Du Tử Lê
( 1942 - 2019) Hà Nam
Tên thật: Lê Cự Phách
Nhà thơ. Nhà văn
Hưởng thọ 77 tuổi
Di cư vào Nam năm 1954. Thời gian đầu sống ở Hội An, Đà Nẵng.
1956 vào Sài Gòn học trường Trần Lực rồi Chu Văn An và sau cùng là Đại học Văn khoa.
Du Tử Lê từng là sĩ quan Tâm lý chiến trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, là thư ký tòa soạn cuối cùng của Nguyệt san Tiền Phong (quân đội).
Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967- 1972
Ông làm thơ từ rất sớm, khi còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi, Hà Nội.
Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên năm 1958 cho bài Bến Tâm Hồn đăng trên tạp chí Mai tại Sài Gòn.
Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên năm 1958 cho bài Bến Tâm Hồn đăng trên tạp chí Mai tại Sài Gòn.
Ông qua đời ngày 7/10/2019 tại Hao Kỳ
Hưởng thọ 77 tuổi
*
"Anh quan niệm và nhận định thế nào về "ý thơ" và "khí thơ" trong nền thi ca Việt Nam?"
"Câu trả lời của tôi, có thể sẽ làm nhiều người phật lòng. Nhưng tôi nghĩ, đã tới lúc chúng ta không nên tự ru ngủ mình, bằng những ảo tưởng vặt vãnh, tủn mủn nữa.
Thứ nhất, ý tưởng trong thơ của chúng ta đa phần cóp nhặt, bắt chước của người khác, thuộc những dòng thi ca khác. Tại sao? Bởi vì đa phần những người làm thơ của chúng ta khởi đầu bằng khả năng thiên bẩm, và nỗ lực bắt chước, mô phỏng theo một hay vài thần tượng thi ca nào đó của mình.
Ngay khi đã có tiếng tăm, cũng không mấy người chịu tìm kiếm, khai phá cho riêng mình, một hướng khác, hiểu theo nghĩa tự biến mình thành vật thử nghiệm cho những thử nghiệm mới. Điều này, cũng dễ hiểu thôi. Mọi thử nghiệm đều đầy bất trắc, và bị mai mỉa! Thứ nhì, tôi nghĩ, người ta chỉ nói tới khí lực của một bài thơ, khi đó là một trường thiên. Mà, nhìn lại đi, mấy nghìn năm văn học của chúng ta, có được bao nhiêu trường thi?"
(DTL trả lời phỏng vấn của Trường Đinh 10/2011)
Bến Tâm Hồn
Lênh đênh hồn phủ phương này
Thương mưa Hà Nội nhớ mây Hồng Hà
Mười năm dài những xót xa
Bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn
Mênh mông hồn ngủ phương buồn
Đêm sương cầu giấy chợ hôm canh gà
Tóc thề nẻo gió áo hoa
Trôi từ chinh chiến trôi qua điêu tàn
Lênh đênh hồn cắm sào ngang
Năm ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ
1958
Tình Sầu
Hưởng thọ 77 tuổi
*
"Anh quan niệm và nhận định thế nào về "ý thơ" và "khí thơ" trong nền thi ca Việt Nam?"
"Câu trả lời của tôi, có thể sẽ làm nhiều người phật lòng. Nhưng tôi nghĩ, đã tới lúc chúng ta không nên tự ru ngủ mình, bằng những ảo tưởng vặt vãnh, tủn mủn nữa.
Thứ nhất, ý tưởng trong thơ của chúng ta đa phần cóp nhặt, bắt chước của người khác, thuộc những dòng thi ca khác. Tại sao? Bởi vì đa phần những người làm thơ của chúng ta khởi đầu bằng khả năng thiên bẩm, và nỗ lực bắt chước, mô phỏng theo một hay vài thần tượng thi ca nào đó của mình.
Ngay khi đã có tiếng tăm, cũng không mấy người chịu tìm kiếm, khai phá cho riêng mình, một hướng khác, hiểu theo nghĩa tự biến mình thành vật thử nghiệm cho những thử nghiệm mới. Điều này, cũng dễ hiểu thôi. Mọi thử nghiệm đều đầy bất trắc, và bị mai mỉa! Thứ nhì, tôi nghĩ, người ta chỉ nói tới khí lực của một bài thơ, khi đó là một trường thiên. Mà, nhìn lại đi, mấy nghìn năm văn học của chúng ta, có được bao nhiêu trường thi?"
(DTL trả lời phỏng vấn của Trường Đinh 10/2011)
Bến Tâm Hồn
Lênh đênh hồn phủ phương này
Thương mưa Hà Nội nhớ mây Hồng Hà
Mười năm dài những xót xa
Bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn
Mênh mông hồn ngủ phương buồn
Đêm sương cầu giấy chợ hôm canh gà
Tóc thề nẻo gió áo hoa
Trôi từ chinh chiến trôi qua điêu tàn
Lênh đênh hồn cắm sào ngang
Năm ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ
1958
Tình Sầu
Thơ: Du Tử Lê
Nhạc: Từ Công Phụng
Tác phẩm xuất bản ở Việt Nam:
Thơ Du Tử Lê
(1964)
Năm Sắc Diện Năm Định Mệnh
(1965)
Tình Khúc Tháng Mười Một
(1965)
Chung Cuộc
(tập truyện, cùng viết với Mai Thảo, 1969)
Mắt Thù
(truyện dài, 1969)
Ngửa Mặt
(tiểu thuyết, 1969)
Vốn Liếng Một Đời
(truyện dài, 1969)
Tay Gõ Cửa Đời
(thơ 1970)
Qua Hình Bóng Khác
(tiểu thuyết, 1970)
Mùa Thu Hoa Cúc
(sách thiếu nhi, 1971)
Sân Trường Mắt Biếc
(sách thiếu nhi, 1971)
Chú Cuội Buồn
(sách thiếu nhi, 1971)
Hoa Phượng Vàng
(sách thiếu nhi, 1971)
Ở Một Đời Riêng
(truyện dài, 1972)
Khóc Lẻ Loi Một Mình
(1972)
Thơ Du Tử Lê (1967 - 1972)
Mùa Hoa Móng Tay
(1973)
Đời Mãi Ở Phương Đông
(thơ 1974)
Thơ Tình
(2005)
Trên Ngọn Tình Sầu
Xuất bản ở nước ngoài:
Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu
(thơ 1985, 1989)
Tôi Với Người Chung Một Trái Tim
(truyện vừa, 1992)
Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra
(thơ 1993)
Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi
(thơ song ngữ, 1994)
Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà
(thơ song ngữ, 1996)
Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi
(thơ song ngữ, 1997)
Hoa Nào Tin Quả Đắng Đến Không Ngờ !
(1999)
Tiếng Kêu Nào/ Bên Kia Thời Tiết /
(truyện 1997)
Em Và, Mẹ Và, Tôi Là Một Nhé
(bán hồi ký, 1994)
Chỗ Một Đời Em Vẫn Để, Dành
(tùy bút, 1995)
K.Khúc của Lê
Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau
Quê Hương Là Người Đó
http://www.dutule.com/D_1-2_2-107_4-3098_5-4_6-28_17-182_14-2_15-2/
(1964)
(1965)
Tình Khúc Tháng Mười Một
(1965)
Chung Cuộc
(tập truyện, cùng viết với Mai Thảo, 1969)
Mắt Thù
(truyện dài, 1969)
Ngửa Mặt
(tiểu thuyết, 1969)
Vốn Liếng Một Đời
(truyện dài, 1969)
Tay Gõ Cửa Đời
(thơ 1970)
Qua Hình Bóng Khác
(tiểu thuyết, 1970)
Mùa Thu Hoa Cúc
(sách thiếu nhi, 1971)
Sân Trường Mắt Biếc
(sách thiếu nhi, 1971)
Chú Cuội Buồn
(sách thiếu nhi, 1971)
Hoa Phượng Vàng
(sách thiếu nhi, 1971)
Ở Một Đời Riêng
(truyện dài, 1972)
Khóc Lẻ Loi Một Mình
(1972)
Thơ Du Tử Lê (1967 - 1972)
Giải thưởng văn chương toàn quốc
(bộ môn thơ, Sài Gòn, 1973)
Mùa Hoa Móng Tay
(1973)
Đời Mãi Ở Phương Đông
(thơ 1974)
Thơ Tình
(2005)
Trên Ngọn Tình Sầu
http://www.dutule.com/D_1-2_2-107_4-3062_5-4_6-29_17-182_14-2_15-2/
Xuất bản ở nước ngoài:
Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu
(thơ 1985, 1989)
Đi Với Về, Cũng Một Nghĩa Như Nhau
(thơ 1989 - 1991)
Tôi Với Người Chung Một Trái Tim
(truyện vừa, 1992)
Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra
(thơ 1993)
Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi
(thơ song ngữ, 1994)
(thơ song ngữ, 1996)
(thơ song ngữ, 1997)
(1999)
Tiếng Kêu Nào/ Bên Kia Thời Tiết /
(truyện 1997)
Em Và, Mẹ Và, Tôi Là Một Nhé
(bán hồi ký, 1994)
Chỗ Một Đời Em Vẫn Để, Dành
(tùy bút, 1995)
Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau
Quê Hương Là Người Đó
http://www.dutule.com/D_1-2_2-107_4-3098_5-4_6-28_17-182_14-2_15-2/
Tôi - Ấu Thơ và, Mẹ
( hồi ký)
Vì Em,Tôi Đã Làm Sa Di
(thơ 2001)
Qua Môi Em Tôi Thở Biết Bao Đời
(thơ 2004)
Mẹ Về Biển Đông/ Trường Khúc
(thơ 1989. 2002)
( hồi ký)
Vì Em,Tôi Đã Làm Sa Di
(thơ 2001)
Người Nhón Gót:- Thả Điều Chưa Nói Hết ...
