Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

Phan Thị Trọng Tuyến









Phan Thị Trọng Tuyến
(1951 - ......) Bến Tre

Nhà văn


Sinh tháng 2 năm 1951 tại Bến Tre, lớn lên và đi học tại Gia Định. Du học Pháp năm 1969, tốt nghiệp đại học Y Dược chuyên ngành xét nghiệm y khoa, sống và làm việc tại Pháp cùng gia đình, nay đã về hưu.
Bắt đầu viết tại hải ngoại năm 1984. 
Phan Thị Trọng Tuyến đã cộng tác với các báo, tạp chí hải ngoại: Đồng Nai, Văn, Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Làng Văn, Nhân Văn, Trăm Con, Hợp Lưu, Tạp chí Thơ, Việt Báo, Viễn Đông, Người Việt ... V.V






Trang đời cũ gọi kiếp dã tràng 
vào mùa xưa ấy gọi khan giọng người
9/2019

Hai mươi năm có sá gì
Ngoảnh mặt lại đã hết thời tơ liễu

Thân gởi Phan Nguyên











Tác phẩm đã in




1
Mùa Hè Một Nơi Khác
NXB Văn nghệ, 1986. Hao Kỳ




2
 Một Trang Đời
NXB Thanh Văn 1988 Hoa Kỳ




3
Mùa Xuân Và Những Con Dã Tràng
NXB An Tiêm, 1995 Pháp




4
Hồng Đăng Tại Amsterdam
California, NXB Văn Học Press do thi sĩ Trịnh Y Thư chủ trương, (Amazon) 2018.




5
Trần Văn Thạch, 1904 -1945, cây viết chống bạo quyền áp bức.

 Cộng tác với - Trần Mỹ Châu
Bản tiếng Việt, phần dịch tiếng Việt các bài báo Trần Văn Thạch trong tờ Pháp ngữ La Lutte 
(lần thứ nhất in tại Canada và Pháp 2013-2014).




ĐÔI DÒNG TÂM SỰ
Phan Thị Trọng Tuyến


Phải bắt đầu từ chỗ đầu tiên.
Và chính lòng can đảm mở đầu cho mọi bắt đầu.
Vladimir Jankelevitch ( 1903-1985)



Thông thường, sau khi xong việc, người dịch chỉ còn một thỉnh cầu quan trọng: mong độc giả thông cảm, lượng thứ cho những lỗi lầm và sơ sót chắc chắn có, khiến tác phẩm gốc có thể bị hiểu sai hoặc giảm giá trị.

Trong trường hợp chúng tôi ở đây, một điều lo lắng phân vân khác đã có mặt từ lúc bắt tay vào việc, đó là làm thế nào đến thật gần tinh thần nguyên tác, hay ít ra không xa lắm giọng Sài Gòn thời ấy, và cố sức tránh dùng những từ ngữ chưa có mặt trước thập niên 30 hay 40 của thế kỷ 20 ? Làm sao chuyển / dịch được cái " u mặc ", tính khôi hài và đặc biệt tài chơi chữ (Pháp) của Trần Văn Thạch đến người đọc ? Dần dà tôi nhận ra đây là những ước vọng quan trọng vượt trên ý chí và khả năng có giới hạn của mình, tôi đành cố gắng chỉ chú ý vào việc hiểu đúng tư tưởng để phản ảnh trung thực tấm lòng Trần Văn Thạch. Xem việc mình làm như góp bàn tay đẩy ra biển lớn cái chai nhỏ chứa một bức tâm thư, một trang sử.

Và tôi không hề ngờ trước được là việc đóng góp này đã đem lại cho chính tôi nhiều điều hữu ích và lý thú.

Lúc dịch xong các bài báo cuối cùng, được chị Châu "ra lệnh" nghỉ ngơi và "giải trí". Dù phần việc chị giao cho tôi chỉ là giọt nước so với công trình đại dương của chị từ bao nhiêu năm qua, nhưng tôi vâng lời, cuối tuần đó nghỉ phè, nhân tiện sắp xếp lại tủ sách nhỏ ngổn ngang những tác phẩm đã mua hay được con cháu tặng từ vài năm nay mà chưa đọc xong.

Thì tình cờ đọc Le Vin de Solitude của Irène Némirovsky1, vào những ngày cuối năm lạnh lẽo. Một tuổi thơ kể lại, với quyển sách đầu tay ra đời năm bà 26 tuổi. Những quyển sách tiếp nối được xuất bản tại Paris, trong nước Pháp trước thềm một thời kỳ biến loạn kinh hoàng đến độ cuốn theo mạng sống của bà, năm đó Némirovsky mới 39 tuổi. Sách bà sẽ bị cấm khi Đức chiếm đóng Pháp.

Bất ngờ nghĩ đến chị Châu và cuộc đời hoạt động cũng trong cùng khoảng thời gian đó của cha chị, ông Trần Văn Thạch. Ông mất lúc chị 7 tuổi, trong những ngày cuối cuộc thế chiến thứ hai. Những người con của Irène là Denise và Elisabeth Epstein cũng mất mẹ (và cha) rất sớm.

Lập tức có so sánh không cưỡng được giữa chị với họ, vì tấm thiệp xuân chị gửi đầu năm 2009 với bức ảnh chị và mẹ là bà Trần Văn Thạch.

Hai chị em bà Elisabeth và Denise Epstein, con gái Irène Némirovsky, cất giấu giữ gìn những bản thảo của mẹ, nhưng không dám giở ra xem vì những kỷ niệm quá đau đớn, mãi đến mấy mươi năm sau khi bà mất họ mới khám phá tác phẩm sau cùng của mẹ và cho xuất bản. Năm 2004 đó, quyển Suite française, hai tập đầu trong bộ truyện dang dở, nhận được giải thưởng Renaudot, một giải thưởng văn học từ trước đến nay chỉ trao cho các tác giả còn sống. Từ đó, các độc giả thế hệ trẻ ở Pháp và thế giới cũng khám phá ra Irène Némirovsky.

Bà kể lại khung trời thơ ấu bên người mẹ lãnh đạm, nông cạn, bề ngoài và thế giới trưởng giả về chiều với người cha yêu dấu yếu đuối, ham mê cờ bạc. Những trang bản thảo bà viết trong những năm tháng trốn tránh cuộc truy nã, được các con bà khi đó, dù tuổi nhỏ nhưng biết cất giấu, giữ gìn như báu vật. Némirovsky bị giết trong trại tập trung Đức Quốc xã. Lịch sử người Âu châu gốc Do Thái bị Đức tàn sát trong thế chiến thứ hai được cặn kẽ giải bày, bằng chứng cũng trùng trùng tỏ rõ.

Trần Văn Thạch, không phải là nhà văn thuần tuý, nhưng là một chính trị gia, một nhà báo; ông bị giết một cách mờ ám vì chủ trương triệt hạ có hệ thống của những người stalinít đối với phái trốtkít.

Chị Trần Thị Châu, hơn 60 năm sau, cũng tìm được gần trọn vẹn những gì cha đã viết và sau khi sắp xếp, chú thích bối cảnh và dẫn giải diễn tiến lịch sử, giới thiệu với độc giả. Khác với hai người con gái trên, chị đã phải đi khắp nơi tìm dấu vết cha để lại. Chị lùng sục khắp các thư viện. Hỏi han các sử gia trên thế giới. Chị theo dõi từng bước đi của cha, kiếm tìm từng bài trong những tờ báo cũ, như những mẩu đời ngắn, gọn với những con số cho biết ngày tháng, như một thứ nhật ký cha để lại

Chúng ta biết số lượng báo in La Lutte không nhiều, báo tuy công khai hợp pháp nhưng bị cấm phát hành rộng rãi, cho nên hơn nửa thế kỷ sau, đi tìm những tờ báo này không dễ dàng chút nào. Chị tỉ mỉ lắp ráp, chụp hình, sao chép từng bài viết. So sánh, hỏi thăm, bởi vì có những bài không chữ ký người viết, tìm những tài liệu nói về cha chị và các bạn đồng nghiệp với ông, những người đã viết nên những trang sử thật đẹp đẽ tại miền Nam Việt Nam thời Pháp thuộc. Đó cũng là một điểm khác biệt nữa so với hoàn cảnh Némirovsky.

Bà Némirovsky tâm sự về đời mình trong bối cảnh Nga lưu vong, còn Trần Văn Thạch viết báo nói lên bất công và ngược đãi do thực dân áp đặt lên con người và đất nước Việt Nam thời thuộc địa.

Điều liên tưởng của tôi chỉ đến từ hoàn cảnh những người con đi tìm dấu vết của cha mẹ, hình ảnh cội nguồn. Điều gì đã thôi thúc họ phải nhắc nhở, phải kể lại ? Để chia sẻ và trả lời ? Vì những kỷ niệm trước đó quá mỏng manh mơ hồ ? Vì di vật để lại mang giá trị nội tại cực kỳ quan trọng vượt lên trên ranh giới gia đình ? Một cách để giải oan và phục hồi danh dự của người đã vùi dập trong oan ức, khuất tất ?

Chị đã như thế nào khi tìm ra tài liệu, khi ghi lại từng chữ, từng câu các bài báo của cha, khi hình dung tâm trạng của ông lúc viết cho tờ báo lịch sử lừng danh một cõi Nam Kỳ thuở trước?

Từ lâu lắm nguyên nhân và các lý do quan trọng sâu kín cũng như các chứng từ, chứng nhân về cái chết của Trần Văn Thạch và các bạn đồng hành đồng chí, tưởng chừng như đã chìm khuất trong cát bụi thời gian và bị dẫm nát dưới sức mạnh quyền lực chính thống. Cho nên hành trình chuyến đi tìm cha cũng là hành trình của sử gia. Kiếm tìm, so sánh, sàng lọc... Hành trình của cả một đời người.

Khi việc thực hiện Tuyển tập Trần Văn Thạch đi đến giai đoạn cuối, tôi nhận được bài " Một giấc mơ độc đáo 2, do sinh viên triết Thạch viết trong tạp chí sinh viên do anh xuất bản, nói lên ước vọng nhìn thấy xứ An Nam thuộc địa được thoát khỏi gọng kềm đế quốc Pháp. Mục sư Martin Luther King vài chục năm về sau đã bắt đầu bài diễn văn bất hủ cũng bằng câu tôi đã mơ như vậy khi ông tranh đấu cho dân quyền người Mỹ da đen. Dĩ nhiên, hầu như tất cả những kẻ bị áp bức, bị mất tự do đều có giấc mơ mở tung được xiềng xích. Giấc mơ tự nhiên và bình thường hợp lý này luôn luôn trở thành khác thường, bất khả trong hoàn cảnh nghiệt ngã, éo le. Nhất là khi đó, Việt Nam thành thuộc địa Pháp đã hơn 60 năm. Với Trần Văn Thạch, đây là "một giấc mơ độc đáo" vì tác giả nhìn thấy đoàn kết dân tộc qua (hai) đảng phái, nhìn thấy dân trí mở mang, hứa hẹn cuộc đấu tranh (bất bạo động cho) dân tộc tiến triển tốt đẹp. Đó là mơ ước đoàn kết giữa hai khối tạm coi là giới tư sản trưởng giả và giới nông dân, lao động. Giấc mơ thanh niên trên mẫu quốc Pháp, nơi đó chủ nghĩa thuộc địa được nhiều người Pháp và kể cả kẻ bị trị, nhìn qua lăng kính khai hoá tốt đẹp, trừ một vài trường hợp hiếm hoi 3.

Ở tuổi đôi mươi sinh viên vào thời buổi đó, vấn đề thuộc địa cũng như chánh sách độc tài toàn trị tàn ác của Staline chưa phải là vấn đề lương tâm hàng đầu của giới sinh viên, trí thức Pháp, và đám đông chưa đọc được Trotski cũng như chưa được đọc báo cáo của Khrustchev vài mươi năm sau đó. Còn André Gide chỉ nhắc đến những bất công đối xử với Phi Châu thuộc địa trong CHUYẾN ĐI CONGO và TỪ TCHAD TRỞ VỀ 4, phải đợi thêm gần hai thập niên sau nữa với Albert Camus, Jean Paul Sartre và lại André Gide (tất nhiên, với TRỞ VỀ TỪ LIÊN XÔ ).

Giấc mơ khác thường vì tại Việt Nam tuy Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… từ đầu thế kỷ 20, không ngừng kêu gọi dân tộc, thanh niên thức tỉnh, đòi lại quyền độc lập tự chủ nhưng tiếng nói họ cũng không ngừng bị che lấp, bản thân họ không ngừng bị thực dân tù đày, đàn áp 5.

Chàng sinh viên Thạch mơ thấy dân tộc mình sẽ vùng dậy và tìm lại được nền độc lập khoảng trên dưới 25 năm sau đó, khoảng thời gian hợp lý theo chàng để mọi sự chín muồi cho lý tưởng, cho hoài bão thanh niên, khát vọng đồng bào. Sau khi trở về nước, Trần Văn Thạch và nhiều nhà cách mạng Việt Nam khác đã dùng lý luận và báo chí cũng như nương vào luật pháp ban hành bởi chính phủ thuộc địa để đấu tranh giành độc lập. Ước vọng đất nước có độc lập bằng tranh đấu bất bạo động quả thật độc đáo vì nó được hình thành trong một thế giới đầy bạo động, tàn ác.

- Tức là đảng của anh không nhận lệnh từ đâu hết?

- Không nhận bất cứ từ đâu, không nhận từ Mạc tư Khoa hay từ Quảng Đông. Chúng tôi sợ nhất là người Tàu.

Đọc lịch sử riêng lẻ là một cách nhìn lại lịch sử chung, vì sự thật và vận mạng riêng lẻ góp phần cho sự thật và vận mệnh chung, huống hồ là lịch sử hoạt động của mộtngười ngoại hạng như Trần Văn Thạch. Khi đọc phần chị Châu kể chuyện gặp Trần Văn Giàu, tôi xúc động bàng hoàng trước sự trầm tĩnh của chị và lập tức nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa ông Giàu và cha chị hơn 60 năm về trước. Một bàn tay vỗ trên báng súng và ngón tay chĩa vào trán sỉa sói, hăm dọa, và lời lẽ không phải để dẫn giải bày tỏ mà là để đe dọa và át tiếng. Hai cử chỉ một con người bên thắng cuộc với khoảng cách thời gian thật dài và với hai thế hệ thua cuộc, nhỏ bé, bất động, trên tay chỉ có ngòi bút và tâm trí sáng ngời. Cuộc song hành lửa bạo lực và nước kiên nhẫn vẫn còn đang tiếp diễn, trong bối cảnh khác Tôi thấy chị đầy vị tha và tự tin. Tôi chắc chắn thái độ ông Giàu đã nhắc chị nhớ đến khung cảnh dầu sôi lửa bỏng của những ngày cuối tháng 8 năm 1945. Thật vậy, trong phần viết về tâm trạng khi tìm ra bức ảnh của cha vào một ngày hè tại Aix-en-Provence và nét tả thanh niên Trần Văn Giàu trong quyển sách của P. Franchini, tôi nhìn thấy nơi sự im lặng của chị, đường hoàng và ngay thẳng, luồng ánh sáng soi rõ cuộc chém giết thuở xưa. Như một bằng chứng cuối cùng, quý giá do chính Trần Văn Giàu mang lại. Thì còn cần nói gì thêm hơn nữa, ngoài món quà từ tạ trao tay, coi như oán thù đã cởi bỏ, chỉ còn lòng trắc ẩn trước một sự thật rạng rỡ. Vị anh hùng tài ba ấy thì ra cũng chỉ là một cục đá, một con dao. Thiếu một tâm hồn, một trái tim. Lửa bạo lực chỉ gây chết chóc, tàn phá và sợ hãi còn nước tĩnh lặng rạch ròi, kiên nhẫn nhắc nhở để nhớ lại nhưng khoan dung và nuôi nấng. Tôi vừa thán phục vừa xúc động, tôi tin chắc chắn rằng từ nay với những bằng chứng lịch sử đem lại như quyển sách này, viết bằng nghị lực và trái tim rướm máu, nhưng rõ ràng chính xác, công phu và có phương pháp, khoa học, chẳng còn ai cần đến thứ lửa hung bạo vì nó đã đốt cháy quê hương tôi quá nhiều, quá lâu. Tôi tin chắc rằng lòng kiên nhẫn, tình thương, nghị lực sẽ sáng soi đất nước, thuyết phục và kết nối lòng người. Cho nên đây không chỉ là công trình nhiều giá trị do Trần Thị Châu thực hiện làm quà tặng dâng cho mẹ và người thân trong gia đình. Quyển sách này còn là bản cáo trạng và chứng cớ xác thực bác bỏ lời vu khống của kẻ sát nhân giấu mặt. Quyển sách này tự nó cũng là một đàn tràng giải oan cho cả một thế hệ. Sẽ còn có nhiều đàn tràng khác tiếp nối. Giải oan để biết yêu thương kính trọng những tấm lòng đẹp đẽ cao quý Quyển sách này sẽ còn là nén hương cho tất cả những người đã âm thầm hy sinh cho đất nước Việt Nam, và là gia tài gửi lại cho thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của Việt Nam. Các thế hệ đấu tranh bất bạo động ngày nay sẽ hãnh diện khám phá rằng 70 năm về trước, một người trí thức, vì yêu đất nước và đồng bào, như họ bây giờ, và như tiên tổ xưa kia, đã dám đối đầu với cường bạo hung tàn nhiều khi chỉ với trái tim, trí tuệ và ngòi bút. Một trong những cách để hãnh diện với tiền nhân có lẽ là luôn nhớ công ơn họ và không ngần ngại nối gót họ trong hành động và cách sống sao cho đất nước vẹn toàn và đời sống đồng bào được tốt đẹp.



1 Irène Némirovsky ( 1903-1942 ): Nhà văn Pháp gốc Do Thái sinh tại Kiev (Nga), cha mẹ di cư sang Pháp khi bà 16 tuổi. Bà nổi tiếng từ năm 1929 với tác phẩm David Golder. Vài tác phẩm bà được biên kịch, quay thành phim. Nhưng vào đầu thế chiến khi Đức chiếm Pháp, theo các luật lệ bài Do Thái, bà bị cấm viết; chỉ một vài quyển sách của bà được in dưới tên giả. Chồng bà không được phép làm việc. Bà tiếp tục viết đến năm 1942 thì cảnh sát Pháp bắt bà đưa vào trại tập trung, chỉ một tháng sau bà bị giết tại Auschwitz, vào tháng 8 năm đó. Vài tháng sau nữa đến lượt chồng bà Michel Epstein cũng bị bắt và chết trong trại tập trung. Hai đứa con gái nhỏ Denise và Elisabeth, được bà vú che giấu, nhưng cũng phải trốn tránh nhiều lần. Denise, 13 tuổi, lúc nào cũng không rời quyển tập mẹ viết trong những ngày tháng sau cùng sống bên các con. Đó là di cảo của mẹ, Denise giấu trong một cái gối. Năm 1945, Pháp giành lại độc lập, hai cô bé mỗi ngày ra nhà ga vô vọng chờ đón cha mẹ trong những lớp người sống sót trở về từ các trại tập trung.

2 Un rêve singulier, báo JEA, số 8, ngày 15-12-1927.

3 Trái lại, sứ mạng đi giáo hoá thuộc địa , truyền bá văn minh Pháp được đề cao đến cực điểm, Trần văn hạch có nói đến việc này trong một bài viết khác. Các ngoại lệ hiếm hoi (làm tiền đề cho phong trào chống huộc địa sau đệ nhị thế chiến ) là Segalen, Paul Vigné d'Octon: vừa là bác sĩ, vừa làm chính trị, Paul d'Octon trong nhóm tả khuynh vì tiếp xúc trực tiếp với dân thuộc địa cũng như với thành phần mẫu quốc tại thuộc địa, nhà văn này bất bình trước những bất công và đối xử dã man dân bị trị, lên tiếng bằng các tác phẩm văn chương: Paul d'Octon viết hơn 20 quyển sách, tên ông được đặt cho một giải thưởng văn học về đề tài xã hội đặc biệt dành cho giới y sĩ.

4 Congo từ cuối thế kỷ 19 và Tchad năm 1900 đều bị Pháp bảo hộ và trở thành thuộc địa hai mươi năm sau đó.

5 Đọc trọn tập sách này, chúng ta thấy trong nhiều bài viết Trần Văn Thạch có nhiều nhận xét chính xác

về việc xảy ra trong tương lai






6
Những Mảng Rời

tuyển tập tranh Lê Tài Điển, thực hiện với Lê Tài Điển và các bạn văn (đóng góp hồi kí),
NXB Biển Khơi, ĐKSS, 2012, tại Normandie, France. 








Một ngày rất khác với mọi ngày




1. 

30 tháng Tư năm 1975, buổi sáng, trong gian nhà thuê ba phòng, tầng thứ tám một cao ốc ở ngoại ô bình dân một tỉnh lớn vùng đông bắc Pháp, tôi đang cho con ăn bột. Hoặc đang thay tã lót cho nó. Hoặc đang học bài thi cho năm cuối đại học. Trong khi chờ đợi đến giờ có tin tức thế giới. Không thể làm gì khác hơn. 

Trời đất chắc chắn là tuyệt đẹp, nắng vàng tươi, khô ráo, ấm áp. Đời bắt đầu rực rỡ từ cuối tháng 3. Hoa đào Nhật hồng đặc cả cây cành hai bên đường từ phố chính về nhà, hoa cỏ khác chắc cũng nở tưng bừng ở mọi góc đường và nhất là ở công viên ngay phía sau cao ốc. Từ cửa sổ phòng khách, tôi chỉ nhìn được một khoảng trời xanh với mảng mây trắng im lìm giữa hai ba cao ốc xấu xí. Quá cao và quá xấu. Hai mươi năm nữa, những niềm hãnh diện của những thập niên 50 và 60 này sẽ bị san bằng. Nhưng đó là chuyện về sau. 


2. 

Ngày thứ ba của tuần. Tôi đang lo. Tháng tới bắt đâu kì thi tốt nghiệp, phần thực tập vừa xong, tôi không nhớ mình làm cách nào thi và đã qua được; cours ở fac chưa xong hết, Monique, con nhỏ bạn người xứ Mã-đảo, gốc Ấn Độ cứ vài ngày đem bài qua cho tôi mượn chép. Dù sao tôi liên tục trốn học phần lí thuyết từ hơn nửa năm nay rồi. Bước đầu trốn học nhiều nặng nhọc khó khăn, bước một triệu đã là bước thinh không. Con nít dễ thương, và cần mẹ hơn mấy ông thầy già cần học trò, nói chi thứ học trò lười. Monique viết chữ đẹp như nữ sinh trường Việt; khi cầm xấp cours Monique, tôi sung sướng như chú tiểu được thầy cho phép đổi ba mươi gánh nước gập ghềnh (từ suối lên chùa) ra ba trang kinh chép tay. Monique không biết hát tiếng Ấn, chỉ biết nói tiếng Pháp, lõm bõm vài tiếng Việt (nem, một, hai, ba, bốn, chào ông bà, chào cô, cám ơn) thích nấu cà ry nị đem cho bạn (là tôi) và mê con nít (của tôi). Lạ lùng chưa, tôi vẫn nghi rằng nó nhớ đứa con chưa bao giờ sinh của nó. 

Buổi sáng đó, tôi lo âu chờ đợi bồn chồn. Không giải pháp diệt lo nào khác hiệu quả hơn việc vừa lao động tay chân vừa nghe nhạc. Không phải vì con hay Monique. Tắm rửa, cho ăn, thay tã con xong, nếu Monique ghé qua với nụ cười ca vũ nhạc thần thoại thì tôi cho Monique mượn con đem ra công viên hóng nắng. Có thể tôi đang xúc rửa các bình sữa rồi nấu nước khử trùng, ngày đó không có bình nhựa chỉ xài một lần rồi vứt. Có thể tôi vừa ủi đồ, vừa hét theo Khánh Ly trời buông gió và mây về ngang bên lưng đèo… Ngựa buông vó, người đi chùn chân đã bao lần… hoặc theo Joan Baez on a wagon bound for the market, there is a calf with a mournful eyes… Thỉnh thoảng nhào ra cửa sổ, bẻ cổ nhìn xuống, hi vọng trong mảng công viên lọt được vào tầm mắt, lấp ló dáng Monique và nhất là chiếc xe đẩy trẻ. Mươi năm sau, báo đăng tin một bà Monique nào đó vào nhà hộ sinh trộm trẻ, trùng tên ngẫu nhiên nhưng tôi chợt nhớ đến thoáng lo âu hôm ấy, khi từ giã Monique nơi thang máy. Một giây thôi, giữa tỉ tỉ triệu triệu phút giây ngổn ngang vui mừng và bâng khuâng khác, nhưng đó là chuyện về sau, ngay sau đó. 


3. 

Lo vì tôi viết mãi không xong vài bức thư nhà. Cái thư thứ nhất bắt đầu cả tuần mãi chưa đến phần con xin tạm ngưng, hẹn thư sau. Thư năm ngoái má tôi dặn mua một chiếc Peugeot gởi về. Mua giùm cho bác Năm, bác Bảy nào đó, bạn của ba má tôi. Sau này tôi biết đây là một kế của quân sư. Ba má tôi sợ chị em tôi sẽ đói nếu tôi thi rớt. Và công việc ba má cũng không còn khấm khá vì chiến trận lan tràn, moi tiền đâu ra chuyển ngân cho lũ con. Mấy chị em tôi chưa đứa nào tốt nghiệp, thậm chí có đứa vừa sang năm ngoái. Bận bịu con cái như vậy, coi bộ tôi không chút hi vọng thi đậu cuối năm. 

Thời đó tại Sài Gòn nhập xe ngoại quốc kiểu này phải trả tiền thuế bằng với giá xe, nhưng vẫn có người mua. Lời to. Tôi quên nói rõ, xe Peugeot 404, ô tô bốn bánh thời thượng Paris và Sài Gòn chứ không phải xe đạp hay xe gắn máy như tôi mua làm chân chạy đi học hồi mới qua hay mua gửi về nước sau 1975. 

"Lộn xộn kiểu này chắc tiền lâu tới, con rút tiền trương mục tiết kiệm mua trước gởi về cũng được". Tôi chưa kịp đi hỏi giá xe thì đài truyền hình báo tin Bình Long mất. Có cái gì đó nói với tôi rằng tôi có thể cãi lời má. Nhưng cãi ra làm sao? Việc mua xe hay không này thật ra chẳng quan trọng vì tôi biết mình vô phương cách. 

Rồi Ban Mê Thuột thất thủ. Tổng thống Thiệu tuyên bố di tản chiến thuật Cao Nguyên. Dồn dập những tin tức, địa danh quen và lạ, Pleiku, Tuy Hoà… 

Trong suốt thời niên thiếu, những địa danh xa xôi như những ánh đèn thắp lên soi về cổ sử êm đềm Nghệ An, Sơn Tây, Nam Định, Hải Dương… những quê quán Nguyễn Du, Tú Xương, Tản Đà, Khái Hưng, Phạm Quỳnh… Êm đềm những giờ học cổ văn, kim văn. Mà nơi chốn gần như An Giang, Cà Mau, Quảng Trị lại xa xôi những bom mìn, thuốc khai quang, mô đắp. Thì thử hỏi đặt An Lộc, Xuân Lộc, Bình Long, Phước Long, Long Khánh nơi nào trên tấm bản đồ cũ nát nhầu? Khi đài truyền hình Pháp về đến Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng, Định Quán thì tôi chợt rùng mình nhận diện nỗi lo của mình. Thư từ chữ nghĩa quá đơn sơ và chậm chạp. Hai mẹ con không thấy cùng một mảng mây bất động bên trên thành phố mình đang sống và nhất là không xem cùng một thứ phim ảnh truyền hình. 

Dường như, tôi cũng đã dò hỏi giá xe, cước phí, xem kĩ hai sổ tiết kiệm của hai chị em thì tính ra có thể gửi về được… một phần năm chiếc xe. "Con xong thủ tục mua, gửi xe đi thì tiền má gởi cũng sẽ kịp tới nơi." Dự đoán của má tôi chắc như đinh đóng cột. Kiểm điểm tất cả các nghề chính phụ xưa nay ba má làm, và kết quả, tôi thấy chuyện buôn bán chưa bao giờ là nghề giỏi của hai người. Tôi nghi rằng bác Năm và nhất là bác Bảy nào đó đã không tin rằng cỡ ba má tôi có thể cho tới mấy đứa con đi du học, nên bà tự ái; xe hơi về cho bà có dịp khoe con, khoe của, một công đôi ba chuyện. 

Nhưng chưa kịp khoe mà người ta vẫn biết: không lâu lắm sau đó, ba tôi phải vất vả lên xuống "làm việc" với "cách mạng phường" về các "con tin" ở ngoại quốc. Hỏi bà con xa gần, có ngườì giải thích con tin = gián điệp, y như thời 1945. Mấy chị em chúng tôi cứ thắc mắc. Con tin hay gián điệp? Một đàng bị thế mạng một đằng là sứ mạng. Bị động và chủ động. Chỉ giống nhau ở số phận (thường là bi thảm) sau cùng. Thằng em ưa tiếu lâm của tôi về sau tuyên bố đã hiểu nguồn cơn: phường bắt ba má mình làm con tin đến khi nào bọn mình ở ngoại quốc đồng ý làm gián điệp cho… phường: đi dò xét đồng bào, theo dõi, ăn cắp các công trình của con cháu các ông De Gaulle và Roosevelt vân vân! Tôi nghĩ chỉ giản dị vì những gói quà gửi về và những hồ sơ xin đi. Nhưng đó là chuyện về sau. 


4. 

"Má tụi con mà làm kinh tế thì… thôi!" Trong nhiều năm tháng ba tôi thường mở đầu hoặc kết luận như vậy mỗi lần nhắc chuyện đời xưa. Tiền bạc của cải vất vả làm ra má tôi thường hay nghe lời quân sư quạt mo, kì này đem đầu tư hết vào những thứ chỉ trong vòng vài hôm vài tuần bỗng tan biến không ngờ. Thật ra, mất lập tức, một hai chiếc xe hơi, đôi căn nhà lá, một mảnh đất nhỏ đã mua (làm trại chăn nuôi và theo dự tính của ba tôi sẽ là nơi dưỡng già!), trong cơn sợ hãi và đảo điên tập thể như thế có lẽ dễ khiến chấp nhận định mệnh hơn là phải sống và ý thức chuyện bản thân mình đang rơi chậm xuống một vực thẳm hôn mê. 

"Bảy năm, tám tháng, mười ngày." Khoảng đời "mất trắng". Má tôi vẫn hằn học trưng ra phần thời gian mất này như một kinh nghiệm sống giá trị nhất đời bà mà tuyệt nhiên không nhắc đến phần thiệt hại của cải. Một lần nữa tôi thấy ba má tôi bắt đầu trở lại từ con số không sau mỗi khúc quành lịch sử. 

Trong khoảng nhìn có được của tôi, lịch sử lại quành hơi nhiều. Toàn những khúc quành gắt gao, rối rắm. Một đời người ngắn ngủi và bình thường cho phép khởi hành được bao lần? Và ôm "cua" kiểu nào cho không bị ngã hay bị hất ra khỏi đường đời? 

Tôi bắt đầu sôi nổi tiến đến phút trở về trong khi má đếm từng ngày chờ lúc ra đi. Con tin thật sự và gián điệp khả dĩ còn phải đợi chờ "bảy năm, tám tháng, mười ngày". Và tôi nghe như một lời than van: má đếm từng ngày, còn mày, mày đã làm gì trong suốt thời gian đó hả con? 

Hơn một lần, chân đã bước xuống thuyền, má tôi quyết định quay lui. Cơn hôn mê kéo dài đã làm chùn chân, hao mòn ý muốn vượt biên hay vì tôi ích kỉ cứ viết thư van nài ba má ở lại, nhất là từ khi thấy được chứng từ hình ảnh những chuyến đi gian nan kinh khủng của người tị nạn? Nhưng đó là chuyện về sau. 


5. 

Thư thứ nhì phải viết là thư chia buồn với gia đình người bác ruột. Không biết bắt đầu ra sao. Và buổi tối, viết xong, tôi khám phá ra mình không có địa chỉ của bác! Trước đó không lâu, ba tôi báo tin muộn: anh T. con bác đã tử trận ở Hoàng Sa. Đầu năm 1974, quân Trung cộng tấn công bất ngờ. Một số lính hải quân VNCH đang phòng ngự quần đảo bị bắt, một số khác hy sinh. Nước Việt Nam Cộng Hoà mất chùm đảo Hoàng Sa. 

Bọn sinh viên chúng tôi lúc ấy đã xôn xao, tức tối, lục lọi tài liệu, giở bản đồ ra xem, càng tức tối khi thấy chòm đảo xa lắc xa lơ đối với lục địa Tàu. Và cãi nhau ra trò khi biết miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không phản đối việc xâm chiếm này. Dường như chuyện Hoàng Sa của Nguỵ vào tay Trung Quốc, thì có gì dính dáng đến họ! Vả lại vào tay Mao thì càng tốt, có vào tay Tưởng đâu mà lo! Thật là lầm lẫn tai hại. Vì sau đó, đầu những năm 80, chúng tôi lại hoảng lên: nước to thích dạy hơn là học và khi con cháu Mao hoà với con cháu Tưởng để biến Đông Hải thành Nam Hải và đổi Hoàng Sa với Trường Sa ra Nam Sa với Tây Sa thì có ngày chúng ta thành bạn đồng cảnh ngộ với đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng. Nhưng đây là chuyện về sau. 


