Năm Út ung dung ngồi xuống ghế, lấy phong thư, liếc liếc bà Tư rồi ỏn ẻn nói:
- Thôi đi bà nội. Để tui nói chuyện phải quấy với vợ chồng con Ngọc một chút. Đâu, cô dâu chú rể lại chị Năm coi.
Chơn và Ngọc bẻn lẻn, bước lại. Mụ nhìn Ngọc từ trên xuống dưới khen:
- Con Ngọc hôm nay sao đẹp mê ly quá xá. Tuy nó đen đúa, nhưng mà đen theo điệu xôi nếp than, càng ăn càng bùi miệng.
Ngọc cúi xuống cằn nhằn:
- Chị Năm… nói kỳ quá hé.
Năm Út làm bộ tỉnh khô, khẽ lấy tay nhịp xuống bàn ca mấy câu vọng cổ đã thâu thanh vào đĩa hát Asia qua giọng ca của cô Tư Sạng hồi hai mươi năm về trước:
Con ôi! Tháng Chạp tới đây là ngày tên con sẽ ghi vào cuốn sổ nhơn duyên, cung đàn bấm phím tơ loan cho trăm năm được bề chắc ơ… ơ… ơ…
Một người đàn ông ngồi đối diện la lên:
- Đ.m… bà này ca bản xưa mùi tận mạng.
Năm Út tra gân cổ lên chót chét ca nữa. Bà Tư háy dài một cái:
- Thì mừng cho em út đi. Ca lý hoài làm tụi nó nóng ruột.
- Bất nhơn dữ không? Mà tụi nó nóng ruột… để làm gì vậy a bà Tư?
- Con nhỏ coi bộ muốn điên.
Năm Út trao phong thư cho Ngọc rồi lên giọng dạy đời:
- Nè Ngọc, chị khuyên em một câu: hể con gái thì xuất giá thì tùng phu… Ông bà mình thường dạy như vậy…
Rồi mụ quay qua Chơn:
- Con Ngọc thì lo bề xuất giá tùng phu, còn mày cứ việc chổng khu… đẩy ghe vô ụ.
Cả đám cưới cười ồ ồ. Bên này Ngỡi nằm lăn ra “đi-văng” cười muốn hụt hơi. Nguyệt cũng cười đến nỗi đau cuống họng, nặng cả ngực và muốn tróc mỡ sa.
Bên kia, Năm Út uống nước cam rồi bóc chiếc bánh ú nhai lách chách. Mụ õng ẹo chê bai:
- Nè bà Tư, đi ăn đám cưới như vầy hoài chắc tôi bớt mập, có thể leo lên sân khấu vũ “xét-xi” ngon lành một cây.
Bên này, Ngỡi xầm xì với Nguyệt:
- Con mẹ Năm Út chì lắm. Một khi con mẻ xì ra, ba làng bụm họng y thị cũng không kịp.
Năm Út xách bóp đứng dậy kiếu gia chủ, liếc Chơn một cái thật lẳng, rồi núng ninh ngoáy cặp mông tròn vo ra cửa:
- Chị biết hai em cũng chẳng vui sướng nhiều bằng cặp vợ chồng mới cưới khác. Đêm nay, bất quá…
Bà Tư trợn mắt, tức mình:
- Con đĩ heo nái, ăn nói vô duyên.
Năm Út hát lảnh lót:
“Đêm nay dầy sướng mỏi mê
Đường đi nước bước đi về từ lâu”
Năm Út vừa bước ra hẻm, chợt thấy Ngỡi và Nguyệt thập thò ở khung cửa sổ vàng rực ánh đèn liền bước vào. Nguyệt niềm nở mời mụ ta ngồi và đưa cái quạt phất giấy cho mụ quạt.
Ngỡi cười:
- Bà này ưa soi bói chuyện của người ta hoài. Nhè chỗ nhột của người ta mà cù lét chớ.
Năm Út liếc qua bên nhà bà Tư:
- Con Ngọc muớn tiệm may nào may áo không biết mà khi ngó vào là thấy cái bụng nó nổi tròn vo, ngứa mắt quá chừng.
Ngỡi hăm he:
- Xong đám cưới, bà Tư sẽ đào mồ cuốc mả ông bà, ông vải chị đa.
Năm Út cười tỏn tẻn:
- Sức mấy. Bả là anh hùng một cõi, còn tao đây là đồ xả rác hay sao? Hồi xưa tao cũng cầm đầu một toán đánh ghen tập thể, ở miệt Lăng Tô, Tân Thuận, thử hỏi ai mà không biết?
Ngỡi bật cười:
- Chị bảnh quá he? Vậy thì chết thiên hạ còn gì?
Năm Út trề môi:
- Chẳng bảnh, chẳng bao giờ hết. Nhưng ai bảnh hơn con này chắc là khó sống.
Đám cưới tản mác dần. Trời tối mịt ở ngoài cửa sổ. Nguyệt sửa soạn khăn mặt, đi tắm. Đồng đi chơi cũng vừa về. Cả hai qua nhà Ngỡi dùng cơm không chờ Đăng vì Đăng đã dặn trước là tối nay chàng đi coi hát bóng tới muời giờ mới về.
Cơm nước xong xuôi, Đồng đi ngủ sớm. Nguyệt bưng hộp đồ thêu ra, tẳn mẳn thêu thùa cho qua một buổi tối. Ngỡi sau khi gội đầu xong, bước qua nói chuyện khào.
Con nít xúm lại la ó rùm beng ở dưới mái hiên nhà bà Tư. Chúng xúm quanh bàn bầu cua cá cọp, sát phạt nhau từng đồng bạc nhỏ, nhưng không kém hào hứng.
Năm Út bước lại thùng chứa rác, bỏ vào đó xác vỏ quít, ngứa miệng:
- Tụi bây, đừng có làm om xòm. Để chị Ngọc bây ngủ cho khỏe để nó kiếm con.
Khi bọn tiểu yêu tản mác thì Năm Út lẫn Tư Búp bước vào nhà Nguyệt. Tư Búp nói nhỏ:
- Có con trong bụng rồi mà còn kiếm nổi gì? Chắc là thằng Chơn chỉ có nước tráng men cho đứa nhỏ…
Năm Út nói:
- Có chửa rồi nên kiêng cữ ăn nằm với chồng họa may con cái sau này thông minh, học giỏi.
Đèn bên nhà bà Tư, không hiểu sao, tắt lịm. Bà loay quay lo thắp đèn dầu, và bắt đầu cằn nhằn, trách móc Tư Búp giễu cợt tầm ruồng, ăn nói xô bồ xô bộn.
- Tui lóng rày sức tàn vóc mỏi rồi. Hồi trước, con vợ thằng Út mà nói giọng đó, tôi xé nó tét háng.
Ngỡi xuí bậy:
- Bả chửi chị kìa. Ăn thua đủ với bả cho tụi này xem chơi.
Năm Út cười:
- Ối, hơi nào, bả nói lén mà ai thèm chấp nhứt.
Bà Tư bước ra hiên nhổ xác trầu, liếc sang nhà Nguyệt, nét mặt cùng hung cực ác. Khuôn mặt bà nhiều thịt hum húp như bị chứng phù thủng không thể làm giảm ánh mắt sắc sảo và cặp mày xếch ngược, đầy uy quyền.
Bà nói với bà Bảy Bụng:
- Chi Bảy nghĩ coi. Con cháu tui tuy là nghèo hèn vậy chớ cũng được một lần cưới hỏi rỡ ràng. Mấy con đĩ chung quanh đây ganh ghét, xầm xì nói hành nói tỏi. Mà nói cho cùng, nếu lấy trước cưới sau, nó cũng chỉ lấy có một thằng. Còn cái thứ đàn bà dâm đãng nay cụp thằng này, mốt cụp thằng nọ. Đã vậy, mà mấy con đĩ trời đánh thánh đâm đó không biết vinh, biết nhục, cứ xáp lại nói xóc óc mẹ con tui.
Bà Bảy cười hềnh hệch:
- Ối, hơi nào chị để ý chuyện tẹp nhẹp đó? Họ nói gì mặc họ. Mình tử tế, đàng hoàng thì mình biết.
Năm Út, Tư Búp, lẫn Ngỡi bị một câu “bứt mây động rừng” ấy, nhột nhạt, xốn xang. Tư Búp trề môi:
- Tưởng bả tử tế gì đó. Cái thứ đoạt chồng thiên hạ, ác đức, tội lỗi dẫu tắm nguyên con sông Đồng Nai cũng chưa rửa hết tội.
Năm Út nhún vai:
- Nghe nói hồi xưa bả dựng bảng kén chồng. Trời ơi! Đĩ ngựa một cây đó.
Không khí hai bên bắt đầu căng thẳng. Nguyệt muốn tìm chỗ trốn để khỏi nghe hai bên chửi bới lẫn nhau. Nàng miễn cưỡng ngồi tiếp khách, lòng hồi hộp. Ngỡi đứng dậy, Tư Búp trề môi, nói khích:
- Mày chạy mặt bà Dạ Xoa đó rồi hả?
Ngỡi ngoảnh lại:
- Có muốn sanh sự với bả thì làm ơn ra khỏi nhà chị Nguyệt, kẻo chỉ mắc họa lây.
Năm Út đứng dậy:
- Mày làm bộ biết điều, còn tụi tao là hạng ăn ở bội thiên nghịch địa vậy.
Tư Búp mỉm cười rồi ngáp ồn ào, nhìn qua bà Tư giọng châm biếm:
- Làm gì mà mình lúc nào cũng buồn ngủ y như là đàn bà có chửa vậy cà?
Năm Út cười:
- Tại mang tiếng đ… bậy nên có chửa chớ sao.

















Nguyễn Thị Thụy Vũ
Lòng Trần

Lời Giới Thiệu của Trần Vũ: ‘‘Đột nhiên ni cô Diệu Tâm cảm thấy miệng mình lạt quá, lạt kinh khủng… — Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.’’ Khác với phong cách sôi nổi thú hoang trong Lao vào lửa, Mèo đêm của cùng một tác giả, Lòng Trần được viết thật gọn và tươm khí hậu cô quạnh đẫm nhân sinh: Một kiếp người quy vào một muỗng đời. Kiếp người đi tu mấy mươi năm dẹp bỏ lòng trần và những bất hạnh, đến cuối cuộc đời vẫn không thể thoát được ám ảnh vị mặn của bụi trần. Bốn muơi năm sau, mạch văn không thừa chữ của Nguyễn Thị Thụy Vũ hãy còn toát lên vẻ đẹp phong vị Nam và của một bố cục truyện thật chắc chắn.
Lòng Trần trích từ tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, nxb Sóng, Sàigòn, 1974.


° ° °

Con đê dài rộng, hai bên trồng dừa Tam Quan cao hơn đầu người thẳng hàng, đều khoảng. Những quày dừa màu hỏa hoàng oằn trái. Bóng dừa chìm dưới đáy nước của hai đầm sen – bên trái đầm sen trắng, còn bên phải đầm sen hồng. Từ con đê đi vào khoảng ba trăm thước, một ngôi chùa nằm im lìm giữa hai hàng dương.

Chùa này vì ít thiện nam tín nữ lui tới nên càng thêm vẻ đìu hiu, lạnh ngắt. Từ đường cái nhìn vào, ít khi người ta nhìn thấy bóng dáng những nhà tu. Chỉ nhìn thấy chiếc tháp cao trơ vơ với rêu bám nham nhở và vài viên gạch mục rớt ra lở lói. Mái chùa thấp ẩm ướt và bóng tối đặc quánh. tiếng kêu vo ve của đám muỗi đói lẫn tiếng chí chóe của đàn chuột dưới những bàn thờ và tiếng vỗ cánh của đàn dơi hoang. Cao hứng chúng bài tiết bừa bãi không vị nể các ông Phật đang ngồi trang nghiêm nhìn ánh đèn chong leo lét. Bình hoa huệ sắp tàn, chỉ còn vài búp gắng gượng trên chót nhánh. Những cánh trắng héo hắt rớt tả tơi trên bàn thờ không mấy ai buồn dọn quét chăm sóc.

Lâu lắm, người ta mới thấy bóng một sư nữ gầy gò xanh xao ngoài năm mươi tuổi ngồi bên hông chùa, uể oải cầm chiếc dao cùn chặt những cành dương khô rớt trên nền đất và bó thành từng bó nhỏ. Ni cô ngồi dưới bóng nắng loang lổ đỏ, khoác chiếc áo cà sa màu cà. Hình như bà cố tìm vài mảnh nắng rớt nhiều nhất trên nền đất để hóng nắng. Giữa màu lá xanh bao quanh da mặt, bà càng thêm nhợt nhạt. Ðôi mắt trũng sâu nhiều, tròng trắng nhìn bâng quơ khi cánh tay gầy guộc khô khan của bà đưa chiếc dao chành lên xuống vài lượt, và giọng ho húng hắng được đè nén làm bà run rẩy.

Bà đã đến tu ngôi chùa này hồi hai gò má còn hồng và nụ cười tươi sáng ẩn một chút ngổ ngáo. Nay hàm răng trắng xa xưa đã rụng mất vài ba cái và đóng bợn vàng ối.

Ông yết ma vốn người bán nam bán nữ, cao to mập trắng hếu và có đôi mắt lém lỉnh. Hình như ông yết ma này gọi ni cô bằng dì họ. Ông này cùng theo bà đến chùa hồi mười tuổi và bây giờ ông đã quá ba mươi. Ông có tật lãng tai, mỗi khi ni cô nói với ông điều gì, bà phải lấy tàn hơi gào thét. Ông cứ vểnh tai ra, nét mặt ngơ ngác như người đi lạc vào một thế giới xa lạ thiếu âm thanh. Ni cô mỗi lần muốn đàm đạo với ông cháu quí phải nặng hơi mỏi cổ nên bà lười biếng ít muốn nói chuyện với ông ta lâu. Ngoài hai người, còn có một chú tiểu đầu để chởm với thẻo tóc dài vắt qua vành tai. Chú tiểu này vừa giúp đỡ ni cô như một tiểu đồng, vừa làm thông ngôn khi ni cô muốn nói chuyện dài với ông yết ma. Chú tiểu có vẻ nhẫn nhục và cam chịu. Chú sống thui thủi giữa hai người lớn, mỗi người có một thế giới bưng bít. Họ chỉ hợp nhau vào những buổi tụng niệm, còn ngoài những giờ lo cho Ðấng Từ Bi, họ mỗi người mỗi việc tưởng chừng như sự hiện diện của nhau thật là mờ nhạt thừa thải. Chú tiểu lo phần cơm nước. Những bữa cơm dọn với rau muối mè, tương hột đơn sơ, chú tiểu có thể quán xuyến chu tất. Mỗi buổi sáng, chú ra sau chùa bứt những đọt mùng tơi, hái những bông mướp vàng ối còn thơm mật, nhổ vài nắm rau đáng mọc dọc mé đê đem vào luộc. Ông yết ma ngoài mấy buổi tụng kinh, gõ mõ, còn có bổn phận vun quét rườn rau, cưng dưỡng mấy dây bầu và giàn mướp sai trái. Cái quá khứ không tì vết của ông yết ma – ông sống xa người trần tục không tiếp nhận cuộc sống đầy rẫy bon chen – khiến ông chỉ hiểu cuộc đời lờ mờ ngoài mái chùa. Cơm rau mỗi ngày hai bữa, ông làm việc hùng hục ngoài vườn rau và ngủ li bì vào những giờ rảnh rỗi. Những giấc ngủ êm đềm khoan khoái nuôi dưỡng thân xác ông mỗi ngày một to béo đẫy đà. Vẻ mặt ông cười cợt dễ dãi và phẳng phiu như tâm hồn ông. Ði tu từ lúc còn bé, ông sống kham khổ cũng đã quen. Ông cảm thấy yên phận để dọn mình mai sau về với Phật Tổ, dẫu làm con chuột uống dầu tại chùa Tây Phương cũng cam. Ðầu óc ông tiêm nhiễm giáo lý một cách lờ mờ, cuộc sống trong kinh kệ chưa in rõ vào đầu óc ông. Ông còn mơ ước gì hơn; vả lại, ông không có thì giờ để nghỉ ngơi suy ngẫm gì ngoài những thủ tục đọc kinh trồng rau. Công việc nhà chùa chiếm hết ngày tháng. Ông dạy chú tiểu học kinh và cách tụng kinh. Chú ấy cũng là người để cho ông ta tâm sự về sự tiến triển của mấy dây bầu, của nụ hoa mướp có mòi thành quả. Chỉ có vậy thôi, thế mà ông ta sống lây lất hơn hai mươi năm qua đến không ngờ. Ngày đó, ông theo ni cô Diệu Tâm đến ngôi chùa này giữ vai trò một tiểu đồng, Lúc đó còn sư cụ và ni cô thì mới ngoài ba mươi tuổi, dung nhan còn mặn mòi sắc lẽm. Ðến khi sư cụ qua đời và được mai táng trong cái tháp trước sân chùa, ni cô Diệu Tâm mới lo quán xuyến ngôi chùa này.