(2002)
(thơ 2004)
Mẹ Về Biển Đông/ Trường Khúc
(thơ 1989. 2002)
(nếu cần,) hãy cho bài thơ một tên gọi !?!
( thơ 2006)
Mất Hay Còn, Chưa Hẳn Khác Nhau Đâu
(thơ 2008)
Thơ Năm Chữ và 12 Bài Thơ, Mới
(2009)
Giữ Đời Cho Nhau
(2010)
( thơ 2006)
Giờ Điểm Danh Cuối Cùng, Của Những Cậu Học Trò Trên Sáu Mươi!?
(tùy bút, truyện ngắn, 2006)
Du Tử Lê /50 Năm
(1957 - 2007)
Lại Chuyện Vãn/ (Lần Này, Ít Thôi) / Với Bệnh Ung Thư/
(2008)
(thơ 2008)
(2009)
(2010)
Trên Ngọn Tình Sầu
(tùy bút, 2011)
Khúc Thụy Du
(tùy bút, 2011)
Xương, thịt đời sau, máu rất buồn
(tùy bút 2012)
Thư viện Diên Hồng trân trọng giới thiệu
Chương trình Du Tử Lê
Thi Ca & Âm Nhạc
http://dienhong.info/index.php?module=Photoshare&func=showimages&fid=10
Khúc Thụy Du
Tôi Xa Người
Tôi Xa Người
tôi xa người như xa núi sông
em bên kia suối ? - bên kia rừng ?
em bên kia nắng ? - bên kia gió ?
tôi một dòng sương lên mênh mông
tôi xa người như xa biển đông
chiều dâng lênh láng chiều giăng hàng
những cây ghi dấu ngày em đến
đã chết từ đêm mưa không sang
tôi xa người, xa đôi môi tham
em biết, rồi em như chim ngàn
thôi còn khua động làm chi nữa
hồn tôi vốn đã là tro than
tôi xa người, xa đôi mắt ngoan
vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
em xa xôi quá làm sao biết
vốn liếng tôi còn : những ngổn ngang !
tôi xa người, xa trên sân bay
hồn tôi cồn cát dấu chân bầy
em vui đời khác làm sao hiểu
tôi sống âm thầm như cỏ cây
tôi xa người, xa hơi thuốc cay
ngày mai tình sẽ bỏ tim này
chiều em không đến hàng cây cũng
nghiêng xuống tôi : từng ngọn heo may
tôi xa người, xa bàn tay vui
bàn tay có ngón đã chôn đời
bàn tay có ngón không đeo nhẫn
có ngón dành riêng cho môi tôi
tôi xa người, xa niềm thiết tha
hoa xuân đã rụng héo hiên nhà
phố xưa em buộc đôi hàng bím
nay tóc về đâu ? - hồn ở đâu ?
tôi xa người, xa miền mê oan
hồn tôi khô xác sợi giây đàn
máu tôi đã gửi trong từng chữ
dẫu chết, còn nguyên lời oán than
tôi xa người, xa một mùi hương
bãi khuya, hồn ốc lạc thiên đường
nhớ ai buồn ngất trên vai áo
mưa ở đâu về ? - như vết thương.
1983
Khúc Tháng 3 Du Tử Lê
Collage Phan Nguyên
////////(.) /////-////// , ////// ).( ////////./////;////
/ ; /
/ ; /
////// (.) /////////:////;//// , //////(.)///////</////////
(Kỷ niệm ngày gặp nhà thơ Du Tử Lê tại PN Studio 3/ 2012)
Thư mục dựa theo:
Trang nhà Du Tử Lê
*
Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển
Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
*
Nếu tôi nhớ không lầm thì, cuối năm 1977, khi tôi còn ở một căn apartment đường Harbor, thành phố Costa Mesa, ở miền nam Cali, làm tờ báo tên Quê Hương với một vài bạn trẻ thất lạc gia đình…Một một buổi tối, anh Nguyễn Anh Tuấn, một người trong nhóm; khi đó làm công cho một tiệm bánh Donut ở vùng Los Angeles; dẫn một người thanh niên đen đúa tên là Trần Cao Sáng đến gặp chúng tôi. Anh Sáng kể cho chúng tôi nghe cuộc vượt biển của anh từ Việt Nam. Khi đó chúng ta chưa có danh từ “thuyền nhân / boat people.” Anh TCS là người vượt biển đầu tiên, cách đây 31 năm mà chúng tôi được gặp.
Hành trình, sự liều lĩnh, những thảm kịch trên biển, được nghe từ anh Sáng khiến tôi bàng hoàng, choáng váng. Câu chuyện của anh Sáng ám ảnh tôi nhiều tháng. Cuối cùng, để giải tỏa và, cũng do sự gợi hứng từ câu chuyện của Trần Cao Sáng, tôi viết bài “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển.”
Bài thơ đi ra trong mặc cảm đã bỏ lại vợ, con, mẹ già ở quê nhà.
Thời điểm này, số người Việt tỵ nạn bị phân tán mỏng khắp nơi. Chưa ai ra khỏi cơn địa chấn đau thương của biến cố 30 tháng 4.
Ở thời điểm đó chúng tôi ra đường, đi làm, rất khó tìm được một người đồng hương! Không một ai trong những năm đầu tỵ nạn kia, dám mơ tưởng rằng, tương lai, có ngày người Việt tụ tập lại và, hình thành những sinh hoạt hội đoàn, cộng đồng như đã, vào cuối thập niên 1980 - - Khoan nói tới việc có thể về thăm quê hương, đầu thập niên 1990, khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam.
Tôi muốn nói, những câu thơ như: “khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển / và trên đường hãy nhớ hát quốc ca…” ra đời trong tâm cảm hoàn toàn tuyệt vọng đó.
Thơ Du Tử Lê
Nhà thơ Du Tử Lê (1942-) suốt hai giai đoạn văn học, miền Nam 1954-1975 và hải ngoại, đã có những đóng góp trong việc cách tân, thử nghiệm làm mới thi-ca qua chính sáng tác của mình, nhưng sự đón nhận hình như không được đồng đều và không được giới làm văn học nói đến một cách công bằng. Trước 1975, ông được giải Văn học nghệ thuật toàn-quốc năm 1973 với một phiếu đa số, theo báo chí thời bấy giờ thì hội-đồng truyển-trạch môn thơ thích thi-ca có vần điệu hơn là những cách tân kiểu của ông trong tập Thơ Du Tử Lê (1). Bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến chỉ có nhắc qua loa tên của Du Tử Lê hai lần, trong khi một bài thơ của một nữ sinh đăng báo Tết của một trường trung học ở cao nguyên đã được Võ Phiến ghi nhận như một đóng góp đáng ghi vào văn học sử (2). Bù lại, từ hai thập niên trở lại đây, đã có những nghiên cứu, trình bày và giới thiệu thơ ông. Trong số những nhà thơ Việt Nam hiện đại năng nổ làm mới thơ, Thanh Tâm Tuyền nổi lên một lần với thơ Tự-do trong một khoảng thời-gian ngắn rồi ngưng và sau trở về nguồn, Du Tử Lê đã liên tục thử nghiệm, canh tân, suốt cuộc đời làm thơ và có vẻ không lùi bước! Ông muốn làm mới ngôn ngữ, biến hóa cấu trúc, cách đặt câu, chấm câu, làm mới cách diễn tả thơ (và văn) trên trang giấy, đem thị giác mới đến với thơ.
Thơ Du Tử Lê (1964), tác phẩm đầu tay của ông, không gây tiếng vang, tập thứ hai, Tình Khúc Tháng Mười Một xuất bản năm 1965 và thứ ba, Tay Gõ Cửa Đời (1967), bắt đầu gây chú ý, cho người thưởng ngoạn một số dấu chỉ rằng nhà thơ họ Lê muốn khai phá một con đường thi-ca khác lối đã quen, ở ngôn ngữ, ở cách diễn tả và ở những bất ngờ tình ý:
“tôi từ đó nhỏ nhoi như châu chấu
như cào cào vỗ cánh chả bay xa
người yêu tôi là thảm cỏ mượt mà
khi tôi đậu nàng uốn mình cảm động
(…) tôi từ đó khật khừ như bọ ngựa
tình đam mê không dấu nổi mọi người
hồn đắm đuối làm sao che sự thật
tôi từ đó ải dòn như củi mục
như mảnh bom miếng đạn vỡ trên không
người tôi yêu đêm nước mắt đanh tròng
tôi chợt nhớ từ lâu đã già trước tuổi”
(Giao Khúc Tháng Sáu, Tình Khúc Tháng Mười Một).