6. 

Mãi đến lúc bấy giờ tôi mới hay tin anh T. chết trong lần mất đảo ấy. Má tôi kị bên chồng nên đám con cháu đôi bên ít gặp nhau. Tôi thấy bác tôi chắc khó (chịu) như lời má tôi, nhưng anh T. và cô em gái là chị H., lớn hơn tôi một hai tuổi, rất dễ (thương và) chịu khó tới lui làm quen với tụi tôi. Tôi nhớ anh dáng cao cao, ốm người, mặc đồ lính thuỷ trắng, "ghé thăm chú thím và mấy em trước khi lên đường", anh lúng túng, ngượng ngịu. Mà khi đó, tôi lại nghĩ anh ngượng vì mấy mụt mụn đo đỏ trên đôi má trắng xanh của anh hơn là vì vẻ lạnh lùng của má tôi. Ở nhà không nói rõ chi tiết về cái chết của anh, nên tôi cứ thắc mắc. Có lẽ không ai biết được khi đó; ba mươi năm sau, tôi đọc nhiều tài liệu, mới hình dung phần nào những ngày cuối của anh và bạn đồng hành. Bây giờ, biển có lẽ còn ôm giữ hồn anh, nước Việt Nam thống nhất không những chưa lấy lại được Hoàng Sa mà còn mất thêm một số đảo của Trường Sa! Bây giờ cả Đại Lục cùng đoàn kết với Đài Loan thì sức nào chúng ta cãi giành với họ? 

Anh T. tôi chết trong tàu hay trên bờ? Chết vì đại bác, bom pháo hay bọn lính Mao bắt được, tra khảo đánh giết? Anh chết sớm nên trên bàn thờ nhà bác tôi, hình anh trẻ nhất. Và bây giờ các em anh, tụi tôi đều già và xấu hơn anh. Mai kia, trên bàn thờ, chúng tôi càng già và xấu hơn nữa. Nhưng đây là chuyện về sau. 


7. 

Tóm lại, trong những ngày tháng Tư, tôi đang chờ đợi nhiều thứ. Cho nên ngày 30, buổi trưa đó, buổi chiều đó, chắc chắn là tôi phải đang nóng nảy, hồi hộp chờ đợi. Từ giữa tháng Ba, tôi bận rộn một cách thật kì cục. Từ nhà bếp chạy ra phòng khách, từ phòng khách chạy vào phòng ngủ, xem con bé con có còn thở đều đặn trong nôi hay không, chạy ra chạy vào mà cơm khét chẳng hay, ngỏng cổ ra cửa sổ nhìn xuống xem có hay chưa chiếc xe đạp bưu điện đầy nhóc thư từ dựng trước một trong hai cửa ra vào cao ốc, trưa chiều ngồi chờ ti vi phát phần tin tức về Việt Nam. 

Xem diễn biến chiến sự, như xem phim truyện, từng ngày, chẳng khác gì tin tức về Iraq hiện nay, trừ đi cái chờ đợi, ngóng trông và gan ruột cồn cào. Bây giờ tha hồ bấm nút đổi đài. Không biết vì kì thị chủng tộc hay vì trái tim đã theo thời gian bay hết hơi tình cảm, sức giận đã cạn khô, màu buồn đã héo hắt. 

Ngày ấy chẳng cần, chẳng thể đổi vì chỉ có… hai đài, và cả hai đều mua hình ảnh chiến sự Việt Nam. Số tử vong đôi ba bên, những cuộc di tản, những trận tử thủ. Tin tức to phồng lên, dồn dập. Hình ảnh chạy loạn kinh hoàng. Rồi đột nhiên hôm ấy, trên màn ảnh không còn đám đông cuống cuồng, đường phố chẳng còn đen nghẹt người xe, không còn ai chen lấn nhau leo, bám những song sắt cửa cổng toà đại sứ Mỹ, chỉ còn một vài đám nhỏ hí hửng vác ghế, vác nệm, máy móc, mang của ăn cắp ra khỏi những ngôi nhà vắng chủ. Hôm ấy, những nhóm người hai bên đường như sững lại. Đoàn xe xanh màu lính chạy vụt qua. Những cánh tay vẫy xuống, những bàn tay giơ lên đáp lại, vui vẻ có, mà vương vất một chút ngập ngừng cũng có. 

Bây giờ, chỉ nhớ được cái cảm giác nhẹ hẫng, trống rỗng, vừa hào hứng vừa bất an lạ lùng. Đêm đó tôi lại nằm mơ thấy ông ngoại tôi, như mọi lần với tiếng cười sấm vỡ: chờ một chút nữa thôi nghe con, gần tới nhà rồi! Chút nhéo nữa thôi! Và tôi biết ngoại nói thật. Thức giấc nửa đêm, nghe thênh thang thong dong, khá hơn mấy kì mơ trước. 

Quả tạ cột cổ độ đôi kí lô, từ gần tháng nay lớn lên hoá núi ngũ hành nghìn cân, tôi sắp sửa tắc thở thì ô, buổi chiều hôm ấy, tôi là con khỉ được thầy Tam Tạng giải thoát bất ngờ. Chẳng phải là Tôn Ngộ Không đã thách thức đấng trên cao, không phải vì ưu thời mẫn thế hay là "trí thức yêu nước": tất cả bạn bè quanh tôi lúc ấy chắc chắn đều nhẹ nhõm như thế cả. Kì lạ như thế và thật là như thế. Chắc chắn như thế. 

Buổi trưa hai đứa tôi vác thúng đựng con bỏ vào xe, chạy ra quán ăn sinh viên. Bạn bè gặp hôm ấy đông hơn mọi khi và tôi thấy đứa nào cũng vui mừng pha lẫn lo âu, ngỡ ngàng. Có cả anh chị A., những người bạn khá thân của chúng tôi, thành thật, dễ thương, rất tốt với bạn bè, có chân trong Hội Liên Hiệp Việt Kiều (tổ chức công nhân, trí thức và sinh viên Việt Nam yêu nước tại Pháp) lâu lắm không ra quán ăn sinh viên vì anh chị đã đi làm, không được phép ăn theo giá sinh viên nữa. Có anh B., thành phần quốc gia, anh cũng thật thà, tốt bụng, vui tính, có chị H., nhỏ D., em N., cùng hỏi tụi tôi có ý định đi Paris xin gia hạn thông hành không. Anh B. có chân trong hội Ái Hữu địa phương ngày trước (hình như anh là hội phó và tôi là thư kí!), hội do anh hô hào vận động thành lập vào năm đầu tiên tôi đến, khi anh thấy anh chị A. và vài anh chị sinh viên thân Cộng khác là C. và Đ. đến làm quen, giúp đỡ đám sinh viên lính mới chúng tôi vừa đổ bộ xuống thành phố này. Hội Ái Hữu xin được toà lãnh sự (VNCH) một ít báo chí phim ảnh, tiền bạc (tổ chức ăn Tết, đi dự đại hội thể thao do Tổng hội sinh viên Việt Nam ở Paris tổ chức v.v…), Hội chúng tôi tí teo với năm ba mống hội viên, ngày nào cũng gặp nhau ở trường hay quán ăn, cuối tuần họp nhau ca hát, nấu ăn chung, chỉ biết tán dóc chuyện trên trời dưới đất, thiếu nhiệt thành từ hội viên đến chủ tịch, thiếu mục đích chính xác hữu cơ hơn nên hội hoàn toàn tan rã không kèn trống hai năm sau đó. N. có bố là dân biểu quốc hội hay thượng nghĩ sĩ nên rất lo sợ, nửa đùa nửa thật: em sợ họ bắt ba em đi bộ ra tới Hà Nội chị ơi! Tôi cười: bậy nà, ai bắt làm chuyện bất nhơn như vậy hả em! 

Lúc đó có lẽ các bạn tôi cũng không nghĩ đến tị nạn chính trị, mà chỉ muốn có giấy tờ hợp lệ để ở lại tiếp tục việc học. Tôi không nhớ hết những trả lời cho mình và cho bạn và như thế nào, năm phút sau quên mất chuyện giấy tờ. Bạn tây đầm nhào tới bắt tay, hôn hít lia lịa, chia vui, chúc mừng. Không chỉ những đứa ưa biểu tình phản chiến. Đứa nào cũng phơi phới, hân hoan, cảm động. Thấy rất dễ thương. 

Các bác và anh chị thiên Cộng khác không còn ra quán ăn sinh viên từ lâu lắm, nên tôi không biết rõ nhưng tôi chắc chắn họ vui hơn cả đám chúng tôi nhiều. Cho đến hôm đó, nơi tỉnh này, tất cả chúng tôi, hay tuyệt đại đa số trong đám bạn bè cùng tuổi hoặc chênh lệch nhau năm bảy tuổi, tự túc hay có học bổng, gốc Bắc, Trung hay Nam, thậm chí có cả bạn gốc Việt sinh ra ở Lào hay Cam Bốt, đều đi từ Sài Gòn và thân thiết với nhau từng nhóm nhỏ hai ba đứa. Hễ gặp gỡ chung thì vui như một ngày chúa nhật hoặc vui như Tết. Đến nhà anh chị A., anh chị C. thì nghe họ hát Quảng Bình quê ta ơi hoặc Tiếng chày trên sóc Bom Bo. Ở cư xá tụi tôi thì hát Giọt mưa trên lá, nước mắt mẹ già, lã chã, đầm đìa hay Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu; một trăm năm đô hộ giặc Tây. Trong năm năm đó, không hề có chuyện gây gổ hay hiềm khích lớn nhỏ nào xảy ra giữa chúng tôi. Chuyện khó tin nhưng xin cam đoan có thật. Chỉ một lần anh C. chê: nhạc vàng uỷ mị; tôi cãi ngay: vậy đó nhưng vẫn hay hơn bài Quảng Bình hay bài Kết Đoàn của anh, nghe y chang như nhạc Tàu! Anh C. chỉ cười trừ vì tôi hung hăng và đầy vẻ kì thị. 

Chúng tôi chỉ cãi nhau đến mức đó mà thôi. Những người có thể cãi xa hơn, kĩ hơn thì khi gặp nhau chỉ lễ phép chào hỏi và lạnh lùng nói chuyện nắng mưa. Tất cả đều mong hết đánh nhau bên Việt Nam, tôi chắc chắn điều đó. Ngưng chiến bằng bất cứ cách nào đôi bên có thể chấp nhận. Và "cách nào đó" này, thật vô phương tưởng tượng được. Tôi còn chắc chắn một điều khác nữa. Niềm vui ngày hoà bình này mang khá nhiều ngỡ ngàng, bất an cho nhiều đứa chúng tôi. Một nỗi bất an mà tôi chối từ chấp nhận tầm quan trọng đúng mức kể từ ngay lúc đó cho đến nhiều năm về sau. Thì hẵng chỉ nói về niềm vui trước đã. Dù năm, mười năm, hai mươi rồi ba mươi năm sau tôi lần lượt thấy mình đã chắc chắn nhiều điều một cách sai bét. Và đó là chuyện về sau. 


8. 

Hết chiến tranh! Cứ như ông, bà Trời nào đó, ở tận đâu đâu, chợt hôm nay tỉnh giấc, gật gù đắc ý, ra điều ta đây trừng phạt chúng mày như thế là vừa đủ; rồi bà vung đũa thần, ông phe phẩy hai, ba ngón tay. Vung, phẩy một cái: hết bom đạn, không còn đánh nhau. Trời đất, dễ dàng như vậy mà ông bà trời ấy lại không chịu vung, phẩy sớm hơn. Dù từ lúc mới sang, năm, sáu, hay chín mười năm về trước, chúng tôi nhìn về Việt Nam bằng con mắt các phóng viên đài truyền hình Pháp và sàng lọc tin tức, hình ảnh qua quá khứ riêng tư sẵn có. Chiến tranh Việt Nam chỉ còn trong giấc mơ và trên màn ảnh nhỏ. Và tôi, tưởng mình có toàn quyền quyết định về sự hiện hữu của chúng: hôm nào xuống tinh thần quá vì nhận được thư nhà báo tin chết chóc thì khoá cửa phòng, rũ sáo, trùm chăn… "Diện trần nhà" hay dẫn nhau về quê bạn bè bản xứ, liền tù tì luôn mấy ngày, không bén mảng, đếm xỉa đến cái khối vuông đầy vui buồn và thảm kịch ấy. 

Từ chiếc máy truyền hình đen trắng đầu tiên trong cư xá sinh viên đầu tiên, trong những ngày đầu tiên của năm học thứ nhất, đến máy truyền hình màu đầu tiên trong cư xá sinh viên thứ nhì, qua cái máy đầu tiên nơi gian nhà trọ bắt đầu cuộc đời đa thân. "Quyền" quyết định? Nói cho oai, chứ sự thật giản dị như đóng lại một cánh cửa. Chui đầu xuống một hố cát. 

Hôm ấy, tôi thầm thì với đứa con gái cưng bốn tháng: con gái ơi, con sẽ không bao giờ sờ chạm được những thứ hãi hùng mà ông bà, cha mẹ con đã từng trải qua. Tôi còn nhớ một điều nữa của những ngày tháng ấy, tôi chưa biết xưng hô thế nào với… con. Và tôi hỏi (đáp) ba của nó bằng lời đường mật: mình sẽ trở về, phải không anh?! 

Monique cùng chồng chạy qua chúc mừng hoà bình và khen ngợi chiến thắng, cho một món ăn vàng đỏ thơm mùi nị mùi sả rồi mượn con xách ra công viên dạo mát. 

Chiều hôm ấy, 30 tháng Tư, ở nhà chúng tôi có bác G., chú E. đến chơi; thuộc thành phần thứ ba, người từng kháng chiến trong bưng với Việt Minh ngày xưa, ra thành lại bị ông Diệm rượt, người chạy thẳng từ Hà Nội sau hiệp định Genève. Cả hai cùng lắc đầu buồn rầu: Họ sẽ thanh toán và trả thù. Thế nào cũng có biển máu! Niềm vui ngập tràn và cứ nghe mình nói không, không với mọi người. Không, tụi em không vào hội Liên Hiệp. Chị A. nói: sao vậy, cùng dựng xây đất nước mà em! Chị ơi, sao em vui vì hoà bình chứ không vui vì chiến thắng. Em thuộc phe bị thua te tua và em vẫn thấy "Quảng Bình, quê ta ơi" là một bài hát đầy âm điệu Tàu. Câu trả lời lạc đề mà anh chị vẫn cười xoà, hẹn mai lại đến chơi. 

Không, anh/bồ/ mày cứ đi xin gia hạn thông hành một mình, biết sẽ ra sao mà tính ở lại hay không ở lại nơi này, ví dù được gia hạn… 100 năm, rồi thì sao, cũng phải về chứ! Mày quên vụ Mậu Thân rồi hả? À, vụ Mậu Thân… 

Không, Mặt Trận bù nhìn thì đã sao thưa bác, thưa chú, còn ai để giải phóng hoặc đấu tranh nữa đâu, thì cần gì mặt trận với chẳng mặt trận? Một đảng duy nhất là tự do và dân chủ sẽ chết, cháu không hiểu ư? Thế giới đang nhìn vào, không thể có chuyện trả thù đâu bác ơi, mấy mươi năm rồi, trả thù cả miền Nam ư? Không, vô lí! 

Không, N. ơi, bắt đi bộ ra Bắc, ép con gái cưới thương binh, ai lại buộc làm chuyện… kì cục vậy. Chắc không sao đâu. 

Monique ơi! Mày nhớ hôm qua, ba má tao có mặt trong đám người trước toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn vân vân và vân vân. Nhưng nước bạn dứt chiến tranh, đó là điều chính, đúng không? Đúng ơi là đúng! 

Dường như đó là những câu trả lời nhằm trấn an chính mình và hi vọng nó sẽ là sự thật. 

Năm đó chúng tôi vừa có con đầu lòng, ngày đó hai đứa tôi chập đôi tuổi lại chưa được năm mươi. Ở tuổi tiếng nói cũng là tiếng đập của tim. Hôm ấy buổi tối, xem tin tức truyền hình thấy ngay anh B. trong đám người thật đông đang chen lấn nhau trước cửa toà lãnh sự VNCH để xin gia hạn thông hành; thông thường chúng tôi lúc bấy giờ mỗi năm phải mỗi xin gia hạn visa với giấy tờ kết quả kì thi cuối năm. Lần này chưa thi, chưa có kết quả mà được gia hạn ngay. Thích nhé. 

Người nhân viên tốt bụng, nhẫn nại, chật vật giao từng quyển thông hành vừa gia hạn cho từng cánh tay chới với. (Hình như được gia hạn đến những 10 năm! Một quyển sổ thông hành như thế, một kỉ niệm tinh thần quý báu - chẳng khác tờ căn cước cũ của thi sĩ Cao Tần - nhưng ai đó lại bảo vô giá trị về mặt pháp lí…) 

Kí giả truyền hình phỏng vấn đúng ngay anh bạn B. Tôi nhớ mãi lời nói buồn rầu của anh B. cũng như tất cả nét hoang mang, lạc lõng trên ánh mắt, khuôn mặt, cử chỉ của những người bạn trẻ cùng cảnh ngộ với tôi hôm đó: C'est foutu! (Hỏng bét! Tiêu tùng!) 

Tôi cũng không thể quên hình ảnh người công chức tận tâm, nhân viên của toà lãnh sự Sài Gòn trong những ngày gian nan ấy. Bây giờ họ ra sao? Theo tôi biết về sau này, họ cũng đã bàn giao nhiệm sở đàng hoàng cho phe thắng trận. Trong những năm tháng ngắn ngủi trước năm 1975, qua đôi lần liên lạc lo chuyện thủ tục giấy tờ, chuyển ngân - chúng tôi đã kí giấy cưới nhau chính thức ở đấy năm ngoái - chưa bao giờ tôi bị đối đãi vô lễ hay tệ bạc hoặc nghe tai tiếng xấu xa về họ. Khác hẳn với những lời đồn đại về những toà đại sứ về sau này, nhất là từ những năm Đông Âu sụp đổ cho đến gần đây (không biết bênh vực, che chở kiều bào, ăn hối lộ, buôn lậu, ổ công an, vân vân). Nhưng đây lại là chuyện về sau. 


9. 

Bác G. với chú E. về rồi, tôi suy nghĩ và thừ người tưởng tượng ra nỗi kinh hoàng, hoang mang của cha mẹ tôi. Cả hai, cựu kháng chiến ra thành hồi 1954, rất ghét Việt Cộng tuy trong nhà chuyên môn chứa người trốn lính, đôi khi chứa cả du kích hoặc Việt Cộng lớn nhỏ thứ thiệt là các ông dượng, bà dì, anh chị em họ ở nhà quê lên chơi. Và tôi không quên những trận cãi kịch liệt giữa má tôi với họ. Tôi cũng nhớ tới anh T. cùng vài ông anh họ xa khác đã chết tại nhà quê bên má tôi, nhớ đến những ngày tháng không khí gia đình khi hay tin dữ. Những cái chết không một chi tiết hay hình ảnh chứng nhận. Mà bây giờ, hình ảnh quá nhiều. Đến bội thực. 

Cái khối vuông kì diệu, nối liền tôi với cuộc đời bên ngoài, trong đôi phút phù du, mỗi ngày đưa tôi ra khỏi được thành phố mù mịt băng giá sáu tháng mùa đông này, cho thấy được quê nhà. Từ khi mới sang Pháp, tiếng Pháp nghe chỉ hiểu lõm bõm nhưng tôi khám phá ra tin tức liên quan đến Việt Nam hầu như có mỗi ngày trên đài Truyền hình Pháp. Tha hồ xem. Bệnh ghiền đeo mang từ ngày ấy: đến giờ là lọ mọ bò xuống phòng truyền hình cư xá sinh viên khi còn độc thân; rồi lúc lập gia đình, chưa mua nồi niêu xoong chảo đã khênh về cái ti vi to kềnh đặt giữa nhà, tới giờ tin tức là bếp núc dang dở cũng bỏ mặc. Con bé con đã biết đôi nét về Việt Nam kể từ lúc còn trong bụng mẹ. 

Ngày 30 ấy, tôi nhớ đến những phóng viên kí giả đã sống chết hay mang thương tật vì cuộc chiến tranh trên đất nước mình, Sean Flynn, Laurent, Nachtwey… J'ai regardé mon ennemi et je m'y suis vu… 

Trong những năm ấy, người Việt sống tại Pháp gồm nhiều nhóm, nhiều phe. Nhiều màu nhưng tựu trung chỉ có hai: "quốc gia và cộng sản" còn thành phần thứ ba, tuy ở giữa, nhưng vì chống chiến tranh, tức là chống sự can thiệp bằng vũ khí của Mỹ, chống những đối xử bất công với tù chính trị của chính phủ Sài Gòn nên bị phe quốc gia "nhét" vào phe cộng sản. Phe cộng sản, khi cần thì "níu" lấy, làm đồng minh, nhưng nói cho cùng cũng chẳng ưa những câu hỏi của phe thứ ba này về thảm sát Mậu Thân, về chuyện Nga, Tàu giúp vũ khí, về vai trò (có vẻ bù nhìn) của các Mặt Trận, về những đối xử dã man của đảng với nhân dân trong vấn đề cải cách ruộng đất, với trí thức trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, về cái rập khuôn Mao trong đường lối chính trị, văn hoá vân vân. 

Các phe nhóm đều tìm cách lôi kéo sinh viên trẻ về phía họ, bằng những buổi nói chuyện, chiếu phim, thảo luận văn nghệ, và cả bằng tình cảm riêng tư hay trò chơi, thú vui riêng. Trong một thời gian ngắn, vào lúc hoà đàm Paris, miền Nam huỷ bỏ du học tự túc ở Pháp, vì chính quyền VNCH sợ không giữ được sinh viên. Và để giữ sinh viên, Tòa lãnh sự (Sài Gòn) tại Pháp hăm doạ (và thi hành) cúp học bổng hay chuyển ngân những ai nghiêng về phía cộng sản. Kết quả: sinh viên thiên tả hay chưa (kịp) thiên tả bị cúp chuyển ngân sau đó đều theo hẳn phe thiên cộng và ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ. Phe này nhiều chi hội ở tỉnh, lực lượng hùng hậu, vì kế thừa tổ chức lâu đời Liên Hiệp Việt Kiều, gồm nhiều trí thức khoa bảng, công nhân, thợ thuyền, cựu quân nhân Việt Nam, đã thành hình từ trước chiến tranh quốc-cộng, hội lại có hậu thuẫn người Pháp. 

Một lần, cuối thập niên 60 hay đầu 1970, bà Nguyễn Cao Kỳ (Tuyết Mai) sang Pháp, được nhiều báo chí phỏng vấn. Năm sau, tôi tình cờ xem tờ Paris Match cũ, thấy nhiều ảnh bà với những kiểu áo tây ta tuyệt đẹp. Bà trẻ trung, duyên dáng, quý phái, lịch sự, rất mốt, trả lời phóng viên lưu loát; tôi thấy hình bà đẹp hơn cả bà hoàng Soraya, đẹp hơn vô số các bà công chúa, hoàng hậu khác thời ấy và cả thời bây giờ. Bạn bè đứa trầm trồ hãnh diện, đứa chỉ trích, mỉa mai. Nhất là mấy người thiên cộng. Dĩ nhiên, với họ, cũng như với dư luận người Pháp lúc bấy giờ, cán cân tình cảm nghiêng hẳn về bà Bình. Cho dù đến tận năm 1973, đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bà Nguyễn Thị Bình, nhan sắc tầm thường, không điểm trang, thường xuất hiện trên TV Pháp áo dài cắt xấu, bới tóc "củ gừng" như một bà già nhà quê, xách bóp đầm tay chân dáng vẻ cứng ngắc, tuy nụ cười thật tươi nhưng ngôn ngữ khá lưỡi gỗ (Bà tuyên bố không có lính Bắc Việt tại miền Nam, rằng MTGP không giết người ở Huế hồi Tết Mậu Thân 1968; và vào tháng 3 năm 1975, sở dĩ dân chúng ùn ùn bỏ Cao Nguyên, bỏ thành phố khi quân giải phóng đến là vì họ bị… ép buộc phải chạy theo lính VNCH!) Bà thường được thu hình, được báo chí Pháp phỏng vấn nhiều hơn những "đồng nghiệp" nam giới, "bộ trưởng" Xuân Thủy, hoặc trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa Phạm Đăng Lâm. Chỉ vì bà mang hình ảnh kẻ yếu bị (Mỹ) ăn hiếp, dễ làm động lòng trắc ẩn những người sống trong thanh bình no ấm; và dễ gây kinh ngạc, thán phục. Vì kẻ yếu ấy can trường chống đỡ bằng tấm lòng yêu nước và những phương tiện thô sơ (người ta "ấn tượng" vì súng trường và không để ý đến hoả tiễn Sam). Thuở đó trên thế giới và nhất là trong giới trẻ Pháp, trong tả phái, rất nhiều người ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng, cũng như họ đã từng ủng hộ các phong trào chống áp bức ở Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ… Đó là tiếng nói của phần tốt, phần nhân bản nơi con người, tôi nghĩ không ai có thể nói gì được. 

Tôi nhớ đến anh T., tôi nhớ đến ông ngoại đã chết vì bom B52 vùi, đến cậu Năm T., đến dượng Sáu N. bị bên này và bên kia chặt đầu, đến anh L., ông cậu C. và anh bé B. bị trực thăng bắn chết, những người quen hàng xóm bạn bè anh P., anh H. anh C.... Những tân binh, tân sĩ quan VNCH tử trận. 

Những người đã sống qua biến cố Mậu Thân tại Việt Nam cũng không thể quên những khổ đau, nghiệt ngã đã đến với gia đình họ hay người láng giềng. Vì một quyết định của nhóm đầu não lúc tạm chiếm Huế (?), mà cho đến nay vẫn chưa có công nhận chính thức nào. Nhóm người này đã từng bắt giam, đày ải chính những bạn đồng chí của suốt một thời chiến đấu gian khổ, chỉ vì những người này có ý kiến khác với họ. Thì việc những người bị coi là địch hay cộng tác với địch bị đối xử thẳng tay, tàn nhẫn, là chuyện dĩ nhiên. Nhưng đó là những chuyện biết sau này. Lúc đó tôi không rõ, chỉ mơ hồ linh cảm điều ghê gớm vẫn có thể xảy ra. Nhưng linh cảm ấy sẽ tiêu tán vì những lời kêu gọi và hứa hẹn: hoà giải, hoà hợp dân tộc để xây dựng một đất nước đổ nát. Quên đi mất mát để hàn gắn chữa lành thương tích. Hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nghe có lí lắm. Còn quyền lợi, ngu dốt và tham vọng riêng tư? Nhưng đó là chuyện vài tháng sau. 


10. 

Ngày hoà bình đầu tiên ấy, tất cả chúng tôi đều nhẹ nhõm. Có lẽ vì ích kỉ, vui vì biết rằng sẽ không còn một tai biến bom đạn nào có thể xảy đến cho gia đình chúng tôi, cho họ hàng, bạn bè, cho bất kì ai khác ở Việt Nam kể từ lúc ấy. Hơn nữa, trước khi đi Pháp, thường đọc sách báo, tác phẩm văn chương tại Sài Gòn, tôi vẫn thấy bên cạnh những tin tức sinh hoạt chính trị xã hội, tin chiến sự, vẫn có rất nhiều kêu gọi, ước ao hoà bình. Sinh viên, Phật tử biểu tình đòi hoà bình. Nói chung văn thơ đều ít nhiều ngao ngán, bứt rứt vì chiến tranh hơn là những căm thù, đốc thúc, hô hào chiến thắng. Thì Hoà Bình đến không phải như một điều ước được thực hiện bất ngờ hay sao? Dù hôm ấy tôi rùng mình khi thấy những chiến xa tông sập cửa sắt xông vào nơi kẻ chiến bại đang nghiêm trọng đợi chờ "giao" quyền bính. Mãi về sau, mọi người mới "nghe" được lời khinh miệt của kẻ chiến thắng thốt ra khi đó: "Chính quyền ta đã lấy rồi, các người có gì mà giao!". Nếu nghe được ngay câu này, có lẽ chúng tôi ở đây sẽ điên lên vì lo lắng. 

Dân tộc nào cũng có lời khuyên rộng lượng, khôn ngoan: không nên đánh kẻ đã thất thế, ngã ngựa. Than ôi, dân tộc nào cũng có một Nguyễn Du để nói rằng: thịt da ai cũng là người. Nhưng đó cũng là chuyện về sau. 

29.04.2004 


Phan Thị Trọng Tuyến sinh năm 1951 tại Bến Tre. Lớn lên ở Gia Định. Đi Pháp du học cuối năm 1969, hiện sống tại Pháp. 

Tác phẩm đã xuất bản: Mùa hè một nơi khác (Văn Nghệ, Ca, USA. 1984), Một trang đời (Thanh Văn, Ca, USA. 1987), Mùa xuân và những con dã tràng (An Tiêm, Paris, Pháp. 1991) 


© 2004 talawas 






Truyện Ngắn



Bóng Đêm Cuối Cùng


Tôi giựt mình thức giấc, đôi mắt cay xè, nhức nhối. Tôi nhớ rằng hôm qua mình đã trằn trọc, tủi thân, khóc thầm rất lâu. Ðêm mộng mị, ngẹn ngào đã qua. Buổi sáng bắt đầu từ lúc nào. Quanh tôi vắng vẻ nhưng ở ngoài trại, con đường hẻm đã ồn ào náo nhiệt. Tiếng rao hàng, kêu gọi nhau của người lớn, con nít, kẻ bán người mua. Tiếng chén dĩa, ly tách va chạm nhau, tiếng vò giặt quần áo, tiếng nước chảy… Tôi nhìn ra đầu trại. Quán cà phê của thím Ba Xanh đã có ba bốn người khách ngồi húp cà phê lặng lẽ. Qua lớp vải mùng vàng ố, lấm tấm những vết máu muỗi nâu sẫm, tôi thấy thím ngồi tư lự, một chân gác trên ghế, một tay để trên đầu gối, tay kia hờ hững đuổi ruồi. Thím chắc đang nghĩ đến đoàn người đã đi hôm qua, chú Ba dẫn đầu. Người lớn thản nhiên nhưng đám tiểu yêu đầy vẻ nghiêm trang dù tôi biết chắc trong bụng đứa nào cũng hí hửng như được vàng. Mà còn hơn cả vàng nữa kia.Tôi nghe cục nghẹn dâng lên chận cổ. Sao lần nào cũng vậy, người ta vui thì tôi buồn. Má tôi hôm qua đã an ủi thôi con à, số phần của con… Tôi cũng biết nhưng tránh không khỏi những lần gánh hát lưu diễn phương xa là cả đêm sụt sùi giọt dài giọt ngắn. Sự thật thì tôi đã ngẩn ngơ buồn bã từ trước, khi tụi con nít xếp hàng lạy nhoi trước bàn thờ Tổ theo lời chú Ba dặn. Như mọi lần xuất quân khác, người lớn lạy trước rồi tới tụi nhỏ. Tôi phập phồng thổn thức theo từng tiếng cười, từng cử chỉ, ghen tức với sự chen lấn, xô đẩy của chúng. Mặc dù má tôi có nói lần này tụi nó về quê bên phía thím Ba, tiếng là theo đoàn lưu diễn chớ thật ra là nghỉ hè ăn nhờ cơm bên ngoại.

Hừ, có mấy khi tụi nó được đi đông như lần này, thứ làm tì nữ với quân hầu, chỉ được phép nói hai ba tiếng, giỏi lắm như Hai Nhãn thì được ca một câu ngắn, vậy mà cũng lên mặt với kẻ ở lại ! Ði ngang giường tôi, nó giả bộ không thấy tôi đang nhìn nó đăm đăm, chờ nó ngó để lên tiếng hỏi coi nó được phép ca bài gì. Ca thì tôi đâu thua đứa nào. Chú Ba ngồi nghe tôi ca lần nào cũng chắc lưỡi khen hay. Ðiệu gì tôi cũng rành, nhất là mấy điệu vui như Lưu Thủy, Kim Tiền. Ðôi phút rảnh rang, ngoài giờ buôn bán, má tôi bảo tôi ca. Rồi má tôi gõ sanh, ba tôi đệm lục huyền cầm, cậu Năm kéo vĩ cầm phụ họa. Tôi say sưa cất giọng, hát một hồi thấy bà con bu đông nghẹt… Mắc cở nhưng trong bụng rộn ràng làm sao. Mấy chú, bác ; cô dì cứ tiếc tôi không lên sân khấu được. Làm sao các soạn giả Ba (Xanh) Kim, Tư (Công) Danh ( là ba tôi) và (cậu)Năm (Can) Trường đặt được một vở tuồng đặc biệt nào có thể dành được một vai trò cho tôi. Thị nữ ? Aùi thiếp ? Vai nào tôi cũng sẽ gặp khó khăn trừ vai kẻ ăn mày, nhưng không ai nỡ nghĩ đến vai trò này cho tôi. Có một lần thím Năm má con Nhãn ngồi tẩn mẩn dồi phấn, thoa son cho tôi cả buổi. Xong, thím ngó tôi trân trân. Rồi thím hớt ha hớt hải chạy kiếm má tôi, chị Tư ơi, vô đây tui chỉ chị cái này ngộ lắm. Hai bà đứng trước mặt tôi trợn mắt tròn vo :

- Trời đất quỉ thần ơi, chị thấy da nó ăn phấn dễ sợ chưa. Ðẹp y như cô Thanh Nga hồi cổ lãnh giải Thanh Tâm.. ý cha ơi, phải chi con lành lặn…

Thím biết thím lỡ lời thì đã muộn, tôi chạy ra ngoài sàn nước khóc như gió như mưa. Nước mắt rớt xuống những tấm ván mục rã đen thui. Phía dưới sình cũng đen không kém, mặt sình đầy rác rến mới cũ, mùi hôi bốc lên, con nước đang xuống. Một vài cây cột xiêu vẹo không còn chống đỡ được sàn nhà vì đã gãy, giơ cùi chổng chơ, lớp sình bám quanh bắt đầu khô, nức nẻ… Má tôi vuốt tóc tôi :

- Thôi, đi vô con à, thím nói vậy không phải có ý chê con đâu…

- Con đâu trách thím, đó là sự thật…số kiếp con mà thôi…Cô Thanh Nga lãnh giải Thanh Tâm năm 16 tuổi !