Những ngày rằm hoặc những ngày lễ Phật, chỉ vài ba thiện nam tín nữ đến dâng hương vội vã. Hình như họ nghĩ rằng chùa nào đông đúc tấp nập, Phật Trời mới có mặt thường xuyên. Chớ chỗ buồn bã như vầy, chắc Phật Trời cũng lười lui tới. Ông yết ma cảm thấy phơi phới trong cuộc sống trống vắng quạnh hiu. Những lúc đám khách thập phương này chiếu cố chùa, ông có cảm tưởng như họ đến quấy rầy sự yên tĩnh của ông. Nhưng ông phải giữ đúng quy luật nhà chùa là cửa thiền lúc nào cũng mở rộng. Ông biết lán mán về quá khứ của ni cô ngày xưa lúc bà mới hai mươi tuổi, bà là vợ kế của nhà phú hộ trong làng Ðạo Ngạn thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ruộng vườn của bà cò bay thẳng cánh. Thủa đó, tất cả phụ nữ miền Nam chưa hề trang điểm, thế mà bà đã biết dùng phấn nụ do các công chúa của triều đình Huế sai tì nữ đem bán. Trước khi đánh phấn, bà dùng chỉ đánh cho săn lại rồi lăn lên da, nhổ sạch những sợi lông măng để cho da mặt tiếp nhận phấn dễ dàng. Ðoạn bà dùng phấn nụ bôi lên mặt, lấy giấy hồng đơn thấm nước đắp lên mặt má. Bà nhai trầu cho đôi môi nhuộm đỏ.

Thật ra bà vốn là đào hát bộ, tên Năm Thàng. Ông phú hộ có tính phong lưu tao nhã. Ðời ông chỉ có việc lấy hát xướng làm tiêu khiển. Bất kỳ gánh hát nào có bà, ông cũng ngồi ghe bầu theo coi cho bằng được. Ngồi ghế thượng hạng để cầm chầu, ông say sưa chiêm ngưỡng tấm nhan sắc chim sa cá lặn của bà trong vai Phàn Lê Huê, Hồ Nguyệt Cô, hoặc Lưu Kim Ðính. Người bạn theo hầu kiêm luôn anh đầu bếp giỏi, và tối đến, được theo chủ xem hát. Người phu trạo đã bắt đầu ghiền cuộc sống rày đây mai đó. Cũng bao nhiêu tuồng hát đó mà nhà phú hộ nọ vẫn coi hoài không chán mắt. Ðối với ông, cô Năm Thàng từ cánh gà tuông ra làm đổi mới cả sân khấu.

Hai năm xuôi ngược mỏi mê, ông cố gắng điều đình với ông bầu gánh chuộc cô Năm Thàng bằng mười mẫu đất, đem về làm vợ kế. Muốn thoát khỏi cảnh đời rày đây mai đó, cô Năm Thàng bằng lòng với ngôi vợ thứ hai do sự đồng ý cưới hỏi rỡ ràng của bà phú hộ. Cuộc sống huyên náo bỗng dừng lại làm cô Năm ngỡ ngàng xa lạ. Sự giàu sang và chiều đãi, nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa của chồng không bao lâu làm cô thêm nhớ lại cuộc đời sống cũ. Cô nhớ sân khấu, nhớ đời sống lang thang trên những chiếc nghe chài xê dịch từ làng này sang tỉnh khác. Cuộc sống tập thể tuy quấy nhiễu cô thường xuyên, nhưng đem lại cho tâm hồn cô những đổi mới. Cô say những vai trò nữ tướng, công chúa, bà hoàng… để bôi xóa tạm bợ trong vài tiếng đồng hồ đời sống nghèo đói cơ cực của mình. Một cô đào hát tên tuổi chưa được mấy mà đã làm bà phú hộ, có kẻ hầu người hạ. Thế mà cảnh giàu có vẫn không quyến rũ được cô lâu, không đủ quyền lực làm cô quên hẳn quá khứ.

Ni cô Diệu Tâm trở mình thức giấc. Bà lần mò ra chánh điện để kịp gác công phu. Trong im vắng hoàn toàn, ni cô nghe rõ tiếng chuột bọ chạy rột rẹt và tiếng thằn lằn trên kèo nhà chắc lưỡi. Bên ngoài, ếch nhái dưới ao con trổi giọng uênh oang át cả tiếng dế trong bụi ô rô nhọn hoắt. Ni cô bước ngang phòng ông yết ma. Tếng ngáy từ trong buồng vọng ra ào ạt, đều đặn. Bỗng giọng mớ ú ớ vang lên:

- Ê ! mấy thằng chăn trâu, bây bẻ trộm bầu của người ta hả ? Bớ Phật Kim Cang, Phật La Hán vặn họng nó cho rồi. Bớ Hộ Pháp.

Ni cô mỉm cười, bỏ xuống nhà sau rửa mặt. Nước mưa chứa trong hàng mái đầm sau hậu liêu mát lạnh lôi bà ra khỏi cơn ngầy ngật buồn ngủ. Bà trở lên chánh điện vặn to ngọn đèn và thành kính cầm dùi dộng vào cái đỉnh đồng chung. Tiếng chuông ngân dài như réo gọi ông yết ma ngủ muộn và nhắc cho chú tiểu đến lúc tụng kinh công phu. Sau đó, từ lò cạo heo, tiếng heo bị thọc huyết eng éc bên kia sông, cách chùa hơn năm trăm thước. Tiếng kêu cứu thê thảm của mấy con heo vắn số nối đuôi tiếng công phu. Phía sau chùa là lò rèn. Tiếng nổ lách tách của đám than vừa rực cháy nghe rất vui tai. Hai ống bể khò khè như tiếng ngáy ngủ của loài trâu nước.

Chú tiểu dụi mắt đi ra đỡ lấy dùi chuông thay cho ni cô. Bà ngồi âm thầm giữa chánh điện hai bàn tay gầy lần tràng chuỗi hạt hổ phách, ni cô tụng hết tuần kinh lui vào trai phòng bên tách trà nhạt còn bốc khói. Bà ôn lại ngày bà còn là một cô đào chánh đã làm say mê giết bao nhiêu vương tôn công tử. Ông phú hộ Thọ đã chia gần nửa số gia sản của ông để đổi cô. Rồi cô bỏ sân khấu về sống trong một ngôi nhà nền đúc cao tới ngực có hàng chục người hầu hạ. Mỗi lần cô giam mình sốt mẩy, thầy lang được rước về tận nhà và ở lại đó cho đến khi cô khỏi hẳn. Cô mê món ếch bắc thảo chưng đường phèn. Người tớ gái đem cục mỡ gần thận ếch để vào một cái thố vẽ bát tiên và cho đường phèn vào, chưng cách thủy. Cục mỡ ếch nở to bằng cái chén trong như pha lê, thơm ngọt ngào rồi đặt chiếc thố sứ vào cái mâm bằng gỗ quí. Trong lúc cô dùng ếch bắc thảo, hai đứa con gái đứng hầu quạt hai bên. Cuộc sống lắm kẻ nuông người chiều đó níu kéo cô được vài ba tháng. Một hôm đoàn hát Cẩm Ðuờng Ban có dịp trở lại làng Ðạo Ngạn, cô Năm Thàng cảm thấy có cái gì xót xa ray rứt không yên thúc dục cô, nhứt là khi tiếng chiêng trống và tiếng phèn la nổi lên inh ỏi ở đầu đình. Cô Năm bồn chồn không thể tả, thế rồi đêm hôm sau đó, lúc ông phú hộ yên giấc cô lần mò bỏ trốn theo đoàn hát và tiếp tục nghiệp dĩ. Phải chăng cô muốn thay đổi cái không khí nhờn nhợt âm thầm trôi nổi bên cạnh ông chồng chỉ có lòng sủng ái, nhưng tình yêu cô cho ông còn lờ mờ chưa thắng nổi tiếng trống chầu.

Khi ông phú hộ biết cô đã trốn về đoàn hát, lập tức ông xuống ghe bầu cùng với người phu trạo đi theo. Cuộc săn đuổi gian nan không làm ông thất vọng. Ông tin tưởng sự đi theo vừa giúp ông tiêu dao ngày tháng, vừa có dịp săn sóc cô và mong rằng ngày nào đó, cô Năm sẽ hồi tâm quay trở về. Mãi cho tới ba năm sau, ông vẫn vừa đi theo cô Năm Thàng vừa tập soạn tuồng hát. Ông đã gởi gấm tâm sự, tình ý vào bản Hát Nam, Hát Khách và Hát Văn. Ông để hết tâm trí vào các tác phẩm thai nghén suốt mấy năm liền và sau đó được đưa lên sân khấu để cho cô Năm thủ diễn. Kỳ lạ, sau khi diễn xong tuồng hát của chồng, cô Năm Thàng ôm ông phú hộ Thọ khóc hu hu rồi cởi áo mũ giáp trả lại sân khấu và hai vợ chồng đưa nhau về chốn cũ sống lại cuộc đời cố định. Cô Năm mới tìm thấy tình yêu muộn màng nhưng có một sức mạnh lôi cô ra khỏi ánh đèn sân khấu vĩnh viễn, bỏ hẳn cuộc sống nay miếu này mốt đình nọ. Chỉ một năm sau, cô sanh được một đứa con trai kháu khỉnh. Ðứa con trai đó nối dõi tông đường của ông phú hộ trong khi bấy lâu nay ông cứ ngỡ là mình tuyệt tự. Ông mừng đến sa nước mắt khi đứa con trai độc nhất của ông càng lớn càng giống những nét thanh tú trên gương mặt của ông và cô Năm.

Ông phú hộ toan tính biết bao nhiêu về dự định tương lai cho đứa bé. Nhưng ông đột nhiên chết bất thần vì một tiếng sét long trời xẹt vào nhà làm đổ cả tủ kiếng và giết ông nhanh chóng. Cái chết tức tưởi đó làm cho dân làng xầm xì bàn tán là ông ăn ở thiếu phúc đức nên trời sai Thiên Lôi xuống giết gấp rút như vậy.

Từ đó, cô Năm đoạn tuyệt cuộc đời cũ ngay trong ý nghĩ và tận tụy chăm sóc đứa con để đền ơn đáp nghĩa với người vừa là tri kỷ vừa là bạn chung tình đã cho cô một niềm tin yêu bao la. Nhất định cô chẳng đời nào cho con cô nối nghiệp cô. Cuộc đời hát xướng bị người đời cho là vô loài. Cô cũng chẳng mơ con cô giàu có như cha nó chỉ ước ao sau này nó sẽ có nhiều bằng cấp học hành đỗ đạt. Cô ẩn nhẫn sống nuôi con, mặc dầu lúc ông phú hộ vừa mới chết, còn biết bao nhiêu người gấm ghé được lấy cô, nhưng cô quyết không buồn ngó đến họ.

Ðến ngày giỗ chồng, đợi vào lúc nửa đêm, cô Năm Thàng hóa trang, mặc áo giáp đóng vai Ðoàn Hồng Ngọc oai phong lẫm liệt cầm dao múa trước bàn thờ làm như ông phú hộ đang ngồi trên ấy thưởng thức tài nghệ siêu phàm của cô. Ðường đao bay vun vút quấn lấy người cô. Trong im vắng, cô cất tiếng hát nho nhỏ những bài hát trong những vai tuồng mà ngày xưa ông phú hộ đã dày công biên soạn. Sau những đường đao bay như rồng lộn, cô Năm đúng thẳng người nhìn đăm đăm lên bức ảnh ông phú hộ và hai hàng nước mắt chảy dài trên đôi má.

Ðứa con của cô được một năm thì bị một cơn sốt dữ mà tất cả danh y đều bó tay đầu hàng. Cô Năm tê điếng trong niềm tuyệt vọng. Ðã bao lần ý nghĩ tự sát chập chờn qua tâm nảo cô. Ba lần tự tử bằng ba cách : cắt gân máu, uống dầu nóng, treo cổ được phát giác ngay.

Cô lần tính lại đã quá hai mươi năm, nỗi đau khổ và bất hạnh xa cũ đã bắt đầu mờ nhạt. Những việc nhà chùa làm cô bận rộn suốt năm bôi xóa dần những nỗi buồn thảm, tưởng chừng vẫn rỉ rả hành tội cô trong khoảng đời còn lại.

° °
°

Nắng đã lên từ chân vườn, sau chùa, vài ba đứa mục đồng đang nghêu ngao mấy bản Kim Tiền. Nắng tuôn ánh sáng hình rẽ quạt trên mặt đất. Ni cô Diệu Tâm lục đục ở trú phòng. Những cây tre non được vót từng cọng nhỏ bằng cây tăm nhang bày đầy trong cái nia. Ni cô khệ nệ bưng nồi nước cơm từ bên bếp đem lên để kế bên nia tăm tre cắt dài khoảng ba tấc. Ni cô dùng những loài lá có mùi thơm như lá quao, lá ngũ trảo, lá bưởi phơi khô rồi giã nhỏ xay lấy bột đựng trong mấy chiếc thau đầy ắp. Chú tiểu ngồi bên cạnh rây lại lần nữa phần bột mịn, thơm ngát, cho vào cái chậu tráng men sứ trắng vẽ hoa hồng đỏ. Ni cô bỏ những cây tre chẻ nhỏ vào một ống tre cao độ hai tấc đựng nước cơm gạo mới đặc quánh như hồ nhúng ướt rồi mang ra lăn những cây tre đó vào chậu bột lá mịn. Hồ trên thân cây tre chẻ nhuyễn quyến lấy bụi lá thơm và những cây nhang này được đem đi phơi nắng.

Tất cả những thức ăn lẫn hương hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra. Xài không hết, bà mang ra chợ bán lấy tiền bỏ vào quỹ nhà chùa. Ðặc biệt bà có tài làm tương ta. Bà lựa nếp đem xôi rồi bỏ vào nia ủ bằng lá chanh hay lá ngấy độ ba ngày cho nếp lên men rồi thắng đường cho chút muối, đổ vào nếp làm tương ta. Những món hàng do nhà chùa sản xuất sẽ nhờ chú tiểu đem ra ngồi chợ bán lẻ. Công việc bề bộn đó chiếm cả ngày, ni cô Diệu Tâm say sưa, có khi quên cả việc ăn uống. Mãi đến chập choạng tối, lúc bao tử đòi hỏi gấp rút, bà vào nhà bếp xới tô cơm nguội ăn với chút tương ta. Ăn uống thiếu thốn lâu ngày làm thân thể bà gầy gò và những cơn ho húng hắng xảy ra thường xuyên. Nhưng bà không để tâm đến và cơn bịnh cũng lây lất trôi qua khi ông yết ma chưng cho bà chín lá chanh với chút đường phèn bưng lên cho bà uống. Món thuốc ho không tốn kém này cũng làm bớt cơn đau ngực và bà tiếp tục lây lất với cơn bịnh.

Diệu Tâm cảm thấy bứt rứt nơi ngực. Hình như có một bàn tay nắm lấy trái tim, bà ngột ngạt tưởng chừng trai phòng này thiếu không khí. Bà gượng ngồi dậy tựa lưng vào thành giường một lúc rồi cố gắng đứng dậy đẩy nhẹ cánh cửa sổ. Ánh nắng túa vào khe cửa ảm đạm rớt trên một lõm giường và lác đác vài mảnh vuông trên nền gạch tàu. Diệu Tâm lần dò ra ngoài để tìm chút thoáng khí. Ni cô lầm lũi bước ra ngồi tựa lưng bên tháp sư cụ và ngước mặt nhìn trời. Cơn lạnh tiết ra từ trong lá, từ ao sen làm bà rờn rợn. Cơn ho tiếp tục và ni cô cảm thấy hình như chiếc tháp muốn xiêu đổ và mặt trời túa ra nhiều vành sáng nhảy múa trước mắt. Diệu Tâm bám chặt lấy thềm cửa tháp và cơn buồn nôn hối hả dâng lên, ni cô chỉ còn thấy cảnh vật đảo lộn, ánh sáng và bóng tối xoay tít, và nơi ngực như có cả khối tháp đè lên đó. Tiếng chim vụt tắt ngỏm đâu đây và cơn gió rào trên ngọn dương ngừng lại.

Ni cô bừng mắt nghe tiếng nói lào xào văng vẳng đâu đây. Ni cô nhướng đôi mắt còn chút ít thần sắc nhìn quanh trai phòng. Chú tiểu túc trực bên giường mừng rỡ hỏi dồn:

- Dạ thưa ni cô cảm thấy đỡ chưa ?

Bà lặng lẽ gật đầu và muốn ngồi dậy. Chú tiểu hiểu ý đến đỡ bà lên tựa lưng vào thành giường. Bỗng cửa trai phòng vụt mở. Diệu Tâm nhếch mép cười tiếp nhận sự có mặt của đứa cháu dâu và cô em họ đến đúng lúc bà thấy cơn bịnh này không hy vọng lành. Ðứa cháu dâu gọi bà bằng cô chuyên nghề sống với nghề cờ gian bạc lận và nghề cho vay đoạt nợ. Nghề nghiệp nàng đến mức tuyệt xảo. Riêng cô em họ cùng đi theo cô cháu dâu đến thăm bà là một tay từng nhổ râu ông huyện này, cạo đầu ông phủ kia. Cô em họ có tấm nhan sắc cũng ưa nhìn thôi, nhưng cô có biệt tài hễ cập sách với ông nào thì nạn nhân tình ái của cô phải tán gia bại sản một cách nhanh chóng và êm thấm. Hai người đàn bà thân thích này thường lui tới cửa thiền hầu sám hối để chuộc tội. Họ thích thân thiện với bà có lẽ nghĩ rằng khi Diệu Tâm đắc đạo để về chầu Ðấng Từ Bi sẽ với tay níu họ theo lên cõi Niết Bàn. Vì mặc cảm tội lỗi nên họ càng thích đi chùa dâng hương đem lễ lộc hòng hối lộ Trời Phật cho giải bớt những oan khiên mà ở trần gian họ đã làm, đang làm và tiếp tục làm nữa…. Càng thấy họ đi chùa là phải hiểu rằng họ vừa làm được một cái áp phe. Khi có nhiều tiền, họ lại vào chùa thành khẩn hối lỗi, nhưng khi bước ra khỏi chánh điện thì họ lại quên tuốt.