Tập thứ tư, Thơ Du Tử Lê 1967-1972 xuất bản năm 1972 được giải Văn học nghệ thuật năm 1973. Tập gồm những bài thơ đầy bi phẩn đối với cuộc đời, cuộc chiến, tâm tình chán chường – những “con vi trùng không tên / đục rỗng tôi tự đó ..” (tr. 109), tình ái bi luỵ hoặc hồn nhiên cao cả, tình riêng nhẹ bên cạnh tình quê hương đất nước. Bài Vở Lòng Cho Một Người Con Gái Mỹ nói lời tuyệt biệt người nữ Donna, như một khẳng định một chỗ để Về – trong vế Đi với Về , một ý thơ thân thương của ông: “Không bao giờ đâu Donna, Donna / dù anh có yêu em / hơn bất cứ một thứ gì trên dất Mỹ / thì anh cũng vẫn trở về / anh vẫn phải trở về quê hương anh …” (tr. 71).
Tập thơ cuối xuất bản trong nước, Đời Mãi Ở Phương Đông (1974), đã cống hiến cho người thưởng ngoạn nhiều bài thơ hay và sau này được phổ nhạc. Có thể nhờ tình yêu, nhà thơ lạc quan hơn dù nỗi đau chung, thân phận chung vẫn không thoát khỏi được. Có những vần thơ tình yêu trẻ trung:
“Khi ta đến nhỏ ở đâu hỡi nhỏ
dưng lòng ta suối bỏ núi qua rừng
thương mắt nhỏ bóng chim buồn ngủ đó
tiếc gì nhau? đời kể đã như không …”.
Ra hải ngoại ông liên tục sáng tác và xuất bản các tuyển tập thơ: Thơ Tình (1984) gồm những sáng tác thời 1976-1984, Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu (1985-1989) với phụ tập trường khúc Mẹ Về Biển Đông (1989), Đi Với Về Cùng Một Nghĩa, Như Nhau (1991), Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra (1993), Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà (1996), Vì Em, Tôi Đã Làm Sa Di (2001),… Ngoài ra ông còn xuất bản những tuyển tập thơ song ngữ hoặc dịch ra tiếng Anh, như Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi (1994), Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi (1997), Hoa Nào Tin Quả Đắng Đến Không Ngờ! (1999), Mẹ Về Biển Đông, v.v. cũng như nhiều CD nhạc phổ thơ ông và một số tiểu thuyết, tuyển tập tùy bút, hồi ký và truyện. Các bài viết về Du Tử Lê và tác phẩm của ông được thu góp và in thành tuyển tập, những Du Tử Lê Tác Giả Và Tác Phẩm, đã ra đến tập thứ IV (2000), loại tuyển tập trước và sau ông ở hải ngoại có Nguyên Sa, Luân Hoán và Thái Tú Hạp.
Cách-tân thơ
Nhà thơ Du Tử Lê thử nghiệm một số biến cải thể loại lục bát mà ông đã bắt đầu trước 1975, ở hải ngoại ông đi xa hơn và lập luận làm nền cho chủ trương của mình. Trong bài viết “Vài nỗ lực canh tân thể Lục bát và quan niệm hoán vị / Conversion Concept” (3), Du Tử Lê cho rằng đời sống hiện nay như những mảnh vụn, nên sử-dụng những dấu chấm, phẩy để cắt vụn câu thơ. Chủ trương tiếp là dùng dấu gạch chéo slash / tức gạch đi tới trước, còn để cho phép người đọc đổi vị trí chữ theo ý riêng. Đây là ý niệm hoán vị (conversion concept) làm nhịp đi của câu thơ được ngắt lại; tính và chiều đi tới của câu thơ được cởi bỏ để thơ có tự do chuyển động hai chiều và hoán vị, – tức “thay đổi vị trí trước đây vốn cố định”, người đọc tự do đổi vị trí các chữ hoặc nhóm chữ đứng trước gạch chéo đến một vị trí khác trong câu thơ nếu muốn. Với ý sau này, ông tạo cơ hội cho người đọc thực sự trở thành tác giả thứ hai (4). Du Tử Lê chủ trương gạch slash / nói là để tạo cảm thông, chia xẻ; một chữ hay một nhóm chữ sẽ hoắn đổi vị trí trong câu, di chuyển theo hai chiều thuận nghịch. Tiếp đó, ông đi xa hơn nữa khi đề nghị đổi Chủ thể (Subject) với Khách thể (Object) về ý nghĩa trong câu viết. Ông dẫn thử nghiệm trong Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà là tập có nhiều áp dụng này:
“tình yêu / đường xá / ghế, bàn / ngọn đèn / đêm tối:
hát cho tôi nghe
bởi chúng thấy tôi
vật lãng quên, lớn nhất”
(tr. 83).
Cuối cùng là chủ trương thay-thế giới-tự (preposition) với thí dụ “Rừng / tôi / sâu / thở / nốt chân trời” (Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra), trong đó ba chữ Tôi / Sâu / Thở có thể đổi vị trí để thành những câu và ý nghĩa khác câu nguyên bản.
Để ngắt lại nhịp đi của câu thơ và cách tân lục bát, ông chủ trương sử-dụng các dấu có sẵn như phẩy, chấm, để tạo cho câu lục bát những “nhịp lẻ, nhịp chỏi” khác thường và bất thường khác nhịp đã quen – nghĩa là đều, chẵn và cân đối. Kế đó là ý kiến “chẻ chữ để thêm nghĩa” như đau, khổ; buồn, rầu; như “chia, ly; khô, héo”: “Sương, trần thân mây chia, ly / nhập chung nỗi chết: sầu khô, héo về” (Khúc 19 Tháng 9, Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra, tr. 50). Thứ ba, bỏ âm trắc ở chữ thứ tư,… mà câu tiêu biểu thường được nhắc nhở là “tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?”, ở đây câu sáu chấm dứt bài Tôi Nào? (Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà, tr. 112). Hay:
“Và, ngày cù sương: bay lên / nắng thâu phế liệu; em truyền nhiễm, thơ / (…) và chiều cù ta: chìm, rơi / ai /vai / bồ tát / tim / ngồi ghế sau” (Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà, tr. 60).
“… tôi ngồi, lưng mỏi thân xiêu
nhủ tôi cơm áo còn nhiều đắng cay
tôi ngồi, tôi gọi: Lê ơi
bỗng nghe tiếng vọng từ đồi nghĩa trang
tôi ngồi, tôi ngắm tôi tan,”
(Khi Trở Lại Làm Việc Ở Collins Radio, Thơ Tình).
Bài thơ chấm dứt ở câu sáu và với dấu phẩy.
Ngoài thể lục bát, họ Lê thử nghiệm cả cho những thể thơ tự do hoặc bảy chữ (chân tiếng), như biến đổi với cách ngắt câu, chấm câu, dùng dấu gạch ngang, gạch nối và những ngoặc đơn:
“riêng em biết: tôi, đêm và quá khứ
đã chia thành trận tuyến mỉa mai
biển ký ức lồi, cong: người cận ảnh
lá / hình dung / cây /: – chỗ kín nào?
riêng em biết: linh hồn tôi khẩm nước
thuyền / thịt xương khôn chở hết chiều, / bầm/ (…)”
(Riêng Em Biết: Tôi Chưa Hề Có Tuổi Khi Yêu Người Tôi Mới Lớn)
“(. ..) ai nhan sắc? – Cầm trên tay Thánh Giá
trả Giáo Đường câm lặng, tắt theo kinh
đôi hàng ghế uy nghiêm chờ hối cải
cửa tôi buồn. Bưng bít. Phúc Âm
ai nhan sắc? – Như một lời chúc phúc
giữa-chiều-em: quân dữ bỗng quy hàng
tên ngoại giáo gửi xác, hồn lại Chúa
đưa nhau đi: dựng một Giáng Sinh, nàng”.
(Đưa Nhau Đi: Dựng Một Giáng Sinh, Nàng).
Họ Lê áp dụng thơ “biến dịch” (interactive poetry / self-serve, một cách nói khác của hoán vị) ở lục bát vô các thể loại khác, để ngắt, đổi vị trí các chữ trong câu, để có thể có nhiều cách đọc ngược xuôi khác nhau:
“Mây kiệt sức kéo chiều lên đỉnh núi
Mặt trời rơi, hẫng, nhớ nhung / đen /
Cát xúc động xô sông về / mắt / cuối /
Sóng lênh đênh / oải / muộn / lãng quên, quen.
Dẫu điểm đứng chỗ nào trong vũ trụ
Em cách gì một lúc: – ở hai nơi
Chỉ tôi biết: – tôi vô cùng loãng, nhẹ
Sống phân thây từng miếng / vụn / hôi / mùi
Búp nghi hoặc: – có chăng đời lá: chết!
Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ…”.
Hoặc: “em, thanh tẩy: mối sầu / tôi / đóng váng
như môi người thánh hóa tiếng kêu, riêng
ngực thánh hóa một lần, tôi, sáu ngón
ấu thơ trôi, tay ở lại lưng, gần
Em, thanh tẩy: cây đời / tôi / giả dạng
(như vai người mang nắng, biển đi, xa)
(…) em thánh hóa tim tôi: bằng hạt lệ”
(Khúc Tháng Sáu).
Các dấu /: – ( ) , của Du Tử Lê là một thử thách cho người đọc – tức không phải là tác giả! Cũng như tựa đề nhiều bài thơ mà thứ tự đứt đoạn, viết tắt, danh xưng người được tặng gửi cũng nhảy nằm trên tựa!