Má thất sắc. Tôi hối hận nhìn lên cầu. Người công an gác cầu đang đi về phía bên kia, tiếng chân kéo bước lẹp xẹp, khói thuốc lá bay uốn éo trước mặt.

- Thôi để má rửa mặt cho rồi ra quán phụ má, lẩn quẩn làm sao lại rớt xuống sông, mắc công má chạy đi mua xà bông thơm như má con Lạc bữa hổm.

Má khiến tôi bật cười, hai hàng nước mắt chưa kịp khô. Bởi vì tôi nhớ rõ hôm đó, con Lạc chột bụng quá, chạy một cái ào ra cầu tiêu. Những tấm ván mục kêu thất thanh dưới gót chân nó. Ngồi chưa được mấy giây thì rắc rắc ùm ùm mấy cái, đôi tấm ván gãy vụn lìa đời, nó té xuống sông một lượt với .. mấy cục phân. Báo hại dì Năm phải nhảy xuống vớt nó lên, dì chửi nó con gái mà đi đứng như tướng cướp và rủa xả mấy tấm ván bất nhơn. Cả trại được một bữa cười no nê. Dượng Năm vớt mấy mảnh ván vụn sắp lớp, tấm trên cùng mang mấy chữ viết nắn nót bằng phấn rất đẹp : nguy hiểm, cấm xài. Cầu tiêu số hai như vậy là được về hưu.

Ba cầu còn lại…chịu đời đắng cay. Mỗi lần con nít ra cầu là người lớn chửi oan mấy tấm ván, căn dặn chúng phải dùng phép khinh công, thi hành nghĩa vụ nhanh gọn, có bà lại cằn nhằn trẻ con thời bây giờ ăn ít mà sao ỉa nhiều làm vậy. Từ năm năm nay tôi không còn thấy ai đề nghị bà con hùn tiền thay ván cầu, thay ngói hay làm bất cứ một sửa sang nào cho trại ; nói gì đến dãy cầu tiêu và sán nước có mái che nằm ngay trên bờ sông và cất thêm dọc theo trại này. Ngày xưa, sông nước còn trong đầy và thông chảy ro ro, ngoại tôi kể rằng người trong trại "sang" lắm, vừa tắm sông vừa bắt cá. Bây giờ tôi lớn lên nó thành Kinh nước đen. Nghe như tuồng xã hội hương xa thời đại. Hỏi cậu Năm. Cậu cười : ừ, một tuồng hay của bạn ba con thời xửa thời xưa. Cái thằng tiên tri số một, mà trù ẻo cũng số dzách.

Từ mấy năm nay, ai lượm được cây gỗ tạp, mẩu nhôm sắt vụn, vỏ bánh xe cao su v…v…chắp vá được chỗ nào hay chỗ đó. Cho trại. Cho cái nhà tắm nhà cầu cổ lổ nhà quê. Thoạt nhìn thì thấy bề thế lành lặn liền lạc nhưng ai ngồi rửa chén, giặt đồ trên cái sàn nước thần sầu quỷ khốc ấy đều có thể biết nước ròng hay nước lớn, phân biệt được rác rến hay thằng chỏng chết trôi. Cho nên khách lai vảng thường trực, có môn bài là mấy bà nột trợ. Múc nước sông hay đi gánh nước phông tên đổ vào hàng lu ngoài mé sông.Giặt giũ, rửa chén, tắm con. Lũ con nít chẳng giấy phép hoặc lí do chánh đáng là không được léo hánh ra đó.

*

Ra ngoài cửa trại, tôi ngồi sà xuống bên cạnh má :

- Con coi quán, má ra chợ đi.

Má quay lại, tươi cười :

- Ừ, má đi liền. Con ăn khoai đi, củ này nè, củ bột không đó con, còn nóng má dành riêng cho con. Hễ má về không kịp, nhớ nhắc cô Tư đem đậu tới sớm cho má đãi sạn. Khoai lúc này cũng xấu háy quá, mắc tiền mà bị sâu bị sùng nhiều lắm, phải lựa kỹ mới được.

Má còn nấn ná chải đi chải lại mớ tóc dài của tôi, chẻ đôi, thắt thành hai cái bím to vắt vai. Má nói dịu dàng :

- Con gái má lớn rồi, đã mười tám, nhớ sửa soạn, chải gỡõ cho gọn gàng, đẹp đẽ. Lóng rày má thấy con hơi buông thùa…

Má đi rồi, tôi ngồi thờ thẫn, mắt đăm đăm nhìn mấy cái cửa đóng chặt của căn nhà Kha trước mặt. Mọi khi, Kha ngồi học bài, đầu tóc và cái trán lấp ló lên trên khung cửa sổ, hai mắt hấp háy nhìn tôi. Nhà Kha đã bị niêm phong từ bốn tháng nay. Giờ đây gia đình Kha với ba tôi và anh hai tôi chắc là đang ngồi lóng nhóng nơi đất mới để chiều nay gửi tới quê xưa, biết là bao thương nhớ cho vừa…Bốn tháng nay tôi hay bị nhảy mũi. Mỗi lần hắt hơi xong, mở hai con mắt ra, tôi thấy bên kia cửa đầu trại, thím Ba ngưng tay, nheo mắt nhìn tôi :

- Có người nhắc con đó, con gái ! Ai vậy cà ?

Tôi đếm trong bụng : một cái là Kha, hai cái là ba, ba cái là anh Hai.

Má tôi chỉ được tin ba vào tháng vừa qua khi chủ ghe đến đưa bằng cớ để lấy nốt phần tiền còn lại. Hai má con lén dẫn nhau ra chợ kêu hai tô hủ tíu ăn mừng, vô chùa lạy Phật tạ ơn. Chấm dứt âu lo. Bắt đầu hi vọng.

Hồi Kha còn ở đây, buổi chiều anh hay ra ngồi coi hàng với tôi. Ðể hai đứa ngồi thủ thỉ nói chuyện, để anh trừng mắt với những đứa con nít gian ác giả bộ mua đồ trêu chọc tôi. Ðể tôi thấy nắng rực rỡ màu hồng, để tôi không nhìn thấy sự tàn tật của mình, để tôi không nhìn thấy sự nghèo nàn cơ cực của xóm nhỏ. Ðể mùi hôi hám, để sự sống chung lộn lạo của trại này không làm tàn héo con tim mười tám của tôi. Kha thương tôi từ khi hai đứa còn nhỏ xíu. Kha bảo vệ tôi đánh đuổi những đứa dữ tợn theo trêu ghẹo, níu kéo tôi. Kha lượm viết, lượm đũa…mỗi lần má dạy tôi viết, ăn cơm…:

- Này cô bé, bán cho chị hai miếng kẹo lạc, ối giời ngồi trông hàng mà mơ mộng những đâu thế!

Tôi giật mình ngẩng lên, cười gượng. Ðó là chị Ba Kiểu. Mọi khi, tôi giả bộ giẩy nẩy : kẹo em ngọt đường phèn mà chị cứ chê kẹo lạt. Lần này, tôi chỉ mong chị đi cho mau mau, ở đó mà đôi co với chị về đậu nành với đổ tương, mè với vừng, mì với sắn, bắp rang với ngô bung …vân vân, ắt có đường ló đuôi. Tôi gật đầu chào :

- Thưa chị Ba đi chợ !

Chị nựng cằm tôi :

- Có tí việc vào xóm chị ghé thăm em và dì Tư. Hai mẹ con khỏe chứ ? Em chị ngày càng lớn càng xinh.

- Dạ, thưa khỏe. Má em ra chợ…

- Còn dượng Tư với cậu Kim … chắc cũng khỏe hở Ngân ?

Tôi nói nhanh :

- Thì khi em nói khoẻ, nghĩa là khoẻ cả nhà. Chị ăn khoai nha, ngon lắm, thứ khoai bột, khoai trắng vành tím như ngọc má dành riêng cho em đó. Khoai này ở ngoải kêu là gì hả chị Ba ? Dạ thưa, chị lấy bao nhiêu kẹo đậu phọng…

Chị lân la hỏi xa hỏi gần khiến tôi nghi rằng chị đang …nghi nên tôi càng nóng ruột, trả lời cộc lốc. Thất thế, chị cười cười, lắc đầu, móc túi trả tiền, xoa đầu tôi rồi cầm gói khoai, kẹo bước đi như chạy. Nhìn theo dáng chị lạch bạch tất tả, tôi lắc đầu, thở một cái ào. Má tôi nói chị tướng khổ. Khi đi, đầu ngực chị ngả chúi về phía trước đòi đi mau hơn hai cái chân gầy. Ðộ rày chị buồn chi mà ăn hàng lia lịa, ngực bụng ngày càng to tròn. Ðầu tóc quăn biếng chải phồng to như một đống râu bắp ngổn ngang tâm sự. Nếu chị cứ tiếp tục đà đó, nghĩa là cứ mải mê bận tâm đến sức khoẻ hàng xóm láng giềng, đến phụ nữ và đạo đức cách mạng, một ngày kia đôi chân chị thế nào cũng phải đầu hàng một sức nặng quá tải.

Chị là vợ anh Ba Kiểu, anh tập kết về trại hồi sau "giải phóng". Anh Ba có chân trong "ban lãnh đạo " của đoàn hát Ðồng Phước này. Lúc ấy, anh chị dọn vào ở ngay trong trại. Ðược vài tháng, đầu xóm có mấy gia đình đi đâu mất biệt, bỏ nhà không, anh chị được chia cho một căn, bèn dọn ra khỏi trại. Bà con thở phào. Tôi dám chắc anh chị cũng nhẹ nhõm.

Hồi mới về "tiếp quản", anh Ba đeo mắt kiếng đen, bận áo sơ mi trắng, đứng trên cầu Bông ngó xuống. Tay anh chống nạnh, kéo lệch "vô tình" một chéo áo, khiến ai cũng dòm thấy cái báng súng lục lấp ló ! Anh công an gác cầu nghiêm mình giơ tay chào. Anh Ba đứng trên cầu hất mặt nhìn xuống trại rất lâu. Mấy bà ngồi… cầu tiêu kêu nho nhỏ mấy bà ngồi giặt đồ, mầy bà cùng ngưng " đi ", ngưng tay, ngó trở lên.

- Ai mà …le quá ta !

- ý cha, kiếng đen, súng lục…điệu này cán bộ… cỡ bự nghen bà con !

- Ai như chú Ba Kiểu..

- Không lẽ nó, nghe nói chếtù ở ngoải mà…

- Ðúng rồi mấy bà ơi…cha chả oai phong dữ ha…trại mình phen này nở mặt nở mày với người ta…

Anh bỏ gánh đi tập kết từ hồi ba má tôi chưa gặp nhau, và gánh hát bấy giờ cũng đang làm mưa gió miệt lục tỉnh. Không như bây giờ…

Chị Ba làm ở công ty thiết bị vậât tư. Thời gian ban đầu, "đậm tình cá nước", thuận thảo trong ngoài. Mấy năm sau, tôi bắt đầu biết nhận xét thì mối tình thân giữa trại với vợ chồng anh cũng tàn phai theo thời gian và tình trạng của trại.Tình trạng ngày một kiệt quệ, về vật chất lẫn tinh thần.

Cả trại ở mấy chục gia đình. Gánh hát về thì trại đông đảo nhộn nhịp, gánh hát đi thì vắng vẻ, chỉ còn lại đào kép già bịnh hoạn hay đã giải nghệ, những bà nội trợ, lũ con nít. Nhộn nhất là vào mùa mưa. Vì nóc dột tứ bề. Trời vừa gầm gừ, mây đen ào ào kéo tới, gió cuốn rác bay vù trên cầu; trại nhốn nháo như có giặc. Những đồ đạc cứu dột : lu hủ, thùng hứng nước được bày ra. Bên ngoài đầy mưa giông sấm sét, ở trong rộn tiếng gọi tiếng cười, tiếng kim khí thùng chậu lanh canh chen với tiếng rú của lũ trẻ, tiếng phàn nàn của người lớn. Trại la liệt những lon nhôm, thùng thiếc, thùng nhựa, nồi niêu. Vậy mà không tránh được lầy lội trong trại sau mỗi trận mưa. Nước đọng vũng từ đầu trại đến cuối trại. Mùa khô thì sân đất đầy sao nắng, mùi sình dưới sông bay lên ngập trại. Những ngày nắng mưa lam lũ đó đựợc quên đi mỗi lần gánh hát trở về nghỉ xả hơi. Trại đông vui, sống động. Không khí thay đổi hẳn, gia đình nào cũng hớn hở vì có người thân về. Rồi tụm năm tụm ba tập tuồng mới, tập ca, tập đờn, gõ phách, gõ mõ, đánh nhịp. Quầo áo, cờ xí, mũ mãng đem ra, mấy bà xúm kết nút, đắp mụn vá và giặt giũ ngoài sàn nước. Mấy sào quần áo reo vui, màu mè sáng rỡ dưới nắng. Ai qua lại trên cầu cũng nhìn xuống trầm trồ, nhứt là dân trong xóm. Biết ngay là gánh hát về.

Lúc trước, ba tôi còn chịu khó ngồi vẽ thêm mấy tấm phông cây cảnh, hang động, suối thác chảy qua ghềnh, đền đài, núi non. Bây giờ chỉ chuyện tô lại vài chỗ mờ, dậm màu đôi chỗ vá, chỗ mạng mà ông còn kiếm không ra tiền mua sơn, nhưng má tôi cứ dòm chừng. Hễ thấy ba thờ thẫn buông cọ là má kêu anh Hai tôi : lợi đây má biểu. Má biểu anh Hai khiêng mớ gươm, giáo, mác, thương bằng gỗ ra ngoài sàn nước rồi anh kéo nước sông lên cho ba ngồi cọ rửa. Má thoăn thoắt lượm sạn trong rỗ đậu hoặc cắt bỏ khoai sùng mà không ngừng hỏi han ba. Những ngón tay thon thả chụm xuống nhón lấy những hạt sỏi, bàn tay xoay tròn mở bung ra như những cánh hoa nở xoè tung hạt mầm ra sông. Giọng má mềm, tiếng anh, tiếng em, con gái mình, ngọt ngào như nồi chè, thơm dẻo như mẻ kẹo đậu phọng má vừa cán ra trên vỉ nhôm dầy một lớp mè rang vàng.

Nghỉ ngơi vài bữa, đôi tuần là đến ngày mọi người lại nôn nao khiêng đàn, trống, áo xiêm phông cảnh ra xe, và người lớn, con nít quỳ lạy trước bàn thờ Tổ.

Cuộc sống của trại, của mọi người thăng trầm đều đặn như vậy từ ngày má tôi còn trẻ, học ca với chú Ba và ông ngoại. Theo má tôi nói thì trại do ông Năm Châu xây cất làm nơi chứa đồ đạc cho đoàn hát, dần dà hoá ra nhà ở cho thân nhân, gia đình nghệ sĩ. Khi đoàn hát chánh tách đôi tách ba vì tài tử trở nên vang lừng danh tiếng, đoạt giải này giải nọ, vì mầm non rầm rộ ra đời, thì trại càng đông người. Tài tử gạo cội danh tiếng thì ít, mầm non và gia đình thì vô số kể, đoàn hát trải qua đôi ba thời phồn thịnh, thái bình, bao nhiêu gia đình đã dọn đến dọn đi, bao nhiêu đào kép đã thay đoàn, đổi gánh, đã được mua bán, đổi chác. Chú Ba và ông ngoại tôi kiên trì lèo lái gánh nguyên thuỷ …Ðến thời má tôi lớn lên, mọi hào quang đã bắt đầu lu mờ, phấn son không còn đủ che đậy những nét nhăn, những vết rạn trên mặt người, nét tàn tạ mỏi mệt của hai chiếc xe cam nhông, của những người sống sót, gắng gượng đeo đuổi kiếp cầm ca, tằm trả nợ dâu. Ai muốn tìm đến những chân trời khác (bán ba, hát tân nhạc…) thì bỏ trại ra đi, người còn lại gắng gượng hay anh dũng nối nghiệp ông cha.

Bây giờ, tôi lớn lên, bị cái không khí đờn ca quyến rủ. Mỗi lần ngồi trong hậu trường hay dưới hàng ghế khán giả, người cứ lả đi, say mềm vì ánh đèn sân khấu, vì những tiếng hát, lời ca, vì những chuyến đi xa, qua những tuồng tích, những vai trò, những cuộc đời…phiêu linh, những cuộc tình…đầy nước mắt mà có hậu…

Bây giờ, gánh hát cơ hồ như sắp rã, đào kép hát ca tập dượt như những xác không hồn, như món nợ phải trả, nghề đã mất, chỉ còn nghiệp chường ! Nỗi vui chú Ba hồi mới hoà bình -từ rày mình về miệt vườn lưu diễn dễ dàng -, bị vơi đi bất ngờ khi ông ngoại mất. Ngoại tôi, soạn giả Bảy Úùt, chuyên môn viết lời ca, đôi khi đặt tuồng, vừa hết chiến tranh, ngoại bị bệnh gì không biết, ngày cứ héo hắt, teo tóp, vài tháng thì chết, lúc đó tôi mới bảy, tám tuổi. Chú Ba Xanh và cậu Năm Trường bao thầu lèo lái mọi việc. Cuộc sống trôi chảy gượng gạo, vì tài chánh thu vào liên tục thất bát, và vì cãi cọ lớn tiếng cũng hơi nhiều. Lúc đầu ai cũng lo sợ vì có "trên" nào đó muốn thanh niên chớ nên nghe hay ca vọng cổ, cải lương, vì thứ cổ nhạc chưa đủ cổ này quá uỷ mị, xa vời hiện thực, không tốt cho việc xây dựng xã hội mới. Nhưng họ cấm chỉ được một thời gian ngắn.

Nhưng cũng chưa phải là được tự do. Như về việc đặt tuồng, tôi nghe chú Ba và cậu Năm than thở hoài. Bởi tuồng nào anh Ba cũng bắt sửa lên sửa xuống, nào là chưa vững, chửi ngụy như vậy chưa mạnh mẽ, tố cáo văn hóa đồi trụy không sâu sắc, không được dùng chữ Hán Việt, phải dùng chữ quốc ngữ, vân vân…Chú Ba cằn nhằn hoài với người trong trại, có lúc chú giận dỗi nói với cậu Năm Trường :

- Nó có giỏi thì ngồi đặt nguyên một vở tuồng cho tao coi, đợi người ta làm rồi chê thì dễ biết mấy ! Mà tao đố nó biết dư giả giê i khác với dư dả dê đê như thế nào (!).

Ba tôi cũng có lần đụng độ với anh Ba :

- Chú mày khó quá, ai hơi sức đâu đi đếm mà chú mày chê tao vẽ thiếu…hai cọng râu bác. Tại râu ổng thưa chớ đâu phải tao cố tình vẽ thiếu ?

Hoặc :

- Mắt ai cũng con nhỏ con lớn đâu phải riêng chỉ bác Hồ, tao vẽ vậy là đúng sự thực, chú mày đòi vẽ cho bằng nhau, đâu được.

- Chú mày chê tao vẽ mặt bác đỏ quá, đúng đúng, nhưng thiếu sơn để tao pha thì đành chịu vậy. Ví dụ như tao chỉ có sơn xanh, tao cũng vẽ giống và đẹp như thường… tất cả nghệ thuật là ở đò, chú mày biết không ?

Ba cười nói với má : em thấy đó, chửi bới, đập phá, tẩy trừ tàn dư, tiêu huỷ đồi trụy, nuôi dưỡng thù hận : quá dễ ! Sáng tạo, xây dựng, yêu thương …mới thật là …trần ai khổ nhọc !

Cậu Năm nóng nảy : kham chưa nổi điều đang có thì chớ nói viễn vông..

May là anh vai vế nhỏ hơn ba má tôi, anh kêu má tôi bằng dì. Má anh với má tôi có chung ông bà ngoại. Hồi anh mới về, xã hội cũ còn "phong kiến, lạc hậu", quan trọng vai vế gia đình còn được đám tàn dư duy trì ; họ tuy yếu thế nhưng vì đông hơn nên đôi lúc anh phải nhượng bước. Chứ không thôi anh đã cho ba tôi đi học tập như dã cho cậu Sáu Mẫn (tức là hề Mẫn của đoàn).

Bữa hát đó cậu Sáu cương ẩu, cậu nói lối trước khi vô xàng xê là "…bà con ơi, bà con đừng có nghe tui nói, bà con hãy nhìn những gì tui làm…" Khán giả cười rần rần và vỗ tay khen cậu quá xá. Anh Ba lấy làm lạ vì thấy câu nói đó vô duyên lạt lẽo, tầm thường. Ðến lúc có người ghét cậu Sáu, cắt nghĩa cho anh thì anh đùng đùng nổi giận ; cậu Sáu ôm gói đi "học" hết sáu tháng.

Còn chị Ba. A, chị Ba "kẹo lạt" của tôi, chị vốn người đất Bắc, hồi chị mới vào ai cũng muốn làm quen với chị, hỏi chuyện "ở ngoải". Chị thật thà, hay..phán những câu làm mất lòng người. Như khi đến thăm dì Hai, là chị em bạn dì của má tôi, chị rờ rẫm mấy cây cột nhà đúc bê tông, rồi mạnh mẽ dõng dạc tuyên bố rằng :

- Nhà dì Hai tốt thế này, cột to thế kia chắc chắn là Mỹ Ngụy đưa tiền cho dì xây. Chứ ở ngoài cháu, nhà bộ trưởng còn chả bằng được như thế này.

Dượng Hai giận xanh mặt, dì Hai có máu tếu nên chỉ cười cười, giả giọng Bắc :

- Ừ thế là bởi vì dì của cháu đây vốn là …là bà cố nội của Mỹ nên nó cho tiền dì xây đấy cháu ạ ! Thằng Mỹ thường dối trá xảo quyệt, nhưng vào đến nhà dì thì trúng phải gió nên ngu cực kì !

Trong trại xảy ra chuyện gì chị cũng phê bình và hay nói "ở ngoài Bắc…thế này…", "dưới chế độ xã hội chủ nghĩa…thế kia…". Thí dụ :

Ở trong này…chẳng vệ sinh, cầu tiêu hễ không xây trong nhà thì lại cất ven sông, bọn Mỹ Ngụy chỉ lo hốt tiền, lo chém giết…không biết giáo dục nhân dân. Còn ngoài Bắc ấy à, có cầu tiêu tiểu công cộng có thùng…, có nắp, có…người đi lấy mỗi ngày…để làm phân bón, thật tiết kiệm…lại sạch sẽ, gọn gàng !

Dì Hai can các chị tôi :

- Ðừng thèm đôi co với nó, để nó ra đường phê bình kiểu đó và kể chuyện xã hội chủ nghĩa văn minh, chúng vả cho mẻ răng, nó sẽ tởn mặt tới già. Bà con đánh, mất công…mang tiếng.

Mộtù lần trại họp bàn chuyện gì đó có cả anh chị, chị nghiêm trang gọi anh là đồng chí. Cả trại về sau nói chuyện với anh Ba, gọi chị là "đồng chí vợ".

Mọi thân tình hoàn toàn tan rã hai năm sau, cùng lúc với cuộc tình anh chị Ba. Nghĩa là khi anh đeo riết cô Thanh Hồng, một trong mấy cô đào "lẳng" của gánh Ðồng Phước. Trong trại ai cũng… tán thành cuộc nhân duyên mới dù anh hơn Thanh Hồng gần hai chục tuổi. Chỉ có má tôi là thương xót chị Ba "thân gái bơ vơ nơi đất lạ quê người". Bà không đồng ý cái cớ -được "toàn thể nhân dân trong trại nhất trí"- ta về ta tắm ao ta của anh Ba. Thành thử chị còn lân la giao thiệp với mẹ con tôi, chớ trong trại, rồi ngoài xóm ít ai thèm đếm xỉa tới chị. Ðáng lẽ tôi cũng chuyện trò niềm nở hơn nhưng mấy tuần nay tin ba tôi vượt biên đã tới tai chị. Chị bán tín bán nghi mà không dám hỏi thẳng. Anh Ba thì không nói chi. E rằng nhân dân sẽ hết nhất trí. Dầu sao, ba tôi cũng có chút tiếng tăm trong trại lẫn ngoài xóm. Tôi đã tự dặn trong bụng : chị còn vòng vo thăm hỏi tôi sẽ nòi huỵch tẹt ra rồi "cắt đứt dây chuông", kể như huề, cho chị…chết luôn.

Ba với anh Hai đi rồi, chị làm gì được mẹ con tôi ? Tịch thu hai cái giường trong trại ? Niêm phong quán Thanh Danh, cái quán chỉ một bàn cây thấp và không có được ba chiếc ghế lùn lành lặn như quán cà phê thím Ba ? " Chả bõ dính răng !" như chị vẫn nói.

- Má đâu rồi con ?

Tôi giật mình ngẩng lên. Cậu Năm Trường nhìn tôi chăm chăm, hai con mắt thương yêu :

- Sáng giờ bán khá không con gái cưng ?

Trời ơi giọng cậu y như ba tôi khiến tôi muốn khóc, tôi bỗng nghe hờn cậu ; bèn sẳng giọng :

- Má con đi chợ từ sáng. Uả ! Con tưởng cậu đã đi theo đoàn…

- Coi kìa, lại sắp khóc phải không ? Má con về tới bây giờ nè… Cậu mới mua cho con mấy bản vọng cổ của Thanh Nga, học thuộc rồi ca cho cậu nghe. Kỳ này cậu nghỉ ở nhà dưỡng sức.

Tôi lật lật mấy cuốn bài ca mà giận mình vô cùng. Tôi ghen cho ba tôi. Rồi tôi biết mình vô lý, tôi bực bội, lí nhí cám ơn cậu. A, mấy vai tuồng cô Thanh Nga ca diễn gần đây.

- …Má con mới đi chợ, chưa về liền đâu, cậu hỏi chi vậy ?

- Tối nay đoàn Thanh Minh về hát rạp Cao Ðồng Hưng, tuồng Thái hậu Dương Vân Nga.

Tôi suýt nhảy cà tưng vì sung sướng. Cậu vuốt đầu tôi :

- Chiều nay hai mẹ con sửa soạn ăn cơm cho sớm, cậu có ba vé mời.

Cậu đi rồi tim tôi còn rộn rã, náo nức. Không phải vì ai cũng khen tôi có khuôn mặt và giọng ca giống Thanh Nga mà tôi mê cô đâu. Tôi quen với hình ảnh cô từ hồi mới lọt lòng mẹ. Buổi sáng ngủ dậy, ra khỏi mùng là tôi thấy cô.

Ba tôi mê cô từ hồi cô sang lưu diễn bên Pháp, ba tôi đang học hội họa ở Ba Lê. Khi bỏ ngang về Sàigòn, ba cứ lân la làm quen, sống gần giới cải lương. Gặp má tôi, ông theo riết. Cậu Năm suýt đánh lộn với ba vì khi đó, cậu đã và đang dày công luyện tập và…đeo đuổi má tôi.

Má tôi thường nói má với ba hữu duyên thiên lýù năng tương ngộ, còn với cậu thì vô duyên đối diện bất tương phùng. Cậu trở thành bạn thân với ba tôi nhưng khi đám cưới ba má thì cậu nhậu say, đập bể cây đàn guitare, thề "ở vậy". Ba má nói cách mấy cũng không lay chuyển lòng cậu. Mỗi khi cậy say mèm, bà con vực về trại là tôi thoáng thấy má tôi long lanh ngấn nước trong đôi mắt đen láy.

Trên phần vách nhà tôi, ba treo, dán đầy hình cô Thanh Nga. Bộ sưu tập "tem" của ba đó. Thanh Nga trong Người vợ không bao giờ cưới, trong Ðôi mắt người xưa, Loan mắt Nhung, Hai chuyến xe hoa… và đôi bức hình má tôi hồi bà sắp sửa trở thành đào chánh đoàn Ðồng Phước. Thời ba chưa bán cái máy hình thiệt to có cả bao da dầy cứng bóng láng và thơm nức mùi da. Bây giờ hình nào cũng ố vàng, cong góc. Còn ba…

Tôi ngắn nghía mãi không chán, càng nhìn càng so sánh càng thấy má giống Thanh Nga. Hình như má có bà con xa với gia đình cô, nhưng má ít khi muốn nói đến. Cũng như không khi nào má nhắc nhở đến nguyên nhân đã làm gián đoạn sự nghiệp cầm ca của má.

*

Chiều cơm nước thay đồ xong thì cậu Năm tới. Tôi lửng thửng đi sau lưng má và cậu. Thường khi, hễ vào Gia Ðịnh coi hát, cả nhà thả bộ rề rề vừa đi vừa hóng mát. Ði thành hàng hai, cậu với anh Hai đi trước, rồi tới ba má, tôi và Kha đoạn hậu. Ba má chỉ trỏ những căn nhà san sát, những dinh thự, kể rằng hồi xưa đó chỉ là ruộng rau muống, bãi rác…

Bây giờ cậu Năm đi cách xa xa má tôi, mặt cậu vui vẻ, nên tôi nghe còn hờn cậu. Bởi vậy trong rạp tôi ngồi chen giữa hai người. Rồi say mê nghe, mắt dán lên sân khấu uống từng lời ca, từng cử chỉ của người đàn bà vương giả…

" Hỡi các triều thần, bá quan văn võ. Ðây tấm long bào ta gìn giữ lâu nay. Aùo giành cho con trai ta kế vị sau này…"

" Chúng tôi là tiểu quốc, các ngài là đại bang, các ngài phải lấy nghĩa nhân mà đối xử với chúng tôi. Như vậy mới mong không tức nước vỡ bờ…"

" Việc thư hùng không phải nhờ nơi những lời cao ngạo. Dân ta bao lần tỏ ra cũng đủ tài binh lưọc xua tan trăm ngàn bão giông giữ yên một giải non sông…"

" Ôi đất nước của ta trời Nam một cõi vang lừng lịch sử oai hùng sao lại chịu khuất phục ngoại bang. Chúng đã để ý dòm ngó mảnh đất thân yêu này ắt chúng sẽ bày trò mượn cớ xâm lấn sang đây …"

Tôi chợt nhớ đến những câu chuyện thì thầm giữa những chú bác trong gánh hát. Nhất là theo chú Ba, "người ta" đang tìm cách khơi dậy căm thù, kêu gọi lòng đoàn kết, hy sinh. Nhưng không khí trong xóm không như ý "người ta" mong muốn, lúc bọn "bành trướng" Trung Quốc tấn công ở biên giới phía Bắc, nhiều người trong xóm dám lộ vẻ vui mừng, hi vọng…Cậu Năm buồn bã mỉa mai :

- Ðó, coi đó. Hồi xưa tao đi kiếm con nít trường Tàu để đánh lộn, bây giờ thiên hạ vậy đó, "người ta" chửi mình phản động cũng phải !

- Dân chúng ham mê cải lương thì đổ xô nhau đi coi, chứ còn nói về "tác động" của vở tuồng thì…

Khuya về, tôi tíu tít, hăng say nói về những màn đã xem. Ðến nỗi lúc băng qua đường, đường vắng hoe chỉ có một chiếc xe Wolkswagen đang trờ tới nhưng tôi không thấy. Tiếng bánh xe rít lên ngừng sát bên tôi ; cậu Năm ôm ngang lưng tôi kéo vào. Tôi quay lại nhìn người trong xe. Không nhìn thấy rõ mặt người lái, nhưng bên cạnh, là cô Thanh Nga.

Mặt cô thật bình thản tuy có đôi nét mệt mỏi, cô nhìn tôi mỉm cười bao dung, cô đẹp như thiên thần. Ðẹp quá vì cô hiện thực hơn lúc nãy, khi còn là một thái hậu bơ vơ mảnh mai trên sân khấu với một trách nhiệm quá to lớn, nặng nề.

Má tôi hít hà hốt hoảng :

- Trời ơi chút xíu nữa là xe đụng con rồi. Trời thần ơi, cô đẹp còn hơn vua chúa, hoàng hậu…Anh Năm thấy không lúc nầy cô có da có thịt, hai má đầy đặn, đôi mắt đen…minh mông, ô, cái mũi dọc dừa nhỏ xíu, cái càm nhọn nhọn…Chồng cô chở con tới rước đó, con thấy đứa nhỏ ngồi sau không hả Ngân. Cha, khuya lơ mà hãy còn thức theo cha mẹ.