Ni cô mệt nhọc gắng gượng trả lời họ vài ba câu hỏi thăm sức khỏe. Rồi không còn ngồi được nữa, bà nằm rũ xuống. Cô em họ đề nghị ông yết ma nên tụng kinh cho Diệu Tâm để nếu như bà có phải về nơi cực lạc cũng sớm được nhẹ nhàng hồn phách.

Ni cô nghe trong người rã rời từng khớp xương. Bà cố mở mắt nhìn ánh đèn vàng vọt đặt trên chiếc bàn cạnh bàn nước. Cổ họng bà khô đắng và lạt lẽo. Ni cô hé mắt nhìn cô em họ đang ngồi bên cạnh và cô cháu dâu đang lây quây rót nước từ trong vỏ bình vào tách định bưng lại. Ni cô khoác tay tỏ ý không cần uống nước. Bà đã ăn chay ròng rã hơn hai mươi năm quá đạm bạc nên thân thể bà thiếu cả chất đạm.

Bà làm việc quần quật, suốt ngày. Không biết bà tìm cách quên ẩn tình hay để tăng ngân quỹ nhà chùa. Người ta thấy ni cô Diệu Tâm không sống cho mình nữa, kể từ khi bà bước vào chùa này. Bà sống kham khổ, nhẫn nhục và chịu đựng. Tiền công quỹ nhà chùa được đem ra bố thí cho những người tàn tật nghèo khổ. Bà ăn uống bất thường và coi việc ẩm thực là điều phụ thuộc. Chỉ cần một chén tương và một nhúm rau chấm tương cũng rồi một bữa. Từ một tháng nay, bà không ăn uống được như thường nhật, mỗi khi ăn xong, bà đều mửa thốc mửa tháo ra, đến cả thuốc men cũng không giữ được trong bao tử. Họ hàng hay được tin bà thọ trọng bịnh cho mời biết bao danh y đến cứu chữa. Phần linh hồn thì do ông yết ma và một số sư sãi các chùa lân cận đến tụng niệm siêu độ.

Thân xác bà mỏi mòn trong giấc hôn mê chập chờn, bà nghe tiếng tụng niệm ngoài chánh điện. Trong bóng tối mù mờ, loáng thoáng có tiếng muỗi vo ve, đột nhiên ni cô Diệu Tâm cảm thấy miệng mình lạt quá, lạt kinh khủng. Phải chi có một chút nước tương để bà nếm thử. Trí óc của bà dán chặt vào ý nghĩ lưỡi bà khô đi, đồng thời nước dãi tuôn ra đầy miệng. Thế rồi ý nghĩ của bà trôi xa hơn, nước tàu vị yểu, rồi nước mắm. Cơ thể bà vụt bùng lên. Nước mắm! Nước mắm! ni cô Diệu Tâm nuốt ực nước miếng. Một nỗi xót xa làm nước mắt bà ướt đẫm. Có cái gì chống đối trong từng thớ thịt, khớp xương của bà.

Bà vụt nghĩ, nếu có một muỗng nước mắm chui vào bao tử bà thì có lẽ những chấn động, phản đối trong cái cơ thể mỏi mòn sinh lực của bà sẽ dịu xuống, và muỗng nước mắm sẽ đem lại cho bà sự khỏe khoắn để bà ngủ một giấc thật ngon và ngày mai bà sẽ tiếp tục sinh hoạt lại như cũ dưới mái chùa này.

- Nước mắm! Muỗng nước mắm!

Ni cô hoàn toàn quên mất cái đời sống hiện tại ở trong chùa, quên cả mấy mươi năm tu hành khổ hạnh. Bà rơi trong một ý thức mù mờ chỉ có hình bóng muỗng nước mắm bằng sứ trắng chứa một thứ nước vàng và trong suốt như nước trà. Kê miệng mà nếm thử thì biết. Ni cô Diệu Tâm co rúm lại, thở hổn hển. Ba tiếng muỗng nước mắm như ba nhát búa đập vào đầu óc bà làm bà lảo đảo.

Ngoài hậu liêu, hình như trời đã chiều. Mùi thuốc bắc sắc trong siêu ngai ngái bay lên làm bà có cảm tưởng mình sắp nghẹt thở.

Bà phải uống một muỗng nước mắm. Ngày mai dầu có phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc rằng dầu đọc kinh cứu khổ cứu nạn với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chưa chắc mầu nhiệm bằng một muỗng nước mắm. Nước mắm sẽ là một món thuốc tiên làm cho cây khô trổ bông. Cố gắng lấy hết tàn hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm cho bà một muỗng nước mắm. Tất cả những người có mặt bên giường đều ngạc nhiên lẫn hốt hoảng.

Diệu Tâm lập đi lập lại mấy lần:

- Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.

Tiếng kêu gọi như một lời van vỉ, thê thảm. Hai tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần tách trà ướp sen kề gần miệng. Ni cô khép chặt môi, lắc đầu phản đối:

- Tôi chỉ cần uống một chút nước mắm cho mặn môi.

Nói xong ni cô dìm hồn vào trong cơn đồng thiếp hai cánh tay còn xòe ra quờ quạng van xin.

Cô em họ bước ra trai phòng thỉ thầm:

- Rõ là ma đưa lối, quỉ dẫn đường. Hồi nào tới giờ chỉ ăn chay lạt, đến lúc sắp chết lại đòi uống nước mắm. Tôi nhất định chống lại lời ma quỉ xúi biểu, xui khiến chỉ phạm trai giới. Thà để cho chỉ chết mà không mang tội với Trời Phật và không uổng công tu khổ hạnh hai mươi mấy năm nay.

Nói đoạn bà xuống trú phòng ngồi nói chuyện áp phe với cô cháu dâu, hoặc những thành quả bà đã thu đoạt được kể từ ngày bà bước chân vào đời. Giọng bà oang oang uốn éo và những tràng cười nói xôn xao vọng lên trên chánh điện. Ông yết ma với đôi mắt nhắm lại và nét mặt phẳng phiu dễ dãi thường nhật nhuốm một chút lo âu. Không khí nặng nề trùm xuống, nghẹt thở. Tiếng hét từ trai phòng vang lên. Ông lẹ chân tông cửa vào vừa lúc chú tiểu định bước ra, vẻ mặt còn hốt hoảng. Tất cả đứng im lặng quanh giường chờ đợi phút nghiêm trọng của ni cô trong khi cô đang vật vã từng đợt với tử thần. Tiếng nói bà vụt sang sảng như lúc còn ở trên sân khấu. Giọng nói trong trẻo tỉnh táo, nhưng đôi mắt bà vẫn nhắm nghiền:

- Tôi mới biết thương mình mấy năm mình khổ công theo đuổi tôi, mình đặt tuồng hát cho tôi hát.

- Con ráng học cho đỗ đạt làm quan nghe con cưng của má.

- Tôi chỉ thích sắm vai Ðoàn Hồng Ngọc hơn làm Phàn Lê Huê. Mình thích tôi diễn vai nào nhất?

- Bớ này Tiết Giao! Ô này bạc tình lang! Mặt chàng đẹp trai mà làm chi? Lời chàng ngọt ngào mà làm chi Cổ thiếp ngày nay mất ngọc, thân thiếp bơ vơ.

Cả một quá khứ trôi nhanh lên ký ức bà rõ rệt và nhanh như một đoạn phim quay hết tốc lực của nó. Bà độc thoại từ quãng đời sân khấu đến quãng đời làm vợ ông phú hộ Thọ. Giọng bà sang sảng vụt dừng lại và dưới ánh đèn hiu hắt, ni cô mở trừng trừng đôi mắt trắng nhợt như cố thu nhận hình ảnh sau cùng của đời sống và ni cô quờ quạng hai bàn tay trơ xương với lời van vỉ đứt nối:

- Hãy cứu tôi, cho tôi uống một muỗng nước mắm thôi.

Cô cháu dâu nhìn bà em họ:

- Mợ ơi! Mợ nhờ sư sãi đọc kinh trừ tà nghen. Cần nhứt là canh giữ đừng cho ai đem nước mắm lại.

Bà em họ tức mình:

- Ðể tôi đi đọc kinh cứu khổ. Hồi xưa Phật Thích Ca gần đắc đạo thì ma vương tới phá. Còn cái chị này sắp về Tây Phương tới nơi mà cũng chưa yên thân.

Nguyễn Thị Thụy Vũ













Nguyễn Thị Thụy Vũ

Đêm Tối Bao La


Duy choàng tay qua đôi vai tôi, đôi môi chàng màu tro nặc mùi thuốc lá hờ hững đặt lên môi tôi. Nụ hôn chia tay này không còn nồng nàn như mấy năm về trước. Tôi lách ra khỏi vòng tay ấy, ngoái lại nhìn chàng. Da chàng trắng nhờn nhợt như da bụng con thằn lằn. Mặt chàng sần sùi và thô nặng như một tảng đá không còn làm da thịt tôi nháng lửa nữa. Đôi vai rộng và cái mông tròn của chàng ngày trước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Bây giờ cuộc yêu đương hờ hững không đem đến cho nhau nhiều rung động nữa. Đàn ông đâu phải chỉ mê hoặc đàn bà ở cái vai và cái mông. Thân thể của chàng đã xa lạ với thân thể tôi từ mấy tháng nay. Tôi muốn tìm ở đàn ông sự dịu dàng ở khuôn mặt, một lời nỉ non, một nụ hôn đơn sơ không cần có kỹ thuật. Tôi đứng nhìn Duy cho đến lúc chàng khuất sau khúc quanh của ngã tư đường rẽ lên chiếc cầu qua thành phố. Trở vào nhà tôi ngồi lại bên cửa sổ cạnh chiếc bàn con. Trên bàn, mẩu thuốc lá hút dở còn bốc khói trong chiếc gạt tàn bằng sứ trắng. Tờ chương trình hát bóng nằm bên cạnh xâu chìa khóa của tôi. Ly cà phê còn vương chút cặn đen ngòm dưới đáy. Tôi đã từ chối không làm một cuộc phiếm du với chàng vào chiều thứ bảy này vì không thích đến những nơi đông người. Tiếng nhạc ầm ĩ ở rạp chớp bóng sẽ làm thần kinh tôi căng thẳng. Tôi thích ngồi một mình ngắm dòng sông vào mùa nước nổi. Mối buồn bâng quơ của tôi dâng lên ăm ắp như nước sông đầy.

Gần cửa sổ, những chùm hoa hoàng lan lủng lẳng trên cành. Mùi thơm thoang thoảng bay khắp mặt sân ùa tới gian phòng ngủ. Mặt trời đang giãy chết bên kia sông. Những tia nắng cuối cùng đỏ nhạt đang run rẩy trên mái lá. Gió sông ập vào cửa làm tóc tôi bay bay. Những ý nghĩ về Duy rối rắm như mớ tóc trước gió này. Vài con dơi từ mái ngói uốn cong bay vụt ra sông. Sự vắng ngắt của buổi chiều ôm chầm lấy tôi và dìm tôi như muốn ngộp thở. Tôi uể oải đứng dậy đóng ầm cửa sổ rồi lững thững đi bách bộ một vòng quanh nhà. Bóng tối từ từ chụp lên ngôi nhà hoang vắng này. Gió sông lùa cơn lạnh vào xương sống tôi và làm cứng nó lại.

Duy đem lại cho tôi những gì? Một gương mặt lì lợm không nói lên được một cảm xúc nào? Hay chỉ là một không khí ấm áp ít oi không thể làm tôi yêu đời hơn một phân hay một li nào?

Cứ thường mỗi buổi chiều, khi tiếng chuông của một ngôi chùa xa âm u vọng tới và khi bóng tối bắt đầu bôi xóa lem luốc những cành cây sà bên khung cửa sổ, mái nhà và dòng sông, tôi vụt có một ý tưởng rằng: Cơ khổ! tại sao tôi cứ ở đây, bên dòng sông quen thuộc, nhàm mắt trước cuộc sinh hoạt âm thầm của lối xóm và trong ảo tưởng lạnh lẽo? Tôi phải rời khỏi bóng tối của căn nhà này, rồi bóng chập chờn của rèm sáo, đàn dơi trong nắng chiều, những quyển sách nhức cả đầu và cái ám ảnh vu vơ, nặng nề đè tôi muốn nghẹt thở từ bao lâu rồi.

Cuộc đời sắp tới của tôi sẽ gồm có gì? Một người chồng không phải là Duy? Những ngày bình thản? Hay chỉ là nếp sống sinh hoạt lạnh lẽo gồm nỗi cô đơn này xỏ khoen vào nỗi cô đơn khác như sợi dây lòi tói? Tôi đi lần ra sân trước ngắt vài đóa hoa "nở ngày" màu tím thẫm đem cắm vào lọ sành màu lục, thắp ngọn đèn Huê Kỳ đặt giữa nhà. Rồi đốt nén nhang và rót nước cúng Phật. Khói nhang bay nghi ngút. Tôi không biết mình phải khấn gì giữa buổi chiều ảm đạm này. Đôi mắt Phật Quan Âm lạnh lùng hướng về tôi. Tôi đi từng bàn thờ ông bà, cắm mỗi nơi vài cây nhang trầm. Trở lại bàn Phật tôi cầm chiếc dùi đánh nhẹ vào cái chuông đồng rồi có cảm tưởng như mình là một ni cô giữa khung cảnh trang nghiêm này. Trên kèo nhà, con cắc kè há cái miệng đỏ thén như ngậm lửa hướng về tôi, chậm rãi kêu lảnh lót. Má tôi thường nói: "Khi cắc kè kêu thì mình phải đếm như thế này: tiếng đầu thì hên, hai là xuôi, ba là may, còn tiếng thứ tư là rủi. Nhưng thực là vô duyên. Lúc nào con cắc kè khốn nạn này cũng chấm câu vẫn chỉ bốn tiếng.

Cầm đèn đi vào phòng ngủ, tôi ngồi lại bàn viết, giở chồng sách cũ. Tôi nghĩ mình nên ghi những cảm tưởng lên giấy. Từ lâu tôi có cao vọng viết một tập tùy bút lẫn truyện ngắn. Ở ngoài đời tôi thất bại, cô đơn. Chắc hẳn văn chương không cấm những giấc mơ lẫn ảo tưởng của tôi thao túng, vẽ vời. Những nhân vật đàn ông của tôi, phần nhiều nói ra thêm thẹn, toàn là các anh chàng đẹp trai, có phong độ. Và tôi không ngần ngại chui vào truyện để làm những mỹ nhân để bắt bồ với họ. Chuyện tầm thường quá, có tốn kém chăng là sự xúc cảm vu vơ của tôi suốt đêm mà thôi. Vậy mà nó giúp tôi không nghĩ đến hiện tại. Còn bây giờ thì tôi hơi mỏi mệt. Tôi vặn đèn nhỏ lại rồi vào giường. Từ nhỏ, tôi sợ bóng tối chụp lấy tôi. Ánh sáng vàng vọt của đèn chong sẽ làm tôi bớt sợ hãi. Vắng vẻ quá! Tiếng chuột chí chóe ở đâu đây. Lấy mền trùm kín lên tận cổ, tôi cố nhắm mắt mong cho cơn buồn ngủ từ từ xâm nhập vào người tôi và những ray rứt vụn vặt kia sẽ lui dần...

Thình lình tiếng đấm cửa đùng đùng tiếp theo sự la thất thanh:

- Mợ Hai ơi! Con Linh bị mấy thằng thợ sửa cầu hãm hiếp, máu ra đầy quần nè! Mở cửa mau đi!

Tôi tung mền, nhảy phóc xuống giường chạy ù ra cửa. Tiếng lắc chốt và tiếng tay đấm mạnh vang dội. Tôi kinh hãi mở vội cửa. Dưới ánh đèn Hoa Kỳ trên tay tôi, nét mặt nhăn nheo như trái vải khô của bà Điếc, cái miệng méo lệch và đôi mắt của bà mở trừng trừng như lạc vào một thế giới nào. Bà há hốc miệng và tiếp tục la. Tôi nắm tay bà gọi giật:

- Bà Bảy, tôi đây nè! Má tôi đã đi làm ăn xa. Còn tôi... có ai làm gì tôi đâu?

Bà dằn tay tôi ra, giọng bà lạc hẳn:

- Rõ ràng tôi thấy đang bị...