*
Nhìn chung, các hình thức mà Du Tử Lê thử nghiệm chưa đủ thuyết phục giới thưởng ngoạn thi-ca, ngoài lối châm câu bất ngờ và sự sử-dụng những dấu gạch đi tới / . Thơ là một văn bản, một toàn thể, do đó có thể tạo thành với ý, nhạc tính và cả thị giác. Những thử nghiệm của Du Tử Lê nhắm cải đổi chân điệu (âm-điệu, pied rythmique) và số tiếng (âm-tiết, chân tiếng, pied-mot) trong câu ở thơ cũ vốn đều đặn, nhất định, nay sẽ biến đổi khiến thơ có nét bất ngờ và mới! Xưa nay vần cho âm-điệu, nhưng âm điệu có thể có mà không hẳn cần đến vần, âm điệu sẽ tự do, đa dạng. Một số người làm thơ trẻ thời 1995-96 đã phê bình họ Lê làm xấu phần hình thức với những dấu gạch tới (5). Nhưng nay với những thử nghiệm Tân Hình Thức và thơ cụ thể gần đây, những dấu gạch chéo slash / của Du Tử Lê không còn là trở ngại, nếu không dùng thái quá.
Tiếng Việt có những đặc điểm mà ngôn ngữ nước khác không có. Du Tử Lê cho người đọc cảm tưởng ông dùng ngôn ngữ Việt làm vật liệu để thí nghiệm với cấu từ pháp và tính riêng của tiếng Anh-Mỹ – chúng tôi không tìm thấy dấu vết ảnh hưởng văn hóa và ngôn ngữ Pháp trong thơ ông. Theo thiển ý, ngôn ngữ Việt Nam, nói cũng như viết, đang có một số thử thách và khủng hoảng, vì hoàn cảnh chiến tranh, lịch sử, phân cách địa lý Nam Bắc, trong-ngoài nước. Trong nước áp đặt nhiều từ vựng Trung quốc để diễn tả những chuyện mà tiếng Việt thuần đã có chữ để dùng – y như Nam-Phong tạp chí thời thập niên 1930 sử-dụng tiếng Hán bác học để dịch và dùng thay thế những chữ nôm na đã có trong tiếng Việt, đã trừu tượng hóa ngôn ngữ triết và khoa học. Bên cạnh đó, các nhà văn thơ không ngừng canh tân, nghệ thuật hóa ngôn ngữ, nhất là khi vì tình cờ của lịch sử, đã được tiếp xúc với văn hóa bản xứ các nước tạm dung hay quê hương mới.
Du Tử Lê là một trong những nghệ sĩ liên tục thử nghiệm ngôn ngữ thi-ca – cũng như văn xuôi. Nhiều tựa tác phẩm (Vốn Liếng, Một Đời; Với Nhau Một Ngày Nào; Đi Với Về Cùng Một Nghĩa, Như Nhau; Vì Em, Tôi Đã Làm Sa Di; Em Và, Mẹ Và, Tôi Là Một Nhé; Chấm Dứt Luân Hòi: Em Bước Ra; … ) cũng như tựa những bài tùy bút, tản mạn của ông – ngoài những dấu chấm, phẩy, gạch còn có những mã hiệu, mã tự viết tắt tên người, khiến không dễ theo dõi, nếu không từ tiên khởi, chấp nhận trò chơi chữ nghĩa của ông hoặc ở trong quĩ đạo ngôn ngữ của ông! Tuy nhiên, Du Tử Lê nhiều khi cố tình ghi dấu chấm ở những tựa đề không cần thiết, như “Yêu dấu, cần chăng, một lời nào, khác, nữa?” (6), nếu bỏ hết dấu, “Yêu dấu cần chăng một lời nào khác nữa?” cũng chỉ nói lên một nội dung mà còn chứng tỏ khả năng gợi cảm và đơn mà đa dạng của câu văn tiếng Việt, không cần chia động từ quá khứ tương lai hiện tại cũng không cần bỏ giống và bỏ số! Cùng trường hợp với các tựa đề Đi Với Về Cùng Một Nghĩa, Như Nhau; Vì Em, Tôi Đã Làm Sa Di; Thơ Tình, Gửi Yêu Dấu, Đầu Thiên Kỷ, Mới ; v.v.! Những dấu phết, hai chấm,… không cần thiết ở tựa đề. Riêng cái tựa Em Và, Mẹ Và, Tôi Là Một Nhé họ Lê viết cố tình bỏ dấu và từng bị phê sai cả ngữ pháp (7), những kỹ thuật có thể gây ấn tượng nhưng nếu viết không bỏ dấu còn hàm xúc thêm ý nghĩa ba trong một – ông đã đánh mất cái tinh túy đó! Tựa này và tựa Người Nhón Gót: Thả Điều Chưa Nói Hết,… (2002), v.v. thì quả thật, hơi quá! Hơn nữa các bài giới thiệu và phê bình phần nhiều viết sai tựa mà họ Lê đã cố tình đặt cho những tác phẩm ấy! Riêng thử nghiệm thay đổi vị trí tiên khởi để có vị trí mới mang âm hưởng và ý nghĩa khác tùy theo suy nghĩ, ý tưởng của người đọc qua câu thí dụ “rừng / tôi / sâu / thở / nốt chân trời” thì các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nhiều lần dẫn thí dụ để chứng minh cho sự phong phú và tính hoán chuyển tài tình của ngôn ngữ Việt.
Câu thơ của Du Tử Lê còn thêm khía cạnh vì đánh dấu nhiều, ‘hà tiện’ chữ hoặc cố tình để dư thừa chữ, có thể vì muốn cách tân nhưng cũng có thể vì động cơ làm dáng, khiến câu thơ trở nên mơ hồ, tối nghĩa hoặc thiếu chất khẳng định – trong các tùy bút và văn xuôi khác, tính chất này còn rõ rệt hơn nữa! Ngoài những bài với nội dung rõ rệt như sẽ phân tích trong phần sau, thơ “cách tân” của ông có thể thích hợp cho thử nghiệm và suy nghĩ làm mới, nghệ thuật thuần túy ai muốn hiểu sao thì hiểu, hơn là thích hợp cho học đường, cho việc nghiên cứu ngôn ngữ Việt – là những môi trường cần mẫu mực! Trong bài “Yêu dấu, cần chăng, một lời nào, khác, nữa?” viết gần đây nhất, 2002, Du Tử Lê tỏ ra lạc quan với các thử nghiệm của ông, nhưng thiển nghĩ, phần lớn các kỹ thuật làm mới của ông sẽ có thể khiến tiếng Việt rỗng nội dung, mất hồn, vong bản và dần mất đi những cái độc đáo riêng của tiếng Việt. Có thể nói ở một trình độ nào đó, chủ trương của Du Tử Lê khiến ngôn ngữ Việt Nam phần nào sẽ trở thành một loại chữ á-rập – ví dụ kinh Coran có nhiều cách đọc và hiểu, người đạo Hồi quá khích sẽ đọc Coran khác Salman Rusdie (The Satanic Verses), người trí thức đọc và hiểu khác dân giả chỉ tụng kinh, v.v. Các nhà ngữ học từ trước nay với nhiều phương-pháp và tiếp cận, đều muốn phân tích và hệ thống hóa tiếng nói của người Việt, ngữ-nghĩa và ngữ-dụng đều được xem là quan trọng. Nghệ sĩ và văn nhân cũng như mọi tầng lớp dân chúng, mỗi ngày, mỗi thời đại và mỗi miền, đều đóng góp liên tục cho gia tài ngôn ngữ sung túc và thẩm mỹ hơn. Dĩ nhiên những lập dị, hoặc không được số đông nhìn nhận hoặc sử-dụng, sẽ biến mất!
Những cách tân và thử nghiệm của Du Tử Lê có tồn tại với thời gian không hay rồi cũng như những cách tân hình thức của Nguyễn Vỹ thời tiền chiến và những thử nghiệm của thơ cụ thể, sự vật và Tân Hình-thức của các nhà thơ khởi đi từ hải ngoại cuối thế kỷ XX? Chúng tôi nghĩ Du Tử Lê sẽ còn được nhắc đến như một nhà thơ có nội dung và có thi tính đặc biệt. Một số chủ đề được Du Tử Lê khai thác như đời lưu vong, ánh sáng mãi ở phương Đông, tôn giáo,… là những đề tài hợp tâm thức nhiều người đọc!
Nội-dung và thi-tính
Từ những năm 1973, thơ Du Tử Lê đã đụng đến Hư vô, bằng chứng qua Một Bài Thơ Nhỏ:”Người về như bụi / vàng trang sách xưa / người về như mưa / soi tìm dấu cũ / Tôi buồn như cỏ / một đời héo khô / tôi buồn như gió / ngang qua thềm nhà / thấy ai ngồi đợi / bóng hình chia đôi / sầu tôi lụ khụ (…)”. Cuộc tìm kiếm cái Tôi đó, liên lũy: “Như con chim bói cá / Trên cọc nhọn trăm năm / Tôi tìm đời đánh mất / Trong vũng nước cuộc đời. / Như con chim bói cá / Tôi thường ngừng cánh bay / Ngước nhìn lên huyệt lộ / Bầy quạ rỉa xác người… (Khúc Thụy Du).