Chúng tôi về trại cùng với vài người đi xem hát khác, đường khuya cũng thức dưới những lời trầm trồ, nhắc nhở tuồng tích, phê bình lời ca, cách diễn. Tiếng bàn bạc phê bình nhỏ dần, trở thành tiếng thì thào rồi im hẳn sau vài lời cằn nhằn ngái ngủ phát ra từ mấy dãy mùng cao thấp trắng, vàng xen lẫn với màu xanh lá cây nhà binh. Có giường thiếu mùng, chỉ tòn ten võng mây hay võng bố. Trại tối mờ, ánh sáng leo lét trên chiếc bàn thờ Tổ thoi thóp như sắp tắt. Lên giường, má tấn mùng cho tôi rồi trở qua giường của bà. Qua lớp vải thưa, tôi thấy cánh tay bà vắt qua trán, dường như có tiếng thở dài…

Tôi choàng tỉnh vì tiếng chân rầm rập, tiếng người la hét. Ðịnh thần, ngồi dậy, tôi ngơ ngác, tim đập thình thịch. Ðêm lành lạnh, sâu thẳm. Ngọn đèn dầu trên bàn thờ tổ vẫn còn cháy. Bên cạnh, giường má trống không.

Vài ngọn đèn néon bật lên. Tiếng la lại vang lên, hối hả nhưng rõ ràng :

- Trời ơi, tụi nó giết cô Thanh Nga rồi !

- Hai vợ chồng chết hết trơn !

- Trời ơi, tui thấy rõ ràng, tui nghe tiếng cô la nữa.

- Quân ác nhơn, thất đức !

- Trời ơi, mấy người đứng đó mà không ai dám làm gì để tụi nó bắn xong lên xe đi mất tiêu !

Mỗi người một câu, người hỏi kẻ đáp, người kêu trời, kẻ than thở. Tất cả lùng bùng bên tai tôi. Trời còn khuya lắm, trong xóm yên lặng chỉ tại trại Ðồng Phước là mọi người đều thức dậy, bàng hoàng, đau đớn. Rõ ràng là trước đây mấy giờ tôi còn thấy cô cất giọng ca ngọt ngào ai oán, tay nâng vạt áo chậm đôi giọt lệ lăn dài trên má phấn.

Má quay vào xác định điều khủng khiếp. Tôi dụi mặt vào vai má khóc ròng, không còn nghe tiếng ồn ào xung quanh. Lưng áo tôi cũng ướt nước mắt nóng hổi. Mà không chỉ mẹ con tôi. Tiếng khóc nghẹn ngào nghe như dậy bốn phía…Tôi thiếp đi trong tiếng nấc…

Cả ngày hôm sau không khí trong trại và cả ngoài xóm cũng sôi động khác thường. Người ta hỏi han, xầm xì, thương tiếc. Người hỏi, người kể. Buổi sáng toàn trại như đều đã nhìn thấy tận mắt trận ám sát dã man thảm sầu. Ðến chiều thì cả xóm biết rành từng chi tiết. Ðủ thứ giả thuyết được đưa ra. Má tôi thở dài nói nhỏ :

- Trời ơi hồng nhan bạc mệnh….một đời tài sắc có một không hai…Quân sát nhơn thế nào cũng giả tử.

*

Thím Ba Xanh rủ má tôi đi đưa đám người nghệ sĩ tài danh. Thím nghẹn ngào :

- Ðể chị em mình nấu xôi đem ra trụ ngoài bùng binh Sài Gòn, chờ xe đòn đi ngang, mình tháp tùng đưa cô đến chỗ yên nghĩ ngàn thu.

Tôi ở nhà coi quán, má và thím xách giỏ cơm nước, bánh trái, bông huệ đi cùng vài bà khác trong trại, ngoài xóm.

Chiều tối, đoàn người trở về bèo nhèo, bơ phờ, tức tối. Bà con vây quanh hỏi chuyện.

- Thiên hạ ngồi nghẹt bùng binh Sài Gòn.

- Thiệt tình đâu phải chỉ đám mình mới tính chuyện đưa tiễn cô.

- Thì đồng bào ai cũng thương yêu, ái mộ tài sắc cô, muốn chào cô lần cuối…Vậy mà….

- Quân khốn nạn, tàn ác…giết cô rồi mà không muốn nhân dân đưa đám cô..

- Chu cha, nói nhỏ thôi bà nội, biết aì giết mà bà cả quyết như vậy ?

- Trời ơi, còn ai vô đây nữa…Thời này ai có súng, có lựu đạn nói tui nghe coi ?

- Coi chừng đi mút chỉ đó nghen…

- Oái, thiệt là chán, chị em ngồi chờ, nắng cháy da đầu. Mà nó để hai cái hòm trong xe nhà binh, chạy qua một cái vù. Bà con ngơ ngác…

- Bây giờ biết cổ yên nghĩ chỗ nào ? Thiệt tình, chết thảm vậy mà chưa yên thân !

- Thì tại người ta sợ mấy bà thừa cơ nổi loạn, người ta đành đem đi êm.

- Ối, sao ông không dám nói thẳng là họ sợ " phục quốc quân " thừa cơ tấn công…

- Không biết "phục" phản gì mà cả chục ngàn người tụ họp không xin phép…thiệt coi nhà nước không có kí lô nào hết…

Người ngoài xóm cũng tụ tập xầm xì xiên xỏ đến nỗi công an khu vực phải đi rảo hoài để giải tán. Mọi sôi nổi tạm lắng khi báo chí đăng tin bọn chủ mưu vụ thảm sát là "bọn xấu theo Trung Quốc". Trời đất, chỉ vì cô thủ vai Thái Hậu, chọn mặt người gởi trọng trách bảo vệ tổ quốc ?

Ðó chỉ là sự phẳng lặng bằng lòng của con sông cạn nước mùa khô. Tôi thấy chú Ba cự nự hung với anh Ba. Nhiều lần. Tôi nghe được thím Ba nhỏ giọng cằn nhằn chồng :

- Bộ thằng Ba nó giết hay sao mà ông cứ nhè nó mà ông nhiếc móc ?

Chú sa sầm nét mặt, nghiến răng, không trả lời. Thím liều lĩnh :

- Tui nghe nói người ta thanh toán gia đình cô vì chuyện vượt biên, tiền bạc không thành…

Chú trợn mắt, lớn tiếng nạt một tràng khiến vợ lùi mấy bước :

- Bà nói gì ? Bà điên chưa ? Nghe tụi nó vu khống như vậy mà lọt lỗ tai ? Hả? Vợ chồng cổ đang lo giấy tờ xin đi Pháp. Bao nhiêu đó là đủ hiểu nguyên do rồi…Thiệt ác độc vô cùng, bà ra ngoài lóng tai nghe, mấy gánh hát xếp ve, đào kép đều co vòi. Bây giờ nó kêu vô đoàn nào là riu ríu nghe theo… Còn đứa nào dám tính chuyện ra đi nữa. Cô Thanh Nga mà chúng còn giết, mấy cái mạng cùi khác nghĩa lí gì ? Ðộc lắm, bắn có một mũi tên mà rụng tới cả chục con chim.

Lúc không có anh Ba và tai mắt anh, chú với cậu Năm và vài người vẫn bàn tán, tức tối. Rốt cuộc rồi cũng tới tai anh. Anh hay thuyết:

- Không tìm ra thủ phạm nên mấy người cứ bàn ra tán vô, vu oan…Dân miền Nam này còn…cá nhân chủ nghĩa quá.

Anh bực mình nói vậy một phần cũng vì ngày trước hai bên chưa…cảm thông nhau. Những đoàn cải lương từ Bắc vào và Nam ra cùng thề trong lòng sẽ chẳng bao giờ trở lại. Trong Nam ra, chưa ai có kinh nghiệm để đối phó với những "sự cố" như thiếu điện nước, đèn đuốc, sân khấu thô sơ và nhất là cái rét cắt da. Nên dù dược đồng bào ùn ùn ủng hộ, hễ nghe nói đi ra Bắc là gánh nào cũng tìm cách…thoái thác. Ngược lại, đoàn văn công Bắc vào biển diễn ở Sàigòn, thiên hạ bảo nhau tẩy chay. Một lần chú Ba rủ cậu Năm với ba tôi thả bộ về rạp Cao Ðồng Hưng đếm…khán giả nhân dịp đoàn cải lương Tiếng Chuông Vàng Thủ Ðô vào trình diễn. Ba tôi về nhà kể, giọng hể hả :

- Tao đếm được đúng bốn chiếc xe đạp dựng trước rạp. Nhân dân mắc làm gì mà chỉ có bốn người đi coi hát !

Cậu Năm nói :

- Ai nói anh là bốn khán giả ?

- Không chừng hơn bởi vì một người đèo một người …tối đa là tám mạng !

- Ôâng ơi, tám mạng đó là…đây nè, vợ chồng…đào kép chánh, vợ chồng đào kép phụ, thằng chính trị viên chỉ đạo, thằng bán vé, thằng gác cửa…. Vị chi là bảy, khán giả chỉ có một người…Ôâng nội nào đó trong uỷ ban nhân dân…được giấy mời ! Tóm lại cuộc trình diễn hoàn toàn…thất bại !

Sự thất bại đó về sau nầy đã bị xóa bỏ bằng cách người ta "xung công" đào kép. Những người nổi tiếng bị "lùa" vào những đoàn hát nhà nước. Thế là các rạp lại đông đầy. Hễ rảnh rỗi, chú Ba và ba tôi rủ nhau đi coi hát và thăm bạn bè, dù mỗi lần về ba đều có chuyện để cằn nhằn :

- Nhà nước khôn tổ sư, không làm gì hết mà cũng đòi chia lời. Còn lỗ không biết nhà nước có bù vô không ?

Má tôi tươi cười :

- Nào phải chỉ có những gánh hát mà anh phân bì, hàng quán, cửûa tiệm gì cũng phải chia, vậy là tuyệt đối công bằng.

- Em nói vậy mà nghe được à ? Công bằng ? Mấy thằng ôn dịch ngồi ghế chủ toạ, không làm gì mà được toàn quyền kiểm soát, phán xét và …ăn chận.

Cậu Năm đổ dầu vô lửa :

- Cô có nhớ bữa thằng chủ Công ty Giao thông Vận tải đường bộ lên ti - vi báo cáo thành tích của công ty ? Nó "hồ hỡi" khoe rằng công ty "ta" từ vốn số không, chỉ sau hơn một năm, làm chủ mấy trăm xe vận tải, tiền lời thu được là một triệu mấy trăm mấy chục, lẻ mấy …xu. Số liệu, sổ sách chi li, ra cái điều ngay thẳng, rõ ràng ! Từ vốn số không ? Thì ngoài đó mới vô, vốn đâu mà vốn ? đúng là tay không làm nên…vận tải ! Nên mới cần dân hùn hạp. Kêu gọi, đe doạ, ép buộc, đủ phương cách, gọi là hùn mà dân hùn vốn, nhà nước hùn…lời (nói). Lãi lộc chia đôi lúc ban đầu, dần dần hất cẳng người ta : vai trò lịch sử của bạn đến đây là chấm dứt, nhà nước ghi công bạn, mời bạn đi chỗ khác chơi, gia tài sự nghiệp bạn từ nay có nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo. Tự nhiên thành ra có cả vốn lẫn lời mà cha con nó không tốn sức lao động.

*

Không hiểu vì anh Ba Kiểu không đủ sức ngăn chận những tin "đồn nhảm" hay vì anh là chính phạm trong chuyện tình "đồi trụy" mà trăm rắc rối bắt đầu đổ lên đầu anh.

Một "phái đoàn" gồm ba người đến gặp dì Hai để nói chuyện về anh Ba. Người ta nhờ dì hãy khuyên nhủ anh trở về với gia đình và bổn phận, trở lại với vai trò đảng viên gương mẫu. Bằng không, anh sẽ bị khai trừ khỏi đảng.

Có lẽ vì trước đó một anh đảng viên quen biết chút đỉnh gia đình dì, hỏi mượn chiếc xe đạp đi công chuyện rồi đi luôn không trở lại, cộng thêm với vẻ hiền lành nhỏ nhẹ mà không kém nhiệt tình của những nhà luân lý, dì cả gan trả lời rằng :

- Nó vai vế cháu tui nhưng mà đầu nó bằng đá xanh, óc nó có sạn. Nó chọn ai làm bạn, kệ nó, mắc mớ gì tui mà biểu tui khuyên can ? Cứ khai trừ đại đi, can gián làm chi cho mất công, thứ mê gái đó, trời gầm cũng không …nhả.

Với má tôi thì dì sôi nổi :

- Bỏ…là phải, mày coi, con Thanh Hồng bằng một trăm lần cái con "đồng chí vợ" đó. Nhè tao mà biểu can gián, tao đốc vô thì có. Sức mấy mà can. Ra khỏi đảng coi vậy mà "phẻ" , mặc sức mà hủ hoá.

Nghe phong thanh là anh sẽ bị hạ tầng công tác, chuyển đi làm chỗ khác, trại còn đang bàn tán thì ngoài xóm đem vô thêm một tin khiến mọi người rúng động : trại sẽ bị "giải thể" Thiên hạ níu kéo hỏi thăm anh Ba. Bộ dáng anh đầy vẻ thất thần, lo lắng, buồn rầu khiến ai cũng nghi ngờ những lời phủ nhận hờ hững của anh.

Cũng may, bàn ra, tán vào, "linh tinh" hay đứng đắn, giải tán tổng thể hay cá nhân anh chị vân vân được mấy tuần liền, không thấy động tĩnh, mọi người lại lặng lẽ quay về vật lộn với đời sống hằng ngày.

Tự nhiên, mọi người đâm ra thông cảm anh Ba, thậm chí còn lo lắng cho tiền đồ hậu sự nhà anh nữa. Dĩ nhiên, oai phong anh cũng vì vậy mà xẹp lép. Ai đời, ngồi nhậu với anh mà thiên hạ đả kích chính sách, chửi nhà nước, chửi cán bộ lia lịa. Anh chỉ gượng cười nhắm mắt nốc rượu. Bữa nào cao hứng, số ly đế đủ lượng gió anh phất cờ kể chuyện ngày xưa, thuở anh mới tập kết,nào chuyện hào hùng, nào chuyện học sinh miền Nam nổi loạn, nào chuyện động trời tình duyên gia đạo các lãnh tụ mà anh nghe thấy khi anh ăn ở chung đụng với các "trên". Tôi bỏ quán, chạy qua ngồi dựa lưng thím Ba, tò mò nghe. Bây giờ thì anh hết vẻ phách lối của những năm tháng đầu tiên. Hồi đó anh chỉ kể chuyện tốt. Bây giờ người trong trại có cảm tình với anh hơn. Anh đã dám đặt tên cho những "trên" rất xa vời tối thượng và cực kì thiêng liêng. Chú Ba cãi với thím Ba :

- Bây giờ nó không kể chuyện xấu, mà là kể chuyện thật. Bà đừng phê bình lạng quạng, nó mắc cở, á khẩu thì mình sẽ hết biết những kì tích lẫn thâm cung bí sử. Tui đố bà kiếm ra mấy chuyện đó trên tờ Nhân Dân. Chưa chắc có thằng vừa biết nhiều lại vừa được gần gũi, hầu hạ những thứ cán bự cỡ Phạm Hùng, Nguyễn Dũng…Kể ra mình cũng hưởng lợi. Phải không ? Tiếc một điều là về sau, mấy ông nội viết sử sẽ không bao giờ có ý nghĩ đi kiếm những thằng chứng nhân như nó để viết lại cho đúng.

*

Hôm nay, cơm nước xong, tôi không ngủ trưa, ra ngoài sàn nước phụ má rửa chén và sửa soạn khoai đậu cho ngày mai. Những bà mẹ khác cũng giặt đồ rửa chén, nói chuyện râm ran với nhau hay la mắng rầy rà lũ con nít. Sàn nước ồn ào được một lúc rồi lặng yên khi các bà xong việc đi vào trong hoặc quát con đi ngủ trưa.

Trên cầu vắng vẻ, ít khách bộ hành và thỉnh thoảng mới có tiếng xe cộ chạy vụt qua. Nắng gay gắt khiến cầu trắng loá màu tinh khiết. Vài cọng rác, vụn bao nhựa phất phơ vướng trên sợi dây điện chạy dọc theo thành cầu. Những người công an gác cầu chắc trốn nắng, rút cả vào hai vọng gác ở đầu cầu.

Nước đang lên, nên sông có vẻ sạch sẽ, tươi mát, mặt sông rộng ra. Nước xanh đục, giữa dòng, nước chảy nhanh, nhiều luồng sáng như những con rắn mặt trời đang lội. Ðộ một hai giờ nữa, nước đứng, lũ trẻ thức giấc sẽ đi vòng lên cầu, leo lên thành cầu bất thình lình "lông rông" xuống nước, mặc cho công an thổi còi, đuổi bắt. Các bà còn cấm con không được, nữa là công an. Hai bên dốc cầu đầy rác rến, những thứ rác không đi nốt được đường trần để rơi xuống tận dòng theo nước vào xóm trong. Hai bên vẫn còn xiêu vẹo đôi tấm bảng cấm đổ rác, cũng như những bàn tay người lén lút hay công khai trút đổ cặn bã, đồ dơ bẩn. Người của trại, người của xóm.

Tôi lơ đãng nhìn trở lên cầu, đếm thầm người qua lại. Ai cũng mau bước chạy trốn cơn nắng. Từ bên kia đầu cầu, một người đàn ông thong thả đi qua. Không. Chậm chạp đúng hơn thong thả. Ôâng ta đi thật chậm, hai con mắt nhìn xuống sông như tìm kiếm. Tôi nhìn rõ dần mặt ông ta. Gương mặt mang một vẻ thê lương lạ lùng khiến tôi rùng mình ớn lạnh. Ðến giữa cầu, ông ta dừng lại. Hai con mắt tiếp tục thôi miên mặt nước. Tôi hồi hộp, hoang mang.

Bên này đầu cầu, một cái đầu công an với mũi súng đeo vai nhô lên phía trên thành cầu, một anh chàng còn trẻ, miệng ngậm điếu thuốc lá. Anh ta nhìn xuống sông rồi nhìn người đàn ông. Khói thuốc bay ra phì phì phiền hà từng tràng thẳng trước cái miệng mím chặt nỗi nghi ngờ.

Người đàn ông chợt móc túi lấy ra tờ giấy nhỏ, chậm rãi đặt lên thành cầu, rồi cúi xuống. Thì ra ông lột đôi dép chận lên tờ giấy. Tôi run lên. Tiếng kêu bị ngưng đọng nơi cổ họng. Ngọn lưỡi và mắt môi tôi bỗng cứng lại. Tôi bị thôi miên như dòng nước kia. Người đàn ông trèo nhanh lên thành cầu, nhảy ùm xuống sông.

Nhiều tiếng rú lanh lãnh nổi lên quanh tôi. Tôi lặng người nhìn những bọt nước tung toé, Ðầu người đàn ông nhấp nhô chìm nổi, tay chân vẫy đập loạn xạ, ông ta trôi đi thật nhanhï. Tôi dấu mặt sau lưng má, tiếng kêu thất thanh thoát ra, má ơi, má ơi…Trên cầu nhiều người chạy tới. Một vài người leo lên thành cầu, sửa soạn nhảy xuống. Người công an liên tục hò hét, tháo súng cầm tay :

- Này, này…Xuống ngay, leo xuống ngay…Các người giải tán ngay….Ði…đi. Các người định "âm miu" phá cầu đấy phỏng ? Ði ngay…không tôi bắn …này…này…

Mỗi tiếng này kèm theo một tràng súng chỉ thiên. Trên cầu, mọi người bỏ chạy tán loạn. Những tiếng nổ cũng làm chùn chân đám người từ trong trại ùa ra đứng đầy trên sàn nước và lố nhố bóng người trong những ngôi nhà sàn hai bên sông.

- Các người định phá cầu ! Ban ngày mà dám "âm miu" phá cầu, láo thật!

Anh ta chạy qua chạy lại, lăng xăng hung hăng như gà trống sắp đá. Ðiếu thuốc lá trên môi đã rơi rụng tự bao giờ. Mặt anh ta đầy vẻ …khẩn trương và đe dọa. Những người đồng đội túa đến. Trên cầu bây giờ đầy những bộ áo vàng. Những người dân bên dưới nhìn nhau, lắc đầu. Những bóng người lùi vào nhà. Ðám đông vơi dần. Tôi nhìn sững mặt sông đã khép kín, phẳng lì. Như không có chuyện gì xảy ra. Bên kia sông, chợt phóng ra tiếng mắng mỏ :

- Ðồ sát nhơn !

Người công an, quay mặt xuống, quắc mắt :

- Ai nói đấy ?

Câu hỏi rơi vào thinh không. Quanh tôi, tiếng người lào thào, hứ, hó, xì, xí chua ngoét :

- Aên nói sao mà nghe ngu dễ sợ, phá cầu rồi lấy gì ra sông ? Mà như muốn phá thì người ta để đến đêm hẵng phá, ngu như nó mới âm "miu" vào giờ này.

- Trời ơi sao nó ác quá vậy hả trời ? Hồi thời thằng Thiệu, mỗi lần có người nhày cầu tự vận, có bao giờ cảnh sát gác cầu cấm không cho nhảy xuống cứu vớt ?

- Bởi vậy, bây giờ mới sáng con mắt !

- Tội nghiệp, không biết buồn chuyện gì !

- Còn chuyện gì nữa, đây nè, không đủ tiền nuôi vợ, nuôi con hay nuôi cha mẹ. Hoặc là tù cải tạo mới về, không nhà cửa, hộ khẩu, vợ lấy cán bộ, con vượt biên mất tích. Hoặc bị thiên hạ lường gạt, vàng bạc không còn mà thuyền bè cũng chẳng thấy, vợ con nheo nhóc nơi vỉa hè…Ôâi thôi, một ngàn lẻ một lí do để chết phứt cho rồi !

- Ðó, coi vậy mà bây giờ ổng khoẻ ru bà rù.

- Chết như vậy chắc thiêng lắm nghen bà con, thế nào cũng về phù trợ vợ con…

- ý cha ơi, nước chảy mạnh như vầy không biết ổng tấp vô chỗ nào, chắc "đi" dám tới xóm vựa Mía lắm nhe.

Tối nay sẽ có thêm những cây nhang lập loè hai bên bờ sông. Tôi thờ thẩn trở ra trước cửa trại. Má tôi mắt còn long lanh ngấn nước đang bày khoai, xếp kẹo, sắp đặt vài món quà bánh lặt vặt. Má căn dặn tôi đôi điều rồi tong tả xách giỏ ra đi. Cậu Năm đang ở đâu vậy ? Tôi muốn thấy đôi mắt trìu mến của cậu và tiếng đồng ca chiều nay sương khói lên khơi, lũ thuỳ dương rũ bóng tơi bời Ba và anh Hai có biết rằng trong những lúc như hôm nay, tôi cũng không biết gửi về đâu biết là bao thương nhớ cho vừa !

Nắng đổ lửa xuống con đường hẻm nhỏ. Mảnh vải nhựa vẽ một khung mát phủ mặt bàn và một nửa phần đùi tôi, tôi thụt dần vào sát vách trại. Những sớ cây cứng sần nhám nhúa tấm lưng. Phải kiên nhẫn thêm chút nữa, con nắng sẽ chợt biến khi mặt trời lăn xuống bên kia vách trại.

Cô Hai Bảnh từ xóm ngoài đi vào, tay ôm tay xách, cô nhoẻn miệng cười với tôi, hở lợi đỏ tươi, hàm trên trống hốc chỉ còn hai ba cái răng vàng bựa, xiệu xạo :

- Nắng ơi là nắng ! Cho tao ngồi kế bên kiếm mát một chút nghe con, làm phước há. Cha mẹ ơi, nắng tháng ba bà già le lưỡi.

Không đợi tôi trả lời, cô xà xuống bên tôi, lui cui thản nhiên bày hàng, như không nghe tiếng xì xò và con mắt liếc của bà Bảy Bánh Khọt :

- Than nắng than mưa sao không ở nhà cho khoẻ, cứ đi rểu rểu….Buôn bán chi cho mệt với hai cha con cọng củi dầu, vợ chồng đá lửa hột quẹt máy.

Cô ngồi chồm hổm, cái đầu nhỏ lắc lư hài lòng giữa hai cái đầu gối tong teo, những ngón tay chậm rãi xếp vuốt cho ba tờ giấy nhám bốn góc cong queo nằm thẳng hàng bên cạnh chùm ống đựng đá lửa, vài điếu thuốc đã gãy gập, đôi cây củi dầu đen bẩn. Xong xuôi, cô ngồi bẹp xuống đất, thở phào hài lòng, tay vuốt trán, tay phe phẩy miếng bìa giấy cứng đen dơ không kém.

Cô tên Bảnh nhưng cô không bảnh chút nào hết, tuổi cô tròm trèm năm mươi. Da cô đen cháy vì nắng. Mặt cô góc cạnh, ít thịt, ít da, ít mỡ, hai con mắt trỏm lơ đôi hốc xương sâu tròn, gò má cao nhọn hoắc, da dán sát, mỗi khi cô cười, vẽ nên mấy vòng nhăn khó nhọc toả ra chắp cánh cho chiếc mũi to bản và thiếu sụn sóng. Tay chân cô lỏng khỏng loắt choắt, không lớn hơn mấy cọng củi bao nhiêu. Tóc cô loe hoe mấy sợi khô gãy ngọn vàng cháy, nhưng cuộn tóc mượn của cô dài và nhiều, cô chắp vào, bới cũng được một củ nừng nhỏ xíu bằng hai nắm tay cô. Không bảnh nhưng cô hay cười, hay nói, khi lảm nhảm, lúc rõ ràng. Hai bàn tay xương xẩu của cô tẩn mẩn tần mần lật vạt áo ngoài, giở vạt áo trong, thò vào cái túi căng phồng, móc ra một cọc giấy tờ đã vàng uá, sờn cạnh. Cô cười cười, miệng lép nhép đếm một hai ba bốn, cọc giấy đổi thứ tự, xong xuôi, cô cho cả lại vào trong túi áo trong, cài kim tây cẩn thận. Hai mùa mưa nắng, cô chỉ có hai cái áo bà ba mặc chồng lên nhau, cái trong màu trắng đã thành vàng cháo lòng, dài và rộng hơn áo ngoài, hai túi lúc nào cũng đầy nhóc giấy tờ, đội hai vạt áo ngoài, miệng túi đen thui. Chiếc áo bà ba bên ngoài bàng bạc màu nâu, chật cứng và rách te tua, nút đã mất, đôi vạt liền nhau đôi nơi bằng mấy cây kim tây. Thành ra cô như mang hai chữ V một xuôi, một ngược phía trước. Trông cô như mặc một thứ yếm và áo tứ thân kì dị như trong một tuồng chèo tôi có lần xem trên ti vi. Bà Bảy Bánh Khọt kể hồi xưa mẹ cô giàu, nhờ nghề dệt chiếu, người làm chật nhà, bạc giấy cả cọc. Không may nhà cô bị cháy, mẹ cô chết thiêu, gia tài tiêu tán, chị em cô, một tiểu thơ, một công tử bỗng chốc trắng tay. Lối xóm thương tình hùn tiền phúng điếu. Hai chị em đi mua chiếu người khác làm sẵn, ngày ngày vác đi bán khắp nơi. Tới giải phóng, nghề cô phi sản xuất nên trở thành nghề cấm, mỗi lần bị công an rượt, cô liệng bó chiếu chạy thoát lấy thân. Chạy thoát được hai lần thì cô cụt vốn. Em cô, chú Ba Tỏn, nhậm lẹ hơn nên tới nay vẫn giữ nghề cũ, còn cô chuyển qua buôn bán đồ lặt vặt sống qua ngày. Bà Bảy, không biết sao lại chẳng ưa cô, khoái chọc cô, bà nói má cô kì, con xấu xí mà đặt tên như vậy. Tôi thấy ông trời cũng chẳng bảnh với cô bởi ông khiến cô khùng khùng từ hồi nào tới bây giờ. Chắc từ hồi mất mẹ,ï tài sản chẳng còn. Nhưng má tôi nói nhờ vậy mà cô không khổ.

Bà Bảy chợt đằng hắng mấy tiếng, tôi giật mình nhìn bà rồi nhìn theo hướng mắt bà.

Hai người lạ mặt từ ngoài xóm đi vào. Dáng vẻ, điệu bộ chỉ có thể là công an chìm hay bộ đội đi tham quan xóm nghèo của nguỵ. Ðến trước " cửa hàng" cô Hai, họ dừng lại, ngắm nghíá. Người đeo kiếng đen ngồi xổm xuống, rờ rẫm tờ giấy nhám, rồi hỏi cô :

- Tôi mua loại giấy này, chị có nhiều không ?

Cô Hai cười tươi, hở lợi, hở răng :

- Có chớ, có chớ, muốn bao nhiêu cũng có !

Hai người đàn ông liếc nhau, người đeo kính mau mắn :

- Ðộ hai trăm tờ, chị có đủ không ?

Cô Hai do dự. Rồi lại gật đầu :

- Ðủ là cái chắc. Tri túc tiện túc hà thời túc.

Người đàn ông ngẩn ra nhìn bạn, rồi quay sang tôi. Tôi chưa kịp lên tiếng thì bà Bảy nói lớn, hai con mắt không thèm nhìn ai :

- Ðòi nứng ! Ðòi nứng ! Cấy nài khói nó !

Tôi nín thinh. Hai người đàn ông nhìn nhau, rồi nhìn bà Bảy. Cô Hai cười cười, vuốt ve mấy tờ giấy nhám. Bà Bảy tỉnh bơ, giơ tay quạt ruồi, ngó bâng quơ vô phía trong xóm. Rồi bà đập bốp bốp vào bắp chân, nói nhanh với tôi :

- Mẵn cuối khíu chọ quứng chà…á !

Gì chớ bà mà nói lái thì đố ai không quen có thể hiểu được, nhất là khi bà sửa giọng lơ lớ, người Tàu tưởng bà nói tiếng Ấn, người Ấn tưởng bà nói tiếng Quan Thoại, người Kăm Pu Chia tưởng bà dân Lào và người Lào sẽ đinh ninh bà gốc Thái ! Trưa rỗi rãi, bà luyện tôi cách nói, hai bà cháu thỉnh thoảng tán chuyện toàn bằng tiếng lái, mỗi lần như vậy thì cô Hai, mím môi trợn mắt không chen vào được một tiếng. Mỗi lần, cô đều tủi thân lẳng lặng dọn hàng về nhà sớm.

Hai người đàn ông ngẩn ra một lúc. Cô Hai lừ lừ dòm bà Bảy, hai con mắt có tới bốn tròng trắng, nụ cười đỏ khép lại. Tôi đâm lo. Cô mất mối này hơi uổng.

Người đeo kính đen nói :

- Này, chị giao đủ hai trăm tấm thì giá bao nhiêu tôi cũng mua.

Cô Hai nở lại nụ cười ngỏn ngoẻn :

- Tưởng gì ! Năm trăm tờ tui còn có đủ, huống chi là hai trăm. Trăm năm trong cõi phù sa. Cháy nhà cụt vốn thì ra ăn mày. Mấy chú ăn bánh, ngồi chờ ở đây, tui vô nhà lấy hàng.

Cô đứng lên, quày quả đi vào xóm. Ðược ba bước, cô quay ngoắt lại, xoè bàn tay :

- Mấy anh phải đưa trước chút đỉnh…

Người đàn ông không đeo kính thò tay vào túi, móc ra tờ giấy bạc mới :

- Ðây, tôi đưa chị trước một trăm đồng, có bác và cô đây làm chứng đấy nhé.

Người kia lại mau mắn :

- Tôi đi theo cùng với chị có được không ? Vào xóm có xa không ?

- Aên theo thuở, ở theo thì. Anh cứ theo…Cứ theo. Tui chạy trời…không khỏi nắng. Ở đời này muôn sự phù vân, tranh chia làm chi cho mất lòng lối xóm…Phải không, hả anh Hai ? Cứ đi theo nhưng phải chờ tui ngoài cửa. Ðứng xa xa chớ có vô nhà. Khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái, ta là phận trai. Vô nhà cha nội kêu công an tịch thâu hết thì mẹ con tui đói nhăn răng.

Hai người đàn ông lại ngẩn ngơ nhìn nhau nhưng cô cầm tiền nói cám ơn rồi đi vào xóm trong. Người đàn ông vội bước theo…

Lũ trẻ tụ tập đông đảo quanh tôi và bà Bảy, chúng cười giỡn, xô đẩy, đầy vẻ chờ đợi. Bà Bảy mắng tràn :

- Tụi bây yên lặng, trật tự giùm tao một chút coi. Sao không đứa nào đi đâm thằng tí hết trơn ?

- Rồi bà Bảy !

- Chútù nữa bà Bảy ! Chưa vô tuồng mà bà Bảy !

Bà Bảy trợn mắt :

- Nói bậy ! Im giùm tao cái coi ! Ðứa nào muốn ăn mở hàng bánh khọt nóng ? Chú ăn bánh không chú ?