Bà ngừng lại, nhướng mắt đỏ ngầu nhìn tôi. Tôi hét to hơn để cho bà nghe rõ:

- Tôi đây! Má tôi đâu có ở nhà. Bộ bà quên rồi sao?

Mắt bà vẫn dán lên mặt tôi. Đôi mắt bà chệch xuống sau một cơn kinh phong. Những tia máu nằm vắt ngang trên tròng trắng và mắt bà nổi phồng lên như sắp rớt ra khỏi lỗ mắt. Tôi nắm vai bà lắc mạnh, hét:

- Tôi đây, tôi đây nè!

Bà Điếc vẫn la thất thanh:

- Ai cứu nó. Trời ơi! nó là con gái mà...

Nhìn đôi tay run rẩy của bà, tôi chợt hiểu. Bây giờ là lúc bà đang sống ở một trạng thái mê loạn, quái đản. Tôi gào lên:

- Tỉnh dậy đi bà! Tôi đâu có đi ra khỏi nhà.

Bà Điếc ngẩn người một lúc rồi nhếch cái miệng méo xệch, không còn một chiếc răng giống hệt cái miệng rùa, cười tỉnh cơn mê:

- Vậy hả! Mày không việc gì sao? Tao thấy...

Tôi đặt tay lên vai bà dỗ dành và đưa bà về cái chòi nằm dưới gốc liễu già cạnh nhà:

- Vào ngủ đi bà.

Nhà tôi nằm bên dòng sông Long Hồ. Trước nhà là con đường cẩn đá xanh không tráng nhựa. Chỉ một chiếc cyclo máy vượt qua cũng đủ làm cho lớp cát bụi có dịp bốc lên và bay tản mác vào thềm nhà. Bên kia đường, một thửa vườn hoang xen lác đác vài mẩu rẫy chạy dài hút mắt. Những ngôi mộ nằm rải rác dưới mấy tàng dương thưa lá. Vào ngày nắng ráo, vài con quạ đứng rỉa lông. Thỉnh thoảng chúng cao hứng kêu thét lên. Tiếng kêu khàn, chát khuấy động bầu không khí oi ả, lặng lẽ. Bên những líp rau chưa trồng vài đống un bốc khói làm mờ đục cả một góc vườn. Khi trận mưa dứt, bọn sóc, nheng phóng từ cành cây cổ thụ này sang cây cổ thụ kia. Đó cũng là nơi trú ẩn của lũ chồn đèn lẫn chồn mướp để rồi đêm đến chúng lẻn vào xóm bắt gà vịt. Nhà tôi ít khi mở cửa. Mặt tiền tối om om vì nền cao, mái thấp. Trên nóc nhà những cụm rêu xanh mượt, mịn như trải nhung. Vài ba cây cỏ dại lẫn rau càng cua mọc trong lòng máng xối.

Ba má tôi đi làm ăn xa tận miền đất đỏ và em gái tôi đã đi lấy chồng ở Rạch Giá. Là phận em, nó hỗn hào, dám lấy chồng trước chị. Chuyện đó làm tôi ngượng với chòm xóm khi họ hỏi tôi chừng nào cho họ ăn trầu. Lúc nào tôi cũng rùn vai bảo rằng không thích lấy chồng, trong khi đó tôi cảm thấy bị chế nhạo sau lưng. Còn lại mình tôi và bà Điếc thay phiên nhau lo giữ phần nhang khói cho ngôi nhà hương hỏa này. Bà Điếc không ở chung với tôi, chỉ thích một ngôi nhà riêng biệt. Bà chỉ giúp tôi quét dọn và làm cỏ trước sân. Hồi còn con gái, bà đã theo bà nội tôi từ Mỹ Tho về nhà này làm dâu phụ. (Ngày xưa những cô gái nhà giàu thường có mang theo cô phù dâu về nhà chồng). Vì mồ côi cha mẹ, bà bằng lòng theo bà nội tôi đến một xứ lạ hoắc. Ngày bà còn trẻ, nhiều trai tráng hàng xóm thường lui tới với bà. Trong số những người đi qua đời bà, chỉ có ông Tư chăn dê kiêm người tài xế của ông nội tôi, là mối tình chánh. Đứa con gái của hai người khi được hai tuổi thì chết vì bị chứng ban đen và chẳng bao lâu ông Tư mắc phải bịnh dịch tả cũng qua đời. Chưa bao giờ bà có ý nghĩ ra khỏi gia đình tôi, nơi đó đã đem lại cho bà nhiều kỷ niệm vui buồn suốt đời làm tôi tớ. Bà thường tâm sự với má tôi:

- Mợ Hai à! thầy bói nói bàn tay tui có đồng tiền vạn nhựt. Số tôi phải ở đây hoài, nếu ra đi sẽ khổ sở hơn.

Sau cái chết của ông Tư chăn dê, bà dan díu với ông Năm Còm bạn chè chén của ông Tư. Ông này tặng cho bà một thứ bệnh ngặt nghèo làm ung mủ cả hai chân răng và chúng thi nhau rời khỏi niếu của bà cũng bị rụng mất. Tiếng nói của bà ngọng nghịu. Sau cơn bệnh ấy, bà mất cả thăng bằng. Tính tình gắt gao, nóng nảy. Cách giải phẫu của y sĩ chẳng những không làm tình dục bà tắt đi, mà trái lại còn chụm thêm củi đuốc để cho cơn cuồng loạn xác thịt của bà chồm lên cao. Bà khao khát đàn ông đến nỗi không còn biết hổ thẹn là gì nữa.

Tôi không rõ bà Điếc đã đến đây được bao nhiêu năm rồi. Khi tôi còn thơ ấu thì tóc bà có vài sợi bạc. Những nếp nhăn trên mặt bà như nếp nhăn chiếc lồng đèn giấy. Tuy vậy, bà vẫn tỉa lông mày, đánh lên đôi má nhăn nheo một chút phấn bột. Thỉnh thoảng tôi nhìn trộm bà đang tẩn mẩn trước tấm gương con. Hai hàng lông mày của bà cong và nhỏ mức như hai sợi chỉ. Bà thích mặc chiếc áo màu sặc sỡ bó sát lấy cái thân khô đét như cây da. Bao nhiêu tiền má tôi cho đều qui về ăn diện, dù số tiền quá ít chỉ đủ ăn quà vặt. Bà quên hẳn mình già.

Tánh tình bất thường của bà Điếc càng lúc càng tăng.

Một hôm, gần cận Tết, má tôi gọi một ông tá điền ở tận dưới quê lên giúp chăm sóc và quét dọn nhà cửa để chuẩn bị rước năm mới. Ông Tư Tấn đã ngoài sáu mươi nhưng vẫn còn khỏe mạnh. Mặt ông lúc nào cũng đỏ au như vừa uống rượu mạnh. Tóc ông trắng như phủ một lớp muối bọt. Ông có thói quen sau ngày làm việc cặm cụi là thường lấy cây đờn cò ra dạo vài bản Kim Tiền. Tiếng đàn ấy tuy không dội được vào tai bà Điếc nhưng bà thích thú ngồi ngắm ông Tư Tấn kéo đờn và thỉnh thoảng đôi mắt lõm sâu của bà tình tứ hướng về ông. Ông Tư Tấn đắc ý với tiếng đờn trầm bổng của mình, chốc chốc ông lại gật đầu theo tiếng nhịp nằm gọn giữa lòng bàn chân khẳng khiu của ông. Ông lỏn lẻn cười đáp lại với bà...

Sau vài cuộc tình ái phất phơ, bây giờ tôi mệt mỏi thật sự. Tôi bất chấp dư luận để sống, mà rồi vẫn cô đơn. Tìm được kẻ mà mình đắc ý, tính cho chàng ta đắc cử vào giấy hôn thú thì tôi gặp cảnh hụt đõi luôn luôn. Bây giờ, tôi bám vào Duy để lấp vào những ngày trống rỗng. Chàng nhạt nhẽo quá. Tôi lại mơ cao để rồi số tuổi càng ngày càng chồng chất theo nỗi chán chường.

Bây giờ tôi sống bên bà già bịnh hoạn, khủng khiếp như thế này, ngôi nhà rộng và hưu quạnh như cái chùa. Em gái tôi lâu lâu về thăm nhà. Một con đàn bà trống trải, ngu muội. Nó thường nói toẹt rằng: "Các cô chưa chồng nhìn phớt qua thì thấy trẻ, nhưng xem kỹ lại thì chát ngầm". Tôi soi kiếng, sót sa. Con gái chỉ có một thời. Tôi đã đánh mất cái hấp dẫn tươi trẻ. Mình mẩy càng ngày càng đầy ra, co kéo suông đuột như cây cột nhà. Đã lùn lại mập. Con em gái chẳng tha, có dịp lại quở: "Chị giống như con heo thiến". Uống dấm, cữ ăn mà tôi vẫn "giàu sang" về thịt mỡ. Lại nữa, đã làm thân con gái, tôi lại sanh vào năm dần, bất lợi biết bao! Đi đâu, tôi khai rằng mình tuổi Mùi, làm con dê cho bớt khủng khiếp trong số mười hai con vật tượng trưng cho mỗi tuổi trong một con giáp. Các chàng thích bắt bồ với tôi không mảy may tính chuyện trầu cau vì sợ tôi ăn hiếp lúc về sống chung. Cái thứ đàn bà tuổi Dần cao số thật.

Thôi! tôi chẳng tính chẳng mơ gì nữa. Cứ ăn uống thỏa thích. Dầu sao mình vẫn còn có Duy, già nhơn ngãi non vợ chồng. Nhiều lúc đưa tay rờ bụng, vòng eo mà mình muốn đi hiến máu để làm phước. Tuy vậy Duy vẫn nịnh hỗn, cho rằng da tôi mát rượi như bánh đúc, mịn như sa ten.

Tôi chán viết văn. Văn chương nào phải là cái cớ để cho phụ nữ giải tỏa ẩn ức. May mà tôi không đem bài vở đăng báo. Có một chàng văn sĩ đòi bạt tai lũ đàn bà cầm bút, hăm he đuổi họ trở về chỗ bếp núc và chỗ ngồi lê đôi mách. Thái độ du côn đó chẳng những không làm tôi giận mà tôi còn mê chàng nữa, rồi vẽ ra trong óc là chàng đẹp trai hấp dẫn như James Bond, chàng điệp viên 007.

Một hôm bà Điếc gọi ông thợ hớt tóc dạo đi ngang qua nhà. Bà đưa cho ông ta năm đồng nhờ cạo lông mặt. Ông thợ cạo hơi do dự. Tôi giục:

- Ông cứ làm cho bả vui lòng.

Bà Điếc bắc cái ghế đẩu chễm chệ ngồi bên lu nước mưa. Ông thợ cạo quàng trước ngực bà chiếc choàng trắng rồi ông ta cầm cái bông phấn xoa nhẹ trên da mặt. Lưỡi dao sáng, mỏng được rút từ trong bao da. Ông liếc dao xoèn xoẹt trên bàn tay chai cứng rồi dùng hai ngón tay banh những nếp nhăn chìm sâu trên màu da mặt đen sẫm của bà Điếc. Bày con nít xúm coi như xem đám hát Sơn Đông. Vì ỷ mình là một khai quốc công thần của gia đình tôi, nên bà tha hồ muốn làm gì thì làm. Ai cũng nể bà vì tuổi tác và cho những trò lố bịch của bà là trạng thái sanh tật của tuổi già. Có lần bà túm áo má tôi quật xuống thềm nhà vì má tôi cản không cho bà đi uốn tóc. Tuy đã gần ngoài sáu mươi tuổi nhưng bà còn mạnh lắm. Má tôi bị đánh bất ngờ nên ngã quỵ. Lúc đầu tôi và em gái đứng xem sự tranh sức của hai người rồi cười ngất vì tưởng má tôi thế nào cũng quật bả sụm. Nhưng bất ngờ bà Điếc dìm má tôi xuống và leo lên mình đấm đá túi bụi. Cuối cùng má tôi kêu cứu:

- Tụi bay đứng đó nhăn răng cười được hả? Để bả giết tao luôn đi.

Chúng tôi xông vào gỡ tay bà Điếc nhưng vì cơn cười của hai chị em tôi sôi sùng sục nên không đủ sức mạnh rứt bà rời khỏi má tôi. Thấy chúng tôi vào can, bà la to vu khống:

- Bớ làng xã, bớ mã tà, mẹ con nó giết tui!

Hàng xóm nghe la chạy sang rồi có hai ba người hì hục tiếp chúng tôi lôi xển bà Điếc. Tay bà vẫn ghì chặt áo má tôi miệng không ngớt chửi rùm lên:

- Mồ tổ cha nó, ai cũng binh nó hết.

Hàng xóm được dịp cười đùa bàn tán, không khí vui tươi có cơ hội hâm sôi lên trong khu xóm buồn tẻ này.

Khi ông Tư Tấn trở về quê với vợ con bà tư lự suốt mấy tháng. Bà không buồn ngó ngàng đến công việc nhà. Má tôi phải nấu cơm và hầu hạ bà như mẹ chồng. Biết hàng xóm vì nể má tôi nên bà càng có dịp chửi mắng họ vô duyên cớ. Chẳng có ai phản ứng gì. Trái lại những lời nguyền rủa của bà biến thành những câu hài hước. Bà nghi ngờ ai cũng mê ông Tư Tấn nên bà ghen tuông đáo để.

Một buổi sáng bà xách gáo xuống cầu gội đầu. Tóc bà đã bạc hơn nửa mái đầu. Gội đầu xong, bà vào thay bộ đồ lục soạn trắng lốp rồi đội khăn the màu hường õng ẹo đi chợ. Tôi chận lại hỏi:

- Bà Bảy đi đâu sớm vậy?

Bà nguýt tôi một cái:

- Tao đi uốn tóc. Khéo hỏi!

Tôi vịn vai bà can:

- Bữa nay Chúa nhựt tiệm uốn tóc đóng cửa hết rồi.

Tôi cố nhịn cười để cố làm cho bà tin tưởng, nhưng bà nhìn tôi lộ vẻ nghi ngờ. Cô bạn láng giềng của tôi chơi ác kề tai bà:

- Chị Linh nói gạt, bà đi mau để người ta uốn cho kịp.

Bà gạt phắt tay tôi, phủi đít rồi ngoe nguẩy đi một nước. Khi đứng trước cửa tiệm, bà len lén nhìn vào, rồi cố bạo dạn bước vô trong. Bà chủ ngồi ở quày hàng cất tiếng hỏi:

- Bà kiếm ai?

- Tôi đi uốn tóc. Giá bao nhiêu? .Bà chủ ngạc nhiên hỏi vặn:

- Phải có người nhà bằng lòng chúng tôi mới dám uốn tóc cho bà.

Bà trả lời đầy giọng cương quyết:

- Tôi có tiền để trả cho cô mà.

Trong khi bà chủ còn đang cố giải thích cho bà Điếc hiểu thì tôi và cô bạn đạp xe đạp chạy như bay đi lùng mấy tiệm uốn tóc. Vừa thò đầu vào tiệm Nam Hiệp, chúng tôi thấy hai người đang bàn qua cãi lại. Tôi không dám nói năng với bà chủ tiệm chỉ sợ bà Điếc biết tôi vào cản mũi. Tôi giục Thảnh (cô bạn láng giềng) cho bà chủ biết rằng bà Điếc khật khùng. Bà chủ nhoẻn miệng cười rồi khẽ gật đầu. Bà Điếc nhìn Thảnh rồi quay sang bà chủ tiệm cố lắng nghe sự đối thoại giữa hai người. Sau rốt, bị từ chối, bà Điếc đoán được sự có mặt của Thảnh nơi đây. Bà nguýt dài bà chủ tiệm rồi bỏ về.

Hai đứa chúng tôi đã lỏn về trước. Vào nhà tôi vờ vào phòng đọc sách lắng nghe từng tiếng động của bà trước thềm nhà. Bà rì rầm chửi rủa một mình. Không thấy tôi đâu, bà xông vào buồng lục kiếm. Tiếng guốc lộp cộp của bà gần về cửa buồng. Tôi cố giữ vẻ thản nhiên chúi mũi vào quyển sách. Bà chỉ về phía tôi nhiếc:

- Cái con này nó vô dang (bà muốn nói vô duyên) ghê! Tao đi uốn tóc mắc mớ gì mày mà mày xúi con Thảnh qua cản trở? Sao mày biết uốn tóc mà mày cấm cản tao hả con mập kia? Con chó thiến này làm chuyện lãng òm...

Cố nén tràng cười đang chực tuôn ra, tôi chối phắt:

- Nãy giờ tôi ở nhà, đâu có xúi biểu ai đâu. Bà chẳng chịu tha:

- Mày cứ sợ ai cũng ngộ hơn mày nên mày ganh ghét tao. Thấy cái bản mặt phì lũ của mày mà ứa gan...

Tôi vẫn lặng thinh. Mắng nhiếc chán, bà trở về căn nhà nhỏ lầm bầm rủa xả suốt buổi. Không ngờ bà Điếc có địch thủ để ganh duyên đọ sắc. Tội nghiệp! Kẻ đó lại là tôi...