Hư Vô vì hiểu cả cái Ta chỉ là hạt bụi. Trong cuộc tìm kiếm chính mình, chính bản chân diện mục, cái Tôi sâu thẳm và thực, có khi nhận ra cái Tôi bị động, tan nát, vì tâm động chẳng hạn:
” cõi tôi, cõi nát, cõi tàn
cõi hoang mang, vội, cõi bàng hoàng, qua
cõi vui thân thể cỗi già
cõi lang thang mượn mái nhà hư không
cõi xanh, cõi lạnh, cõi cùng
cõi con muốn bỏ, cõi chồng vợ, xa
cõi em muốn dạt chân về
cõi đau nhân thế, cõi thề thốt, quên
cõi nào, cõi thật, tôi riêng?
cõi đêm máu chảy, cõi thương nhớ trùng
cõi tôi, cõi mịt, cõi mùng
thôi em có ghé xin đừng nghỉ lâu
cõi đời đó, có chi đâu!”
(Cõi Tôi, Thơ Tình tb 1996, tr. 139).
Những tra vấn trở thành thường trực, tác giả dùng hình ảnh cụ thể, hiện thực để chạm đến cõi siêu hình:
“tiền thân tôi ở cõi nào
tiếng kêu lay lắt dạt dào lời thưa
bóng ngồi cuối dốc nghe mưa
trên không cánh vạc bỗng ngơ ngác nhìn
(…) hôm nay tôi bỗng nghi ngờ
tiền thân tôi phải bóng cờ trong sương?”
(Tiền Thân).
Kiếm tìm buồn bã đó sẽ ngừng lại ở Cái Chết, đề tài đi về nhiều lần trong thơ Du Tử Lê:
“Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
(… ) Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn”
(Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển, Thơ Tình, tr 94-96).
Một cái chết non, tức tưởi, vì trang sử bị xé, vì cuộc sống đọa đày chịu bao đứt đoạn, chia lìa! Ý thơ lạ lẫm, mấy ai đã dám nói đến cái chết khi đang yêu sống, ngoại trừ những kẻ lưu vong tuyệt vọng. Những dặn dò cho ai không nói rõ, hay cho con người, cho đồng loại, những người cùng thế hệ, cùng chung phần nào quá khứ và thương đau!
Trong tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972 xuất bản trước 1975 có bài Vở Lòng Cho Một Người Con Gái Mỹ, Du Tử Lê đã nói lời tuyệt biệt người nữ Donna khi có dịp sang Hoa-kỳ tu nghiệp, tuyệt biệt vì tiếng gọi quê nhà. Nay quê nhà phải tử biệt vì có thể đến chết vẫn chưa có thể quy hồi cố hương. Thành thử sống bí lối, xác thân khi chết may ra có mỗi phương tiện bỏ tro hay bỏ xác trôi hy vọng biển mênh mông sẽ đẩy về biển đông!
Trước 1975, Du Tử Lê đã có một số sáng tác nói đến cái chết như bài Lúc Người Chết trong tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972, nhưng cái chết ở đó trừu tượng, chung chung, không đặc thù như khi ông viết trong tình cảnh lưu vong tập thể! Nhà thơ bi quan, hay băn khoăn ở vào thế kẹt, đối với người yêu, với đời, ông ngập ngừng giữa Đi với Về qua tập Đi Với Về Cùng Một Nghĩa Như Nhau và ở nhiều bài khác!
Tâm thức Lưu Vong gắn liền với cái Chết, vì không gian đã khác và thời gian lưu vong trước hay sau gì cũng vậy thôi, cũng cùng hoàn cảnh đổi đời, mất cả quá khứ hay cứ tưởng rằng hãy còn vướng vất chút nào đó:
“(…) Chính vì tan tác nên nhăng nhố
đến cả sân chơi cũng bẩn rồi
Cố mà chơi nốt trò chơi dở
đến lúc đi thì đi thảnh thơi.
(…) đừng buồn ta nhé. Nghe, ông bạn
- ta sống như là xác chửa chôn
có đâu tổ quốc mà than thở
ngựa nhỏng bờm bay cùng âm dương
nhớ lấy từng hồi chuông báo tử
rộn rã từ lâu. Đừng giả lơ
thiên đàng? Địa ngục? Rồi sao chứ?
Sống tựa ma hời. Chết cũng ma…”
(Lưu-Vong Khúc, ĐVVCMN,NN, tr. 111).
Vui sống sót nhưng buồn nhiều hơn vui, buồn đến trở thành quay cuồng. Trong tình cảnh đó, những hội ngộ bạn hữu là những cơ hội lớn để nhìn thấy lại quê nhà, dù trong đớn đau:
“(… ) nhìn nhau chợt thấy ra sông núi
có chút gì nghe rất thốn đau
hẹn bay về chết trong tay mẹ
tổ quốc nghìn năm bỏ được sao?”
(Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi).
Nỗi nhớ nhung quê nhà đó sẽ da diết, trong từng sự vật cụ thể, nhỏ nhoi:
“… Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè
Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
Đêm về theo vết xe lăn
Tôi trăng viễn xứ sầu em bến nào?”
(Đêm, Nhớ Trăng Sài-Gòn).
Hội-nhập trở thành dị ứng với Du Tử Lê, dù ông thử nghiệm và cập nhật thi-ca theo trào lưu Âu-Mỹ. Ông sống quá khứ xuyên suốt qua cuộc đời hiện thực hôm nay!
Tình Yêu là một đề tài lớn đối với Du Tử Lê. Tình ở ông đa dạng, thường trong tình cảnh éo le, bất ngờ. Ở ông, hệ luỵ dục tình có mặt nhưng khá mờ nhạt bên cạnh những cao cả, tuyệt vời của tình yêu. Có lúc nhà thơ âu yếm gọi người yêu là “nhỏ”: “Khi ta đến nhỏ ở đâu hỡi nhỏ / dưng lòng ta suối bỏ núi qua rừng …”; “Anh đã hứa em an lòng hỡi nhỏ / ta sẽ về tới chốn của riêng nhau …” (Đời Mãi Ở Phương Đông); “… Con sóc nhỏ mang hồn lên núi lạ / ta chim rừng cánh đã mỏi thương đau / hương cỏ dại mát chân người ngà ngọc / em bảng đen vôi trắng giết đời nhau (…)” (Thơ Cho Nhỏ).
Tình yêu nhẹ nhàng, chút ngây thơ, nhiều mộng, với cánh bướm và tiếng con dế hát:
“…Ta ở đó đời ta không có tuổi
em sẽ thành cánh bướm lúc mơ vui
em sẽ thành con dế lúc khuya nguôi
cất tiếng hát … phân ưu tình ai dang dở”
(Đời Mãi Ở Phương Đông).
Kẻ nòi tình tự hứa biến thành ngọn lửa để sưởi ấm người tình và sẽ biến thành vần điệu nếu nàng muốn có thơ tô điểm cho đời:
“… Khi em lạnh tôi biến thành ngọn lửa
củi thương yêu. Than đỏ hực ân tình
em cần thơ cho sáng dậy thơm hơn
tôi lập tức hóa thân thành vần điệu
(…) Hiến Chương viết ngày tình yêu vô lượng
của hai người? – Vâng, của chúng ta thôi
mặc ai cười? mặc ai đó bĩu môi
họ ghen đấy. Bởi em là Thánh Nữ
Ta sẽ chết. Nhưng tình ta bất tử
vì mở đầu nhân loại: cuộc chơi riêng”
(Hiến Chương Tình Yêu Ngày 14-2, ĐVVCMN,NN, tr. 11, 14)
Bên cạnh “cuộc chơi riêng”, hiếm, nhưng họ Lê có những lời tình cha con cảm động:
“cho con một góc mộ phần
cõi an vui rất cận gần với cha
cho con một góc mù loà
trái cây nhân thế chát lè môi non
cho con một chút núi sông
(chút thôi cũng đã buồn muôn năm rồi) (…)”
(Thơ Ở Du Và Chó Xù).
*
Đến chốn linh thiêng, thoạt nhìn có người sẽ cho rằng Du Tử Lê ngạo mạn khi thần thánh hóa một số người tình của ông thành “em vô nhiễm”, “Thánh nữ”, “từ mẫu”, “Mẹ” viết hoa, “Bồ Tát”, Phật, v.v. Nhưng cũng có thể xem Du Tử Lê là một con người hèn mọn, tội lỗi nhiều do đó đã tìm đến những đấng thiêng liêng, dù có khi hãy để lộ nhiều dùng dằng, phật ý. Nhiều lần ông tự nhận ông là “tên ngoại giáo”, kẻ “từ chối chọn thiên đàng”, là Giu-đa kẻ đã bán Chúa đổi lấy một nén bạc vô nghĩa và cuối cùng làm “kẻ tân tòng””tôn thờ một Chúa”! Tất cả cũng chỉ vì yêu, qua người yêu! Tình yêu có khi cao cả, quá tầm tay hay không giữ được lâu, thành huyền diệu, cao quý. Nhìn chung, ông có một tâm hồn rất Việt Nam, ở phẩm tính tổng hợp và cởi mở đối với các tôn giáo và giao thương địa lý, nhân tình!