Người lạ mặt bớt vẻ tò mò ngơ ngẩn lúc đầu, mỉm cười thân thiện với lũ trẻ. Bà Bảy bỏ mấy cục than vô lò, thổi phù phù. Tôi không dám mở lời mời tiếp chú mua kẹo mua bánh như bà Bảy.

Ðược một lát, người đàn ông kia trở lại, mặt mũi hầm hầm :

- Tiên sư nó chuồn mất rồi !

Cả hai sôi sục giận dữ. Ðám con nít ré lên cười. Người đeo kính tiến về phía tôi, nhỏ nhẹ hỏi :

- Cô có biết cái bà bán giấy rám lúc nãy không, bà ấy tên gì ?

Bà Bảy nói hớt, bằng tiếng Việt bình thường xóm trại :

- Bả không ở xóm này, chú kiếm bả hổng ra đâu, giờ này bả lội qua bên kia sông rồi.

Ðám con nít bu quanh lại cười, vài đứa còn hích cùi chỏ vào nhau, không thèm giấu giếm điều khoái chí. Hai người đàn ông đi tới đi lui, dòm dòm, kiếm kiếm. Vòng tròn lũ trẻ co dãn theo chân họ. Người ta từ mấy gian nhà trong xóm bước ra khỏi ngưỡng cửa, tay ôm trán che nắng chói, dòm theo đám đông. Ðược một chốc, hai người lạ đành vạch lũ trẻ, đi ra khỏi xóm, tôi nghe loáng thoáng :

- …láo thật…phản động cả lũ…

Chờ họ đi khuất, bà Bảy hô lớn :

- Vãn tuồng rồi, lũ tiểu yêu ! Ðứa nào ăn bánh thì ngồi xuống đó, đứa nào không tiền thì giải tán, đừng đợi công an tới ! Lát nữa bà Hai bả về kể chuyện lội sông cho nghe.

Ðến gần xế, quả thật cô Hai trở ra. Quần áo khô queo, nhưng một lớp đất sình còn ôm hai mắt cá chân. Xóm mát mẻ, người ta ra ngồi "chật quán" thím Ba. Cô cười cười với đám bợm nhậu. Chú Ba ngoắt cô :

- Bà nội kể tụi con nghe coi, thuyền ra cửa biển thế nào ? Bà chạy đâu mà nó tìm không ra ?

Cô Hai giở áo, mở kim băng, móc trong túi ra tờ giấy bạc nhăn nheo và còn ướt :

- Chị Ba bán cho tui con khô mực…Trời ơi, nó vô tới cái … " vi la " của tui là nó té ngửa, còn hơi sức đâu mà rượt với tìm. Tìm em như thể tìm chim, chim bay biển bắc, anh tìm biển nam. Nè, anh Ba, nhậu ít ít thôi nghen, Ngoc Hoàng ngồi tựa ngai vàng, thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi…Ổng mưa xuống quậy sình bới bùn lên hôi thúi, ai chịu cho nổi. Sình tới đầu gối, nước tới cần cổ tui chớ bộ giỡn chơi sao. Thiệt khổ !

- Tụi nó không phá tanh banh cái chòi của chị thiệt phước đức bảy đời. Tụi nó đòi kêu công an, tui mới nói đừng kêu vô ích, bởi vì chị không được…bình tĩnh. Họ mới chịu bỏ đi đó..

Cô Hai cười :

- Ai tỉnh ai say ? Trời say trời cũng đỏ gay, ai cười ? Cười người hôm trước hôm sau người cười. Anh Ba ngạo tui chi vậy anh Ba. Chu choa, hàng họ gì của tui chắc họ túm ráo nạo…Cụt vốn thiệt rồi nghen.

- Mấy hột đá quẹt của chị đó, cha con nó về quẹt hụt hơi cũng không ra lửa, tiếc làm chi, chị cũng lời khẳm rồi. Phải không ?

- ý, tại anh không biết đó anh Ba, gia tài tui còn một cây căm xe đạp, năn nỉ gãy lưỡi thằng Thành mới chịu cưa khúc cho tui. Sông có khúc, người có lúc. Dò sông dò biển dễ dò…Mấy ai lấy thước mà đo lòng người. Hồi tui còn bán chiếu, lòng quê đi một bước đường một đau. Bây giờ nhẹ gánh…củi dầu. Lấy đâu giấy nhám mà chà đồ nhôm…Mấy người coi bộ giò tui nè, chà rửa quá trời mà có sạch được đâu…Bùn sình, miểng chai cắt nát bấy…Còn cha gót đỏ như son…ý cha ơi…Hồng nhan thiệt đa truân…Hồng nhan…chưa bạc mệnh là nhờ phước đức của mẹ cha.

Thím Ba đưa mực, thối tiền. Cô Hai tháo kim băng, cất nắm tiền, cài kim băng, cầm mực đưa sát mũi hít hít. Cô lững thững rời quán, mắt cô liếc lên bàn thờ Tổ :

- Ngó lên nhang tắt đèn mờ, mẫu thân đâu vắng bàn thờ lạnh tanh….Chị Ba nướng mực chắc hổng chín nên nó tanh rình !

Cậu Năm nói với theo :

- Ðừng mò ra đầu xóm, công an nó đợi chị…Bà này thiệt gan cùng mình, dám gạt dân nhà nghề SBC, xóm mình bữa nay vui quá.

Cô Hai quay lại, nhe lợi :

- Vui là vui gượng qua thì, xóm làng xa vắng vui gì mà vui ! Mấy ông nhậu riết nói bậy hết biết…

*

Sau vụ lộn xộn này, tin đồn trại sẽ bị giải thể càng lan rộng. Không chỉ căn trại mà còn cho tất cả những ngôi nhà sàn lụp xụp hai bên sông. Mọi người lo ngại. Thiên hạ giải thích phải dẹp bỏ nghèo nàn hai bờ để làm đẹp con sông. Dễ hơn làm đẹp dãy nhà già nua héo úa. Bị ví hỏi xôn xao, anh Ba phát giận :

- Tại mấy người ngoan cố, phản động, chửi nhà nước, gạt cán bộ…Làm quá, tui bao che sao nổi. Ở ngoài Bắc, chánh quyền cho phép ở tập thể mới được ở tập thể…

Má tôi lo lắng, đêm nào cũng trằn trọc thở dài. Thuyền viễn xứ biền biệt sương khói miền xa . Ðoàn về, đoàn đi. Mùa nắng vừa thả những hơi nóng sau cùng thì chuyện đào mồ bốc mả lấy đất dựng xây cũng lên đến đỉnh cao quyết liệt. Má tôi tìm cách "bán nhà" mặc dù chú thím Ba hết sức ngăn cản:

- Mình phải cương quyết, đoàn kết…ở lì, không lẽ họ tới ủi đại mình xuống sông ?

Có lẽ má sợ bị ủi xuống sông thật nên má bán chỗ nhà chúng tôi trong trại cho một người bà con chú hề Mẫn. Hai má con dọn vô xóm Vựa Mía, ở đỡ nhà cậu Năm Trường. Còn cậu, cậu vác đờn, xách gói qua bên chòi thằng cháu đang ở tù về tội vượt biên. Cái chòi ở xéo xéo bên kia bờ sông cụt. Cậu vui vẻ lắm, dọn nhà cho má con tôi xong, cậu về chòi kéo đàn bầu nỉ non một điệu mừng rơn.

Nhà mới chúng tôi nằm bên nhánh sông chết, trước kia là bãi xác mía của nhà máy làm đường. Nhà máy đóng cửa, bãi mía thành bãi rác rồi bãi đất sình, nhà cửa mọc loạn xạ những nơi sình đã khô rắn. Phía trên chỗ nước còn với tới được bờ đất và phều phào lên xuống đôi lần trong ngày là cây cầu ván ốm nhom bắt ra hai ngăn cầu tiêu công cộng.

Ngôi nhà cậu Năm chơ vơ giữa mùi rác rến, hồn ma xác mía lên men. Chỗ sông xăm xắp ấy, khi triều lên, cũng đủ nước cho trẻ con ra tắm đen cả mặt sông, chúng bì bõm đuổi bắt, giành giật đủ thứ đồ vật phế thải còn …xài được. Xoong chảo nồi ơ đã lủng đít, méo mó, chén bát, thùng nhựa, bao ni lông. Chỉ khác ở chỗ vì đất hẹp và sông cạn, lũ trẻ có đứa sắm được cần tre dài, người ta đi cầu, giấy dơ rơi xuống chưa chạm nước đã bị xớt ngang hay vừa chạm nước chưa kịp trôi đã bị vớt lên.

Buổi tối đầu tiên trong nhà lạ, tôi rưng rưng nước mắt. Nhớ ba, nhớ anh Hai, nhớ Kha. Chỉ một mùa mưa, một mùa nắng, bao nhiêu là biến cố…Bất giác, tôi ngồi dậy, bước ra ngoài sàn nước nhỏ, ngồi ngó qua bờ bên kia. Từ nơi này, tôi không còn nhìn thấy thành cầu đúc và những chiếc đầu khách bộ hành qua lại. Thấp thoáng những ánh đèn vàng yếu ớt các nhà bên kia sông. Mặt sông đen, lấp lửng trăng liềm, gió thổi nhè nhẹ. Nước mắt ấm mặt, tôi cất giọng ai oán, "làm" Lệ Hoa Thanh Nga trong Hai Chuyến Xe Hoa :

"Thôi thôi tôi không nguỵ biện trước lời cô buộc tội, tôi chỉ xin cô hãy dịu bớt cơn sôi nổi, căm….hờn !"

Có tiếng đờn lục huyền và tiếng sanh gõ thật ăn nhịp vọng từ bên kia chòi cháu cậu Năm. Tôi sung sướng bắt hơi dài hát tiếp

"sự thật ra sao rồi cô sẽ tận tường …" Tôi vẫn biết cô vì quá thương anh, vì muốn bảo toàn hạnh phúc cho anh nên cô mới đang tâm mà chia rẽ mối duyên tình, cô muốn làm sao cho hôn lễ bất thành…"

Tôi say sưa ca diễn, hết tuồng này đến tuồng nọ, hết làm từ sơn nữ Klai đến sơn nữ Phà Ca của chuyện tình gãy gánh nửa đường, từ nạn nhơn oan ức trong những cuộc nhân duyên trắc trở đến một Dương Quý Phi mắng đám quan quân hèn nhát bỏ chạy trước vó ngựa An Lộc Sơn; giữ không nổi thành quách mà lúc đường cùng còn đòi bức tử Thái Chân !

Tôi mê đi trong tiếng hát, nghe giọng mình não nùng, ai oán trong đêm vắng. Ðêm lặng nghe, côn trùng im bặt, nước ngưng chảy, gió ngưng thổi. Mọi tủi thân, hờn giận, đớn đau, thương nhớ đã tuôn bay theo lời hát.

Khi đứng dậy vào nhà, tôi nghe mình nhẹ tênh.

Chú Ba muốn má giữ yên chỗ quán Thanh Danh nên tôi vẫn ngày ngày ra bày hàng bên bà Bảy Bánh Khọt, cô Hai Bảnh và các gánh xôi chè khác. Tôi vẫn ngồi ngoái đầu vào trại nghe chú Ba kể chuyện "gánh hát mình hồi xưa " hay năm ba điều vui buồn trong lần lưu diễn vừa qua, tôi vẫn thích nghe các dì cô các chú bác ngồi chửi xiên chửi xéo, mỉa mai công an, cán bộ, hay âu lo nhắc chuyện đuổi nhà.

Mấy hôm nay, chú Ba vui lắm vì gánh hát diễn trong Cây Quéo, đến tối bầu đoàn thê tử về trại ngủ rất tiện lợi, đỡ tốn tiền thuê nhà trọ. Nhờ anh Ba Kiểu giới thiệu, cơ quan " cóc khô" gì đó mời đoàn Ðồng Phước tới diễn nhân dịp "mấy anh ở trên vô Nam tham quan ". Tối hôm qua, đoàn hát tuồng " Người dũng sĩ làng Phước An ". Anh Tư Hùng, tức kép Hùng Anh, người cao lỏng khỏng, chuyên môn đóng vai xâm lược Mĩ. Anh đeo lỗ mũi giả, đội tóc vàng, đánh phấn thiệt trắng, viền kẽ mắt xanh…là y chang như …."ngài" cố vấn. Tuy có hơi ốm o ( chú Ba cười ờ ờ thì gánh hát mình đặc biệt có thằng Mĩ ho lao !), nhưng anh diễn xuất tài tình, anh nói tiếng Việt lơ lớ không bỏ dấu, miệng nhóp nhép giả bộ nhai kẹo cao su, lâu lâu gật gù đệm đôi tiếng ô kê ô kê. Khán giả ai cũng tưởng Mĩ rút mà bỏ sót lại một mạng !

Hết tuồng, mọi tài tử ra dàn chào khán giả. Phái đoàn có "anh ở trên" dẫn đầu bước lên sân khấu, lần lượt bắt tay ngợi khen nồng nhiệt từng đào kép. Ðến phiên anh Tư, "anh ở trên" không dừng bước, mà đi trớt luôn, "ảnh" chỉ bắt tay những người kế tiếp, cả phái đoàn đi theo cũng nhất trí đồng loạt không dừng lại bắt tay anh Tư. Anh Tư sượng trân, tay chân lóng ngóng ! Cả đoàn hát, trên sân khấu, dưới rạp, bên cánh gà nhìn nhau mà không dám cười. Trên đường về, chú Ba chẳng đặng đừng mỉa mai anh Ba Kiểu :

- Cha chả…Lòng căm thù đế quốc Mĩ của mấy anh…sâu sắc dữ ha ! Tời thằng Mĩ giả, kết cuộc bị bắn chết queo rồi mà mấy ảnh cũng không thèm rớ vô, chắc sợ…cùi lây hả ?!

Về trại mọi người kể chuyện lại, cười gần bay nóc nhà. Chú Ba an ủi anh Tư :

- Thằng Tư mầy diễn xuất tới quá, y như thiệt. Hơi đâu để ý. Ðóng tuồng mà được khán giả thương ghét tới mức đó là đạt quá cỡ thợ mộc rồi, mình cần gì cái bắt tay vô nghĩa, phải không ?

Chuyện anh Tư vừa qua, người trong trại xầm xì về chuyện ma. Thím Ba nói trong xóm Vựa Mía độ rày có ma. Thím nói người ta thấy rõ ràng cô Thanh Nga hiện hồn về ngồi xoã tóc ca vọng cổ mỗi đêm. Tôi nhớ đến tối hôm kia, cô Hai Bảnh ngồi bên cạnh má tôi, nghe tôi ca, gần hai giờ khuya cô mới ra về.

Tôi giật mình liếc nhìn cậu Năm, vừa lúc cậu cũng nhìn sang, nháy một bên mắt.

Có người hỏi cậu :

- Anh ở mé đó anh có thấy gì không ? Bà Bảnh bả nói trời ơi, Thanh Nga hiện về ca mùi hết xẩy.

Cậu tỉnh bơ :

- Mấy bữa nay về khuya, ngủ thẳng cẳng có hay biết gì đâu ! Ví dầu cô về thiệt tui nhứt quyết khảy đờn gõ nhịp phụ hoạ cô liền. Tội quá, chết oan như cô thì hồn khó lòng siêu thoát, phải vậy không, thằng Ba ?

Thay vì trách cậu duy tâm như mọi khi, anh Ba Kiểu chỉ lúng túng chống đỡ :

- Làm…làm sao… tui… tui biết được ?

Kể từ đó, thỉnh thoảng cậu cháu tôi đợi đêm khuya thanh vắng, cậu đờn cháu ca. Chẳng mấy chốc tiếng đồn bay xa. Cô Thanh Nga chết oan nên trở về !!

Người trong trại thì thào, xuýt xoa kể chuyện, người ngoài xóm ra vào hỏi thăm. Ðâêm về, nhang đèn cúng hai bên sông nhấp nháng. Má tôi không bằng lòng nhưng sợ cậu Năm giận, chỉ thở dài :

- Anh làm gì thì làm, đừng đến nỗi…quá quắt !

Má tôi nói vậy vì cậu Năm Can Trường đã nghĩ ra một kế hoạch làm tiền thần sầu.

Cậu nói :

- Mình vừa báo thù cho cô Thanh Nga vừa có tiền vô. Cô Tư muốn cho con Ngân gặp lại cha anh nó hay không ?

Chương trình cậu bắt đầu bằng cách khuếch trương và phao tin (đồn nhảm ) trong các buổi nhậu tại quán thím Ba : quả thật cô thỉnh thoảng hiện về truyền lệnh cho cậu sửa soạn Tây ban cầm, đờn gáo, đờn bầu, sanh, phách... Phải sẵn sàng rao dạo, gõ phím, đệm nhịp cho cô ca !

Người ta chen lấn đến chỗ Chòi Cậu xin thắp nhang, đốt vàng mã, thắp đèn cầy và cúng …tiền thật. Có người còn năn nỉ xin ngủ qua đêm để khuya về nghe ca.

Cậu ưng thuận rồi thì chuẩn bị rất cẩn thận, khuya vắng, cậu dạo đờn ra hiệu. Ở bên kia, tôi mò mẫm ra khỏi nhà ra ngồi ngoài đầu cầu ván mục chỗ bãi đổ mía cũ, bên cạnh cây cầu tiêu.

Có khi tôi lặng yên buồn bã. Có khi tôi ca một điệu ngắn. Khốc Hoàng Thiên, Bình Bán vắn, Nam Ai…Hôm nào trời dịu mát hoặc hứng khởi dâng tràn, tôi ca luôn sáu câu.

Tiếng ca, tiếng đàn phát xuất từ hai nơi khác nhau, nhờ những trận gió báo mưa truyền đi trên sông, toả về xóm nhỏ, len lỏi vào những tâm tư khuất tất khiến cho người ta rúng động, âu lo, kinh sợ…Bởi vì giọng tôi càng ngày càng giống cô Thanh Nga. Tôi là cô trong những bức hình ba tôi dán trên vách nhà, tôi là cô trong vô số tuồng tích ca bản đã đưa cô lên đài danh vọng và khắc ghi nơi lòng người trong trại. Tiếng hát cô là tiếng nhớ tôi gởi từ quê xưa về bến bờ xa lạ, cho ba tôi, cho anh Hai, cho Kha. Tiếng đàn cậu Năm ngọt lịm một nỗi niềm quá khứ, ai oán một băn khoăn hiện tại. Ðôi lúc, những giọt Măng cầm tỉ tê thoáng nét hân hoan cậu là nguyên nhân của bỗng dưng lặng yên buồn bã tôi.

Riết rồi cậu bỏ gánh hát luôn. Cậu thành ông bầu của tôi.

Chuyện bí mật không ai biết, kể cả trong trại. Chú thím Ba lâu lâu dòm tôi, lắc đầu cười và không nói tiếng nào. Kín như bưng. Tôi và má vẫn thản nhiên dọn hàng ra bán mỗi ngày.

Người ta đến cúng vái cầu xin ngày một đông đảo. Cậu Năm hốt bạc và dần dần xếp đặt chương trình gọn gàng, đâu ra đó.

Ðám đàn em ở hai bên đầu cầu và đầu xóm ngoài là đội lính canh, lính gác với bổn phận coi giò cẳng thiên hạ cho thiệt kĩ trước khi chỉ đường vô Chòi Cậu, nơi thầy Năm Cầu Bông bói bài, coi tay coi tướng, thậm chí coi luôn tử vi cho bá tánh.

Trong Chòi, cậu trữ sẵn nhang đèn, giấy vàng bạc và cả bao thơ cúng. Tuỳ hỉ, ai muốn cúng tạ bao nhiêu thì cúng. Tuỳ theo yêu cầu, khẩn thiết ít hay nhiều, độ dầy mỏng của phong bì các thân chủ, cậu kín đáo đưa họ ra ngoài hậu liêu, nơi cậu lập bàn thờ Cô, một bức họa truyền thần thật lớn cô Thanh Nga,- ba tôi vẽ thuở ba tương tư cô -, đôi lư đồng, vài ba chân đèn thờ, toả khói nhang nghi ngút!

Cậu Năm còn xủ quẻ, giải hạn vận nữa. Hỏi thân chủ đôi câu, cậu biết ngay họ muốn gì va chờ đợi điều gì. Cậu không bao giờ đòi hỏi hay định giá, ai muốn tự ý cúng...Cô bao nhiêu cũng được. Vậy đó mà cậu hốt bạc mệt nghỉ. Cậu giao tiền hết cho má sắm vàng. Má tôi cầm lấy những bao tiền mà run rẩy. Tiền càng vô, bà càng hoảng. Mỗi lần như vậy, câu Năm nhẹ nhàng ca điệp khúc cũ :

- Cô muốn Ngân gặp lại cha anh nó hay không ? Vợ chồng con cái đoàn viên ! Cùng lắm thì tui đưa hai mẹ con cô đi, tới đâu thì tới, Cô độ, Tổ đãi thì mình tai qua nạn khỏi, xum vầy vui vẻ mà còn có cơ chữa bịnh cho cháu Ngân...

Tôi biết cậu đánh trúng nhược điểm của má tôi. Khi tôi ra đời, sự nghiệp cầm ca hứa hẹn một triển vọng huy hoàng mà má tôi còn dứt bỏ không thương tiếc. Kể số gì mớ tiền bá tánh thân chủ đã vui lòng đóng góp ! Hồi đó, má hi sinh để chỉ biết dạy dỗ, che chở thân tôi. Thân tàn tật nhưng tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người trong trại. Tôi được học hành đàng hoàng, cô thầy là ba má, ông bà ngoại, mấy cô chú bác dì trong gánh hát. Chỉ khi nào bước ra khỏi cửa trại, vô xóm lạ, ra chợ, tôi mới ý thức được sự tàn tật của mình, và tủi thân, sợ hãi những níu kéo, chọc ghẹo.

Ước mơ của ba là đưa tôi qua Ba Lê để làm đôi tay giả. Ừ, tay giả, bởi vì má sanh ra tôi trắng da, dài tóc, mặt mũi đẹp như cô Thanh Nga, nhưng cánh tay trái với ba ngón yếu ớt và từ vai phải chỉ mọc ra một mẩu thịt thừa ngắn mềm, vô dụng.

Ước mơ ra ngoại quốc của ba má tôi tàn lụn theo tương lai đoàn hát. Lòng thương yêu trời biển bị ray rứt và đắng cay trì kéo khiến ba tôi quyết định nhổ neo liều mình ra đi. Ðáng lẽ ra thì ông cũng bó tay chịu chết như chú Ba. Tội cho họ quá, thứ nghệ sĩ quen phóng khoáng tự do như ba, như chú, như cậu Năm, giờ đây phải cắn răng chịu đựng những chèn ép và đạo đức giả. Vậy đó, mà chỉ vì tôi, ba tôi ra đi...

*

Cũng may, lũ trẻ trong xóm sợ ma. Tôi xoã tóc rên khừ khừ chỉ đôi ba đêm mà bây giờ trời vừa chạng vạng là không còn đứa nào dám ló mặt ra chỗ cây cầu mục. Phần cậu Năm, cậu cũng nuôi mập đám công an ngoài đồn nên chuyện làm ăn của hai cậu cháu ngày càng phát ! Chưa đầy năm, má tôi đã trữ hơn hai chục lượng vàng ! Sợ thất...đức, má tôi buộc cậu phải cho bớt tiền cho người nghèo. Cậu kêu trời nhưng cậu sung sướng làm theo lời má. Cậu làm Bao Công xóm nhỏ, coi xét gia cảnh, xem tướng thiệt. Người nào quá khốn cùng, không tiền bạc của cải mà muốn mua sắm thăm nuôi chồng con bị nhốt trong trại cải tạo, hay gia cảnh túng quẩn vì vượt biên hụt, đi tù về thân trơ trọi, không cửa nhà vân vân thì cậu dặn họ bỏ năm mười đồng vô bao thơ, cầu xin khấn khứa Cô. Bữa sau trở lại, nếu Cô chứng được lòng thành có thiệt, tiền đặt cọc sẽ hoá trăm, hoá ngàn. Má tôi sung sướng, nhẹ người theo nét hớn hở ngẩn ngơ của người lạ. Còn kẻ gian tham thì thôi khỏi nói, không có một cắc bạc trong bao thơ ! Cậu Năm can trường mà cũng thông minh số một, cậu thấy rõ ruột gan người ta, ai thiệt tình, ai láo xạo, cậu biết hết. Chỉ cần cậu xào bộ bài tây, đêm đêm cậu tụng mấy quyển tử vi đẩu số. Hồi nhỏ cậu đi buôn đường thuỷ với cha nên chuyện sông nước, gió nồm, gió bắc, cậu rành dễ sợ.

Nào là hạn đóng ở cung Sửu, tuy gặp thanh long , hoa cái nhưng không có lộc...Phú đăng Hoả mà trúng Hải trung Kim sẽ không khắc được, chớ nên....vượt biên, không nên hùn hạp phen này...phải cúng Cô, thỉnh ý...Hạn lớn đó nghe, phải cúng Cô cho chuyến đi trót lọt ! Gặp vợ cán bộ, cậu chém thẳng tay. Ảnh sắp bị điều tra tài sản ? Phải vô chùa cúng ngay một số tiền lớn làm phước, phải tặng thầy Năm một tấm vé số độc đắc cặp ba !

Má tôi lo ngại nhiều cũng phải. Lắm khi ban ngày mà thiên hạ kéo tới đông đảo, xì xụp vái lạy, cúng xá không ngớt. Ở bên bờ bên này, nhiều khi tôi sặc sụa vì mùi nhang khói, lòng ngổn ngang vì những tiếng thì thầm khẩn cầu, những bóng người lom khom thấp thoáng.

Ban đêm ít người hơn nhưng tôi vẫn nghe rờn rợn chập chờn một nguy hiểm khi nhìn thấy những dáng người mò mẫm ra phía sau miếu Cô, ngoan ngoãn ngồi xếp hàng chờ đợi.

Những con người chán nản cùng cực. Họ không còn gì khác để bám víu, hi vọng và tin tưởng ? Hay thật tình, chỉ là tấm lòng hâm mộ không nguôi một nghệ sĩ tài danh bạc mệnh ? Làm sao giải thích và biện minh cho sự thành công của cậu Năm. Tôi không tin cho lắm ở tài ba thánh tướng tiên tri rất đột ngột của cậu.

Tôi bắt đầu sợ hãi, tuyệt vọng mỗi lần ngồi bên cầu chờ đợi những bóng người yên vị, chờ đợi những nốt đàn đầu tiên. Cuộc đời họ đau buồn. Cuộc đời tôi không lối thoát. Nào đâu sân khấu đẹp đẽ với trăm vạn ánh đèn màu và áo xiêm rực rỡ, phong cảnh hương xa, lâu đài xứ lạ, hoàng tử khôi ngô, người hùng hiên ngang lẫm liệt ? Nào đâu những chuyện tình tuyệt vời, diễm ảo ? Những ước mơ, hi vọng của tôi...

Chỉ có tiếng ca uất nghẹn trong đêm đen, đổi lấy những đồng tiền rách nát, dơ dáy nhưng căng căng phồng những ước mơ hão huyền.

Ðột nhiên, tôi nghe lạnh buốt sống lưng với ý nghĩ má tôi, cậu Năm, tôi, những bá tánh đang nuôi những giấc mộng điên rồ kia, là đàn kiến đang cuống quýt hãi hùng chạy tứ tung trên bờ vực thẳm. Hôm qua, tôi nghe má bàn với cậu sẽ về Bến Tre mua ghe lớn, xin vào quốc doanh đánh cá với người em ruột của cậu. Ðánh cá vài chuyến cho quen lại với sông nước, chờ ngày biển lặng sẽ dong thẳng ra khơi trốn đi. Không phải vì má và cậu đã dư vốn mà chính vì xóm Chiếu quá nhiều đổi thay.

Anh Ba Kiểu bị khai trừ khỏi đảng và ra khỏi ban lãnh đạo đoàn hát Ðồng Phước. Người thay thế anh nghe đâu còn "ghê gớm" sắt thép hơn anh hồi mới đến nữa. Trong đoàn đã có vài người lên đường đi học tập. Chú Ba Xanh cũng bị cảnh cáo mấy lần. Ðiều chắc chắn sau cùng là dãy trại cũng như những căn nhà sàn lụp xụp gỗ mục hai bên sông sẽ bị giải thể, suốt từ hai bên cầu cho đến tận xóm Vựa Mía.

Ðám công an được cậu Năm nuôi bấy lâu nay cũng bị thay thế, bị đuổi đi hay trốn mất khi thằng cha trung uý công an bị bắt và bị nhà nước tịch thu cái tiệm chui chuyên môn mua bán đổi chác xe gắn máy lấy đại (tức là quản lí giùm) nhân dân.

Cậu tươi cười :

- Sửa soạn kĩ nghen con, ca bữa chót cho ngọt. Cậu cháu mình giã biệt khán thính giả thân yêu. Về dưới quê mình chuẩn bị ra đi. Nội năm nay là cha con đoàn tụ. Ra khỏi cái đất nước rách nát, khốn khổ và đầy quỷ dữ này, tương lai con sẽ khá hơn. Cậu nghe lén ra dô phản động hải ngoại hoài, đám nghệ sĩ mình vẫn sống được, vẫn còn tiếng hát lời ca...ý cha, bỏ bà con trong gánh ở lại...bơ vơ, cậu buồn hết sức, nhưng...Thôi, vái Phật Trời, vái Cô, vái Tổ, cho cậu cháu mình qua trót lọt đêm nay.

Ðêm nay, trời khuya gió nhẹ, mùi nhang thơm ngát. Xóm trại đã yên giấc, chìm trong bóng tối. Ðám thanh niên gác xóm tụ tập đá banh ngoài đường cái cũng đã vào hết trong trạm gác, nằm ngủ sắp lớp trên nền gạch, nên tôi không còn nghe vẳng tiếng cười đùa, ca hát.

Cậu Năm đưa nhẹ tiếng đàn tranh Lý con sáo. Tôi đứng lên, lắc lắc đầu cho mái tóc xổ bung ra. Má tôi vuốt vai, sờ soạng mặt tôi trong bóng tối, thì thầm :

- Cẩn thận nghen con. Cây cầu mục quá trời…Con ca ít thôi, để dành sức cho ngày mai. Sáng mình đi sớm. Má đã lo xong đồ đạc, hành lí.

Cậu Năm bỏ đàn tranh, nhảy qua Tây ban cầm. Thong thả, chờ đợi. Ngồi ở đầu cầu mục, chân buông thỏng, day lưng về phía tiếng đàn, tôi soi mói nhìn vào đêm, cố tìm ra những đe doạ vô hình. Dưới chân lớp sình như cao hơn, đưa mùi hôi vây hãm. Côn trùng bắt đầu rên rỉ. Tôi ngổn ngang tơ vò, buồn vui lẩn lộn. Nhớ đến đôi mắt đen buồn của má, hai bàn tay trắng mềm thon thả xa xưa giờ đây chai cứng sần sùi trên mặt tôi. Ðến cậu Năm, đến ngày mai. Ngày mai nào ? Cậu Năm dạo đàn bài hát ưa chuộng của người vượt biên thuở ấy. Hò ơi giọng hát thiên thu, suối nguồn in dấu, chiều mưa ngang đầu …Chiều nay có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường

Không có trong "mục lục" của cô nhưng cậu cháu chúng tôi chiều nay bỗng ăn khớp không ngờ. Tôi gởi má Bông hồng cài áo, tặng cậu Sân khấu về khuya :

…đuốc sân khấu soi thấu lòng nhau từng nét cảm thông mờ đậm…Cánh màn nhung huyền ảo đã từng mở ra biết bao nhiêu mùi vị tâm tình…Thôi đừng nói nữa (…) ý muốn thiết tha là chăm sóc chu đáo buổi diễn cuối cùng của tôi ngày mà tôi phải thu xếp hành trang vĩnh viễn giã từ sân khấu, tôi muốn đưa nắm tay gởi lời chào biết ơn khán giả tri âm đã mấy mươi năm ái mộ, nhưng ý muốn ấy đã hỏng, tôi phải cam lòng kết thúc đời tôi…

Tiếng đàn đệm của cậu bỗng bấn loạn, chao đảo. Tôi hối hận, không thể đi đến tận cùng của tuyệt vọng, bèn vội vã quay về tuồng tích cũ. Tiếng trống Mê Linh. Chiếc quạt trầm hương.Như chấp tay cúi đầu chào lần cuối. Xóm nhỏ, trại buồn….

Chợt tiếng đàn cậu Năm im bặt. Có tiếng quát tháo, tiếng chân thình thịch trên đất, tiếng chân rầm rập không gượng nhẹ trên những tấm ván nhà sàn. Aùnh đèn pin loang loáng xẻ ngang dọc bóng đêm. Mồ hôi vả ướt lưng, ướt trán, tôi lạnh buốt dọc xương sốùng. Tôi đứng lên. Tiếng cậu Năm la hét trong tiếng người thở hổn hển, những thân thể giằng nhau lăn lộn, huỳnh huỵch vang rõ trong đêm tịch mịch :

- Cha nội chạy đằng trời ! Tưởng "thầy" Năm mình giỏi bói bài, "thầy" phải biết bữa tay Tổ trác!

- Ngân ơi ! Chạy đi con !

- Tụi bây ra ngoài bãi Mía, bắt đồng đảng " thầy " cho tao !

- Con chạy vô xóm Cầu Mới, chạy đi con ơi ! Con…

- Ðứng yên, ai chạy là bắn bỏ !