Rồi một cái Tết trôi qua. Lật bật đã đến ngày đưa ông Táo. Trước nhà mấy chậu hồng và thược dược đua nhau nở vào buổi sáng. Tôi đang ngồi tỉa những cành lá úa. Thảnh nảy ra ý kiến mời bác thợ chụp hình cho tôi vài kiểu. Tôi bác bỏ ý kiến chụp hình ngoài trời vì bữa hôm đó trời âm u quá, và tôi đề nghị cắt vài bông hồng kết thành một bouquet đem vào tiệm chụp lấy rõ mặt mũi. Để điểm trang cho bó hoa, tôi tẩn mẩn cột vào một cái nơ lụa màu thiên thanh. Bây giờ thì tới phiên tôi ngồi vào gương đánh phấn nước, kẻ hai bên lông mày cho mắt sáng lên. Đôi môi của tôi được tô bằng một thứ son đỏ hoét. Trang điểm xong, tôi nhìn vào gương ngắm nghía lần chót, hai đuôi lông mày tôi vẽ đậm xếch ngược giống như mày của Liz Taylor. Tôi mím đôi môi làm duyên và chọn cho mình một góc cạnh khác hẳn để tránh chưng cái mặt đầy thịt hai bên má như cái bánh bao. Tạm hài lòng về cách hóa trang của mình, chúng tôi đi qua tiệm hình cách nhà vài ba mươi thước. Thảnh trịnh trọng gói bó bông lại cẩn thận. Tôi ngồi trước máy hình do sự đạo diễn của ông ba Tàu. Ông ta xoay đầu tôi nghiêng qua bên này bên kia để ngắm nghía. Chưa vừa lòng, ông sửa lại bó bông trên tay tôi.

Tôi áp bó bông vào má. Thú thật tôi không dám cười vì có mặc cảm cái miệng mình rộng như miệng cá vồ, nên cố mím môi lại cho nó mỏng bớt và cho đôi mắt mơ màng huyền ảo thêm.

Về nhà, trước gương tôi cố diễn lại cái màn cũ, ngồi ưỡn ẹo bên bó bông rồi tự mãn chờ ngày lấy hình.

Như mọi chiều thứ bảy, Duy trở lại thăm tôi. Trên tay chàng, tờ báo Điện Ảnh cuốn tròn. Chúng tôi ngồi cạnh cửa sổ hướng ra sông. Tôi giành tờ báo và lật vội. Hình ảnh chàng Hercule đưa cái ngực dày và những bắp thịt ở bụng chia làm sáu mảnh nổi bật lên. Quay lại nhìn Duy. Ồ! cái bụng của chàng cao lên như cái mả mới đắp.

- Anh bự con, nếu anh cố tập thể thao thì chẳng bao lâu ngực anh sẽ nở, nhứt là bụng anh sẽ chia ra làm sáu miếng như bụng Hercule.

Duy nhìn tôi rồi nhìn xuống cái bụng binh rinh như giấu cái nồi trong áo. hàng cười:

- Bụng phải để cho nó thống nhất một khối thì mới mạnh được. Chia ra nhiều khối e mất tinh thần đoàn kết đi.

Trước vẻ yên lặng bất mãn của tôi, Duy lấy điếu thuốc lá ra đốt. Tôi vẫn dán mắt vào tờ Điện Ảnh. Những chuyện không đâu cũng dễ đem đến cho nhau những bất mãn. Những cuộc gặp gỡ như thế đã giết lần những tình cảm tốt đẹp. Không khí buồn tẻ nhốt chúng tôi. Tôi cảm thấy sắp chết ngộp, cần phải dãy dụa để thoát.

Thảnh đem hình về. Mấy con bạn láng giềng giành nhau coi. Chúng nó xuýt xoa khen hoa đẹp, cái nơ xinh. Cơ khổ! Chúng nó quên cái điều quan trọng nhất là khen hình tôi. Tôi giành lấy hình. Sao mà đôi môi tôi dày dục nằm vắt ngang như hai con đỉa trâu. Đôi mắt tôi đánh "phong" xanh gớm ghiếc. Chụp chung với bông hoa là điều bất lợi cho tôi. Người ta mắc ngắm những vật gì làm phụ tùng cho tôi, hơn là thích ngắm khuôn mặt tôi.

Duy sắp đi quân dịch. Tôi sẽ kéo dài đời sống cô đơn với số mỡ thừa thãi dưới làn da mát như bánh đúc, trơn như sa-ten và bên mụ già càng lúc càng chìm đắm trong một thế giới ma quái. Cứ xem buổi điểm tâm hàng ngày mà mình ngán ngược. Với một tô hủ tiếu tôi chưa thấy thấm tháp gì ở bao tử. Dùng thêm một ly cà phê sữa, tôi chỉ mới no lưng lửng thôi. Phải thêm một khúc bánh mì dồn thịt nguội nữa, tôi mới vững dạ đi làm ở một tiệm may gần nhà lồng chợ Vĩnh Long. Ăn uống như vậy đó, ngoài hai buổi cơm chánh, tối nào tôi cũng ăn hột vịt lộn hoặc hai vắt mì trước khi đi ngủ. Cái ngực tôi đồ sộ, và cái bụng cũng bề bộn không kém. Phen này chắc phải đi đóng phim giả làm đào Ấn Độ. Có đôi lúc tôi soi gương thấy mình giống hệt con đào Savitri. Đôi mắt ốc bươu này nếu vệt thêm một quầng đen, phải vẽ thêm một vết son đỏ giữa hai chân mày, phải gắn hột xoàn ở một bên sống mũi, phải đứng trước tấm phong vẽ hình hai con rắn hổ phun xòa bàn nạo. Như vậy tôi có thể thủ vai chính trong phim "Công Chúa Cá Phò Mã Cùi" hoặc trong "Se Duyên Chỉ Thắm". Có nhiều lúc tôi muốn lấy chồng Chà và để được ăn Ca-ri để cho xong cuộc đời. Dáng đi ột ệt của tôi làm đề tài hài hước cho trai trong xóm. Có nhiều lúc ngồi may, chợt nghĩ tới cái "ben" chít trên áo dài mà mình tủi thân. Lúc sau, tôi phải xoay qua mặc "rốp xắc" cho tiện.

Ông Tư Tấn có dịp trở lên chợ và ghé thăm bà Điếc. Bà dọn cho ông một bữa cơm bĩ bàng gồm có rượu, thịt hầm, cá bống chưng. Ông ngồi ngâm nga uống từng ngụm nhỏ. Hôm đó bà bận rộn suốt ngày. Dan díu được mười bữa thì ông Tấn bỏ đi, tiền bạc mà bà cắc ca cắc củm mấy tháng nay bị ông Tư Tấn vuột sạch. Từ đó, chứng bịnh sống bên lề thế giới quái đản tăng dần. Cơ hồ bà rời khỏi cuộc sống chung đụng với người chung quanh. Bà tự tạo cho mình một thế giới khác, nhiều mơ ước kỳ quặc.

Ít khi bà có mặt với thực tại, bà không mơ mộng, suy nghĩ, bà sống trong cơn đồng thiếp, hay một vũ trụ lạ lùng mà tôi không sao hiểu nổi.

Vào một buổi trưa hè, tôi đang ngồi tra mấy cái nút vào một chiếc áo. Bà chạy ù vô đóng cửa ầm ầm miệng gào lên:

- Cọp vô nhà! Mày phụ tao đóng cửa mau đi.

Tôi vẫn thản nhiên tiếp tục công việc, mặc tình cho bà hò hét và cuống cuồng đóng cửa nọ bế cửa kia. Thấy tôi vẫn ngồi lì trên võng, bà vừa đóng cửa vừa nhiếc:

- Cái con này đáng cho cọp nhai lắm. Mày không sợ cọp ở núi Tà Lơn xuống sao?

Mặt bà xanh lét mồ hôi rịn ra hai bên mép và trán. Cửa đóng xong bà đến bên tôi thở hồng hộc. Chán cái trò cọp rượt bà lỏn lẻn rút êm về chòi.

Theo lời đề nghị của hàng xóm, tôi đưa bà đi y sĩ chuyên môn chữa thần kinh. Nhưng y sĩ trả lời bà vẫn là người bình thường. Bà chỉ bình thường vào ban ngày. Khi đêm về, bà sống trong thế giới người chết. Gào thét suốt đêm làm khuấy động cả giấc ngủ hàng xóm.

Lại một buổi chiều, gió lốc trên mái ngói tuôn ồ ạt xuống những ngọn hoàng lan quanh nhà. Bóng tối đầy ắp trong khắp mọi gian buồng. Tôi hé cửa nhìn sang chòi bà Điếc, ngọn đèn dầu hôi vàng vọt đang rung rinh qua mắt cáo. Tiếng càu nhàu đều đặn của bà cũng bắt đầu nổi lên. Cứ mỗi buổi chiều khi nắng đã đi trốn khỏi mái nhà bên kia sông là đến giờ bà Điếc bắt đầu phát thanh. Bà nói luôn miệng, thỉnh thoảng lại cười thét lên ra vẻ khoái trá. Bóng tối đã đưa bà vào một thế giới ma quái. Bà gọi tên những người khuất mặt và lảm nhảm trò chuyện với khoảng không. Hình như có ai ngồi bên bà để bà hỏi rồi trả lời lấy một mình như thế suốt đêm, gần đến sáng bà mới lăn ra ngủ. Thình lình bà hét lên mừng rỡ:

- Vợ thằng Hưởng đó à? Lâu quá mới gặp mày. Sao bây giờ mày ốm vậy?

Bất giác tôi thấy lạnh xương sống. Người đàn bà mà bà Điếc vừa nói chuyện là thím dâu tôi đã giận chồng uống thuốc ngủ tự tử ngay trong nhà tôi ba năm về trước. Hình ảnh cuối cùng lúc thím hấp hối đang diễn lại trước mặt tôi. Đôi mắt thím mở tròn sau khi y sĩ chích cho thím một mũi thuốc hồi dương. Đôi môi màu trái mồng tơi của thím mấp máy sau cơn hôn mê suốt mười tiếng đồng hồ. Những đường gân trên người thím chuyển động. Chiếc giường run rảy nghiến ken két. Thím nhìn chòng chọc vào những người có mặt chung quanh giường, tay quơ lên không gian. Đôi bàn tay trắng xanh, dài, tím đen bỗng co quắp lại. Bọt hai bên mép thím trào ra giữa tiếng khóc thét của đàn con nhỏ cơ hồ như vẳng đâu đây. Tôi lẹ làng quay lại sau lưng, hình như có tiếng khua động. Tôi chạy đến vặn đèn to lên. Càng sợ tôi lại hướng mắt về bàn thờ của thím. Đôi mắt của thím như lườm tôi. Trong bóng tối chập chờn tôi có cảm tưởng thím sắp rời khung kiếng để lần về hướng tôi đứng? Vội mở cửa tôi chạy tuôn ra ngoài đi băng qua nhà Thảnh năn nỉ.

- Mày qua ngủ với tao đêm nay, nếu không tao sẽ bỏ nhà đi chỗ khác. Thảnh gắt:

- Hồi đó tới giờ sao chị không sợ mà hôm nay lại bày đặt lộn xộn vậy?

Tôi thuật cho Thảnh nghe chuyện bà Điếc. Thảnh níu tôi chạy về hướng chòi bà. Lúc này bóng tối dày đặc úp kín khu ngoại ô thành phố. Gió vẫn rít mạnh. Hình như trời nổi cơn giông. Mảnh trăng lúc này nằm vắt qua cây nguyệt quới đã bị trăng che khuất. Tôi nắm chặt tay Thảnh. Chúng tôi đứng bên hè, vạch nhẹ mắt lá đưa mắt nhìn vào trong. Bà Điếc ngồi khoanh tay trên bộ ngựa gõ. Ngọn đèn dầu hôi đặt trên chiếc bàn trầu với hai ly nước trà bốc khói. Bà vui vẻ nhìn đăm đăm vào khoảng không:

- Mày có gặp thằng Thế không?

Ngừng một lúc như để nghe kẻ đối thoại vô hình trả lời, bà tiếp:

- Mày không gặp nó sao? Hôm qua nó vô đây đòi ngủ với tao nè.

Đôi mắt Thảnh mở to nhìn tôi. Chúng tôi đứng sát vào nhau. Bàn tay lạnh cóng của tôi chạm phải làn da đầy gai ốc của Thảnh. Thằng Thế mà bà vừa nhắc đến là chú của tôi đã chết vì chứng bịnh phong đòn gánh mấy năm về trước cũng trong căn nhà này. Hỏi chán, bà lăn ra nằm sát vào vách, tay gối lên đầu, còn cái gối của bà đặt phía ngoài. Bà nép mình tránh và nói tiếp:

- Tao nằm đây, mày có mỏi lưng thì nằm xuống đi vợ thằng Hưởng.

Gió sông ào vào cổ tôi. Tôi lạnh cóng cả người như bị ướp nước đá. Chúng tôi quay vào nhà. Đi độ vài bước, tiếng cười sằng sặc của bà Điếc lại vang lên:

- Tụi bay rình rập gì tao đó? Tao không có đem thằng nào về ngủ đâu.

Tôi chạy nhanh, tiếng cười ghê rợn của bà như đuổi theo.

Chúng tôi xẹt vào buồng ngủ đóng kín cửa. Ngọn đèn chong vẫn để cháy tỏ. Khi chúng tôi vào giường, tiếng rì rầm của bà vẫn còn văng vẳng. Chẳng bao lâu tiếng thở của Thảnh đều đặn. Lấy mền bịt tai lại, mắt tôi nhắm nghiền. Cuối cùng, cơn buồn ngủ vẫn không đến. Tôi lò mò đi tìm viên thuốc an thần. Tiếng đồng hồ bên hàng xóm đều đặn buông hai tiếng. Sự sợ hãi vu vơ từ chập tối đến giờ lên tiếng từ giã tôi.

Thảnh rón rén bước xuống giường, tôi vẫn nằm co ro trong mền ngủ nướng. Ánh nắng buổi sáng len lén bước vào thăm theo đường song cửa sổ. Tiếng hàng quà vọt lên như vòi nước. Tiếng guốc của Thảnh lốc cốc trở lại, nó tung mùng lôi xểnh tôi dậy:

- Mau ra coi bà Điếc nè!

Tôi chạy ụt ịt sau Thảnh. Đến sàn nước, bà Điếc đang ngồi cạnh lu nước súc miệng bằng bàn chải với kem, bọt bèo ứa ra hai bên mép, chiếc bàn chải đưa qua đưa lại đều đặn trên hai nướu không còn răng. Chúng tôi vịn nhau cười sằng sặc. Bà Điếc ngẩng lên, đôi môi trắng xóa y như râu con lân. Tôi đến vịn vai bà, hỏi:

- Răng cỏ đâu mà đánh bằng bàn chải. Coi chừng chảy máu miệng bây giờ.

Bà nhổ xong ngụm nước đầy bọt xà bông rồi há miệng chỉ vào trong cùng:

- Tao còn một cái răng cấm nè. Thảnh lăn ra cười:

- Hèn chi, hôm trước chị Nguyệt nói là chỉ bắt gặp bả đang ngồi ăn mía ghim.

Mưa đêm ồ ạt, cơ hồ như muốn trút xuống trần gian để lôi cả nhà cửa trôi theo dòng nước. Nóc nhà tôi tuôn ngói rổn rảng trong cơn lốc. Tôi cầm đèn đi xuống nhà bếp đẩy hé cửa sổ nhìn về chòi bà Điếc. Cái chtrước gió. Ngọn đèn bên trong tắt phụt tự bao giờ. Bà Điếc không nói nhảm. Vẫn không có tiếng động nào ngoài cơn gió dữ dội và khối nước ụp xuống mái nhà. Tôi khoác áo mưa cầm chiếc đèn bấm chạy vụt ra chòi. Vệt ánh sáng xanh quét vào chòi. Bà Điếc vẫn ngủ say. Tôi yên trí trở vào giường nằm co rúm trong mền như con tôm kho tàu trong lòng chảo. Hình như tôi đang chìm trong không khí ngột ngạt sâu thẳm không có cách nào ngoi lên được. Những kỷ niệm lợt lạt từ đâu lũ lượt kéo về. Đã bao lần tôi cố tránh né những thứ bận rộn đó, nhưng nó cứ rỉ rả lọt vào cuộc sống bên trong của tôi. Tôi sợ những đêm khuya rả rích như thế này. Ngọn đèn chong đang nhảy múa trong ống khói pha lê trong suốt. Âm thanh đều đặn của những giọt nước mưa trên mái ngói dần dần rủ tôi vào giấc ngủ.

Như thường lệ, cứ mỗi sáng tôi xuống sông lội một vòng cho tiêu bớt những thớ mỡ sa đang tích trữ dưới nây bụng tôi. Cái quần đùi đen để lộ đôi chân ú nần như hai cái ống nhổ và trắng xanh như bụng con cá tra. Tôi đi ngang chòi bà Điếc để xuống cầu. Bất chợt tôi hé vách nhìn vào. Bà đang nằm quay mặt vô vách, thỉnh thoảng lại cựa mình rên khe khẽ. Tôi lách cửa vào trong, rờ lên trán của bà. Sức nóng chuyển sang bàn tay tôi. Bà vẫn chưa hay sự có mặt của tôi. Tôi lay và gọi giật bà. Bà Điếc cố cựa mình một cách khó khăn rồi nhướng đôi mắt lõm sâu nhìn tôi, phều phào nói:

- Tao đau hồi hôm đến giờ.