Tuyên ngôn tình yêu thấm đượm tín ngưỡng đã được Du Tử Lê công bố lần đầu qua bài Phúc Âm Nàng trong tập Thơ Du Tử Lê 1967-72. Người yêu Thụy Châu đưa nhà thơ đến gần Chúa, qua nhiều chặng tâm linh, từ nhập môn “xin những điều vớ vẩn” quỳ dưới chân nàng thay vì những đấng tối cao hơn, đến chỗ hiểu được thế nào là mầu nhiệm:
“(…) vâng chúng tôi thường gặp nhau vào mỗi chiều thứ sáu
ngày chúa bị đóng đinh
ngày giáo dân không được phép ăn thịt
(để tưởng nhớ đến ngài)
tôi là kẻ đã tự đặt mình ra ngoài vòng tín ngưỡng
nhưng đôi khi cũng bàng hoàng
chợt nhận ra dù mình vô thần nhưng cuối cùng đã mặc nhiên tôn thờ một Chúa:
(…) tôi thích được quì dưới chân nàng
để xin những điều vớ vẩn
(…) tôi không tin thượng đế
nhưng lại chắc một điều là hận thù có thật
cũng như tôi tin nàng tuyệt vời
hơn bất cứ một người đàn bà nào hiện đang có mặt
(…) nàng tin nơi tình yêu
như giáo dân tin nơi phép nhiệm mầu của chúa
hãy tin ôi hãy tin
nước sẽ rút về bờ kia tuyệt vọng (…)”
(tr. 50-51).
Đến tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, lời xin đã hướng thượng, tâm linh đã mở, linh hồn đã sẵn sàng, báo trước con đường tâm linh mà nhà thơ sẽ đi, qua những người nữ khác nhau, tiếp nhau:
“Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôi” (tr. 16).
” … Hỏi Chúa đi, ngài sẽ trả lời
trong tay Thánh Nữ có đời tôi… ”
(Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, tr. 71).
Nguyên trọn phần thứ nhất của tập Đi Với Về Cùng Một Nghĩa, Như Nhau họ Lê dùng để tung hô Thánh Nữ Ca: “cây thánh giá có một đầu rất nhẹ / Chúa không kêu ai vác hộ bao giờ / em quay mặt khước tình tên ngoại giáo / đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêu”(Thập Tự Nàng); ở những dịp khác, là những bài thơ chỉ với tựa đề đã thấy hoặc sự thành khẩn hoặc đam mê dứt khoát: Phúc Âm Nàng, Phúc Âm Ngoại Đạo, Thập Tự Nàng, v.v.
Du Tử Lê đã thi-ca hóa một số quan niệm và hình ảnh tôn giáo, một số biểu tượng, cách sống đạo: phục sinh, thiên đàng, địa ngục, chén đắng, ruộng máu, bánh thánh, Tin Mừng, v.v. Ông đã kéo đạo xuống với con người rất trần tục, những kẻ nòi tình, đam mê! Tro than là một trong những biểu tượng từ Thánh Kinh được ngòi bút họ Lê dùng rất nhuyễn:
“đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục
thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn
ai nắng gió trên cảnh đời kẻ đó?
Mà tôi ngồi điếng lặng giữa tro than”
(Thơ Ở Tro Than, ỞCNGKTH, tr. 26).
“trên tay Chúa dấu đinh người bị đóng / cuối đời tôi than củi đã thành tro / em chẻ nhỏ khối tình tôi lỡ gửi / nhóm nổi không một ngọn lửa oan cừu…” (Thịt Xương Tôi Đấy Xin Người Nhận, ỞCNGKTH, tr. 109).
“em vô nhiễm. Bị đinh đời đóng suốt
bởi chọn tôi, một kẻ giống Giuđa
tôi bán mình, nhưng không bán thiên thu
hồn ẩn mật đã gửi người trước đó …”
(Hồn Ẩn Mật Đã Gửi Người Trước Đó, ỞCNGKTH, tr. 114).
Chúa như một bảo đảm cho con người không chỗ bám víu. Hết hối người tình hỏi Chúa thì khi trầm lắng vẫn là Chúa như đảm bảo cuộc đời:
” Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
tôi buồn như phố cũ như tay
bàn chân từng ngón ngưng không thở
lạc mất đường đi tạnh dấu bay
Hỏi Chúa đi, ngài sẽ trả lời
trong tay Thánh Nữ có đời tôi… “
(Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, ỞCNGKTH, tr. 71).
Nơi nhân gian không thể hiểu, nơi đó có tình yêu, một tình yêu có thể khác thường, ngang trở:
“Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
đôi mắt người hồ như biển đông
có mưa-tôi-cũ về ngang đó
tự buổi thiên đàng chưa lập xong
(…) Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôi”
(Bài Nhân Gian Thứ Nhất , ỞCNGKTH, tr. 16)
Nòi tình, nhà thơ lại có cơ duyên với những tình yêu khác, một lần tình ngộ ở không gian cửa Thiền và ông sẽ gọi người yêu là Bồ Tát, là Phật sống, khiến ông phải làm Sa Di cho xứng với tình của nàng:
“(…) phá chấp. Như Lai ở dưới trần
hiện thân Bồ Tát cứu nhân gian
cây oan khuất vẫn nghìn tay vẫy
tôi vẫn nhìn em là chân kinh
xuống tóc. Theo em khép cửa đời
vào thiền để chỉ thấy viền môi
yêu nhau ai bảo tâm không trụ?
quên hết. Nhìn nhau. Nhất quán rồi.
(…) vì em tôi đã làm Sa Di
không đi nên ý vẫn quay về
bế quan toạ thị. Tôi và vách
em tụng kinh gì? Cho nghe đi
hôn em Bồ Tát. Chuông kinh hãi
rung hoảng vì tôi? hay cả em?”
(Vì Em Tôi Đã Làm Sa Di , ỞCNGKTH, tr. 77-78).
Sự quảng đại từ bi của người nữ, cao cả, liên tục, nhưng câu thơ thì nhiều đứt đoạn, phân vân! Nhưng rồi Bồ Tát cũng phải chia biệt, nhà thơ ở lại nhìn theo, đành “cảm ơn huệ nhãn em khai mở / tiền kiếp xưa mình đã có nhau”, còn chăng là dư vị thiền môn:
“… người cho tôi mùi hương
và, mặt trời giữa ngực,
môi: thơm biển Hoa Nghiêm,
trái tim: rừng Bát Nhã”
(Thơ Tình, Gửi Yêu Dấu, Đầu Thiên Kỷ, Mới)
Hy vọng bao giờ cũng nở giữa rừng huệ từ bi:”cành hoa tay Phật: lòng Ca-Diếp / tâm ấn đời ta: vùng vắng im / ngày sau thân-chứng-em-Bồ-Tát / có bóng ma xin gác cửa Thiền” (Hựu Ca Mới).
*
Từ đầu thập niên 1970, Du Tử Lê đã muốn mở một con đường thi-ca với âm điệu và ngôn ngữ riêng. Tập Thơ Du Tử Lê 1967-1972 bước những bước dè dặt thám hiểm vùng tâm thức và tư duy. Đến Thơ Tình khi ra đến hải ngoại ông trở về nét thơ bình dị và tâm tình đôn hậu rất con người, nhưng sau đó cho đến nay thì ngọn bút thơ ông trở thành cây đũa kỹ thuật cách tân nhiêu-khê và nhiều lần làm dáng với con chữ – dù xen kẽ vẫn có những bài âm điệu và tình ý giản đơn mà thâm sâu!
Du Tử Lê đã thành công sáng tạo một số hình ảnh và từ ngữ của riêng ông: khúc thụy du, hựu ca, con sóc nhỏ, bóng cò trong sương, v.v. mà những con dế, bọ ngựa hay châu chấu, cào cào, vi trùng, v.v. cũng có vẻ thích hợp với mạch thơ của ông, những Sa Di, con chiên, kẻ ngoại đạo,… cũng rất Du Tử Lê! Ngoài ra, thơ ông gần và hợp với âm nhạc cuối thế kỷ XX kể lể lớn tiếng, nhát gừng có khi thiếu trong sáng. Thơ ông đã có nhiều người viết nhận định, phân tích, qua bài này, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược sự hình thành và bước đi liên tục của nhà thơ, như một đóng góp cho thi-ca Việt Nam!./.
Chú-thích
1. X. Tạp chí Văn Học SG, 179, 3-1974, số đặc biệt về giải Văn học nghệ thuật năm 1973. Ngoài ra có sự kiện một số giám khảo như Nguyên Sa đã rút tên để chống lại luật kiểm duyệt 007 lúc bấy giờ!
2. Võ Phiến. Văn Học Miền Nam: Thơ. Westminster CA: Văn-Nghệ, 1999. Tr. 3117-3121. Trong cùng bộ văn học sử này, trường hợp thơ Thanh Nam trước 1975 cũng đáng đặt câu hỏi, vì thơ lưu đày của Thanh Nam sau 1975 mới là hiện tượng! Dĩ nhiên đã có nhiều thiên tài thi-ca từng nổi tiếng khi còn trên ghế học-đường, như Chế Lan Viên, Nguyễn Tất Nhiên, Sương Biên Thùy,… Chúng tôi ghi nhận ở đây một sự bất bình thường, một loại hiện tượng của sinh hoạt văn học người Việt.
3. Du Tử Lê. “Một vài nỗ lực cách tân thể lục bát và quan niệm hoán vị / conversion concept”. Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, 2, 1997, tr. 209-219.