Tiếng hét của cậu ằng ặc vướng lại trong cổ họng, tức tửi khiến tôi choàng tỉnh, giật mình chạy đi. Những tấm ván nhỏ gập ghềnh than khóc dưới chân tôi. Gió vù vù hai bên tai. Tôi lao mình về phía trước trong bóng đêm dày đặc. Ðôi chân muốn bay nhanh hơn định mệnh. Con tim thình thịch nhảy ra khỏi lồng ngực, lôi đôi mắt nhìn thấy ba má sóng đôi vui vẻ dưới sân khấu nhìn lên tôi bằng ánh mắt đèn màu và kìa, Kha hấp háy cười tròn tay dang chờ đón. Và một mảnh ván ma vương nào gãy vụn dưới chân tôi. Trong một tích tắc thân hình tôi chơi vơi, nhẹ tênh trong khoảng không. Trước khi rơi xuống lớp bùn sình và rác rến, bã mía đang hoá kiếp. Phải gượng dậy, tôi khó nhọc rút chân ra khỏi những nhầy nhụa ghê tởm. Tiếp tục chạy, phải tiếp tục. Tôi chạy vật vả khó khăn trong lớp bùn sình dày đặc. Phải vượt thoát khỏi nơi này, phải ra ngoài bàn tay khắc nghiệt của lũ người kia, phải bay về phía ba tôi, về phía chân trời sáng đẹp, nơi cậu Năm hứa hẹn. Ừ, nơi ấy, đèn sáng, những ống kính hướng về sân khấu. Những ánh đèn đủ mọi màu chói chang. Tôi sẽ áo xiêm lộng lẫy rơi nước mắt khóc chuyện tình dang dở. Tôi u sầu làm Phà Ca, đóng vai cô dâu giả, đớn đau tìm về rừng núi cũ…Tôi làm Giáng Hương đạo diễn một màn giã biệt sân khấu sau cùng…Tôi sẽ cúi chào sung sướng trong tiếng vỗ tay không dứt, tôi sẽ khóc vùi sau tấm màn nhung, áp mặt vào vai má, nghe bàn tay má vuốt ve mái tóc tôi, lau phấn son trên mặt tôi và đút tôi ăn những muỗng chè ngọt lịm…

Tôi cố chạy về phía ánh đèn leo lét ở xóm trong. Ðầu, vai tôi va vào những cây cột chống sàn nhà đau điếng. Phía trên, những ngôi nhà lục tục thức giấc, càu nhau. Có ai cứu tôi không ? Có ai cho tôi đôi tay nguyên vẹn, đôi chân rắn chắc ? Ai gắn cho tôi đôi cánh để bay bổng lên trên kia. Có ai không ?

Ra khỏi đám nhà sàn, trước mặt tôi là con sông rộng tiếng từng luồng chảy nhẹ, thoang thoáng mùi nước, phía bên phải, những khối đen mờ ảo. Dường như là doi đất nhỏ nhô ra cuối xóm Vựa Mía, một bãi rác thứ hai của các xóm ven sông. Thứ rác đã được chắt lựa, bị lũ trẻ chê bai, thứ rác rưởi hạng bét đã bị bươi móc đến tận cùng nên không còn ai dòm ngó đến nữa. Nhưng phía sau doi đất ấy, bắt đầu một xóm khác. Một chút nữa thôi, tôi sẽ thoát ! Ðêm dường như sáng ra ở phía trước, kêu gọi. Tôi dấn bước, nhưng vấp chân, ngã sấp xuống. Ðầu đập xuống một khối mềm nhũn. Tôi co gối, gượng dậy, mặt kề sát khối bầy nhầy hôi thối. Ðôi mắt tôi nhìn gần đến nỗi sắp chạm đôi hốc mắt to đen sâu hơn cả bóng tối vây quanh tôi và hốc mũi còn dính chút thịt da bùng nhùng đen xám. Hàm răng dài những chiếc răng nhe ra cười với tôi, đôi gò má một bên lửng lơ vài sợi thịt đang thối rữa, bên kia trơ xương trắng nhờ nhờ. Trong một khoảnh khắc ánh chớp trí nhớ loé lên khuôn mặt người đàn ông tự tử mấy tháng trước. Tiếng hét tôi xé đứt bóng đêm. Tôi gào lên như điên. Như dại. Aâm thanh hãi hùng vô vọng. Má ơi ! Má ơi !

Xóm bên có tiếng lao xao, ánh đèn loang loáng. Hải đăng nào cho thuyền lạc trong đêm ? Hào quang cứu rỗi hay sấm sét sau cùng ?


Phan Thị Trọng Tuyến
1985













Tiểu Luận



Trong văn chương hiện đại Pháp, Michel Houellebecq là một trong những tác giả đã gây ra nguồn dư luận lớn lao nhất, ngay cả phải ra trước toà án vì tác phẩm và các lời tuyên bố khiêu khích, thẳng thừng của mình. Người đọc có thể thích hay không những gì ông viết, nhưng khó thể phủ nhận đây là một nhà văn thật đặc biệt của thế kỷ vừa qua và hiện thời.

Tiểu luận ‘‘Một vụ án, một nhà văn (hài hước ?)’’ của Phan Thị Trọng Tuyến dưới đây tóm lược những sôi động đã xảy ra. Qua bài viết này của chị, độc giả nắm bắt được tất cả các điểm nổi bật về cá tính tác giả và tinh thần hai tiểu thuyết nổi tiếng nhất : ‘‘Les Particules Elémentaires’’ và ‘‘Plateforme’’ của Michel Houellebecq.





Một Vụ Án, Một Nhà Văn ( hài hước ?)
Phan Thị Trọng Tuyến


Từ 1991, Michel Houellebecq[1] viết khá nhiều thơ, tiểu luận và tiểu thuyết tại Pháp nhưng ông chỉ nổi bật sau khi cho xuất bản quyển ‘‘Les Particules Elémentaires’’[2] (Những hạt cơ bản). Sau nhiều cuộc phỏng vấn trên báo chí, đài truyền hình, ông cũng mang tiếng là người ưa khêu khích và bị ám ảnh tình dục.

Ba năm sau, khi quyển sách mới nhất ‘‘Plateforme’’[3] ra mắt độc giả, tờ nguyệt san văn học Lire (Đọc), số tháng 9 năm 2001 lại phỏng vấn Houellebecq. Vài câu trả lời như : " (…) tôn giáo ngu nhất vẫn là đạo Hồi (…)" " (…) một tôn giáo nguy hiểm…" " ...bọn ngu muốn mổ bụng nhau thì để mặc chúng... " v..v…đã gây ra một ngọn sóng thần giận dữ của độc giả, khán thính giả, kể cả những "giả" chưa bao giờ đọc hay nghe, thấy ông văn thi sĩ bạo tay và bạo miệng này.

Giải Goncourt 2001 và vài giải thưởng văn học khác (chắc chắn hay có lẽ ?) vì vậy mà rơi vào tay văn sĩ khác (?!). Một số hội đoàn chống kì thị tôn giáo và chủng tộc nạp đơn kiện Houellebecq về tội "phỉ báng và gây thù hận".

Khi ông ra toà tiểu hình tại Paris giữa tháng 9 năm nay (2002), vài văn sĩ, phê bình gia, kí giả nổi tiếng trong văn giới Pháp đến làm chứng ủng hộ ông, như Philippe Sollers, Josyane Savigneau, Fernando Arrabal… Không khí toà án hôm ấy được các báo miêu tả là náo nhiệt khác thường vì ngoài các phóng viên kí giả tường thuật phiên toà, còn có cả "thường dân" đến "xem mặt" và xin chữ kí các "thần tượng" của họ.

Houellebecq, không nhận tội, lấy lí do rằng ông không hề viết điều gì gọi là phỉ báng ai, còn về ý kiến cá nhân ông, chẳng có gì gọi là quan trọng, hơn nữa : " thật phi lí khi đi hỏi quan điểm tôi về một điều gì đó, bởi ai cũng biết tôi thay đổi ý kiến xoành xoạch ".

Trong suốt phiên toà, Houellebecq lặng lẽ, chán chường, vai cụp, mắt nhìn xuống, và trả lời rất ngắn ngủi đệm những ừ, à, có, không, vậy hả, xin tuỳ ý, vậy cũng được, héng, v..v… ông "vô tình" trở nên "hài hước" và có vẻ như không muốn tự biện hộ. Nhưng bênh vực ông, miễn phí và độc đáo, chính là những đồng nghiệp trong giới văn chương và báo chí.

Philippe Sollers tuyên bố với toà án rằng M. Houellebecq là một "nhà văn hài hước".

Riêng Fernando Arrabal, nhà văn gốc Tây Ban Nha từng bị tù dưới thời nhà độc tài Franco, đã gây nhiều trận cười thoải mái trong cử toạ.

Trước toà, ông khai nghề nghiệp mình là "người đi bộ" ; khi toà bảo tuyên thệ, Fernando Arrabal kêu lên : Ô, "tôi xin thề [sẽ khai thật]" nghe trầm trọng quá, tôi có thể nói "tôi xin hưá " thôi, có được không ạ ? …

Nhắc đến Socrate xưa kia bị toà xử uống thuốc độc, ông vừa móc túi lấy chai whisky, mở nắp, chúc mừng sức khoẻ vị chánh án, đưa lên miệng nốc ngon lành. Và kết luận : " …viết, là rất nhiều đau khổ cho thi sĩ rồi, xin đừng hành hạ anh ta thêm nữa ".

Các nhà văn khác Michel Braudeau, Dominique Noguez[4], nghiêm trang hơn, nhắc đến quyền tự do ngôn luận, đến [một trong các] chức năng của nhà văn là "phê bình chứ không phải khen ngợi nịnh nọt vua chúa, đức giáo hoàng hay bất kì ai ", rằng không nên nhầm lẫn "nhân vật " với tác giả, bằng không thì ai viết được "Tội ác và Hình phạt " ? Rằng hôm nay chính tác phẩm bị ra toà chứ không phải tác giả vân… vân…

Đa số nhắc đến một quyền căn bản khác của nhà văn là quyền được "khôi hài"

Luật sư bên nguyên vặn : Chửi Hồi giáo ngu bướng là khôi hài ư ?

Philippe Sollers trả lời : tất nhiên, nếu không thì có nghĩa là phạm tội bất đồng ý kiến, hỗn láo với bề trên, tội phạm thượng.

Toà tuyên bố ra án vào cuối tháng 10.

Trong cuộc phỏng vấn, Houellebecq đã nói gì ? Tác phẩm ‘‘Plateforme’’ kể chuyện ra sao ?

**

Houellebecq, theo bài báo dài 6 trang ghi lại cuộc phỏng vấn 4 giờ đồng hồ tại Paris, không những chỉ trích Hồi giáo mà còn mắng mỏ, đả phá Tây phương, chê người Pháp là ngu bướng, loạn thần kinh[5], lố bịch, chư hầu đế quốc, chỉ nói chứ không làm… vân vân…

Lí do viết ‘‘Plateforme’’ được ông giải thích như sau : trong một chuyến du lịch tại Thái Lan, tác giả ngạc nhiên khi nhìn thấy khá nhiều du khách mua dâm "năng động " gốc Á Rập - những kẻ " đạo đức giả "-, và nhiều thanh niên anglo-saxon chỉ "sinh hoạt tình dục được vào mùa nghỉ hè [tại Thái]", "bởi vì đàn bà con gái xứ họ quá khó thương, rắc rối "[6].

Kí giả, Didier Senecal, nhắc rằng cách đó ba năm, khi ra mắt cuốn Les Particules Elémentaires, ông tuyên bố sẽ không nói tới tình dục nữa, Houellebecq trả lời tỉnh bơ rằng thế à, thế mà tôi lại định lần này cũng sẽ tuyên bố y như thế !

Trả lời câu hỏi vì sao bây giờ trong tiểu thuyết Pháp, người ta cũng miêu tả trắng trợn các chuyện tình dục nhưng chỉ có ông thành công trong việc gây xì- căng- đan :

" chắc tại tôi viết hay hơn người khác về những màn tình dục, vì tôi viết ra những xúc cảm và rung động thật hơn họ, tôi kể chuyện thật chứ không phải chuyện mê tưởng (…) Ờ ờ tại mấy bà thường dễ bị sốc !"

Công nhận mình ưa khiêu khích nhưng : "Không biết có nên không… chứ bao giờ khiêu khích cũng là đầu mối gây nhiều rắc rối. Nhưng nay tôi đã bình tĩnh lại rồi…"

Khi người kí giả nhắc : Plateforme quả tình ca ngợi vấn đề mua bán dâm. Houellebecq công nhận và hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm

" vì tôi biết rằng tôi có lí. Quả đây là một nghề được trả lương hậu hĩ. Bên Thái Lan, nghề cao quý đấy ! Những cô điếm Thái rất dễ thương, biết săn sóc cha mẹ, biết đem khoái lạc cho khách hàng. Bên Pháp, nhiều người chống, nhưng tôi chủ trương phải tổ chức chuyện ấy một cách thực tiễn như bên Đức, và nhất là như bên Hoà Lan".

Ông giải thích vì sao nhân vật Michel, khi nói về đấm bóp Thái, đã "cực kì khinh bỉ phương Tây" (mang chứng loạn thần kinh) : "Ở Châu Âu, hoạt động này bị coi là chuyện xấu xa. Phải nói là người phương Tây thật quá đỗi bướng ngu[7] !"

Tuy nhiên ông khẳng định mình chống việc mua/ hiếp dâm trẻ con cũng như không chịu nhìn nhận có một liên quan nào đó giữa việc ông thù ghét đạo Hồi và chuyện mẹ ông đã theo đạo Hồi, bỏ bê con cái khi ông còn bé.

Houellebecq mỉa mai khoe mình cũng lãnh được một thứ thiên khải, mà là thứ thiên khải ngược với Moise, khi đến núi Sinai : thay vì nhận được Mười điều răn, ông đột nhiên không thể "chịu nổi các thứ tôn giáo độc thần".

"Trong vùng núi non rất mực vô cơ và gợi hứng này, tôi thấy quả thật là ngu ngốc khi tin tưởng vào một Thượng Đế duy nhất. Ngu quá là ngu. Không có chữ gì khác để diễn tả. Và tôn giáo ngu nhất, vẫn là đạo Hồi[8]. Khi đọc kinh Coran của đạo này, tôi thật rụng rời…rụng rời ! Kinh thánh bên Công giáo, dù gì cũng thật đẹp, phải công nhận mấy ông Do Thái quả có văn tài… điều này [khiến họ được] tha thứ về nhiều chuyện. Thế là, tự nhiên tôi đâm ra có chút cảm tình với Công giáo, vì cái khía cạnh đa thần. Cạnh đấy, họ còn có biết bao nhà thờ với tất cả các kính màu, tranh, tượng…"

Đáp lại lời trách cứ thái độ kì thị và thù hằn của nhân vật chính đối với dân Palestine, tác giả biện hộ :

" Ngoài đời, tôi không bao giờ phải thử nghiệm chuyện "trả thù " nhưng trong truyện, vào thời điểm ấy, nhân vật Michel mong ước người ta giết thật nhiều người Palestine[9], đó là điều tất nhiên. Vâng, vâng, trả thù là chuyện có thật. Đạo Hồi là một tôn giáo nguy hiểm, ngay từ đầu. May mà nó bị lên án. Một mặt chỉ vì Thượng đế không có thật ; cho dù ngu đần, bướng bỉnh tới đâu đi nữa, tới thời điểm nào đó người ta phải nhìn nhận điều ấy. Về lâu dài, chân lí bao giờ cũng thắng. Mặt khác, đạo Hồi bị chủ nghĩa tư bản làm suy mòn từ bên trong. Chỉ còn mong sao cho chủ nghĩa này mau mau thắng trận. Vật chất chủ nghĩa thật ra ít tai hại hơn. Các thứ giá trị của vật chất chủ nghĩa thật đáng khinh bỉ nhưng so sánh với những giá trị Hồi giáo thì chúng kém độc ác và tàn phá ít hơn (…)"

Giải thích về đời sống tâm linh :

" Thật tình mà nói, cái ước vọng hướng thượng tâm linh trong tôi coi bộ không dữ dội cho lắm, có lẽ vì căn bản nghề nghiệp khoa học của tôi. Tôi tin vào bằng chứng hơn (…) Giải thích khoa học tuy thật khó thương nhưng rất ư là thuyết phục. Cho nên các truyện tôi viết đều rất khoa học thực nghiệm[10]

Houellbecq cho biết ông chỉ để ý đến những người tầm thường, làm nhân viên lãnh lương tháng như hàng triệu người khác ở Pháp …

" Tôi không mê những kẻ ngoại lệ. Đó là một thiếu sót về phần tôi, bởi vì một nhà văn lí tưởng, cỡ như Balzac, phải xông xáo khắp mọi nơi. Nhưng… nhưng… Ở một thời điểm nào đó, theo tôi thấy, tôi phải để ý đến giới trung lưu (...) ".

Ông cũng phê bình, kê khai đích danh vài tờ báo và sách[11] vì :

"…Nhân danh chi mà một số kí giả tả phái dám nói về chính trị ? Họ, những kẻ chưa bao giờ sản xuất một thứ gì hết ? Họ cóc biết làm gì cả, đóng một cái bàn cũng không xong. Vị thế chính trị của họ thật nực cười và khó ưa (…). Tôi vẫn nghĩ trên đời này thật ra chỉ có hai phe phái : một bên lao động và một bên chẳng làm gì ráo [12] "

Đả kích phe tả, nhưng ông không nhận mình thuộc phe hữu, vì " phe hữu làm gì có tư tưởng !" và cho rằng nhiều nạn nhân tuy sinh ra từ chiến tranh tại các nước thuộc thế giới thứ ba hiện nay (các nước đang phát triển), nhưng chính họ cũng là thủ phạm.

" Bọn ngu ấy muốn mổ bụng nhau thì hãy mặc cho chúng mổ bụng nhau. Bọn quốc gia quá khích là đồ khỉ. Nếu có một nhóm đủ ngu bướng ước mơ một Đại Serbie thì kệ bố chúng, hãy mặc cho chúng nó chết đi, đó là chuyện tốt nhất chúng làm được. Kẻ có tội không phải là đám lãnh tụ độc tài đâu, mà chính là đám cơ bản ở dưới, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện đánh nhau, lúc nào cũng mơ cầm được cây súng trong tay. Thứ bọn xấu ấy chỉ ham mê bắn giết. Bất cứ một kẻ nào cầm khí giới để bảo vệ bất cứ một điều gì, đối với tôi cũng đều đáng khinh cả. Tôi rất khâm phục dân Thái Lan, họ luôn tránh được những cuộc chiến đã và đang xảy ra ở các nước láng giềng " …

" ờ ờ…dĩ nhiên, muốn tự vệ thì phải [cầm khí giới]. Nhưng tôi không ưa bất kì kẻ hiếu chiến nào. Họ có một thứ khoái cảm sát nhân đáng ghê tởm. Đó là những kẻ cực kì lố bịch ".

Ngay khi nói về một người hùng Pháp là tướng De Gaulle, Houellebecq cũng có ý kiến khác với đa số. Ai cũng biết vào đầu thế chiến thứ hai khi Đức chiếm đóng Pháp (và Âu Châu), ông tướng này đã "vượt biên" qua Anh kêu gọi và tổ chức (thành công) cuộc kháng chiến chống Đức và chống chính phủ Pháp bù nhìn Pétain. De Gaulle không những là anh hùng quốc gia mà còn là thần tượng của nhiều tầng lớp dân chúng Pháp.

"Ơ…hồi còn đi học, tôi bực [de Gaulle] ghê lắm. Không,…rốt cuộc… tôi ưa Pétain hơn. Tôi thấy việc bỏ chạy qua Luân Đôn làm tài khôn coi bộ dễ hơn là ở lại Pháp đương đầu với khó khăn thật sự của đất nước. Chắc chắn vào thời chiếm đóng đó tôi sẽ không cộng tác với quốc xã Đức, không phải vì lí do lí tưởng. Phân nửa bạn bè tôi gốc Do Thái, tôi nghĩ tôi cũng sẽ vẫn có từng đó bạn như thế vào thời ấy, bởi vì họ thông minh và hay ho trên trung bình. Không hiểu vì sao, nhưng sự thực là vậy đó. Không, nghĩ cho cùng không chừng tôi có cơ cộng tác với Đức hầu cố gắng cứu mạng người Do Thái, nhưng chắc không dễ dàng, bởi vì tôi chẳng can đảm hơn ai, đúng hơn, thua người ta ".

Ngoài dân Do Thái, ông thích nước Đức và khen dân tộc Đức hay ho thật tình, dù là :

" loại dân buồn nhất thế giới, chắc chắn là kể từ thời quốc xã. Tôi đưa ra một hình ảnh ước lệ, nhưng thông thường, các thứ ước lệ đều đúng : tôi rất cảm ứng với một kiểu lo âu rất siêu hình của dân Đức, mà dính liền với mối lo siêu hình ấy là tấm lòng thật sự yêu cuộc sống, đặc tính sau này thì ít người biết. Họ rất dâm dục nhưng không cợt nhả. Còn dân Pháp thì khiến tôi điên lên vì cái tật mê nói chuyện dâm dục. Dân Đức người ta hành động chứ không chỉ nói cái mồm (…) Thật mà, thật mà, tin tôi đi. Dân Đức khoái cười tuy không có óc khôi hài chút nào cả, may mà họ có truyền thống trào lộng…".

Khen ngợi dân Thái Lan hiếu hoà, khôn ngoan, chê bai dân (đi mua dâm) Á Rập và Tây phương đạo đức giả[13], Houellebecq cũng chế nhạo người Pháp ưa chạy theo mốt thời thượng, quỵ luỵ người Mĩ, bàn tán rùm beng chuyện bầu cử bên Mỹ (Bush-Al Gore), hơn cả tại Ái Nhĩ Lan[14] trong khi người Ái Nhĩ Lan có cả khối bà con sống bên Mỹ. Dân Pháp cư xử như "chư hầu với (…) đế quốc ". Về chuyện một số người Pháp kí kiến nghị đòi Mỹ bãi bỏ án tử hình : "dân chi mà hợm hĩnh đến mức cứ chúi mũi vào bất cứ chuyện gì, [bởi vì] ngày nay mọi chuyện đều xảy ra bên Mỹ ! Nếu có can đảm, tôi sẽ qua bên Mỹ sống, vì đó là xứ tôi ít ưa nhất. Rất khó chịu… ở bên đó tôi luôn luôn bực bội. Nhưng ông có lý, sau Irlande, có lẽ tôi sẽ qua Los Angeles ở, chắc tôi phải hỏi ý vợ tôi xem sao… "

Viết là một hình thức khổ dâm, thống dâm như ai đã nói ? Riêng sau đây là kinh nghiệm tác giả ‘‘Plateforme’’ :

"…rất thú vị khi viết về các màn làm tình. Thí dụ như lúc đọc lại bản thảo, tôi khoẻ trong mình nên tôi sửa lại khá nhiều… Nhưng thiệt tình… tôi sống không phải để chỉ viết lách… Thật vậy, cho tới nay, các đề tài đến với tôi rất tự nhiên. Vâng, lương thiện mà nói, câu hỏi tôi đặt ra cho mình là liệu tôi đủ sức miêu tả mọi hoà điệu và hạnh phúc với nhiều thuyết phục hay không. Rất có thể, thật ra… Đấy là một đề tài khó nhưng không phải là không thể đạt tới văn chương. Một cuốn sách đắm chìm trong hạnh phúc từ đầu cho tới cuối là điều làm được. A, tôi đang huênh hoang, lập thuyết đây ! Không phải là chủ đề của quyển Plateforme nhưng tôi đã cố gắng miêu tả lại cái cảm giác bơi lội trong hạnh phúc ngày tôi còn bé. Tôi say sưa đi tìm mấy lá cỏ chuồn[15] bốn cánh hàng giờ mà không chán. Hạnh phúc ấy bây giờ tôi không còn nữa. Ai cũng biết trẻ con thường thích được nghe kể đi kể lại mãi một chuyện nào đó. Tôi cho một thí dụ về cái hạnh phúc lập lại này qua con chó con của tôi (…) giống chó rất phổ thông trong các xứ nói tiếng Anh, tựa như chồn nhưng lông màu trắng và đỏ cam. Trong suốt ba tiếng đồng hồ, nó hớn hở vui mừng chạy đi tìm trái banh tôi ném, một thứ hớn hở vui mừng nguyên vẹn từ đầu đến cuối. Vậy thì tôi, tại sao tôi lại vui chơi hớn hở thua kém con chó của tôi chứ ? Đâu phải chỉ là vấn đề kích thước não bộ… người ta cứ tin tưởng tuyệt đối rằng phải có nhiều chuyện cực kì tốt đẹp và mới mẻ xảy đến cho ta thì đấy mới là hạnh phúc…"

Lí thuyết rất giản dị này (và do chính tác giả tuyên bố chứ không qua một nhân vật nào) buộc người đọc suy nghĩ về những phản đối ồn ào đến với tác giả.

**

Ai đã đọc ‘‘Les Particules Elémentaires’’ và ‘‘Plateforme’’ đều thấy tác giả mượn nhân vật (thường là những màn độc thoại) nói về một số khía cạnh đen tối, tiêu cực của xã hội kinh tế thị trường, và của Hồi giáo. Trong suốt cuộc hành trình "làm biên bản" và cuộc truy tìm (vô vọng) hạnh phúc này, tác giả đã điểm xuyết và "miêu tả" những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời (nhất là của nhân vật Michel) qua những màn ái ân tay đôi hay làm tình tập thể, nhất là trong ‘‘Plateforme’’ (nhằm đem bằng chứng cho lập luận và dự định của nhân vật chính). Vì các tư tưởng, quan điểm của nhân vật trong hai quyển sách, nhất là quyển thứ hai, cũng như ý tưởng tác giả được nhắc lại qua cuộc nói chuyện với phóng viên, cũng như vài chi tiết và ý nghĩ "trùng lập " mặc dù nội dung cả hai quyển khác nhau, người đọc có cảm tưởng cuộc phỏng vấn là một tóm tắt quan điểm tác giả & tác phẩm ; với hầu hết những câu hỏi (có thể đặt ra) cùng lời đáp (có tính cách đơn phương, khẳng định) của các nhân vật/tác giả về cuộc sống (trong thế giới tây phương tư bản) hiện nay.

‘‘Les Particules Elémentaires’’ với hai nhân vật chính : Michel, xưng tôi và Bruno, người anh khác cha, bị tổn thương (thần kinh) vì thiếu tình cha mẹ, tinh thần (tình cảm và tình dục) bị què cụt, méo mó, nên suốt đời tìm mãi không ra hạnh phúc trong đời sống. Một người sẽ mất tích (tự tử), người kia tự động vào dưỡng trí viện khi người yêu (tượng trưng cho và cũng là hạnh phúc vừa tìm thấy) không còn nữa.

Đoạn kết Những hạt cơ bản tựa hồ như một ước mơ ngây thơ ngàn đời của thi sĩ : ngày 27 tháng 3 năm 2029, con người cũ, đang trên đường tuyệt chủng, chính thức khai sinh một giống người mới, hoàn toàn sung sướng, sống một cuộc đời thiên đàng "vì trong cuộc đời ấy, không còn ích kỉ, nóng giận và tàn ác. Khoa học, nghệ thuật vẫn tồn tại nhưng cuộc đuổi bắt truy lùng Chân Thiện Mĩ không mang tính chất khẩn cấp bởi vì không còn lòng ích kỉ thúc đẩy cuộc truy lùng ấy nữa, và quyển sách này, xin đề tặng cho con người cũ ấy"

Quyển ‘‘Plateforme’’ 370 trang kể hành trình (tình yêu và cuộc đời) một nhân vật (cũng mang) tên Michel (như tác giả), nhân viên kế toán bộ Văn Hoá Pháp, Michel được hồi sinh sau khi gặp tình yêu trong chuyến du lịch Thái Lan. Đôi nhân tình trở lại Thái Lan thực hiện dự án kinh tế du lịch "cách mạng" đem lại một thứ "hạnh phúc" toàn diện (tâm hồn và thể xác) cho du khách Tây phương ; trong cuộc hành trình này, vai trò các hội đoàn thiện nguyện, các cơ quan truyền thông, kinh tế du lịch, các hội bảo vệ nhân quyền, nữ quyền, Hồi giáo cũng được phân tích, mổ xẻ. Trong phần cuối, tác giả đã tưởng tượng, miêu tả cuộc khủng bố lớn nhất Châu Á từ trước tới nay của tín đồ Hồi giáo quá khích nhằm vào du khách ([phương Tây] : tại đảo Koh Maya, trên đất Thái : 117 người chết, nhiều người thương tích trầm trọng. Đây là phần "tiên tri" thật kinh hoàng vì chỉ một tháng sau khi sách ‘‘Plateforme’’ ra mắt, quân khủng bố cảm tử Al Qaida đâm máy bay vào WTC ở Nữu Ước giết chết hơn 3000 người và khoảng một năm sau (có lẽ cùng thứ) quân khủng bố quá khích ấy lại đâm xe mang chất nổ vào một trung tâm giải trí, giết hơn hai trăm du khách Âu Mỹ (đa số người Úc) trên đảo Bali.

Hình như chưa có ai đưa tác giả ra toà về tội đã "vẽ đường" cho tổ chức khủng bố Hồi giáo quá khích.

**

Vụ án Houellebecq không hề được xem là quan trọng dưới mắt đa số người Pháp, nhưng hai quyển sách với bối cảnh chính trị, kinh tế toàn cầu hiện nay, thêm vấn đề Hồi giáo và cuộc tranh chấp sinh tử giữa Do Thái- Palestine, đã được giới truyền thông và độc giả khai thác ít nhiều tuỳ theo khuynh hướng tình cảm, chính trị và tôn giáo cá nhân. Nhiều nhất có lẽ là khía cạnh tình dục, dù phần này chiếm chỗ rất ít trong sách.

Các hành động có tính chất Phỉ báng hay Kêu gọi, Khuyến khích gây hận thù và Kì thị chủng tộc đều được định nghĩa và ghi rõ hình phạt tương ứng trong sách luật các nước dân chủ ; riêng quan hệ giữa tác giả và nhân vật, vấn đề này hiếm khi được đặt ra trong các nước có truyền thống dân chủ và trình độ dân trí không thấp[16].

Ngược lại thì có, thí dụ : trong tháng vừa qua, trên đài truyền hình và báo chí, khi tài tử Anthony Hopkins, nổi tiếng với vai Hannibal Lecter tên sát nhân ăn thịt người, làm "tiếp thị , quảng cáo" trình làng phim (Hannibal, episode one ! ) một vài phóng viên đặt những câu hỏi thật kì cục nhưng khá tiêu biểu cho một tầng lớp khán giả thấy ngón tay hơn nhớ trăng nào đó : "thưa ông, ông là hiện thân của Quỷ, thưa ông, cả thế giới kinh sợ nhưng bị ông quyến rũ, lôi cuốn, ông thấy thế nào, thưa ông trước uy quyền này vân vân…và vân vân ". Tài tử trả lời: " tôi không phải là siêu sao điện ảnh, tôi không là hiện thân của cái Ác, tôi cũng chẳng là sát nhân, tôi không là bóng hình hay anh em song sinh của Lecter, tôi không hề cảm thấy mình có một oai vũ nào vân vân…tôi chỉ giản dị là diễn viên (actor) ". Người ta quên rằng ông đã đoạt Oscar không thông qua vai trò tên sát nhân ăn thịt người này.

Với Houellebecq, hay với bất cứ tác giả nào, điều quan trọng (duy ?) nhất phải chăng là chúng ta hãy đọc tác phẩm trước đã ?

Nhưng nhằm tố cáo hay khuyến khích bất cứ một chủ nghĩa nào, lập thuyết, bênh vực hay nguyền rủa, tẩy chay một đường lối chính trị, tôn giáo hay trào lưu… kết quả thường tuỳ thuộc vào "tài ba" của tác giả, phải chăng một khi đã trình làng tác phẩm thì dù muốn dù không, tác giả đành nhường chỗ cho "tài ba" của độc giả ? Và khi độc giả, thay vì nhìn thấy ý định tác giả trỏ trăng hạnh phúc, lại chỉ (muốn ? ) nhìn thấy ngón tay nào đó (chê bai trí thức, đả phá Hồi giáo quá khích và những màn miêu tả tận tình "cuộc truy tìm hạnh phúc đến mức cuồng say" ), tác giả buộc lòng gánh chịu hậu quả "thất bại" (ra toà, bị lãnh fatwa, đeo bảng "phản bội dân tộc", "lỗ hổng cả đời không lấp nổi" ?). May thay, tài ba đôi bên cũng như hậu quả đều có nhiều thang bậc.

Trong khi chờ đến ngày toà tuyên án, số báo Lire nói trên đã tuyệt bản, thế giới văn chương và báo chí khắp nơi tới tấp mua bản quyền phổ biến bài phỏng vấn độc đáo và quá trớn (incorrect về nhiều mặt) này. Didier Sénécal cho biết : trong cuộc phỏng vấn, Houellebecq đã uống rượu không ngừng. Có lẽ chuyện này không dính dáng đến việc ông ở xứ rượu Ái Nhĩ Lan vì qua một lần xuất hiện khác, trong một chương trình về văn học truyền hình (Pháp) trước bài phỏng vấn này và trước khi đổi chỗ trú ẩn, tác giả cũng say mèm và tuyên bố nhiều câu khiến khán giả bất bình.