Giọng bà chìm lỉm trong cổ. Bà run lẩy bẩy, đôi tròng mắt vàng như nghệ.

Sau khi khám bệnh, bác sĩ trầm ngâm giây lát, nói:

- Bà ta bị chai gan. Nên đưa bà vào nhà thương.

Nghe tiếng nhà thương bà phản đối, cho rằng nằm nhà thương là bị bỏ rơi rồi sẽ chết để cho ruồi bu kiến đậu. Đành chịu thua, tôi để cho bà ở nhà, rồi nhờ Thảnh đi bổ thuốc theo toa bác sĩ và thay phiên nhau săn sóc bà. Tuần lễ sau, bịnh bà Điếc không thuyên giảm và cái bụng của bà to như bụng ễnh ương. Tay chân bà khô gầy như bộ xương trong phòng thí nghiệm. Tôi nhờ bao nhiêu người đến thuyết phục bà đi nằm nhà thương. Bà Điếc vẫn cho rằng nếu ra khỏi nhà này bà sẽ chết. Cuối cùng tôi nhờ hai ông hàng xóm khiêng bà lên xe xích lô. Bà cố dãy dụa nhưng sức bà đã kiệt nên bà không tài nào ra khỏi vòng tay lực lưỡng của họ. Trên chiếc giường sắt phủ ra trắng, bà Điếc nhắm nghiền mắt, đôi môi khô tái nhợt. Thỉnh thoảng, bà nhướng mắt lên đỉnh mùng rồi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn. Thi (cô em họ tôi) ngồi bệt nơi góc phòng lẩm nhẩm đọc tiểu thuyết. Chốc chốc, Thi ngẩng lên liếc vội về phía bà Điếc.

Nửa tháng chầm chậm trôi qua. Chúng tôi thay phiên nhau ngủ nhà thương. Cứ mỗi buổi chiều, hàng xóm lũ lượt tới thăm. Những gói quà chất đầy ngăn tủ. Độ vài ba hôm bà được y sĩ rút nước thừa chứa trong bụng. Nước ào ào chảy xuống thùng thiếc, sủi bọt trắng ngần. Ruồi nhặng mở cuộc liên hoan quanh mép thùng. Số mỡ thặng dư của tôi rút lui dần sau nhiều đêm bị đánh thức. Thân thể tôi như rã rời từng mảnh. Người tôi nhẹ bớt nhưng đầu óc tôi nặng nề. Hai con mắt màu tím xanh như đánh phông. Tôi giao bà Điếc lại cho cậu em (con cô tôi) để về nhà nghỉ ngơi một lúc. Đẩy cửa vào nhà, mùi ẩm ướt trên nền gạch xông lên. Tôi đặt chiếc giỏ trên tay xuống lần ra sàn nước. Dòng nước mát dội từ trên đỉnh đầu chạy dọc xuống tận chân đã lôi tôi ra khỏi cơn nặng nhọc. Mùi cay nồng của chất alcool và mùi tanh tanh của bệnh viện trôi theo dòng nước. Tôi trở vào nhà quăng mình lên võng. Tiếng kẽo kẹt đều đặn vang vang trong căn nhà âm u. Gió sông lòn vào khung cửa. Tấm màn màu da trời bay bay. Mí mắt tôi mỏi mệt ôm choàng lấy tròng mắt. Một ý tưởng chợt nảy lên đầu óc tôi. Nếu bà Điếc chết. Nếu... Tôi giật thót cả mình mảy. Không, không thể nào... Tôi không dám nghĩ xa hơn. Bà điên rồ, mê muội... Nhưng cuộc đời bà gắn liền cuộc đời tôi từ lâu. Nước mắt tôi trào ra. Tôi không thể sống ở nhà này với những bóng ma.

Tôi chợt nhớ ra mình đã tắt kinh từ một tháng nay. Duy đã đi Saigon hơn một tuần rồi. Ôi! tôi phải đi khám bác sĩ. Đàn ông thường không nghĩ tới hậu quả của một phút bồng bột. Tôi lấy tay rờ lên bụng. Từ lúc bà Điếc đau ốm tôi quên tất cả, chẳng để ý đến sự phòng ngừa. Nhưng sự bồn chồn vẫn không làm giảm cơn kiệt quệ. Tôi mơ hồ như cái đầu tôi rớt qua một bên võng, mọi sự việc đã chuồn khỏi óc. Màu trắng chập chờn của bốn bức tường vôi bệnh viện và những chiếc giường sắt phủ drap lùi xa rồi mất hút.

Anh Duy! Sau vụ phá thai em sụt mất mười hai ký thịt. Em gày gò, xanh xao. Đàn ông như anh là kẻ vô trách nhiệm. Anh chớ tưởng sức mấy mà em trả đũa chuyện anh bỏ em bơ vơ với cái bào thai trong bụng được ba tháng. Đêm đêm em giật mình, có cảm tưởng mình là kẻ sát nhân. Mai sau, xuống âm ti địa ngục, cũng riêng mình em chịu tội. Càng tội hơn là lúc đầu em chẳng mảy may bị lương tâm cắn rứt.

Bà Bảy Điếc đã chết rồi. Tới phút lâm chung bà chịu rửa tội để về với chúa. Lẽ nào, một cô gái trẻ tuổi như em ở bên lề cái thế giới âm hồn như vậy mãi sao anh. Bây giờ em chỉ còn có hai lượng vàng và một cái máy may. Đợi cho đỏ da thắm thịt để che mắt thế gian, em sẽ tiếp tục may thuê cho thiên hạ. Đời em chưa hẳn tàn như là cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ. Em sẽ cho bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại., sẽ nhờ ông ta vá lại màng trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức. Nhứt định là đời em chưa lâm vào ngõ bí đâu. Trả thù anh, chẳng lẽ em mướn du côn đánh anh. Em sẽ làm một người đàn bà phong nhã. Đôi lúc em còn mơ đi học hát để trở thành ca sĩ phòng trà.

Giờ đây thì em cô đơn quá. Ba má em trị cái tội lầm lỡ của em bằng thái độ hắt hủi, bỏ liều. Quần áo em bây giờ rộng phùng phình. Phải sửa sang lối ăn mặc, trưng diện, em mới báo thù anh cho anh sáng mắt ra là con Linh này không phải là thứ gái gặp chuyện rủi ro là đem nước mắt ra giải quyết.

Nhìn trẻ em lối xóm, em đau lòng. Phải chi anh chịu làm cha thì con chúng ta sẽ chường mặt với thế gian. Trời sẽ phạt em. Mai sau dù có chồng đàng hoàng, em sẽ tuyệt tự, phải xin con nuôi. Em vốn hiền lành, nhân đạo, tại anh, tại anh đó, em mới làm kẻ sát nhân.

Em sẽ ra đi khỏi tỉnh nhà, chạy trốn ám ảnh quá khứ. Mùa này có ốc gạo và xoài tượng. Các bà mang bầu tha hồ ăn cho thỏa thích bù tới lúc nằm giường cữ chỉ ăn cơm trắng với cá kho khô. Bây giờ em bịnh hoạn, chẳng ăn gì ngon, lại ngủ không được. Nhắm mắt lại em thấy đứa nhỏ bò qua bò lại, nhe hai cái nướu trống trơn ra cười với em. Lại nữa, hình ảnh bà Điếc ám ảnh em từng giây phút, ban đêm lẫn ban ngày. Biết đâu em sẽ là phản ảnh của bà sau này, điên cuồng vì khát vọng quên mất tuổi già.

Ôi! em sẽ chết trong êm vắng, trong ám ảnh dày vò chăng? Em phải đi, phải đi...

Em nhìn ra một chân trời khác. Em sẽ tìm yên ổn cho mình. Nơi đó, em chỉnh đốn lại cuộc đời. Để rồi anh xem! Kẻ nào khinh rẻ em, kẻ đó sẽ hối hận. Anh đừng tưởng rằng anh xuôn sẻ mãi đâu. Trời phạt anh thất nghiệp. Anh lường gạt tiền bạc thiên hạ nên anh bị tù.

Tuy vậy, em sẽ mở cho anh một con đường khi anh ra khỏi khám. Con đường ấy sẽ đưa anh vào vòng tay rộng lượng của em. Trời sinh chúng ta gắn bó với nhau. Dù có khinh nhau, nhưng chúng ta khó mà bứt sợi dây oan nghiệt đã ràng buộc chúng ta từ kiếp trước...






















Nguyễn Thị Thụy Vũ sau 1975


Tham khảo thêm về nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ











Nguyễn Thị Thụy Vũ, giữa dòng đời nghiệt ngã
Vương Trùng Dương

http://nsvietnam.blogspot.com/2014/10/nguyen-thi-thuy-vu-giua-dong-oi-nghiet.html




 





Sự khác biệt về tính dục trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ và các nhà văn nữ khác. Du Tử Lê
http://www.dutule.com/D_1-2_2-111_4-2926/su-khac-biet-ve-tinh-duc-trong-truyen-nguyen-thi-thuy-vu-va-cac-nha-van-nu-khac.html








Nguyễn Thị Thụy Vũ – “Qua Trận Gió Kinh Thiên”.
Nguyễn Tà Cúc

http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?212273-Nguy%E1%BB%85n-Th%E1%BB%8B-Th%E1%BB%A5y-V%C5%A9-%E2%80%93-%E2%80%9CQua-Tr%E1%BA%ADn-Gi%C3%B3-Kinh-Thi%C3%AAn%E2%80%9D















Thụy Vũ chăn dê
Đỗ Tăng Bí

Nửa đàn dê còn lại sau một trận dịch quét qua. Mỗi con dê bán lấy giống được khoảng 5 triệu. Cỏ trong máng do nhà văn Thụy Vũ trồng ngay trên rẫy.

Một chuyến đi Lộc Ninh

Một ngày đầu Tháng 11, 2004, Nguyễn Ðạt và tôi đi Lộc Ninh thăm nhà văn Thụy Vũ. Kể từ khi bài nói về cuộc sống thực vật của cháu gái của chị do anh Văn Quang viết ra, cuộc sống chị có phần thay đổi. Bạn bè, văn hữu, độc giả có chia sẻ với chị ít nhiều nỗi khó khăn nhọc nhằn trong cuộc sống khốn cùng. Bây giờ, Thân Mẫu chị mới mất, chị được thừa hưởng căn nhà ngói sát bên lề tỉnh lộ đi Lộc Ninh, đời sống có đỡ khổ cực nhiều. Cháu gái nhờ thuốc men cũng có bớt hơn chút ít, có chỗ trú mưa trú nắng, có bữa cơm nóng mỗi ngày, chị cũng đỡ cực hơn. Nhưng chưa thể nói chị có cuộc sống đầy đủ, chưa thể nói chị được hưởng chút an nhàn.

Chúng tôi ở chơi với chị Thụy Vũ và chị Văn Quang gần 5 tiếng đồng hồ. Theo chị lên rẫy nơi cách đây mấy năm chị và cháu gái sống đời cùng cực dưới mái lều dột nát. Ðứng trước căn lều rộng chưa tới 12 mét vuông, tôi băn khoăn không hiểu chị nghĩ gì để có đủ dũng cảm sống suốt những tháng năm đọa đầy bên cháu gái liệt giường? Bây giờ chị đã trồng được mấy trăm gốc tiêu, dựng được một chuồng nuôi vài con dê, một con bò, và một khoảnh đất trồng cỏ. Tiêu bây giờ đang mất giá, thu hoạch sẽ chẳng được bao lăm, cứ để chúng sống lây lất. Túp lều trước đây chị trú ngụ nay dành cho cậu bé canh rẫy, mỗi năm cũng phải trả công cậu mấy triệu bạc. Nạn dịch mới đi qua, chị mất nửa chuồng dê, nay đang cố gầy dựng lại.

Những gì tôi ghi dưới đây là câu chuyện chúng tôi nói với nhau khi ngồi uống nước, lúc ở trên xe, khi đi thăm rẫy, lúc ngồi ăn ngoài chợ Lộc Ninh... Có thể có những câu hỏi với những câu trả lời, có thể là những câu chuyện kể ra nhân không khí thân thiết vui vẻ, chứ thực ra không phải là một cuộc phỏng vấn. Chúng tôi dùng vế “Hỏi” để đưa ra những câu hỏi, câu nói của Nguyễn Ðạt và tôi, và vế “Th. Vũ” để đưa ra những câu trả lời, những lời trò chuyện của chị Thụy Vũ. Ðôi khi có câu hỏi, câu nói của cháu Khôi Hạo hay chị Ngân tức chị Văn Quang. Dù sao, những câu nói ghi dưới đây hoàn toàn có thực. Những câu chị Thụy Vũ trả lời, những câu chị Thụy Vũ kể chuyện, dù nội dung có chua xót đến đâu cũng được chị nói ra với một tràng cười thoải mái, không một chút đắng cay. Chị nói chuyện mình như nói chuyện người ta.

Tôi không nhớ lắm từ đâu mà câu chuyện bắt qua thời chị Thụy Vũ ngoài hai mươi tuổi. Nhưng nhớ rõ chuyện chị kể về những lúc “đầu đời” này:

Th. Vũ: Khoảng giữa thập niên 1960 là lúc tôi khá túng quẫn. Một anh bạn, có lẽ cũng thuộc loại uy tín sao đó đối với giới bán phấn buôn hương, đề nghị tôi đi học Anh văn rồi anh sẽ thu xếp để tôi dạy tiếng Mỹ cho các “Chị em ta” (mà tiếng bình dân gọi là “Ðiếm”). Lúc đó quân đội Mỹ vào Việt Nam đã đông, “Chị em ta” cặp kè với các chàng GI khá nhiều, nên chuyện học vài ba câu giao tiếp rất cần thiết đối với các nàng. Khổ một cái học tiếng Anh cho đủ để đi dậy đâu phải là dễ, đâu phải một sớm một chiều là có đủ vốn liếng mà dậy. Nhưng chuyện cần kiếm tiền sống lại là khẩn thiết đối với tôi, nên anh bạn tôi nghĩ ra mẹo này: Anh nói tôi cứ ghi tên học Hội Việt Mỹ đi, sau khi học được một hai tuần là bắt đầu đi dậy. Anh tập hợp đám các “Chị em ta’ lại và nói:

- Này nhé, tao mời cô giáo đến dậy tiếng Mỹ cho mấy đứa bay. Cô giáo bận rộn đủ thứ chuyện, không có thì giờ nhiều đâu. Cô giáo dậy chi học nấy, cấm không được đứa nào hỏi để cô mất thì giờ. Rồi, mỗi tuần ba buổi, từ giờ... đến giờ... tất cả phải học hết, học phí bây nhiêu... đóng tiền thẳng cho cô giáo. Ðứa nào chạy làng là biết tao à nghen!

Thế là tôi học được cái gì ở trường, tuần sau cứ thế dậy lại. Ðâu đứa nào dám hỏi nên cái dốt của mình đâu có lòi ra. Vậy mà tôi sống cũng được hai năm lận.

Hỏi: Thế Má chị có biết chuyện đó không?

Chị cười ròn tan trả lời: Bả biết chớ. Nhưng chỉ biết cái khoản tôi học hôm trước hôm sau đi dậy, chớ đâu có biết mình dậy ai. Bả đâu có biết mình là “thầy điếm”.

Hỏi: Ngoài chuyện dạy chữ chị có dậy “Nghiệp Vụ” không?

Th. Vũ: Trời ơi, cái khoản nghiệp vụ đó bọn chúng thay nhau nhồi nhét cho mình, thiếu điều bắt mình thực hành. Riết tôi phải cấm không cho nói chuyện nghề nghiệp chi hết. Chỉ có học chữ thôi. Ai muốn tâm tình chi cũng được nhưng cấm cái khoản mánh khóe, vòng trong vòng ngoài này nọ... Thực ra suốt hai năm đó cho tôi rất nhiều vốn sống. Chỉ riêng các câu chuyện đời của ngần ấy đứa đủ cho tôi viết bao nhiêu chuyện ngắn, chuyện dài, học hỏi hiểu biết bao nhiêu về tâm lý con người.

Hỏi: Suốt hai năm đó chắc nhiều chuyện vui phải không chị.

Th. Vũ: Ngày nào cũng có chuyện. Ðể tôi kể nghe sơ một chuyện này thôi: Con nhỏ đó có thằng bồ Mỹ đen, theo thường lệ thì sáng hôm sau thằng bồ mới về. Con nhỏ chắc ăn, kêu thằng bồ đen khác đến, lúc 2, 3 giờ chiều hai đứa sà nẹo nhau trong phòng, tôi dậy mấy đứa khác học ở phòng khách. Bỗng nghe tiếng xe thắng ngoài đầu ngõ, nhìn ra tôi thấy thằng da đen bước xuống xe giống thằng bồ con nhỏ kia, hỏi mấy đứa đều xác nhận là đúng. Tôi nhào vào tông cửa buồng, hai đứa còn trần truồng ấp nhau. Tôi nói nhanh với con nhỏ: Mẹ, thằng bồ mày nó về kìa. Con nhỏ xanh xám mặt mày hỏi: Sao bi giờ cô giáo. Tôi bảo nó mày mặc quần áo vào còn thằng kia cứ nằm đó. Nói xong tôi lao lên giường nằm đắp mền với thằng Mỹ đen. Vừa lúc thằng bồ Mỹ đen mở cửa phòng bước vào.