4. Trong bài đã dẫn ở chú thích 3, ông viết “độc giả thứ hai” nhưng khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh in trong Du Tử Lê Tác Giả Và Tác Phẩm Tập 2 (Santa Ana, CA: Nhân Chứng, 1997, tr. 102) và trong tùy bút “Yêu dấu, cần chăng, một lời nào, khác, nữa?” (Thế Kỷ 21, 156, 4-2002, tr. 85-93), ông ghi là “tác giả thứ hai”. Có thể bản Tuyển Tập 1997 in sai!
5. “Về thơ Tương-tác của Du Tử Lê”. Tuyển Tập Văn-Học Nghệ-Thuật Liên-Mạng 1, 1996, tr. 56.
6. X. Du Tử Lê. “Yêu dấu, cần chăng, một lời nào, khác, nữa?” (Thế Kỷ 21, 156, 4-2002, tr. 85-93). Trong bài tùy bút này, Du Tử Lê kể lại kinh nghiệm đặt tựa nhiều chữ hoặc bỏ dấu khác thường của ông trong sáng tác thơ cũng như truyện, trước và sau 1975, đã bị phản đối, phê bình thế nào, cũng như kinh nghiệm làm thơ với những dấu gạch chéo slash / .
7. Du Tử Lê. Bđd, chú thích 6, tr. 90.
2-2002
Trường Đinh - Phỏng vấn nhà thơ Du Tử Lê
http://www.dutule.com/D_1-2_2-106_4-3863_5-4_6-1_17-16_14-2_15-2/
Những ca khúc phổ thơ của thi sĩ Du Tử Lê (RFA phỏng vấn)
http://www.dutule.com/D_1-2_2-106_4-4040_5-4_6-1_17-16_14-2_15-2/
Các ca khúc thơ phổ nhạc của Du Tử Lê
http://yume.vn/sontran155/article/cac-ca-khuc-tho-pho-nhac-cua-du-tu-le.35D0A6AE.html
Người Việt Tây Bắc chuyện trò với nhà thơ Du Tử Lê
http://www.dutule.com/D_1-2_2-106_4-3895_5-4_6-1_17-16_14-2_15-2/
Du Tử Lê by Đinh Cường
Du Tử Lê, 20 tuổi
Phan Nguyên, Du Tử Lê, Lê Thánh Thư,
PN Studio Sg 2012
Du Tử Lê, Phan Nguyên, Dương Nghiễm Mậu
PN Studio 2012
THÁNG MƯỜI NHỚ BỐ
Khi mà con bắt đầu tập tành viết lách, cũng là khi con bắt đầu âm ỉ nỗi oán giận Bố.
Con đã rất giận Bố! Nói đúng hơn là con giận cái bóng của Bố, cái bóng của ông Du Tử Lê, đã lấp kín, đã phủ trùm... Cái bóng của ông Du Tử Lê, đã che khuất, đã lấp đầy mọi nẻo đường, không một kẻ hở cho tên con.
Không giận sao được, khi mà tất cả những bài văn con viết, cứ đâu đó lừng lững, uy nghi, vững chải... cái bóng của ông Du Tử Lê. Một cái bóng đè bẹp, phủ trùm, uy nghi, vững vàng đến phát ghét!
Không giận sao được, khi con đã rất nhọc công, tự tìm hiểu, nghiên cứu, đọc rất nhiều sách báo, để thực hiện cho riêng mình những chương trình giới thiệu âm nhạc, những bút ký văn chương... để rồi khi phổ biến, đằng sau những lời chê, khen, con luôn phải đón nhận những lời ra tiếng vào: "Thế Bố viết cho con đọc đấy à?" "Có phải ông Du Tử Lê viết dùm cho Orchid Lâm Quỳnh?"
Con đã tìm cho mình nhiều cách, để phủ dụ, để an ủi, để dỗ dành cơn giận của mình... Con đổ cho tại số tuổi con ít ỏi, con đổ cho mình đã ở trong cái thời mà nền văn hóa đã quan niệm chỗ đứng dành cho người phụ nữ luôn nằm sau chiếc bóng của đàn ông. Nhưng vượt trội hơn hẳn những yếu tố trên, con đã tin rằng, chính Bố, chính tàng cây quá rộng của một ông Du Tử Lê, đã bao trùm sự nhỏ bé của con. Con thầm oán giận cái tên Du Tử Lê, cái sự nghiệp văn chương quá đồ sộ của Bố.
Cho đến một buổi sáng Tháng Hai, con bị đánh thức bởi một cú phone của Mẹ: "Con và Hân vào nhà thương gấp, Bố bị cancer!"
Sau gần hai năm ra vào nhà thương như cơm bữa, Bố đã gần như buông hết mọi công việc. Bố giao cho con tất cả mọi lo toan của gia đình. Con đã thay Bố quyết định từ việc lớn đến việc bé. Và tưởng như mọi việc trong nhà không còn cần Bố nữa.
Nhưng con đã lầm. Những tưởng chỉ riêng mình Bố phải hứng chịu những đau đớn của căn bệnh ngặt nghèo, mà cả nhà, cả căn nhà nhỏ của chúng ta, cũng phải hứng chịu. Lũ cá chẳng ngoi lên mặt hồ, vì không có mỗi sáng Bố chăm lo. Lũ chim đứng lặng trong chuồng, ngơ ngác, thất lạc... Đến con Chí Phèo cũng chẳng thèm chọc phá, tí tởn với con chim hoàng anh. Trong suốt thời gian Bố ở nhà thương, anh Hân đã không biết đỗ tội cho ai, khi bị con rầy rà, trong nhà quá nhiều tàn thuốc lá. Cây cối trong vườn, khô héo, ủ rủ, chết lặng... nhớ hơi hướm của Mẹ.
Và đáng sợ hơn hết, con đã nhận ra sự hốt hoảng của Mẹ. Sự hốt hoảng thấy rất rõ, ở một người đàn bà, tưởng chừng như miễn nhiễm trước mọi tai ương.
Mẹ đã bỏ hết những công việc, để ở trong nhà thương bên cạnh Bố, suốt hơn một tháng trời.
Con nói với Mẹ, mãi đến khi Bố bịnh, mãi đến khi cái tàng cây lẫm lẫm, uy nghi kia quay lưng lấy đi bóng mát, con mới nhận ra, cả nhà và hơn ai hết, chính con đã cần Bố biết bao. Chính con - cái mầm non tơ nõn, chớm nhú vào đời kia cần biết bao nhiêu, tàng cây cổ thụ, gốc đa vững chải, che chắn nắng mưa.
Và giờ đây, Bố biết không mỗi khi hoàn thành xong 1 bài viết gởi cho báo, đọc trên đài... chính con, rất TỰ HÀO, để nói với Mẹ rằng: "Mẹ ơi, Mẹ chuẩn bị tinh thần để nghe 1 bài mới, của một Du-Tử-Lê-phế-phẩm. Một "Wrong-Du-Tử-Lê.” Con cũng rất bình thản (có phần thích thú) khi chú Đinh Quang Anh Thái nói bài tùy bút của con bị ảnh hưởng giọng văn của Bố rất nhiều!
Bố ơi! Con không còn chút nào “giận” bố nữa. Không còn một chút nào “ganh tị” với Bố. Không còn một chút nào oán hận cái tên Du Tử Lê đã phủ trùm tên con.
Tuy nhiên con lại giận một chuyện khác. Con “ghi sổ” những gì xảy ra trong thời gian Bố bệnh, con nhớ ơn anh Derek Phạm đứng lặng người bên cạnh giường bố trong phòng cấp cứu. Con nhớ ơn anh Nguyên Khang đòi mua bánh mì vào nhà thương để ăn với Bố cho vui. Con nhớ ơn anh Tiến Dũng và chị Tâm Đoan đòi ở lại nhà thương vào buổi tối để Mẹ được về nhà. Con nhớ ơn các Bác, các Cô Chú đã đến thăm Bố. Bốn năm trôi qua, con vẫn nhớ rõ từng tên của những người đã đến (và cả những người không đến) thăm Bố.
Con cũng nhớ rất rõ tên của những người, khi Bố còn ở nhà thương đã gọi hỏi con: “Thế Bố khỏe chưa? Anh/Chị bận quá, không đến thăm được. Thôi chờ khi Bố về nhà Anh/chị sẽ đến thăm.” Những trường hợp như vậy, con có chung 1 câu trả lời: “OK Anh Chị, không sao đâu!” Nhưng thật ra, trong thâm tâm, con nghĩ: “Khi về nhà rồi thì cần quái gì anh chị đến thăm!.”
Con chợt nhận ra, con không hề tức giận khi người ta quên nhắc đến tên ông Du Tử Lê trong 1 chương trình văn học. Nhưng con lại không tha thứ khi những người thân quen đã ngoảnh mặt trong lúc Bố lâm bệnh. Con trở nên kỳ cục, vô lý, nhỏ nhen. Con làm như tất cả mọi người phải có bổn phận quan tâm đến căn bệnh của Bố.
Tuy nhiên, cũng có lúc con đằm xuống và tin rằng mọi người sẽ hiểu và tha thứ cho sự vô lý của con, Con tin mọi người sẽ hiểu, nếu như họ cũng có một người thân vướng căn bệnh ngặt nghèo như Bố. Làm sao không khỏi xót xa khi nhìn cảnh “ông” Du Tử Lê cố gắng ăn ngấu nghiến rau, món mà trước đây “ông” chả bao giờ đụng đũa tới, hay uống cả lố thuốc đủ loại chỉ vì có ai đó nói rau tốt, thuốc này hay cho bệnh ung thư. Và họ sẽ không hiểu khi thấy ông Du Tử Lê vừa hút thuốc vừa rất siêng năng chạy treadmill, chỉ vì bác sĩ dặn phải bỏ thuốc lá. Bố tin rằng vừa hút vừa chạy treadmill coi như... huề!