Nhiều độc giả phản đối tờ Lire, đại diện nhà xuất bản Flammarion cũng ra thông cáo phủ nhận nội dung bài phỏng vấn và tố cáo kí giả Sénécal đã "phục rượu" tác giả khiến ông ta "nói những điều mình hay người bình thường/ bình tĩnh chỉ giữ trong đầu chứ không dám tuyên bố ".

Trong tờ Lire số sau, chủ bút tờ Lire, Pierre Assouline (cũng là một nhà văn) phản pháo, đưa ra dẫn chứng, lập luận tự biện hộ và chê đại diện nhà Flammarion… đạo đức giả, chỉ nghĩ đến lợi lộc và tỏ ra hèn nhát, độc tài vì ép buộc Houellebecq huỷ bỏ nhiều buổi hẹn với báo chí và khán giả.

Nhằm đính chính lời phao đồn cho rằng cuộc phỏng vấn hoàn toàn là tưởng tượng, Didier Sénécal kể rõ :

" cuộc phỏng vấn bắt đầu từ 7 giờ rưỡi chiều tại khách sạn Tonic Hotel, kéo qua một quán ăn gần đấy rồi chấm dứt ở ngoài đường lúc một giờ rưỡi sáng, tại Paris, khu des Halles ; thực đơn của tác giả là ốc chấm xốt dầu trứng – bulots à la mayonnaise -, bầu dục bò tơ và hai chúng tôi uống hai chai rượu Chinon thượng hạng, nhưng tôi không hề lợi dụng hơi men để dụ khị ông ta nói điều lố lăng : bởi vì đa số các lời tuyên bố gây xì- căng- đan, tác giả đều nói lúc còn ở khách sạn và vào đầu bữa ăn : nghĩa là khi ông ấy chưa uống thứ huyết thanh bắt khai sự thật này ".

D. Sénécal nói rõ : ông và tác giả không quen biết nhau trước đó, và theo ông, tác giả không hề nói những lời kì thị chủng tộc cũng như không hề đánh đồng tín đồ Hồi giáo với dân Á Rập. Số báo trước, người phóng viên không vui vì cái scoop bất ngờ này đã cho biết có cảm tưởng ra khỏi lãnh vực báo chí văn chương để rón rén bước vào địa phận văn học sử , và nhấn mạnh, trước khi lập lại lần nữa ý tưởng này :

"… trước máy ghi âm, tôi đã nhiều lần hỏi : ông vẫn ý thức về những lời tuyên bố này chứ và vẫn cho phép báo đăng chứ… (…) Tôi tôn trọng quyền tự do ngôn luận (…) [hơn nữa] nhờ có óc khôi hài và tính ưa khiêu khích Houellebecq dùng chữ rất hay (…) Công việc thông thường ở toà soạn của tôi là lo về tài liệu văn chương, tác phẩm cổ điển và tiểu sử các đại văn thi hào quá cố, lần này được phỏng vấn người còn sống, thì lại ra cớ sự… Suốt buổi ấy, tôi có một cảm tưởng mơ hồ như đang phỏng vấn ai như là Baudelaire[17] vào khoảng năm 1860 hoăc Céline vào năm ông viết Mort à crédit[18] nhưng có lẽ cảm tưởng này đến từ hậu quả hai chai Chinon".

**

Cuối tháng mười, toà tuyên án tha bổng Houellebecq. Sách bán chạy, quyển truyện dài đầu tay được tái bản và sắp được quay thành phim. Kể ra thì dân Pháp không khó thương, lố bịch như nhận xét của bị can, và toà án, không bị sức ép nào, ít ra cũng xét xử theo pháp luật. Âu cũng là một kinh nghiệm cho bản thân tác giả (và các tác giả tương lai khác ?); một nhà khôi hài chuyên nghiệp Pháp đã nói : người ta có thể khôi hài về bất cứ chuyện gì, nhưng không nên [khôi hài] với bất kỳ ai.

Một tờ báo Phi Châu (This Day) - Nigeria - cũng đã trả giá đắt, thật đắt, cho thứ kinh nghiệm tương tự trong hạ tuần tháng 11 vừa qua : vì đoạt giải hoa hậu thế giới năm ngoái nên năm nay thủ đô Kaduna được (hân hạnh ?) tổ chức cuộc thi tuyển này. Hơn 90 kiều nữ, của bản xứ và khắp nơi trên thế giới, để tranh nhau "đặt thế giới dưới chân" mình, như trong bao cuộc thi hoa hậu khác, sẽ thướt tha trong áo dạ hội và hở hang khoe ngực khoe đùi trong bộ áo tắm, kê khai kích thước, đời tư trên đài truyền hình.

Nhưng tại liên bang Nigeria, với đa số dân theo Hồi giáo, 11 trên 15 tiểu bang đã chính thức tuyên bố áp dụng luật đạo (Hồi - Charia-) vào đời, thí dụ án tử hình (ném đá vào) người đàn bà ngoại tình, phụ nữ ra đường phải che mặt v..v…, thì sự cố này bỗng trở nên vô cùng quá đỗi vật chất, phù phiếm, "vô luân" và thiếu đạo đức. Dư luận bắt đầu chê bai, chống đối cuộc thi.

Tờ báo nói trên, trong bài giới thiệu các hoa hậu ( với tựa đề "thế giới dưới chân họ "!), nữ kí giả tường thuật (và ban biên tập) có lẽ quên nghĩ tới Salman Rushdie và Nasreen Taslima… đã khôi hài kết luận rằng : Đấng tiên tri Mohamet sẽ nghĩ sao về chuyện này ? Thật tình/lương thiện mà nói, thế nào ngài cũng sẽ chọn một nàng trong số những thí sinh tuyệt trần ấy.

Đó là giọt u mặc làm tràn li đứng đắn đạo đức và nghiêm chỉnh cố chấp. Khôi hài trở thành diễu dở.
Một số dân chúng và độc giả xem đây là điều "phạm thượng".
Ngay lập tức cuộc bạo động xảy ra và tiếp tục trong nhiều ngày dù tờ báo lắm lần đăng lời xin lỗi : Những người Hồi giáo quá khích đã đốt toà báo This Day, đánh giết người thiên chúa giáo, đập phá cả nhà thờ, các cơ sở kinh doanh của họ; người đi đường không mặc y phục Hồi giáo cũng bị hành hung. Trong vài hôm bạo loạn, hai trăm người chết, năm trăm người bị thương. Và một fatwa (ra lệnh cho tín đồ truy lùng tìm giết nữ kí giả ấy) vừa được ban ra. Thế giới thêm một người viết bị kết án tử hình vì (tưởng mình có tài ) khôi hài.

Người ta có thể (viết) khôi hài về bất cứ điều gì nhưng không phải cho bất cứ người (đọc) nào ? Có lẽ phải bổ túc lời Paul Auster[19] : khi người viết khôi hài là thị dân New York thì máu khôi hài ấy, đúng là của trời cho, còn ở tại Kaduna, đấy lại là một đại họa.

11-2002 Phan thị Trọng Tuyến




Xin lưu ý : Trong ngoặc kép là các câu, chữ trích dịch từ nguyên văn Pháp ngữ.

[1] Michel Houellebecq sinh năm 1958, được bà nội nuôi dưỡng từ nhỏ. Kĩ sư canh nông, làm việc trong ngành điện toán cho hãng tư và Quốc Hội Pháp. Đa số tác phẩm ông do nhà Flammarion xuất bản. Houellebecq còn đọc, diễn văn xuôi và thơ mình (ba tập thơ xb 1996, 1997, 1999) trên sân khấu trong một chuyến lưu diễn, ông cũng biên kịch, làm CD, viết truyện phim…

[2] Les Particules Elémentaires : Flammarion, 9-1998, 120 quan, France.

[3] Plateforme (Mặt bằng/ Tựa điểm.), tháng 8/2001, 20 euros, nxb Flammarion, Paris, France.

[4] Trong tháng 10, để "trả lời" Christophe Bataille, nhà văn trẻ nổi tiếng từ quyển Annam, đã kêu gọi "phá bỏ" lề luật văn phạm, ngữ vựng Pháp, D.Noguez viết một bài ngắn rất khó đọc (bằng mắt và "chói tai " những nhà ngôn ngữ học chủ trương chỉ có " tiếng chuẩn thủ đô " là "đáng sống" ) vì câu chữ hoàn toàn viết theo âm đọc (ngoại ô bình dân), nghĩa là sai chính tả như giọng nói nam Việt trong phần sau bài thơ Baggage Y2K của Nguyễn Hoàng Nam trong Tạp Chí Thơ số muà xuân 2002.

[5] Những chữ "tội lỗi " trong bài phỏng vấn là "con, conneries"

[6] Một nhân vật truyện cũng tuyên bố tương tự, rằng đàn bà Tây phương quá tự do, quá trí thức, rối rắm, phức tạp vân vân trong khi đàn ông chỉ giản dị ước ao được vợ hiền biết yêu chồng trong đó có thoả mãn tình dục (để cùng/cho…"chàng" yên tâm đi cày và) nuôi dạy con cái vân vân.

[7] " con, cons, conneries" tiếng bình dân thô tục khá phổ thông, tương đương với : ngu, ngốc ngếch, dở hơi, bậy bạ, gàn bướng, hâm. (" con " : nghĩa đen tiếng bình dân là "lồn" )

[8] Một nhân vật trong Les Particules Elémentaires đã nói tương tự ( tr. 336 ) " :…trong tất cả tôn giáo, ngu ngốc, giả hiệu, tối tăm nhất là đạo Hồi ; tuy có vẻ đang nhất thời thắng thế…nhưng về lâu dài rồi đây tôn giáo này cũng sẽ bị kết án, bị kết án thật rõ ràng hiển nhiên hơn cả Thiên chúa giáo ". Đọc tiếp phần phỏng vấn, chúng ta sẽ thấy đây cũng là quan điểm của chính tác giả.

[9] Phần kết Plateforme : vì người yêu bị thảm sát trong cuộc khủng bố của quân Hồi giáo quá khích, nhân vật Michel quá tuyệt vọng, trở lại tìm cái chết nơi trước đó mình đã hồi sinh nhờ gặp được tình yêu.

[10] Thật vậy, hầu hết nhân vật trong truyện như kĩ sư, khoa học gia, doanh nhân về du lịch v…v… đều được miêu tả, giải thích với khá nhiều chi tiết thực tế lô gích về việc làm của họ. Thí dụ lịch sử tiến triển hay sách lược của các tổ chức công nghệ khách sạn, du lịch, bệnh viện giải phẩu thẩm mĩ… và cả vài tuy-dô thực dụng : túi đeo lưng hiệu…loại đắt nhất,(…) giày đặc biệt để đi trên san hô ( mua ở Vieux Campeur, giá 125 quan ) , " tôi thích đi chợ Anh em nhà họ Đường [ở phố Á châu quận 13 Paris] !" (Plateforme, tr. 41).

[11] Guide du Routard (cho du khách ba – lô của Pháp ) : là một loại sách hướng dẫn du lịch ( tương đương với Lonely Planet ) bị tác giả tố cáo là đạo đức giả vì sách nhăn mặt, bĩu môi khi nói về vài địa điểm bán dâm nổi tiếng của Thái. Chủ hãng du lịch nổi tiếng Nouvelles Frontières bị một nhân vật của sách chửi "salaud hypocrite et impitoyable" thằng đểu cáng đạo đức giả và tàn nhẫn trong Plateforme (tr.151).

[12] Một nhân vật trong Hạt cơ bản than thở (tr. 250)": tôi không biết làm gì cả, không biết nuôi heo, không biết làm xúc xích, không chế được muỗng nĩa hay điện thoại cầm tay (…) khả năng kĩ thuật của tôi thua xa người thượng cổ Néanderthal. Tôi hoàn toàn lệ thuộc vào xã hội, từ ăn đến mặc (..) tôi chỉ giỏi tán hươu tán vượn (…) vậy đó mà tôi lãnh lương đều đều, và lương hậu hĩ nữa chứ, trên xa mức trung bình…"

[13] Trong Những hạt cơ bản, một nhân vật khẳng định : "…mấy thằng sát nhân giết người hàng loạt –serial killers- trong thập niên 90 chính là con hoang của đám híp pi thập niên 60… !" " bọn híp pi và (…) Charles Manson là hậu quả tất nhiên và lô gích của thứ chủ nghĩa tự do cá nhân tuyệt đối "(tr.261-262 ) – Charles Manson đã giết chết dã man tài tử Sharon Tate, vợ nhà làm phim Roman Polanski vào đầu thập niên 70.

[14] Houellebecq định cư tại Irlande.

[15] Trèfle : lá cỏ chuồn thông thường chỉ có ba cánh múi, rất hiếm khi bốn múi, cho nên theo sự tin tưởng bình dân, ai tìm được lá cỏ chuồn bốn múi sẽ gặp nhiều may mắn.

[16] Nhân vật Michel so sánh Thượng Đế với …"la chatte" (con " chim " ) phụ nữ , với "hơi nước nóng nhà tắm công cộng hammam". "Và trong vài khoảnh khắc im lìm, bất động đó (…) khi nghe thấy thể xác người yêu rúng động, đạt đến tột đỉnh khoái lạc và cảm thấy tinh thần mình cũng trôi vào một cõi khác, toàn thiện, tôi nghe như tôi ngang tầm cỡ một đấng tối cao nào đó !" (tr.169).

[17] Ác hoa ( Fleurs du mal) bị xử kiểm duyệt vài bài thơ, Baudelaire đi tù và bị phạt 300 quan năm 1857 về tội phạm thuần phong mĩ tục; đến 1866, tập thơ này được in tại Bỉ, nhưng nhà xuất bản bị phạt 500 quan và một năm tù.

[18] Hai người : một thi sĩ và một văn sĩ nổi tiếng đã gây náo động, bất bình; người thứ nhất vì đời/cách sống cá nhân, người thứ hai vì chủ trương bài Do thái dữ dội vào thời Pháp bị quốc xã Đức chiếm đóng.

[19] Theo P. A : óc khôi hài nơi văn sĩ là do thiên phú không thể bắt chước mà có được















Ngọn Cỏ Đã Bay Đi.
Nhớ Nguyễn Mộng Giác.

Phan Thị Trọng Tuyến



Vài tháng trước, hay tin bệnh anh trở nặng, tôi điện thoại hỏi thăm, nghe chị nói anh đang ở bệnh viện, đang niệm Phật, tôi ngờ rằng anh sắp đi. Nhưng tôi vẫn mơ hồ ước ao còn được gặp lại anh vào cuối hè năm nay...

Không kịp rồi anh Giác ơi ! Tin bạn bè tới tấp cho hay ngày 2 tháng 7...

Ngọn cỏ khô đã rời thung lũng, bay đi. Đem về cho tôi một khoảng trời xưa cũ đầy ắp những kỷ niệm êm đềm.

Giở lại chồng thư tìm lại bóng hình xưa, tâm tình ngày cũ, mới giật mình nhẩm tính : hơn 25 năm rồi kể từ ngày tôi làm (một trong những) cánh nhạn đưa tin anh Giác từ Mỹ về cho chị Chi. Ở số 62/22 Dương Công Trừng, Thị Nghè, phường 19 quận Bình Thạnh Sài Gòn. Anh vẽ đường chỉ cách đi trong thư, dặn dò, ngắn, gọn. Anh mực thước, nhỏ nhẹ, ngắn gọn đến khô queo. Chị vui vẻ, dàn trải, hài hước và cũng mau nước mắt, ít ra là vào thời đó. Khiến tôi cứ sụt sùi hối hận đã đem hy vọng huyễn đến cho chị, vì phải đến 4 hay 5 năm sau chị mới qua đoàn tụ với anh. Mà tôi thì chẳng hình dung được những mối tương quan rắc rối, đầy khúc mắc tâm lý, kỳ cục giữa con người chiến thắng với kẻ bại trận (trong một xã hội đang ...cần tiền để tạm sống còn) lại quên mất chính cha mẹ của mình gần mười năm mới đoàn tụ với các con; còn chị, chắc là một mình giữa đại dương bao la, thấy bóng nào thấp thoáng cũng tưởng là chim én báo xuân ?

Hình như tôi đã khiến chị phải gian nan mò ra tận Hà Nội để nhờ người ta chỉ cách làm thủ tục đầu tiên "ký hợp đồng" để ra đi đoàn tụ gia đình! Tôi đã quên những lá thư dài của ba tôi kể chuyện "chạy" giấy tờ để được ra khỏi đất nước, chạy đến nỗi sau này qua hơn hai mươi năm ông mới chịu quay về Việt Nam thăm lại quê hương một lần cuối.

Chắc là tiền mất tật mang vì hợp đồng láo lếu, vì sau đó không còn nghe chị nhắc nữa, mà khổ chưa, rõ ràng tôi chỉ muốn nhân danh tình bạn (vừa có mươi năm trước) để nhờ bạn (cũ này) giúp bạn (mới kia). Mà mười năm tình (bạn) cũ, khi về chốn xưa, được cất kỹ đáy lòng, bạn nói không được giao du với người nước ngoài, nói cách khác là họ lại nhập vào mainstream, người ngoại quốc xứ tư bản chẳng thể là bạn !

Nhớ lại những ngày hè đầu tiên năm 1987, tôi lò dò đạp xe qua Thị Nghè tìm đến chị, thằng em khờ dại chạy trước dẫn đường. Ngôi nhà nhỏ trong ngõ hẻm ít nắng vì nhà nhà san sát nhau nhưng hoàn toàn chìm ngập trong tiếng ầm ầm của các con thoi chạy rần rật ở các khung máy trong xưởng dệt hàng xóm gần kế ngay bên vách. Chúng đè nghiến lên phần lớn ký ức của tôi. Hình như hai chị em phải dẫn nhau ra sân nói chuyện, chị nói huyên thuyên, nước mắt ròng ròng, tôi yên lặng nghe, mũi dãi cũng tùm lum.

Những năm đầu về nước, hầu như khi đến nhà ai nghe chuyện và kể chuyện tôi thường mít ướt như vậy, nhưng đây là lần duy nhất người kể khóc nhiều hơn người nghe.

Thời ướt át từng 10 năm một :1975 đến 1985, từ 1985 đến 1995. Đến nay tuyến nước mắt tôi đã hoàn toàn khánh kiệt, tê liệt. Nước mắt và nước mưa tháng bảy, tưới suốt đường đi, suốt tháng đi. Lần thứ nhất khi máy bay chao cánh cho tôi nhìn thấy nhánh Đồng Nai xanh nước rau má đặc quánh uốn lượn, lần thứ hai khi tôi đi lãnh ...quà gửi về cho gia đình, ở cái chỗ gọi là Intershop, quốc tế hay quốc thể, mới dòm thấy đã muốn khóc. Và lòng như tơ vò đòi đoạn khi nhìn tờ giấy biên nhận đen thui nhỏ xíu ghi chữ bằng mực bút bi như rồng bay phượng múa,chuyền dần qua năm chiếc bàn cây ọp ẹp nằm sát cạnh nhau trên khoảng 5 mét, để nhận lấy một cái gật đầu, một cái liếc mắt, một lời xướng tên mình, kẻ bỏ quên dấu sắc, người bỏ thành dấu huyền, a, tôi trở thành người xa lạ, với cả chính tôi. Tờ giấy được chuyền qua mười bàn tay với 10 con mắt dị kỳ, con bên trái dị om diễu cợt, con bên trái kỳ thị lạnh lùng. Thùng quà bị lột trần, nằm đảo điên, ngơ ngác, tội lỗi. Số mạng nó cũng y như chiếc vali trút ruột ngổn ngang trên quày kiểm, khi qua cửa Tân Sơn Nhất, cô bé hải quan hôm ấy tươi cười : bộ đồ ngủ này xinh quá, chị cho em nhé. Ô, nhưng mà người chị bé thế kia, chắc em mặc không vừa. Chuyện như đùa ! Tôi không nhìn ra tôi, không nhìn ra người, dù lạ, dù quen.

Ra khỏi nơi lãnh hàng, tôi chỉ kịp ngồi phệt xuống lề đường, nước mắt tuôn như bão lụt, khóc đua với trận mưa rào. Cô em chồng yên lặng cảm thông, chú Tư ngơ ngẩn, hai con mắt thất thần, cái môi dưới trễ xuống tận càm, cuống quít lo sợ : chị Ba sao vậy chị Ba.

Anh Giác đã dặn tôi cứ kể chuyện, miêu tả đời sống anh cho chị nghe. Nhưng ngồi bên chị hình như tôi nghe nhiều hơn là kể, mà có lẽ cũng chẳng nên kể gì về cái đời sống phẳng lặng, thanh bình và sung túc Âu Mỹ lúc bấy giờ ? Hình như chị rất an tâm vì tôi quả quyết với chị rằng dù thông thường đàn bà con gái hay mê văn thi sĩ nhưng nhất định anh Giác chẳng ( thể?!) có ai khác trong cuộc sống bận bịu vừa lo chuyện văn chương, lo sinh kế vừa lo nuôi con của anh ấy. Hai vợ chồng chúng tôi đã được anh đưa về thăm nhà, đến thăm toà soạn của anh, hình như báo Đồng Nai, được Phạm Việt Cường ra chờ ở ngỏ, dẫn lên nhà, nhìn thấy cô bé con anh đang ủi quần áo, chúng tôi được anh chỉ dẫn tỉ mỉ cách làm báo, in báo. Chúng tôi thấy anh đi bỏ báo và đòi tiền quảng cáo cho báo, đi hỏi bài cho báo và có cả thì giờ đem sách báo đến tặng tôi và đưa đi thăm bác Võ Phiến khi đó vừa mổ tim xong, còn nằm trong bệnh viện.

Gửi truyện ngắn đầu tiên, bài được đăng lại được tặng chồng báo Văn Học Nghệ Thuật bộ cũ, năm đó (1985) anh đang bắt đầu bộ mới. Thời gian sống nơi Midway City này hồn phách tôi lâng lâng trên mây nhưng may quá chuyện đoàn tụ, chuyện hạnh phúc gia đình riêng tư lôi chân tôi lại để khỏi bay đi luôn. Tôi lè phè nuôi con, tà tà đi chơi và làm chuyện nhà, tà tà vui sống nhưng mải mê đọc, mải mê viết.

Cho đến ngày nay mỗi lần về thăm gia đình ở Californie, mỗi lần đi thăm đất nước có cái định mệnh rất máu xương và nước mắt với Việt Nam này, tôi sung sướng như khi trở lại chính quê hương mình, bồi hồi cảm động, bơi lội trong hạnh phúc và cảm kích. Đó là thời gian thất nghiệp thiên đàng nhất, chưa bao giờ tái bản được cho đến ngày nay. Tôi cứ thử tưởng tượng và tự hứa hẹn vài năm nữa thôi, về hưu, tha hồ...tái tạo lại thứ cảm giác, cái không khí thuở ấy. Nhưng cũng tự biết mình hứa cuội, vì từ thời còn nhỏ xíu đến bây giờ chưa bao giờ tôi thực hiện được chuyện tái tạo bất cứ khoảnh khắc hạnh phúc nào. Mỗi khoảnh khắc vừa qua chưa bao giờ giống hệt cái đã qua trước đó và chắc chắc lại khác xa với những sát na tương lai, nói chi đến ...phút giây, đến ngày tháng sẽ tới!

Trong lần gặp đầu tiên với chị, tôi nóng lòng muốn biết làm sao chị sống được khi vợ chồng, con cái xa cách đôi ngả như vậy ? Trước đó, tôi đã khóc với ba của cô bạn thân sĩ quan VNCH bị tù 10 năm mới về và khóc với một cô bạn thân khác bố cũng sĩ quan, mà bác ấy đi đã 12 năm chưa thấy về. Tôi đã mềm rã với bà chị con ông bác ruột, người yêu chết sau ba năm tù cải tạo. Trong những ngày tháng ấy, tôi khám phá ra nhiều thứ hiện thực quá đau đớn. Rõ ràng quanh tôi có 10 người buồn và chỉ một người vui là bà cô ruột huân chương kháng chiến hạng nhì và một người con trai, trong bưng ra, được chia cho một căn biệt thự to đùng ở đường Điện Biên Phủ. Và chị Chi anh Giác là một hoàn cảnh khác, anh ra đi năm 1981, sáu năm rồi chị chưa gặp lại người chồng mà chị đã ra ngoài phường, xã mếu máo khai rằng hắn đã bỏ mẹ con tui đi theo vợ bé. Không thể tính gom chị vào trong 1 triệu người vui của ông Võ Văn Kiệt hay 2 người vui của tôi.

Tôi thấy chị sống bằng chờ đợi và hy vọng. Những chờ đợi và hy vọng xen lẫn, cắt đứt bởi những phút giây tuyệt vọng, chán ghét, cũng lê thê chẳng kém. Thư chị sau đó gửi tôi đầy nước mắt, trên giấy và trong từng hàng chữ.

Hai mươi năm sau, mỗi lần gặp lại, tất cả những chi tiết vui buồn được chị thỉnh thoảng nhìn lại, vẽ lại bằng giọng kể hài hước, đôi lúc thoáng buồn sâu lắng. Như những vết thương không bao giờ lành hẳn. Như những phần đời bị cướp đi, những mất mát vô lý và bất nhân.

Ngày ấy chị kể về đời sống hàng ngày, về những hành động nhỏ để tích luỹ phước đức, để chờ ngày chúng hoá thành phép lạ đưa đến đoàn tụ gia đình. Giúp đỡ bạn bè, cầu nguyện, như một lần thấy chị bỏ xe chạy đến giúp người phu đẩy chiếc xe thồ cồng kềnh nặng nề qua dốc cầu cao.

Năm 1991, gặp chị lần thứ hai, ở Cali. Tươi cười sống lại, chị đùa : mình vượt biên bằng máy bay, chỉ gặp hải tặc ..Nguyễn Mộng Giác. Anh tiếp tục làm việc, viết lách. Thời khoá biểu đều đặn, xe van ra công viên, tiếp tục viết. Chị ở nhà, lại chờ đợi, nhưng lần này, trong hạnh phúc Hỏi anh, anh cười hiền, hai con mắt đen lấp lánh cười theo. Ừ, vui chứ, đời sống khác hẳn, cơm canh ngon lành, giường chăn sạch sẽ, thơm tho.

Nếu không bàn chuyện văn chương viết lách thì anh chỉ cười, nói ít và nói ngắn. Lời nói tác giả ngắn và ít mà trong những trang sách của anh nhân vật nào cũng nói nhiều, nghĩ nhiều, tâm tư, tâm sự, tâm tình nào cũng phong phú, giải bày đến tận cùng, thấu đáo, trước sau rạch ròi, hợp lý, chí tình. Anh là lòng cương quyết và nghị lực. Nhân hậu và nghiêm trang, mô phạm mà không cứng nhắc, dễ tha thứ cho người. Mỗi lần giở một trang Mùa Biển Động hay một trang sách nào của anh, tôi bồi hồi vẽ ra một anh Giác, chậm rãi từ tốn, ngồi viết say mê bên cạnh một hộp cơm đã hết hay một ly cà phê đã nguội và điếu thuốc toả đường khói.

Anh chỉ dẫn, giới thiệu và bảo tôi in sách và giúp tôi thực hiện việc đó. Quyển sách ra đời được là nhờ anh. Những truyện ngắn gửi anh đều được anh trân trọng, ngợi khen, khuyến khích.

Mỗi lần đến thăm là anh cho sách, một lần kia, anh và anh Châu Văn Thọ với chú Võ Thắng Tiết cho tôi đến 2 valises sách, gần 150 quyển !

Về sau này, sau chuyến về nước bị công an quấy rầy, lại thêm thất nghiệp, lại thêm crise existentielle (?) tôi chán đời chán viết.

Anh hỏi thăm, hỏi bài; tôi hỏi anh viết để làm gì, anh kêu lên bắt đầu có vấn đề rồi đây nhưng cũng an ủi, phân tích, khuyên lơn. Anh Giác ơi, coi vậy mà nào có phải như vậy đâu.

Anh chị vẫn tươi cười ân cần và vui vẻ mỗi lần chúng tôi đến thăm. Hẹn đi ăn nhà anh, hay hẹn đến nhà.

Một lần mới sang, tôi gọi điện hỏi thăm, anh chị hẹn tôi ra một nhà hàng gần nhà anh chị vì có thêm một nhà văn nổi tiếng cũng có mặt ở đó. Lần ấy tôi qua Cali một mình, lái xe lạng quạng đi lạc, đoạn đường từ nhà ba má tôi đến nhà anh mọi khi chỉ cần năm phút, qua nhà hàng thì cỡ 7 phút mà tôi bò quanh hơn 1 giờ đồng hồ mới đến được điểm hẹn. Khổ cái dạo ấy tôi chưa có mobile phone. Chưa kịp mừng vì sống sót, khỏi lạc qua tới Mexico, tôi bị nhà văn kia mắng như tát nước, sao mà bất lịch sự thế, để người ta ngồi chờ cả tiếng đồng hồ, sao thế này, thế nọ... Ít ra là 3 lít nước, tôi chỉ muốn độn thổ cho xong, nhưng phải vụng về xin lỗi, chống chế, hai năm rồi em mới qua, quên coi bản đồ trước, chạy xe theo trí nhớ...tồi tàn của em.

Riêng anh chị vẫn hiền lành, tươi cười hỏi thăm không thêm một câu khó nào cho tôi.

Khi anh bị tấn công tới tấp vì một chi tiết trong bộ Mùa Biển Động, anh có hỏi nếu là tôi thì tôi làm sao ? Tôi sôi nổi : đừng thèm trả lời anh Giác ơi. Tưởng tranh luận về điều gì ích lợi hơn....

Anh đương đầu sóng gió, đâu đó rồi lại yên. Y như chuyện về với chẳng về, dù rõ ràng đi với về chẳng giống gì nhau hay cùng một nghĩa như nhau, tùy góc độ nhìn, ai cũng có cái lý của mình, cãi nhau chi cho sinh mệt, sinh chuyện. Điều đáng kể là những trường thiên, tác phẩm của anh, là của người Việt hải ngoại, tôi cảm ơn anh đã khiến mình tự hào và hãnh diện lây.



Một lần trong métro Paris, chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ Việt, ngồi xem say mê, quyển Mùa Biển Động , không buồn ngẩng đầu nhìn tên những trạm qua.

Hơn một lần tôi cũng hồi hộp theo bước chân Lãng, say mê đọc những diễn tiến trong truyện như những đoạn documentaire thật rõ ràng, gay cấn... cũng như theo bước nhiều người nam khác, tuy có hơi sốt ruột khi nghe họ bàn chuyện thời thế, văn chương, chính trị : Ngữ, Tường, Ngô ...Nhưng tôi chẳng mê được những nhân vật nữ của anh, Nam, Diễm, Quỳnh Như...tôi thấy họ ...không giống ai ...như tôi đã biết. Có lẽ vì tôi chưa quen thân với bà phụ nữ người Huế nào nên chưa hình dung được chăng.

Cái khổ của việc quen biết tác giả chắc là ở đây, nhưng làm sao nghe lời bác Mai Thảo : đừng bao giờ tìm gặp, làm quen với tác giả ; tôi làm quen và nhiều khi quen thân các tác giả, đến nay vẫn yêu mến và muốn giữ mãi tình thân với tuyệt đại đa số các tác giả ấy. Và thật buồn khi biết rằng chẳng còn bao giờ được anh tươi cười chào đón mỗi lần ghé qua, chẳng bao giờ còn nghe tiếng nói nhỏ nhẹ ân cần, không còn nhìn thấy ánh mắt đen sâu, thông minh và nhân hậu, ánh mắt nói cười theo tiếng nói.

Phật và các vị Thầy dạy rằng không truy tìm/ tiếc nuối quá khứ, không chờ đợi/ vọng tưởng tương lai, nên sống trọn với hiện tại . Nhưng thưa Thầy, hiện tại ngắn ngủi, chất chứa nhiều câu hỏi, chưa kịp đáp/ngáp đã hoá ra quá khứ. Thành ra con cũng như một số đông người, đều sống bên này hoặc bên kia lằn ranh thời gian.

Nhất là ở bên phía quá khứ, nhiều khi, như hôm nay, rõ ràng ôn quá khứ để sống lại những lúc êm đềm, khơi lại những hình ảnh xưa để thấy rõ ràng những đau đớn cũ đã biến mất hoặc nếu chỉ phai nhạt, còn phảng phất vương vất đâu đây, thì công dụng của phai nhạt ấy, vương vất ấy là để tô rõ, nhấn mạnh niềm hạnh phúc đã có.

Cái buồn mất mát cũng không tồn tại vì tôi biết anh đã về cõi niết bàn, sống/ viết như anh và chết như chị đã chuẩn bị cho anh, tôi tin chắc rằng anh ra đi bình thản, an nhiên.

Phan Thị Trọng Tuyến

25/08/2012








Tham khảo thêm về tác giả Phan Thị Trọng Tuyến























Trăng đảo



1. Tiền kiếp

Từ bên trong tấm thiệp cưới màu trắng bạc, lấp lánh chìm nổi rồng phượng, rơi ra tờ giấy nhỏ:

Nhạn yêu,

Đến chung vui với chị. Cả nhà vẫn nhắc em. Ôi, gần mười năm chưa gặp lại, hẳn có nhiều điều để kể cho nhau, phải không? Em bây giờ ra sao? Phải đến nghe em. Cho chị biện hộ một lần, hai lần, ba lần... cho chị tìm lại được em ngày xưa... Phone cho chị ngay, khi được tin.