Nó hỏi:

- Bộ cô giáo mày cũng có bồ hở.

Con nhỏ trả lời:

- Thì bà ấy cũng cần bồ chứ bộ.

Nó vặn lại:

- Thế tại sao mày ngồi đây làm chi vậy, bộ cho mượn phòng rồi mà không muốn họ làm ăn hở.

Con nhỏ đáp lại:

- Thì bà ấy nói cứ ngồi đó, kéo màn lại có sao đâu.

Mọi chuyện êm xuôi, thằng bồ thứ hai và con nhỏ cám ơn tôi rối rít. Cả hai đứa đều nói không nhờ có tôi nhanh trí chắc thằng kia xách súng bắn chết hết quá. Vậy mà con nhỏ còn hỏi tôi chớ lúc nằm như vậy tôi có khoái không. Thiệt hết chỗ nói.

Hỏi: Mà hỏi thiệt chị chớ lúc nằm sát vậy chị thấy sao?

Th. Vũ: Sợ thấy mồ. Thiệt đó, tôi nằm mà tim đập thình thịch, sợ lỡ thằng cha Mỹ đen nó đang cơn như vậy bị cúp cái rụp, nó ôm đại mình thì không biết chống cự ra sao. Tự nhiên mình nhào vô chứ bộ. Trời Phật thương, không có chi xảy ra. Sau này cả cái nhà điếm đó nó chọc ghẹo hoài, nhưng họ càng thêm thương mến mình, bao nhiêu tâm sự cứ thế tuôn ra hết, tôi như cái thùng rác chứa đủ thứ hằm bà lằng của đời các cô gái điếm, các cô me Mỹ. Mà có điều lạ mấy đứa chơi với Mỹ vậy đó đều bám theo một anh không quân. Một dãy appartements gồm mấy đứa học trò tôi, mỗi đứa đều cõng một anh không quân, lo cung phụng đủ thứ, tôi cũng chưa biết tại sao.

Hỏi: Vậy chị là sư phụ của điếm. Sau này chị có gặp lại mấy cô đó không?

Th. Vũ: Sau 75 tôi có gặp lại một đứa, nó khóc quá trời. Nó kêu thằng Mỹ bỏ nó lại. Tôi nói bỏ lại là đúng rồi, nó còn vợ con bên đó, mà mình có phải vợ con gì của nó đâu. Khi hết dậy điếm là giai đoạn tôi vào làm việc ở xí nghiệp, rồi vào nghề viết lách... nghĩ lại cũng thấy xâm mình chớ, đàn bà lao vô mấy chỗ đó cũng dễ hư lắm, tiền nhiều quá mà... Mà đời cũng kỳ thiệt. Trước 75 lấy Mỹ là cái gì xấu xa, sau này có con lấy Mỹ thì ngon lắm, lo diện con lai đủ thứ để đi. Bởi đời nhiều điều kỳ khôi như vậy mà tôi trở thành thầy bói...

Hỏi: Từ đâu mà chị thành thầy bói vậy?

Th.Vũ: Sau 75, đâu còn ai cho viết, xí nghiệp làm sao xin vào, điếm thì còn đó nhưng đâu ai cần học tiếng Mỹ. Chưa biết tính toán sao thì có thằng em hỏi: Chị Hai, chị học nghề bói không? Sực nghĩ thời buổi lúc đó không ai biết tương lai mình ra sao, chắc nghề thầy bói coi bộ trúng đó. Tôi bèn trả lời: Thì học chớ. Thế là nó lấy bộ bài ra dậy tôi. Tôi học cũng chăm chú nhưng thiệt tình không nhớ gì lắm. Ruột gan lúc nào cũng rối bời, nhớ gì nổi. Vậy mà “chó ngáp phải ruồi”, cái đám ở khu làng báo chí (Thủ Ðức) đó, toàn bọn thanh niên nam nữ thuộc loại lý luận nghiệp vụ, chúng tin tôi lắm. Ðứa nào cũng thắc mắc chuyện tình duyên, mình cứ “tâm lý” mà giải đáp, bọn chúng tin rần rần. May mắn gặp mấy đứa đầu mình đoán trúng sao đó, một đồn mười, mười đồn trăm. Mà tôi đâu có lấy tiền, đứa cho gạo, đứa cho bánh, đứa cho chuối, thế là cũng đủ ăn.

Các anh biết không, Nguyễn Ðình Toàn đó, hắn đi nói với người ta: “Cái mụ Thụy Vũ đó nó là phù thủy của tao”. Ðến lúc ông ta đi vượt biên, mới ghé lại nói: “Ê Thụy Vũ, bói tôi một quẻ coi”. Tôi bói rồi nói: “Nè, đi rồi về nghe! Ði hẹn tắc xi đi để nó đón về”. Rồi ông ta đi lúc 7 giờ, 11 giờ lò mò về, qua nhà tôi chửi: “Ráng mà chúc dữ nghe. Chúc dữ rồi có ngày...” Vậy là ông ta nói với người ta tôi là phù thủy, “khi nào nó nói tao đi được là được, nói không là không...” Còn Lê Thị Ý nữa. Lê Thị Ý hẹn chồng tiền người ta 3 cây vàng buổi tối để sáng hôm sau đi. Trước khi chồng tiền không biết nghĩ sao kêu xe ôm nhảy xuống nhà tôi hỏi: “Ê Thụy Vũ, mày dở quẻ tao coi”. Bày quân bài ra tôi hỏi: “Mày có làm ăn với ai phải không, đàn ông đó?” Nó nói thì có làm ăn, hùn hạp, chứ nó không nói nó vượt biên, nó vẫn giấu. Tôi hỏi: “Ngày mai mày hẹn trả tiền phải không? Mày trả tiền coi chừng bị lừa đó”. Mấy hôm sau nó chạy xuống nói: “Tao đỡ mất 3 cây vàng...” Nó mới kể chuyện mấy người kia vượt biên bị lừa. Nó đãi tôi chầu ăn. Ðến kỳ chót nó đi được, nó cũng xuống đòi bói. Tôi dở bài ra rồi nói: “Chắc kỳ này tao với mày xa nhau quá...” Ði thoát, nó gửi cho tôi 4 bộ bài theo đường bưu điện, có ghi mấy chữ: Phen này mày bói cho gãy tay luôn. Hồi đó năm 77, 78 gì đó, bọn nó tịch thu hết đâu có phát cho tôi. Lê Thị Ý là em của Vương Ðức Lệ đó.

Hỏi: Chị bói như vậy theo linh tính hay sao?

Th. Vũ: Không biết sao nữa. Làm như khi mình dở bài ra, nghe tiếng ai nói đâu đó rằng vậy vậy đó, rồi mình cứ thế nói theo. Rồi đôi khi cũng là mánh nữa. Lúc mới đầu, ngay sau vụ 75, có lần tôi đi với Sao Biển, với đứa bạn nữa. Ba đứa không có tiền, không có chi hết. Buổi trưa đói quá, thằng Sao Biển mới nói, nè tao chỉ mày vô cái nhà đó nghe, mày coi bói. Nó nói hết cái nhà đó có những ai, vợ chồng, con cái ra sao, đủ thứ... Rồi nó vô nhà đó trước, nói với người ta là có cái bà ở núi Tà Lơn xuống, bây giờ tôi rước vô cho chị coi. Thế là bà chủ nhà mời vô, cơm bưng nước rót. Xong tôi dở bài ra, nhớ những gì Sao Biển nói tôi nói lại, trúng quá, bà ấy khóc. Ngặt tôi ở núi Tà Lơn xuống nên không lấy tiền, bả đãi tụi tôi một chầu ăn quá xá là ăn. Vậy đó, năm 75, 76 đó tụi tôi đi dài dài, đói quá là kiếm ăn kiểu đó cho cả đám bạn bè. Nghĩ lại cũng kỳ kỳ nhưng mà vui.

Xe đi qua khu vực chợ Lộc Ninh, Thụy Vũ nói:

- Hồi đó (Trước 1975) Ba tôi có hiệu thuốc tây ở đây nè.

Hỏi: Trước đây ba chị là dược sĩ?

Th. Vũ: Ðâu có. Ba tôi có bằng gì kiểu như Trữ Dược đó. Ổng mở một tiệm thuốc tây nhỏ ngay khu chợ Lộc Ninh, thực tình để ổng nuôi cán bộ, trợ cấp tiền bạc cho Việt Cộng. Ổng là Cộng Sản mà. Ổng mê Cộng Sản lắm, nói nó lý tưởng. Ðâu dè sau này... Sau 75, ổng là cố vấn cho Hội Văn Nghệ gì đó. Mới “giải phóng” vô, tổ chức học tập, bọn chúng đến nói ba tôi: Anh không biết dậy con (Thụy Vũ). Con anh nói nhiều cái khó nghe quá. Ông già tôi nói: Tôi hãnh diện vì nó. Nó có lý tưởng nó, tôi có lý tưởng tôi. Ông ấy điệu lắm. Ổng mất hai mươi mấy năm rồi. Hồi mới kêu bằng “Quân Quản” đó thì ông ấy là cố vấn Hội Văn Nghệ ở Sài Gòn. Lúc đó có Bảo Ðịnh Giang. Hồi xưa Bảo Ðịnh Giang đánh xe ngựa cho ông già tôi. Một hôm ổng đến nhà Bảo Ðịnh Giang nói với anh gác cửa: Vào nói Bảo Ðịnh Giang có thằng đánh xe ngựa tới thăm. Thật đúng bây giờ đổi đời... Mấy anh biết cái nhà từ đường của nhà tôi ở Vĩnh Long không, trời ơi là một gia tài đó, bao nhiêu đồ cổ quí giá, vậy mà năm 75 ổng hiến tặng cho nhà nước. Bây giờ người ta vẫn nói nhà đó tiền tỷ tỷ mà con gái thì chăn dê, chăn bò khổ cực. Ðây nè, thằng con trai tôi nè, nó học xong đại học Anh ngữ rồi đó chứ, bây giờ về giúp mẹ chăn bò... Nhiều khi chơi với thú vật sướng hơn, nó không có phản bội mình...

Hỏi: Nhắc chuyện phản bội tôi mới nhớ có mang theo bản copy của tạp chí thơ (California) số mới nhất cho bà xem, trong có bài thơ của Tô Thùy Yên nè... Nghe nói khi ổng đi tù về không nhìn mặt chú con trai này phải không?

Th. Vũ: Ðúng mà cũng không đúng. Số là sau 13 năm đi tù, ổng về nhà, thằng Hạo này ở bên cô nó qua thăm, ông ấy tưởng con hàng xóm, ngồi một lúc ông ấy đuổi: Thôi đi về đi mày cho chú nghỉ. Nó cũng không thèm nói nó là con ai, bỏ đi về. Lát sau cô nó hỏi: Ủa, thằng Hạo mới đây đâu rồi? Ổng mới nói: Thằng đó là thằng Hạo hở? Lúc đó ổng mới kêu lên: Trời ơi tôi đuổi con tôi rồi. Thằng bé lúc qua gặp bố có chào nhưng lí nhí trong miệng ổng không nghe. Ðến chiều ổng đi kiếm... Lúc đó nhà ở Lê Quang Ðịnh đó. Tôi nghĩ đó cũng là cái điềm ổng không nhìn đứa nào hết.

Hỏi: Trông nó giống ông ấy quá đi chớ sao ổng không nhận ra kìa.

Th. Vũ: Mà điều nó không có hô phải không? Thằng này nó cũng đọc sách dữ lắm.

Hạo: Vậy mà ông ấy không nhận ra con.

Hỏi: Hồi đó chị có viết cái gì như “Hai chàng Thi Sĩ Họ Tô” phải không, Tô Kiều Ngân và Tô Thùy Yên?

Th. Vũ: Anh Ngân bây giờ đi chụp hình cho các văn nghệ sĩ, mà chụp loại hình để thờ. Ảnh nói: Bây giờ anh đi chụp hình thờ, em cho anh chụp một tấm để thờ. Tôi nói được rồi, nhưng phải chụp cho đủ năm ngón tay nghe. Ổng năm nay bảy mươi mấy rồi mà trông còn trẻ lắm, trẻ hơn ông Văn Quang. Hồi đó tôi vô phòng kiếm ông Tô Thùy Yên thấy ông Văn Quang mà đâu dám nói chuyện.

Hỏi: Hồi đó ông Văn Quang Trung Tá, ngậm ống vố trông oai lắm. Tôi ở phòng ông Nguyễn Ðạt Thịnh, nghe nói ông Tô Thùy Yên là thi sĩ nên tôi xin chuyển qua phòng đó. Ai ngờ ổng là thi sĩ mà quái gở quá phải không chị?

Th. Vũ: Hồi đó người ta nói ông ấy “Ðinh Thành Tiên”, tức là Ðiên Thành Tinh. Ðiên mà thành tinh thì kinh lắm, công nhận ông ấy điên điên thiệt...

Hỏi: Hồi đó tại sao chị viết?

Th.Vũ: Hồi đó tôi đi dậy học mấy cô điếm đó, khi về nhà gặp thằng An (Hồ Trường An) nó nói: Trời ơi, tôi nói thiệt với bà, tôi thấy bà nói chuyện được thì bà viết được. Tôi nói tao viết thì ai mà đọc. Nó nói riết tôi cũng hỏi ông Võ Phiến cho tôi viết thử, chuyện đầu tay là “Mèo Ðêm”. Ông Võ Phiến đọc xong khen: Cô có triển vọng lắm đó. Do đó tôi mới tà tà viết cho đến đứt phim mới nghỉ. Hồi đó tôi bắt đầu viết vào năm 28 tuổi, đến năm 33 tuổi thì lãnh cái giải gì đó của ông Thiệu, đó là lúc tôi đẻ thằng Khôi Hạo này, lúc đó 1970. Truyện trúng giải là chuyện kể về gia đình tôi, chuyện “Ðại Gia” còn viết dài dài được, nhưng sau đó tôi mất hứng, rồi lười quá, không viết tiếp.

Hỏi: Bây giờ vừa viết vừa chăn dê cũng được phải không chị?

Th. Vũ: Tôi thì bây giờ nửa thầy nửa thợ, đâu biết làm gì, nên mới bàn với thằng Hạo vay tiền nhà nước 10 triệu mua đại con dê về nuôi. Hồi đó tôi cũng bày đặt nuôi heo nhưng lỗ quá. Ông già tôi nói hoài: Thứ gì mà cỏ biến thành thịt thì lời, còn cám hóa thành thịt thì 5 ăn 5 thua, nhiều khi lỗ nặng. Nên hai mẹ con tôi bắt đầu nuôi dê. Chỉ cần con dê cái đẻ một con thôi, mà là dê cái nữa, là bán được mươi triệu đủ trả nhà nước rồi. Hai mẹ con gây chuồng dê cũng được mấy con rồi, ngặt kỳ mới rồi dịch chết mất nửa chuồng. Bây giờ các anh hùn mua dê chúng tôi nuôi cho rồi mình chia nhau mà sống. Thằng Hạo bây giờ biết thuốc phòng bệnh cho dê khá lắm, khỏi tốn tiền thuê chích thuốc, nó còn chích giúp người ta nữa. Mà nó làm thơ hay lắm đó. Bây giờ bà bạn của tôi nè thấy chúng tôi có ít đất, chịu khó làm ăn, coi mòi đất lành nên đã xúi ông Văn Quang mua lấy một mẫu cất nhà ở, mấy tuần nữa là làm xong nhà rồi đó.

Hỏi: Ủa, bà Ngân này không phải em chị hở? Coi còn trẻ quá mà.

Th. Vũ: Ừa, nó là bạn vong niên của tôi đó, còn kém tôi 15 tuổi lận. Hồi đó làm mai cho ông Văn Quang còn sợ ông ấy mắng vốn là giới thiệu trẻ nít., nó kém ông Văn Quang 19 tuổi lận...

Bà Ngân: Trời, chị em gì. Mỗi lần bà ấy lên nhà ông Văn Quang, buổi sáng tôi pha cà phê hầu hai ông bà. Tôi bưng cà phê ra: Ly này mời Bố, ly này mời Mẹ. Hai người hành tôi dữ quá. Sau này chết tôi sẽ thờ cả hai...

Hỏi: Chắc khi đó chị giới thiệu chị Ngân cũng là để trốn “nghĩa vụ quân sự” đối với ông Văn Quang?.