Con cũng đã bắt đầu có những hành động mà trước đây con không bao giờ nghĩ đến. Con đi thăm những người quen bị bệnh, để mong rằng sau này có người đi thăm Bố. Ra đường con không dám bấm còi những người già lái xe chậm, vì sợ rằng đâu đó cũng có người bấm còi Bố. Con canh thư hằng ngày, để kịp thời thủ tiêu những lá thư gửi cho Bố quảng cáo đất bán ở nghĩa trang. Những hôm mùa hè nóng bức ngồi trong phòng có máy lạnh ở trường, con đều nghĩ không biết ở nhà Bố có bị nóng không. Con không đem về nhà những lá thư, bài báo chê bai, phỉ báng ông Du Tử Lê. Vì giờ đây con hiểu rằng, trong nhà chỉ còn một ông Lê Cự Phách, không còn sức để chống đỡ những tai ương.
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá… với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư.”
Orchid Lâm Quỳnh
(June, 2010)
(Nhà thơ Du Tử Lê mất ngày 07 Tháng Mười, 2019)
Tháng Mười, nhớ về Du Tử Lê
23 tháng 10, 2021
Hôm nay là Tháng Mười, tháng Du Tử Lê giã từ cõi tạm, từ trong quán café chúng tôi nhớ đến anh, nhắc những kỷ niệm êm đềm vui vẻ chung quanh bàn café sáng. Đã hai năm, DTL ra đi êm ái trong thinh lặng, điều mà anh hằng mong ước lúc còn sinh thời, mỗi khi có dịp bàn về cái chết.
“Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn”(Du Tử Lê).
Trước 1975 tôi biết đến thi sĩ Du Tử Lê khi ông được giải thưởng về thơ của Tổng thống VNCH. Sự biết cũng dừng ở đó. Mãi đến thập niên 1990 tôi định cư ở Nam California, rất gần nơi cư trú của ông. Gặp ông lần đầu rất tình cờ nhưng tôi không hề có ý định kết thân vì đơn giản là do nghe nhiều điều tiếng về ông từ các quán cafe vùng Little Saigon. Sau này khi thân thiết, tôi thuật lại, ông cười nhẹ và nói “Cũng may P. chưa kịp “đánh” (chữ của giới làm báo dùng để chỉ viết bài hạ nhục ai đó) tôi, như nhiều người đã làm”. Sau đó nhiều tình cờ run rủi, tôi gặp Du Tử Lê thường hơn và nhất là ở quán cafe.
Trong mấy chục năm trời uống cafe với ông, chúng tôi gặp nhau ở rất nhiều quán. Nhưng ngồi nhiều nhất và lâu nhất thì lần lượt ở các quán sau: Tài Bửu, Lan Hương (Lan Hương đổi chủ thì qua Tài Bửu chỗ mới). Tài Bửu sang quán chúng tôi lại chuyển sang Hạt Ngò cho đến khi ông qua đời.
Ở quán nào ông vẫn thường đến khá sớm, khoảng 9 giờ, ngồi ở một bàn kín đáo; sau đó bạn bè đến, thường chỉ vài người, thỉnh thoảng cả chục. Thời gian trước tôi còn làm việc nên chỉ ngồi cafe với ông hai ngày cuối tuần; cho đến 2013 tôi nghỉ hưu mới cafe cùng ông bảy ngày một tuần. Sự thân thiết tự nhiên theo ngày tháng đến với chúng tôi; tôi và ông đều nhận thấy điều ấy và cùng trân trọng giữ lấy. Chúng tôi kể cho nhau nghe thật nhiều về quá khứ cho đến chợt một hôm vào đầu năm 2018, Du Tử Lê tỏ ý nhờ tôi viết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Ông bắt đầu gom sách xuất bản từ xa xưa hay những tài liệu liên quan đến ông để đưa cho tôi tham khảo. Công việc tiến hành không chuyên môn mà rất tài tử và chậm; chỉ vì cả hai chúng tôi đều nghĩ rằng thi sĩ Du Tử Lê còn lâu mới lìa bỏ cõi đời này.
Nhiều người, có cả người thân ngay như chị T. người vợ cuối cùng của ông, nói rằng Du Tử Lê chỉ biết làm thơ, ngoài ra không biết làm gì nữa cả. Dĩ nhiên đây là lời nói có tính thậm xưng nhưng cho ta thấy cái tính lơ mơ, không chú ý đến nhưng việc không thuộc về văn chương của ông. Tôi cũng nghe nhiều những thắc mắc của ông rất ngây thơ đến buồn cười của ông.
Nhưng quí vị đừng vội, bên cạnh những không biết hay đúng hơn là không để ý đến đời sống vật chất hữu cơ, Du Tử Lê lại có cái nhìn thật sắc, nhạy bén về lãnh vực tinh thần, tình cảm và nhất là về thi ca. Có những hôm ngồi bàn luận về thi ca, chúng tôi hứng chí ngồi đến xế chiều. Ông thường nói chúng ta là những người đi trước phải tạo điều kiện giúp đỡ những người đi sau tiếp tục dấn thân, làm mới, yêu thích thi ca, một mảng quan trọng trong văn hóa đất nước. “Tôi cho đó là một trong những nhiệm vụ của người làm văn học” – ông nói. Và, đó là động lực chính để Du Tử Lê mở giải thưởng thơ văn Du Tử Lê. Khi ông qua đời, chị T. hiền thê của ông vì sợ không kham nổi giải thưởng nữa nên tuyên bố chấm dứt, nhưng sau đó với lòng yêu kính chồng, chị T. tuyên bố giải thưởng Du Tử Lê vẫn tiếp tục. Tôi nghĩ điều này sẽ làm vong hồn của ông rất vui ở suối vàng.
Du Tử Lê – với 77 tác phẩm gồm thơ văn, một giải thưởng thơ VNCH năm 1973 và rất nhiều bài báo thời VNCH cũng như sau 1975 và một số tranh vẽ vào những năm cuối đời tại hải ngoại – đã để lại cho hậu thế một gia tài văn học khá đồ sộ. Khoảng 200 bài thơ của ông đã được nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc. Ông là một trong những thi sĩ có số lượng thơ phổ nhạc nhiều nhất Việt Nam. Có nhiều bản nhạc lừng danh mà cho đến nay vẫn còn rất phổ biến được các ca sĩ chọn diễn. Những bài như Khúc Thụy Du, Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, Trên ngọn tình sầu… là những bài hát thuộc loại trường cửu.
Du Tử Lê nói năng nhỏ nhẹ, từ tốn và lịch sự, rất dễ được lòng người đối diện. Ông không phát biểu ý kiến riêng trong đám đông như ở bàn cafe, bàn tiệc. Những quan điểm về văn học, tôn giáo, chính trị, ông chỉ nói với người thân và chỉ khi có một hay hai người mà thôi. Ông tự nhận thời trai trẻ đến trung niên ông thuộc tuýp người không chịu thua ai, sẵn sàng đối phó đối thủ của mình. Nhưng khi về già, nhất là từ sau khi mẹ ông qua đời, ông trở nên hiền hòa, dễ dàng bỏ qua những thù địch.
Ông có người chị ruột thương và lo lắng cho ông không khác gì một người mẹ. Du Tử Lê luôn luôn dạ thưa, một mực lễ phép với bà cho đến cuối đời. Bà là người duy nhất khóc ngất trong lúc tiễn chiếc áo quan Du Tử Lê xuống lòng đất lạnh.
Du Tử Lê rất yêu hội họa, giao du thân thiết với nhiều họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Sự say mê màu sắc ấy có trong ông từ thời trẻ nhưng chỉ giữ trong sự nung nấu vì ông không tin vào khả năng của mình. Cho đến khoảng 2010, do sự khuyến khích của tôi và nhất là từ họa sĩ Nguyễn Đình Thuần (người tận tình giúp ông tìm giá vẽ, mua màu và góp ý về kỹ thuật, Du Tử Lê bắt đầu cầm cọ.
Bài viết của tôi về hội họa của ông mang tên: Du Tử Lê, Màu Xanh Vàng Phai được đăng trên các báo ở California, sau đó được nhiều báo về nghệ thuật đăng lại và được một luận án thạc sĩ của một sinh viên trong nước đề cập. Du Tử Lê rất vui. Ông nói với tôi là bài viết này là động lực giúp ông vẽ nhiều hơn. Ông đã tổ chức 4-5 lần triển lãm và lần nào cũng thành công. Tôi cũng hân hạnh được ông mời nói chuyện, khoảng bốn lần về thơ, họa của ông trong các chương trình thơ họa Du Tử Lê. Lần cuối cùng tôi giới thiệu thơ ông ở chương trình Thơ & Tranh Du Tử Lê là ngày 18 Tháng Tám 2019 tại San Jose, California, nhằm ra mắt tập thơ Em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình và trưng bày một số tranh mới sáng tác.
Bài đăng trên báo Sài Gòn nhỏ tháng 10.2021
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.