Th. Vũ: Nói thiệt với anh, nhiều người hỏi tôi rằng hồi lúc ông Tô Thùy Yên với bà chia tay sao bà không lấy chồng? Tôi trả lời rằng khi lấy ông Yên là coi như tôi lấy hết đàn ông trên thế giới này -đàn ông thế giới nghe chứ không phải chỉ đàn ông Việt Nam– Thế là đủ quá rồi, sợ quá rồi... Cũng như hồi ông Yên đi cải tạo, tôi ra thăm, nói lại các anh không tức cười thì thôi. Bước vô thì công an ngồi đầu bàn, tôi với ông ấy ngồi đối mặt. Tôi hỏi: Anh ơi, anh đi cải tạo mấy năm rồi? Ông ấy trả lời hơn bảy năm rồi. Tói nói: Ủa, sao mau dữ vậy. Thằng công an nó tức cười quá, người ta vợ con vô khóc bù lu bù loa, còn mình nói câu lãng xẹt. Ông Yên mới nói: Em ơi, xa mặt cách lòng! Tôi nói: Ðáng lý ra anh phải hỏi câu này nè: Em ơi, làm sao em nuôi nổi con? Còn xa mặt cách lòng hở, mai này anh về, trong giới giang hồ anh cứ hỏi cái con Thụy Vũ này nó có lăng nhăng bậy bạ không? Mà như vậy không phải tôi chung thủy với anh đâu nghe, mà chỉ vì tôi ngán đàn ông quá rồi. Nghe vậy ông ngồi mặt méo xẹo. Ông công an nín cười không nổi phải bước ra chỗ khác che miệng mà cười. Nghĩ cũng tội nghiệp, tới chừng lên xe mưa tầm tã, bà già ông ấy mới nghĩ đến con khóc khúc khít. Bà nắm tay tôi hỏi: Con ơi thế con hết thương thằng hai của má rồi hở. Tôi trả lời thôi để má thương thằng hai của má đi. Mà bà già ở quê lên nói tội nghiệp: Con ơi sao vợ con người ta khóc mà con cứ ngồi cười hoài vậy. Dù sao mày cũng ở với nó ba mặt con. Tôi trả lời: Ba mặt con cũng như không có đứa nào, ổng có coi như có đứa con nào đâu.

Hỏi: Hôm nay nghe chị kể chuyện ông Yên hơi kỹ?

Th. Vũ: Tôi nói thằng này (cậu con trai Khôi Hạo) giống gì thì giống chứ đừng có giống cái trăng hoa. Thời tôi lấy ông ấy, mỗi tuần lễ ông ấy có một mối tình, mà thứ đó là tình dục chứ không phải tình yêu đâu. Bữa nào mà ông ấy lăng xăng cầm tập giấy, hút gió, rồi sau khi tắm xong là thế nào cũng kể tôi nghe mối tình mới, rồi ông ấy tả người yêu của ông ấy làm sao làm sao. Một bữa ông ấy có cô bé đó, còn nhỏ lắm, ông ấy rủ đi ăn hủ tíu cá ở Hàm Nghi. Nhằm lúc tôi ghé tòa soạn, nên ông ấy nói chờ lát ra đó luôn. Hai người vào kêu 3 tô hủ tíu. Cô bé hỏi sao kêu đến 3 tô lận? Ông ấy nói thì kệ nó cứ kêu 3 tô. Chừng tôi bước vô, cô ta hoảng hồn đứng dậy chạy. Tôi nắm tay nó lại và nói: Em ơi, cứ ngồi đây đi. Ổng của chùa của miễu chứ không phải của chị đâu. Cứ yên chí ăn đi không có sao đâu, rồi chị đi chỗ khác cho em ăn với anh ấy. Rồi em chờ đó, mấy bữa nữa là lại gặp người khác nữa kìa... Cho nên tôi mãi mãi là người độc thân.

Hỏi: Nhưng đầu tiên làm sao mà chị với anh ấy gặp nhau?

Th. Vũ: Hồi đó tôi là độc giả của anh ấy. Tôi là cô giáo tỉnh lẻ, thích thơ của anh ấy, mới viết thơ qua lại. Tới chừng bữa bà Túy Hồng lấy ông Thanh Nam, tôi ngồi với bà Túy Hồng một bàn. Tôi với ông Yên thơ từ qua lại nhưng không biết mặt nhau. Ông Tô Kiều Ngân thì biết tôi là Nguyễn Băng Lĩnh, nên chạy tới hỏi Tô Thùy Yên: Mày biết Nguyễn Băng Lĩnh không. Ông Yên mới nói: Nó là độc giả của tao đó. Tô Kiều Ngân bèn dắt ông ta đến giới thiệu tôi: Ðó, Nguyễn Băng Lĩnh đó. Trời, vậy mà ông ta nói ngay: Trời ơi, anh kiếm em mấy lần trước khi cưới vợ (bà Diệu Bích)! Tôi mới nói: Bây giờ ông có vợ rồi thì ông im đi. Tôi với ông bạn bè củ nghệ củ gừng thôi. Vậy mà ông ấy theo tôi 3 năm liên tục, sáng, trưa, chiều, tối, ngồi đồng riết rồi mình cũng xiêu lòng.

Hỏi: Cuốn “Hôn Thụy” là do ông ấy đặt tựa?

Th. Vũ: Ông ấy đặt. Bọn nó cứ nói nghĩa là “Hôn Thụy Vũ”. Thực ra là ngủ cho chết luôn, tôi có người bà con một ngày ngủ 23 tiếng đồng hồ...

Hỏi: Mấy năm trước báo xuân Người Việt có đăng bài thơ “Ta Về” của Tô Thùy Yên, hay lắm. Ðọc rất cảm khái. Thế chị nghĩ sao chuyện người ta nói “Văn là người?”

Th. Vũ: Tôi thấy không phải vậy đâu. Cũng như mấy người trong Làng Báo Chí đó, họ nói tôi đọc tiểu thuyết của chị tưởng chị ghê gớm, dữ dằn lắm, ai ngờ chị hiền queo à. Tôi nói những người nào vô văn chương mà ghê gớm đó là vì trong đời sống hằng ngày người ta hiền quá, nên mới nhảy vô văn chương mà phá. Còn như chị V. đó, trong văn chương hiền queo à, nói toàn tình thương yêu, nhưng trong đời sống thì phá dữ. Tôi sống đời sống hiền lành quá, tình ái cũng hiền lành quá, vô đó quậy chơi... Cũng như ông Yên đó, nhìn trong văn chương giống như người hùng nghe, té ra ông ấy nhát như cáy. Hồi đó tôi cũng mê thơ ông ấy lắm. Có một lần ông ấy làm thơ xong đưa tôi coi, hỏi được không, tôi nói cũng đỡ đỡ, ông ấy chửi quá. Tôi nói đỡ đỡ là tôi an ủi ông ấy. Chứ tôi hỏi anh ông ấy làm một bài thơ cực khổ lắm, ông ấy làm rồi xé, tôi đổ mấy thùng rác ông ấy mới làm được một bài thơ. Gọi là ông ấy “trạm” thơ mới đúng, chứ đâu phải có hứng mà viết ra. Tôi nói “đỡ đỡ” là tốt lắm rồi đó. Ông ấy bảo cả nước nó ngả mũ chào tôi về thi ca mà bà nói vậy... Nhưng tôi nói ông trạm thơ riết đọc nó chán, hết linh, bởi ngày nào tôi cũng phải đọc tới đọc lui thì còn thấy hay gì nữa.


Ðỗ Tăng Bí


(Nguoiviet Online)











Nguyễn Thị Thanh Xuân



Tranh Phan Nguyên


Bẵng đi những 41 năm, qua một giấc ngủ đông dài, bỗng một ngày toàn bộ mười tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ lần lượt mở mắt tươi tắn chào bạn đọc[1]. Những ai yêu sách, yêu văn học, những ai nóng lòng với sự chìm khuất của một phần di sản văn chương Việt Nam, hẳn sẽ rất vui mừng. Mừng cho nhà văn, mừng cho công chúng, mừng cho việc trở lại của một đời sống văn học tự nhiên và tự tin chấp nhận trong lòng nó nhiều giá trị khác nhau.

Quan sát tận tường, miêu tả táo bạo, phơi mở nhiều cảnh huống, dõi theo nhiều số phận, chạm khắc những tâm trạng, tung hứng nhiều lời thoại dí dỏm… tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói với chúng ta bà là nhà văn bẩm sinh. Đọc bà, sẽ hiểu cái dung nham sáng tạo ấy đã cuồn cuộn trong lòng bà từ thời thơ bé, dù bà nói rằng thuở ấy những bài tập làm văn của bà thường bị thầy chê trách và phải nhận những điểm xoàng. Có thể người thầy ấy khắt khe vì biết Nguyễn Thị Thụy Vũ xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn chương, nhưng nhiều phần đúng hơn là bà cá tính quá: cái cá tính phản kháng, hoài nghi, không chịu khép mình vào lề thói, lại hay nói huỵch toẹt ra những sự thật mà đời thường cấm kỵ…

Vĩnh Long đã nuôi trong lòng nó một nhà văn độc đáo và không thể dung chứa nổi tài năng ấy. Cảm giác về sự chật chội của cuộc đời tỉnh lẻ đã đưa Nguyễn Thị Thụy Vũ lên Sài Gòn, nhưng bà không kỳ vọng đó là miền đất hứa, mà đơn giản hơn chỉ xem đó là một “con sông rộng có nhiều mồi, nơi dành cho những kẻ thích hoạt động”, là “chỗ để cho bọn hồ ly yêu nghiệt giấu đuôi, để chúng có cơ hội tu chỉnh lại cuộc đời” (Thú hoang). Vẫn tiếp tục nghề dạy học, nhưng giờ bà dạy cho người lớn, những cô gái dấn mình vào chốn bụi hồng, với cái vốn tiếng Anh thông dụng mà bà luyện thêm từ Hội Việt Mỹ. Gần như không bị điều kiện hóa bởi bất kỳ không gian, hoàn cảnh nào, cái Ngọn- núi- băng- cao- vút kia (Nguyễn Thị Băng Lĩnh, tên cúng cơm của bà) tự mình đổi tên thành Cơn -mưa -lành (Nguyễn Thị Thụy Vũ, bút danh), và từ 1965 đến 1975 những cơn mưa văn chương rào rạt chảy, hồn nhiên mà tưới tắm, mà xói đất, mà làm nổi lên những bèo bọt, rác rưởi của những kiếp phù sinh một thời ly loạn. Nhưng đây là bèo bọt rác rưởi của nhân sinh, mưa nào phân biệt. Cơn- mưa- lành chỉ biết nâng lên thành chữ nghĩa, thành văn chương: công chúng đón đọc từng ngày qua báo chí và mười cuốn sách lần lượt ra đời khẳng định một khuôn mặt văn chương nữ độc đáo của Việt Nam về bút pháp tả chân.

Trong một lần được Du Tử Lê phỏng vấn, Nguyễn Thị Thụy Vũ nói là “Hình như tôi thường nghiêng nặng về những nhân vật cynique hơn là những nhân vật sống hợp lý với cuộc đời...”[2]. Một câu trả lời quá chân thành và can đảm. Chân thành vì đúng là nhà văn của chúng ta say mê dõi theo những nhân vật có cái nhìn thẳng, thậm chí xấc xược, với những quy ước xã hội, những quy tắc đạo đức phi tự nhiên. Can đảm, bởi trong ý nghĩa thông thường của tiếng Việt, cynique có nghĩa là vô liêm sỉ. Nguyễn Thị Thụy Vũ làm ta nhớ đến Hồ Xuân Hương ở cái cynique vượt ra ngoài ý nghĩa hẹp hòi, thông tục. Đó là khát vọng muốn đạt đến tự do, vượt qua những hệ lụy, những thứ bậc, những cấm kỵ sáo mòn, giả dối. Đó là việc ưu tiên cho những sinh hoạt, hình ảnh, câu chuyện cho phép chạm đến mọi tầng lớp người lao động mà không tập trung vào tầng lớp trí thức tinh hoa. Khiêu khích và giễu cợt trong cái nhìn, trong ngôn ngữ, nhân vật trong tác phẩm của hai bà nói với chúng ta rằng: sự thật đạo đức cần được chứng minh bởi thực tiễn kinh nghiệm và bằng những tình huống cụ thể.

Có hai vỉa quặng mà Nguyễn Thị Thụy Vũ khoan sâu khai thác tập trung: quê nhà Vĩnh Long Mỹ Tho và đô thị Sài Gòn. Quê nhà cung cấp cho bà những câu chuyện về gia đình, vợ chồng (Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Khung rêu), về trường lớp, bạn bè (Thú hoang). Sài Gòn mang đến cho bà những câu chuyện về cuộc đời các cô gái bán phấn buôn hương, những dan díu Việt- Mỹ, những người cùng đinh trong xã hội… (Như ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên, tiểu thuyết; và Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông, truyện ngắn).

Nguyễn Thị Thụy Vũ từng nói rằng truyện của bà có 70% là câu chuyện thật. Phải nói trải nghiệm của bà trong cuộc đời thật phong phú. Và khả năng tự ý thức của bà cũng thật rõ rành: “Ðời sống thực tế với những kinh nghiệm nếm trải đã làm cho độc giả quên đi một phần nào bút pháp rặt một giọng miền Nam đầy gai góc của tôi”. Bạn bè cho bà cái niềm vui được quấy phá, đùa nghịch. Gia đình, họ hàng, với những nhân vật đặc biệt có trí tuệ, có vị trí xã hội, có thiên hướng nghệ thuật, với những xu hướng khác biệt nhau, cùng trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, đã mang lại cho Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều tố chất, nhiều cảm hứng và cả ám ảnh, như bà từng nói về tiểu thuyết Khung rêu. Tinh thần dấn thân trong văn chương, tình yêu và ý thức tự do của bà có thể hiểu được qua hình ảnh người cha là nhà thơ Mặc Khải, khi ông tuyên bố: “Tôi hãnh diện vì nó. Nó có lý tưởng nó, tôi có lý tưởng tôi”. Hiểu và khích lệ Nguyễn Thị Thụy Vũ, có người em trai cùng thiên hướng: Hồ Trường An, cũng là một nhà văn tài danh. Và nhà thơ Phương Đài, người cô ruột. Quả thật hiếm có một gia đình ở Nam Bộ nào nhiều văn nhân như vậy.

Lắng nghe chính mình và bạn bè mình, Nguyễn Thị Thụy Vũ ghi lại một thế hệ những người trẻ miền Nam chín sớm. Họ tò mò quan sát quanh mình, cái thế giới người lớn đa đoan, phức tạp và họ nhận ra nỗi khắc khoải da thịt hiện hình đêm đêm, cùng nỗi ám ảnh về một tương lai héo hắt già khô không ai chạm đến, như mảnh đất bị bỏ hoang. Bóng dáng thời cuộc phả trên làng quê, những phận người, những cuộc tình, luồn sâu vào đô thị phát tác nơi lớp người ít học, cùng khổ. Những nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thụy Vũ thường nối kết dễ với giới mình, một kiểu âme soeur, vừa cạnh tranh vừa thấu hiểu và xót thương nhau. Ngược lại, với họ, nam giới là một thế giới có phần xa lạ, bí ẩn, mang sức hút về thân xác.

Cũng như Hồ Biểu Chánh, chất liệu Nam Bộ đầy ắp trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ. Tùy hứng, linh hoạt, tràn đầy nữ tính, trang viết của bà bất ngờ hơn, sắc sảo hơn, nghịch ngợm hơn. Những đối thoại kỳ tình; những miêu tả về tâm lý, sinh hoạt, món ăn… thật hấp dẫn. Trên phương diện này, cũng như Hồ Biểu Chánh, tác phẩm Nguyễn Thị Thụy Vũ hứa hẹn cung cấp những kịch bản hay cho điện ảnh và sân khấu, cũng như là đối tượng mời gọi nhiều cách đọc mới: nữ quyền, xã hội học, hậu thực dân…

Nhưng quả thật, những ai thích đọc loại văn chương gián cách với đời sống, những câu chuyện êm đềm, những cảm xúc nhẹ nhàng, và e ngại những sự thật phũ phàng, những bóng tối rợn ngợp sẽ không chịu nổi văn chương Nguyễn Thị Thụy Vũ. Về phương diện này, bà gần với quan niệm của Vũ Trọng Phụng: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”[3].

Cuộc sống đã thử thách Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều và bà đón nhận bằng một sự can đảm dung dị đặc biệt. Từng dạy học, viết văn, coi bói, bán vé trên xe buýt, nuôi dê, làm rẫy…để nuôi bầy con bốn đứa, bà luôn đứng thẳng, một mình. Giờ đây, nhà văn đã được đền bù, đó là sự tự do và bình an nội tâm. Bà ăn chay trường, vẫn giữ được “màu da trắng mát như cánh hoa ngọc lan” (Hồ Trường An). Dù rất thanh bạch, cốt cách vẫn thong dong, sống vui cùng con cháu trong một căn nhà của cha mẹ để lại ở Lộc Ninh; ở đó con trai, con gái, con dâu, hai cháu nội, thần thái đều sáng đẹp.

Tác phẩm Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trở lại với chúng ta. Nhà văn tròn tuổi tám mươi được chứng kiến một sự kiện lớn của đời mình.

Như một hạnh phúc.

Sài Gòn, 17-3-2017
Nguyễn Thị Thanh Xuân



[1] Nxb. Hội Nhà văn & Phương Nam Book tái bản, 2016, 2017.
[2] Giai phẩm Văn, ngày 16 7-1973.
[3] Vũ Trọng Phụng. “Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay không dâm?”. Tương lai, 25-3-1937.











Nguyễn Thị Thụy Vũ, Hồ Trường An và cha mẹ (ngồi hai đầu)


















Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ










Nguyễn Thị Thụy Vũ , 2017











Trở về 

MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.