Hôm sau sẽ là buổi họp mặt đặc biệt của ban tam ca. Đến nghe Nhạn. Thế nào em cũng đến, phải không? Nhớ em vô cùng.

Yêu em, chị Loan.

Bên ngoài bao thư chi chít địa chỉ và số phone, fax, email nhà, nơi làm việc, của chị, của ông chồng tương lai và hai ông em chị.

Thiệp mời ăn cưới chị là lệnh truy nã tôi. Tenderly and firmly wanted. Có Interpol và Internet giúp đỡ. May mà nó đến kịp lúc.

Tôi thở dài ném lên bàn mớ tin bất ngờ nhưng phải đến và đã đến, tôi chậm chạp cởi bỏ khăn áo rồi nằm lăn ra giường. Ôi, chị Loan... chị Loan... Nhiều điều để kể cho nhau? Phải không? Phải không!?

Cái điệu hỏi thách thức và không cần câu trả lời. Phải không của chị đồng nghĩa với phải là, phải vậy. Như cái nhìn đen sâu dưới hàng mi nhung mềm âm u. Như đôi môi nghiêm trang ít cười, như quai hàm ương ngạnh trên chiếc cổ nhỏ tròn, thanh tú. Như những dòng chữ nhỏ cuồn cuộn, mạnh mẽ, tiếp nối, những chữ t rắn rỏi, những y những h chắc nịch và thiếu đường vòng của hồi tâm nghĩ lại. Dấu than, dấu hỏi như ngón tay cái quật ngược xuống đất ra lệnh xử tử. Những dấu ngã, dấu huyền như những nhát chém ngắn gọn. Nạn nhân té nhào, chết không kịp ngáp.

Tám, chín năm rồi, có thêm bóng tối, nếp nhăn nào bào tròn, giũa ngọt? Tôi vẫn cố quên nhưng không được, dăm ba phút tuyệt đỉnh hào quang đã có một lần trong đời.

Trong điện thư tuần trước, Phúc đã báo:

Tình cờ gặp chị Loan, tôi mạn phép bạn cho chị một số tin tức cùng địa chỉ của bạn. Chỗ làm mới được như ý chứ? Nhớ về tham dự ngày họp mặt bạn bè đảo xưa nhé. Tôi ước mong nghe lại giọng hát chị ấy cùng tiếng sáo bạn ngày xưa. Thân.

TB: Chị Loan vẫn đẹp tuyệt.

Đẹp tuyệt! Mười lăm năm trước, một trong những ngày đầu lớp học tiếng Anh, giữa mớ học trò lổn nhổn những nam phụ lão ấu, có người lỡ phóng lời cảm khái đồng tình này. Chị đứng trước bảng đen, trang điểm rất sơ sài, da nắng màu đồng, áo dài lụa xanh lá cây vẽ hoa vàng ôm sát dáng người cao thon nhiều nét cong đầy đặn, bắt mắt phải nhìn hoài. Chị tươi cười chờ chúng tôi vào lớp, mắt nhung đen long lanh, hai cánh môi hồng hé nở trên chiếc cầm chẻ đôi. Chị đẹp như Ava Gardner thời Pandora.

Đẹp tuyệt! Lập tức, đôi gò má mịn màng đầy đặn dợn sóng múi đào bỗng hồng lên màu giận dữ. Nụ hoa khép lại. Chị quắc mắt quay về phía thủ phạm. Nắm tay chị vung lên bật ngón chỉ ra cửa. Đứa con trai nhìn xuống chân mình, đầu hắn đã chui tọt xuống chiếc cổ lồng đèn giấy xếp. Hắn cóm róm, cọm rọm bò ra khỏi lớp. Cả bọn chúng tôi im phăng phắc, không dám liếc nhau, quên luôn cả thở. Chỉ chiếc quạt máy lỏng lẻo trên cây đà ngang vẫn ngờ nghệch cành cạch, cành cạch khập khiễng xoay đều.

2. Ai nuôi mày lớn?

Mười lăm năm trước, đêm tối vừa buông xuống, từ nơi cao và vắng nhất đảo, về sau sẽ trở thành nơi chúng tôi vọng nguyệt, vọng tin, vọng đủ thứ tương lai đẹp đẽ. Ừ, mười lăm năm trước, tôi ngồi khóc như gió như mưa, như trời Sài Gòn tháng tám. Chị kéo đầu tôi ngả vào vai chị, thủ thỉ dỗ dành. Tôi nghe mái tóc khô gẫy của mình mềm đi dưới đôi tay chị vuốt ve. Dưới ánh sáng trăng lồng lộng, trong suốt một màu sắt lạnh, ngôi trại cấm trở nên khép nép, hiền hòa. Những chấm đèn vàng lung linh thật đẹp, tuy không đủ soi sáng những mảng nhà tơi tả, lắp ghép bằng những thanh gỗ mục đen đũi lấy ra từ những con tàu vỡ. Các cửa sổ, mái nhà, cả các ranh giới, hàng rào đều là những mảnh vải buồm, vải nhựa bời rời phơ phất. Những túp nhà đơn lẻ xung quanh, trên những khoảnh đất dốc gồ ghề như những chú rùa con đen ngòm mon men xích lại gần nhau.

Chị nâng mặt tôi, hôn nhẹ. Ngón tay vuốt đi những giọt nước mắt:

– Em dại ơi là dại. Dùng võ liều với đám đông, dại quá. Phải không ? Chúng nó cào cho mấy cái là hư mặt hư mũi. Em tên gì? Có thân nhân bên Mỹ mà, phải không? Ừ, chắc chắn em được định cư sớm, phải không. Chúng nó ghen đấy. Trời ơi, trăng ơi, hãy ngắm xem, mặt em tôi sáng đẹp như trăng rằm. Này, chị bảo đẹp như chứ không phải tròn như đâu nhé. Này, em biết Thúy Kiều và em cô ấy, phải không?

Tôi vùi mặt vào vai chị, hé mắt nhìn trăng, giấu nụ cười sung sướng. Mặt em như trăng rằm... sáng như trăng rằm...

Trăng xóm nhỏ, trăng đồng quê, và sau này hằng hà sa số trăng thành phố, trăng rừng núi, cao nguyên, trăng đồng bằng, thung lũng, trăng thu hay trăng đông, trăng nguyên hay trăng khuyết, trăng tỏ với trăng mờ, đã bao nhiêu lần lơ lửng ngắm nhìn tôi, nhưng chúng chẳng bao giờ được là trăng rằm đêm hôm ấy!

Những nụ hôn, những lời nói như chiếc đũa thần vung lên.

Tôi đứa con gái mười tám tuổi, một ngọn tre quắt queo bốn mươi kí lô, mớ tóc dài lơ thơ nắng gió đốt ngọn, chẻ đôi ba. Tôi, một lá cờ thua trận, te tua ủ rũ trên chiếc gậy hàng binh.

Những ngày chưa xưa mà như đã xa xôi lắm, những đứa trẻ trong xóm cũ đổi giọng mỗi lần thua một cuộc chơi, hay có khi chỉ vì ánh mắt khinh bỉ của tôi kiêu kỳ lướt nhẹ trên đầu chúng:

Cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn ?

Đứa này nhìn đứa kia, luyến láy, ỡm ờ hỏi nhau:

Cúc ơi, Cúc hỡi, Cúc nè!

Cúc cụt đuôi ai nuôi mày lớn?

Cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn?

Đứa này xô đứa kia, đứa nọ chỉ mặt đứa khác, giọng Nam, giọng Bắc, giả vờ ngơ ngác, giả vờ ngạc nhiên. Những âm thanh đuổi bắt nhau, đồng loã, tiếp nối, ăn khớp như những bè hát cao thấp trong một ban hợp ca, như thằng hề nói lối trước khi xuống vọng cổ, như câu rao, lời than mở cửa bi hài kịch:

E hèm, e.hèm… sao kỳ vậy cà?

Đời sao có sự lạ lùng?

Có con cút nhỏ chẳng cần ai nuôi!

Này em,

Em bảo sao?

Em này,

Em nói sao?

Cúc ơi! Cúc hỡi! Cúc hời,

Ơi em này, ơi con chim cút nhỏ!

Rồi chia hai nhóm, hùng hổ, quay mặt vào nhau giả bộ xỉa xói, vờ vĩnh hỏi han:

Cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn?

Chúng hít hơi, đứa cong lưng, đứa gồng ngực, đứa chống nạnh, đứa ôm đầu, cùng thét vào mặt tôi:

Cúc cụt đuôi, ai nuôi mày lớn?

Và cứ thế cả lũ múa may, xoay trở nhịp nhàng:

Dạ thưa thầy! Dạ thưa thầy!

Con lớn mình con!

Cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn?

Dạ thưa thầy!

Em lớn mình em!

Cút cụt đuôi! ai nuôi mày lớn?

Dạ thưa thầy!

Tui lớn mình tui!

Chúng lủi nhanh như bầy chuột khi tôi gầm lên xông vào. Những tiếng cười nhọn sắc chìm vào mọi ngõ ngách xóm nhỏ đêm đen. Đã nhiều lần và trăm lần như một, lúc cả bọn bắt đầu bao vây, tôi lừ đừ, ngất ngưởng lắc lư cái đầu bù xù tua tủa một ôm tóc rễ tre, nửa tiến, nửa lùi. Tôi nghiêng tai nghe ngóng. Cố tình lê chân chờ chúng diễn trọn màn kịch. Dường như tôi muốn nghe cơn đau gậm nhấm lồng ngực. Dường như phải tự phạt mình trước. Dường như tôi tán đồng tài nghệ bọn mất dậy, hòng lờ đi cái diễm phúc lớn lên chẳng phải một mình của chúng nó. Dường như tôi nấn ná chờ cơn giận dữ lớn phồng đúng mức.

Nhưng khi kịch hạ màn, tôi một mình đứng ngẩn ngơ giữa đường hẻm vắng. Nghe nỗi hờn dâng lên cổ, ngăn thở, bóp nghẹt tim. Và lần nào cũng vậy, ngay trong cơn giận, tôi nhớ đến câu trả lời nóng mặt tôi ném vào bà Bách-bán-cá trước đó không lâu.

Vào những dịp bà ngoẻo cổ ngắm tôi, đôi cánh mũi rộng trơn bóng phập phồng đầy những chấm chân lông đen, hai con mắt bẹp dí dưới đôi mí mọng mỡ của bà lượn liếc ngang dọc vùng ngực mới chớm đầy, giọng dài và nhão:

– Gớm! Con gái xinh này... Cúc này... con gái nhớn nhanh nhỉ!

Tôi không bao giờ nhận ra đó là lời khen/ thán phục hay ngạc nhiên/ chê bai. Và cũng chẳng muốn tìm hiểu làm gì. Nhớn với chẳng nhớn, mắc mớ chi đến bà?

Cô năm Tứ Sắc ngồi lim dim bên ly cà phê vừa uể oải ngáp xong cũng gật gù phụ hoạ:

– Ừa, con nhỏ ngộ he, không ai nuôi mà cứ lớn xổng! Con gái “nhớn” dữ rồi he.

Một lần, hai lần, rồi ba lần. Mỗi khi ra ngoài xóm, tôi nghe mình nghẹn thở không phải chỉ vì mảnh áo dài cũ quấn chặt bộ ngực con gái cố giấu chứng tích sự “nhớn” – khiến hai bà bất bình?

Hai con mắt ti hí kia vẫn sáng lên điều khám phá cũ mỗi lần tôi đi ngang: “A, con bé...” Và chữ “nhớn” giọng Bắc thật và Bắc giả của hai bà cứ cứa vào tai tôi.

Hai bà ác mỏ, kẻ mập ú ù như ông địa, người còm nhom cọng kẽm, như hai hung thần đứng gác bên cánh cửa phường rệu rã móm mém, vá víu, tróc sơn và gãy bản lề, luôn luôn có mặt, chực chờ tôi đi ngang. Xung quanh, những kẻ biểu đồng tình khác cũng hiện diện thường trực, đàn ông, đàn bà, và con nít, dù ai cũng bận rộn chuyện riêng tư. Tất cả đều sẵn sàng.

Những người lớn đã hết lớn, chỉ còn có thể mập ra hay ốm đi, và chắc chắn sẽ già héo, nên ghen tức. Đã đành, nhưng còn lũ trẻ con? A, phải rồi, chúng lớn lên nhờ cha mẹ.

Lâu lắm không còn bạn hàng đem cá đến bán, bà Bách đổi sang bán cà phê. Thế là hết những buổi tôi nhìn bà hành nghề. Mỗi lần đi chợ, dù sợ bà lắm, tôi vẫn ngấp nghé sau lưng má ngày xưa, và ngoại sau này, say mê hé nửa con mắt quan sát bà. Một mình bà là cả khu chợ đời thuở ấy.

Khách mua dừng chân, chỉ vào một chú cá, bà chộp lấy nó – bà luôn chộp lấy bạn đồng cảnh ngộ của nó, mập bự hơn – thảy lên dĩa cân nhôm móp méo. Rồi bà vừa xê xích quả cân trên cái cân sắt đen thui nhớp nháp, vừa ra giá, rồi buông cân, bà tử tế vừa nói thấp xuống một tí nị vừa nhìn kẻ mua bằng ánh mắt hung thần. Đã hỏi thì phải mua đấy nhá.

Người yếu vía sẽ gầm mặt đi giật lùi sang hàng khác, người gan góc cố kỳ kèo bớt số chẵn số lẻ. Bà sẽ háy, nguýt, lườm, thở ra, thở vô, thở dài, thở ngắn, đôi khi thò tay bắt cá ném lại vào bàn cân cho khách thấy rằng sự đôi co này thật quả không xứng với... cá. Rất thường khi, khi khách lắc đầu, bà bắt một con cá khác, nhỏ hơn nhưng lạ thay, bà vẫn gán cho nó cái trọng lượng bà đã xướng đôi phút trước đó, có lúc khách tiếp tục tỏ ra can đảm, vội vã đính chính sự lầm lẫn của bà để lãnh thêm vài cái lườm dao phay. Rồi khi trận chiến ngã ngũ, bà hất cá như ném người đối diện lên tấm thớt. Bà quơ dao cạo vẩy, bà vung tay chặt vây, đẽo mang, cứa đuôi, bà đằng đằng sát khí, bà đùng đùng đổ hận lên cái sinh mạng tẻo teo đang phì phò bèo bọt kia. Hai con mắt hí tiếp tục chửi bới băm vằm kẻ bần tiện.

Rồi mấy thau cá cạn nước cạn cá. Bà đi đi về về miền xa mua bán cà phê. Và khi hết thể đi xa, bà ngồi nhà, che bạt mở quán cà phê bụi đời và chồm hổm, với đủ món lặt vặt, ăn được liền hoặc ăn liền không được, khoai sống chuối chín, vài bao thuốc lá, nằm lung tung trên chiếc bàn gỗ tạp ngay trước cửa nhà bà. Có khi bà bày giùm mấy chai xăng đục ngầu của chồng cô Năm. Có lúc bà canh công an cho mấy sòng bạc. Hoặc gõ nồi nhôm báo động giúp mấy nhà chiếu vi-đê-ô đen khi thấy kẻ lạ có mùi công an.

Giữa hai kỳ đổi nghề, bà gây gổ với bạn buôn bán cũ đang phất lên, cà khịa với ông chồng, một bại binh ngày xưa. Trừ hôm nào ông hên, ông say xỉn trước giờ bà lên cơn, ông nằm dài trên ghế bố, cái mặt đỏ khè thỏa mãn, đôi mắt kéo màng, lờ đờ nhìn bạch vân du du, hai lỗ tai điếc đặc. Nhiều lần tôi mơ ước hão huyền, mong rượu rắn thành thuốc bổ gan để ông làm cách mạng, mài dao dạy vợ.

Ngôi chợ phụ kinh niên nằm ngay đầu xóm, chỗ ngõ hẻm mở ra quận lộ. Ngày trước vốn là hai ụ mả hoang chứa vài con ma. Năm kia, hai ngôi mộ bất ngờ được thân nhân bốc đi, hẻm phình rộng ra. Năm bảy người vội vã bày biện gồng gánh, ống bơm bánh xe, tủ kính lớn nhỏ nên không ai khác kịp ăn cắp đất nhà nước cất nhà lấn hẻm. Trong khi đó, má tôi gửi tiền từ Mỹ về cho ngoại tôi đều đều. Tôi đi học, đi chơi, đi bộ hay đạp xe đổi tiền, lãnh hàng, đi chợ xa, chợ gần, và không muốn ghé vào ai, không muốn đáp lời ai.

Nhưng lần thứ tám (chín? mười?) tôi nóng ran tóc tai mắt mũi, hít đầy hơi vào phổi, lấy hết sức hét lớn vào mặt bà:

– Bộ cần phải có ai nuôi mới lớn được sao? Tui lớn mình tui!

Hai con mắt lúc nào cũng như nhắm tịt kia bỗng giãn dài ra và lại càng tít tịt. Bà ngửa cổ cười ha hả. Tất cả mọi thặng dư thịt mỡ trên người bà tưng tưng cười theo. Những người ngồi quanh cũng bò lăn ra cười phụ hoạ. Một chiếc ghế gãy rắc, người đàn ông té huỵch xuống đất, tiếng cười càng nổ ra ở mọi giai bậc. Những đứa quỷ con đang ngồi kỳ cọ những chiếc túi nhựa đủ màu, bỗng lên cơn điên rây nước vào nhau, cười ngả nghiêng. Như thể cuộc đời xóm nhỏ là thiên đàng. Những tiếng cười loang dài đến cuối xóm, dài đến hải đảo lạ lùng, dài đến suốt cuộc đời tôi bây giờ.

Từ hôm đó, không phải một mình bà Bách mà cả cái xóm đáng ghét này thấy rằng lớn một mình là chuyện cực kỳ vô lý.

Như mọi khi, tôi tiu nghỉu quay về nhà, nắm tay nén hận, bước chân hậm hực đấm đá lũ bàn ghế trong nhà.

Bà ngoại trên gác nói vọng xuống:

– Cúc về đó hả con?

Tôi khóa trái cửa, đặt túi xách trên bàn rồi ba chân bốn cẳng bay lên, mặc kệ những nấc thang gỗ già kèn kẹt kêu đau dưới chân.

– Vuốt giận đi con. Sao con khờ quá. No mất ngon, giận mất khôn.

Ở nhà suốt ngày mà ngoại biết tôi làm gì từ lúc lịch kịch khoá cửa rời nhà. Ngoại ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật, nhưng chiếc áo tràng màu tro đã gấp nếp, nằm ngay ngắn bên cạnh. Tiếng chuông mõ dường như hãy còn ngân nhẹ từ những tấm vách ván khô ran mùi nắng của căn gác bé tí. Nhịp ngân nhè nhẹ mơ hồ giảm dần, mùi nhang thơm, hơi trầu cau thoang thoảng đưa, nên nhịp tim tôi cũng chậm lại.

Bà cười, hàm răng cứng đỏ vôi trầu:

– Đưa chưn ngoại coi. Đau không con? Tội nghiệp mấy cái ghế... khi khổng khi không bị đòn!

Tôi cũng cười, tạm quên oán hận, khom người ẵm ngoại lên giường:

– Bữa nay con nghe ngoại nhẹ ghê. Nhẹ hơn hôm qua!

– Vì con đang sức lớn, còn ngoại sửa soạn...

Tôi vội vã chận lời bà:

– Gối kê như vậy có cao quá không hở ngoại? Bây giờ con làm gì? Con bóp dầu chân ngoại rồi con đọc kinh hay đọc truyện, Kim Vân Kiều hay Lục Vân Tiên?

Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh...

Thử hữu tắc bỉ hữu, thử vô tắc bỉ vô...

Thiện nam tử! Chúng sanh thời mạt pháp chẳng được thành đạo, là do có các chủng tử yêu ghét giữa mình và nguời từ vô thủy...

Cái đám trẻ con xơ xác cứ ngồi nhe răng (cười?) cả đời bên rãnh nước đục ngầu hôi thối, mối hy vọng hoang tưởng sẽ lớn dần theo những đống bao nhựa. Hy vọng tái sinh mỗi ngày rồi chết chìm theo dòng nước sình đen thủi đen thui! Tái tới tái lui cuộc đời ngồi rửa bao? Được, được lắm. Cứ vui cười đi! Cứ rửa đi!

Lạy Trời Phật cho chúng mày sẽ còn bao để rửa đời đời.

– Đọc lần nữa cho ngoại... Con hiểu ra sao, nói thử cho ngoại nghe...

Tự tâm phiền não vô tận thệ nguyện dứt, tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học...

– Bây giờ con xuống sông giặt quần áo. Ngoại nghe băng sáo Nguyễn Đình Nghĩa rồi ngoại ngủ trưa đi.

Tôi chạy băng qua vườn cao su, ngồi bên bờ sông nhỏ, lôi giận hờn ra nhâm nhi. Điểm mặt từng “đứa” chúng sanh. Nhớ từng giọng cười. Ghi sổ từng tội ác. Nghe ngoại tụng hoài chắc có ngày chết chùm với bọn chúng nó. A, chờ xem. Chờ xem. Một lũ quỷ sứ! Ngoại ơi, chúng sanh của ngoại là một lũ quỷ sống!

Con Cúc này vẫn lớn. Một mình. Chờ xem.

Khi nắng dịu cơn nóng, gió ngoài sông thổi mạnh, đem lại những lời kinh lạ lùng, rì rào từ những hàng cây thẳng tắp, từ cành lá xôn xao. Và giọng nói khàn khàn của ngoại. Con ơi ! Bần khổ đa oán. Hoạnh ác kết duyên... Đẳng niệm oán thân. Bất niệm cựu ác. Con ơi, chúng sanh thời mạt pháp... Tự tâm phiền não...

Tôi nghĩ đến bà Bách, có phải vì tôi đã nhìn ngắm bà cho nên mới bị bà ngắm lại? Đôi mắt hí của bà khiến tôi cứ phải nhìn, mắt này ngủ hay nhìn, đố ai biết. Trông bà như một viên tướng Tàu. Duyên nghiệp đã kết từ đó, phải không? Tôi đã ngắm nhìn lũ trẻ ngồi sàng lọc, chà rửa đám bao nhựa đen bẩn. Tôi đã nguyền rủa khinh bỉ vì tôi chỉ cần vác xe đạp đi lãnh tiền, đi chợ, đi học, giặt đồ, lau nhà quét nhà, nấu ăn, đọc sách, đọc kinh.

Những lời kinh vang rền nhức óc. Thử hữu tắc bỉ hữu. Tôi phải bịt tai lại. Vung vẩy áo quần ướt, tưởng mình đang quơ gươm đuổi quân gian ác. Cuộc chiến mơ hồ quá dài, quá sức tôi.


3. Trăng đảo

Rồi một ngày, lạch nước nhỏ trở thành con sông lớn chảy xiết, cuốn tôi ra biển. Đến đảo sau bốn ngày đêm.

Nơi này, tôi như bãi cát buổi sáng. Tinh khôi không một dấu chân người. Sung sướng vì không nghe thấy những bộ mặt và lời hát quen thuộc. Tôi lớn mình tôi. Cho đến một tối, bọn con gái ở khu trại Sáu chận đường gây sự. Một đám quỷ sống. Lao nhao.

– Con câm! Muốn lấy nước phải hỏi chị Cả mày chứ!

– Lạy chị mớ lạy, xá mấy chị vài xá rồi mấy chị cho phép hứng nước. Con này lì thiệt, đúng khỉ trên rừng mới xuống!

– Con mọi lì tóc rễ tre, chắc nói không được tiếng người kinh hả? Dưới đất nẻ chui lên hả con kia?

Một con nhỏ cười khè khè:

– Không ai là không cha mẹ đẻ. Không ai từ lỗ nẻ chun lên!

Một đứa khác:

– Đờn đứt dây hả?

Tôi kinh hoàng nghe thời gian lùi về nơi chốn cũ. Tại sao lại có những bộ mặt dữ dằn chưa hề quen biết, với những giọng nói cười mỉa mai, hung hăng, hả hê một cách lạ lùng? Đã kết duyên, quến nợ tự bao giờ? Chủng tử yêu ghét giữa mình và nguời từ vô thủy... Tôi rơi vào cơn hôn mê tuyệt vọng, tê liệt đầu óc. Trong một tích tắc đồng hồ cả bọn yêu tinh xóm xưa sắp cất giọng đồng ca bài hát cũ.

Tôi lăn vào cấu xé con nhỏ người kinh gầy quắt queo đứng gần nhất. Phát ngôn nhân chính phủ này nói giọng kinh kỳ phố thị, rất đúng chuẩn thủ đô, rất đúng chánh tả, âm vang nhọn sắc, chát chúa và nạm tóc nàng dài, rất mềm mại trong tay tôi. Tôi nhắm mắt lôi kéo, đấm đá. Những tiếng cười bị nhốt lại trong những cái miệng chưa kịp khép. Nàng tóc nhung lanh lảnh tru tréo tiếng thê lương, thoạt nghe như Ngu Cơ khóc than đòi theo Hạng Võ trong tuồng Tàu, nghe kỹ lại thì là thứ tiếng phổ thông rất trái đất, không những Kinh Thượng, mà cả Tây Ta, Esquimaux, Á Rập... đều hiểu được. Ái, ui... Ai da... Một đứa kéo tóc tôi, đứa khác cắn, cào, níu kéo, cấu véo chỗ nào cấu véo được, đứa khác đứng ngoài la hét hùn vốn. Tôi nghe mình mạnh mẽ, sung sướng. Ừ, đờn này, dây đó, lạy đấy, xá đây. Tha hồ hưởng thượng!

Chị Loan không xuất hiện bất thần chắc có án mạng! Chỉ sau hai tiếng quát chị khiến cả bọn lủi nhanh như đám dã tràng. Chị nắm tay tôi lôi đi. Hai chị em lặng lẽ leo lên dốc đá. Đến mái Tây hiên của chị.

– Ngồi xuống đây… Đưa tay chị xem... Rách vai áo rồi...Chỗ tay này cần bôi thuốc đỏ, tí nữa phải đến nhà chị... Có đau không? Chúng nó đến năm sáu đứa... Em biết Thái cực đạo? Hay Việt võ đạo? Phải học trước đã, rồi mới hành, đúng không? Xước cả cổ rồi đây này. Em đau lắm, phải không? Con gái mà đánh nhau, dại thật. Nhà em chỗ nào? Muốn chị đưa về nhà bây giờ không?

Tôi mềm luôn tim phổi. Tiếng khóc đầu tiên nơi đất lạ vỡ ra. Cắn vào vết thương cũ. Và vá lành như thuốc thần.

Thế là, hầu như mỗi ngày, khi mặt trời vừa xuống, hai chị em hẹn nhau về ngọn đồi có mỏm đá vọng nguyệt này, ở tít sau lưng dãy trại cuối cùng và mới nhất của toàn đảo. Trên manh chiếu rách hãy còn nóng nắng, nhưng gió biển đã dịu, chị kéo mành chống mái, bày đèn dầu, nước trà, giấy bút. Thỉnh thoảng chị đi vòng quanh căn chòi lá xem xét, khua gậy đuổi rắn rít, khơi đất cho những mảng đá rơi luôn xuống “vực sâu,” nhắc nhở tôi “cẩn thận, rơi xuống là nát xương, em ạ.”

Đồi vươn cổ đá ra ngóng biển. Phía bên trái, ngược hướng biển, lúc đêm về, trời khô ráo, vắng sương mù, chúng tôi vẫn thấy ánh lên một khoảng trời thành phố. Phía dưới, nơi chân đồi bị lõm vì sóng nước tấn công mài miệt, biển đã ăn hết đất thịt, chỉ còn lởm chởm các ghềnh đá xương xẩu. Từng đợt sóng giận dữ, hung hãn liên tục nghiến ngấu, miên man đổ tạt những đợt nước bạc lên đám rong rêu đen màu đêm. Ban ngày, khi nước triều xuống, những ngọn rong ngắn dài rũ rượi, ngoan ngoãn làm thảm lót êm đềm chờ nước chở sóng lên.

– Ai dạy em?

Chị ngạc nhiên hỏi, khi bắt gặp tôi ngồi thổi sáo chờ chị trên mỏm đá quen thuộc.

Tôi hất hàm:

– Em dạy mình em!

Chị phì cười, đưa ngón tay thon gõ nhẹ mũi tôi, rồi tước lấy ống sáo, ngồi dựa lưng tôi, hít hơi dài đưa sáo lên miệng. Đến lượt tôi thẫn thờ kinh ngạc. Tiếng sáo nhẹ nhàng, ríu rít, uốn lượn, theo những cơn gió biển, bay la đà, vờn quanh những cánh diều xanh, vàng đang tỏa ra trên những mái nhà xiêu vẹo, bay theo những tia nắng hồng cuối chân trời. Đem tôi về với căn gác nhỏ, mùi nhang trầm, tiếng sáo, những câu kinh. A, không thầy đố mày làm nên...

Thế là từ đêm lột xác, tiếng sáo tôi bay bổng, bất ngờ kỷ luật và kỹ thuật. Tôi, nhỏ Cúc cụt đuôi trở thành Kim Nhạn. Đứa nào bây giờ dám hát trêu chọc, tôi sẽ mỉm cười bao dung tha thứ.

Từ đó, mỗi ngày, ở mỗi hóc hẻm của góc đồi vắng kia, dưới nắng mưa, dưới gốc cây dại còi cọc này, với thân cành cong queo nghiêng ngả vì gió biển, ừ, mỗi ngày tôi gỡ một hòn sỏi, nạy một phiến đá ném xuống biển, tôi thì thầm với tôi, với sóng nước mây trời: em sẽ lớn với chị, chị Loan ơi!

Và bây giờ, đám cưới chị Loan. Đám cưới chị Loan. Trưởng nữ Phan Ngọc Loan, và thứ nam Nguyễn Luận, tuân lệnh mẹ cha, nội ngoại, kẻ ở Việt Nam, người bên Pháp, người bên Anh, thành hôn tại Garden Grove vào ngày... tháng... năm. Xin mời... Như thể đại gia đình đã ép duyên chị bằng tất cả sức nặng thân tộc và khoảng cách địa lý. Còn anh Thuận? Anh bị loại trừ ra khỏi cuộc rượt đuổi?

Kỷ niệm ban tam ca? Hay đêm Nhạc gọi hồn? Requiem?

Một lần khác, trốn nắng trong khi đi lượm củi, một lần hiếm hoi có mặt anh Thuận, anh nói:

– Chúng ta không ai muốn nhắc đến những giây phút kinh hoàng trên biển, thế nhưng nhà cửa dựng lên vẫn cứ phải mang dấu vết của chuyến đi.

Tôi nhìn xuống, ừ, khu trại với những mảng đen xám quay quắt cong queo, vài dấu vết của những trận hỏa hoạn cũ, với mái tôn, bạt nhựa, thùng gỗ, những mảnh buồm trùng điệp tơi tả, nhợt nhạt với dây, sào phơi quần áo bốc hơi nóng lung linh dưới ánh mặt trời gay gắt. Những mảnh gỗ thuyền chuyên chở và che chở. Nếu được định cư, tôi sẽ chọn mang theo mảnh nào? Anh nói tiếp:

– Có lẽ từ trong vô thức, chúng ta bảo nhau cất giữ một dấu vết, như thể nếu lãng quên quá khứ, sẽ vô phương vọng hướng về tương lai.

Chị Loan cười nhạt:

– Anh lại tưởng tượng. Phải không? Ai cung cấp gạch đá xi măng cho ta cất nhà thật đẹp đẽ? Ai muốn ở mãi trại này? Tạm dựng nhà. Tạm mọi thứ! Tạm sống!

Anh thở dài, chui vào vỏ ốc.

Từ lúc ba chúng tôi trở thành ban tam ca Nhạn Lạc, chị bớt tranh cãi với anh, tuy chị vẫn là một bức tường lạnh lùng sắt thép. Anh diện bích mỗi ngày, trăn trở tìm cách vượt qua. Tôi thấy nó dày đặc như mấy lớp hàng rào kẽm gai quanh trại. Những mở đầu câu chuyện luôn luôn trở thành những thách thức dưới mắt chị. Chỉ khi nào tập dượt, nhất là khi trình diễn văn nghệ, tôi mới thấy cả hai thành đôi, ăn khớp, hài hòa thích hợp. Khổ nỗi, lâu lắm mới có một lần tổng dượt hay trình diễn. Chị Loan không ưa những buổi văn nghệ giúp vui.

Một bữa, anh nhờ tôi đưa bức thư đầu tiên cho chị:

– Nhạn nhớ nhé, về đến nơi, rồi hẵng đưa.

Cây đàn guitare và giọng hát ấm áp của anh không xuyên thủng được trái tim chị, nên anh đành mài giũa một bài thơ tình. Bài duy nhất gửi riêng một người.

Tôi rưng rưng cảm động; chị Loan cười mỉm:

– Cải lương dễ sợ, em thấy không? Lại còn thơ lục bát nữa chứ! Xe em trở dốc. Ngậm ngùi, anh lăn xuống cuối ngọn đồi. Ngó lên.1

Sau đó thơ anh đăng dán trên báo tường, báo trại, nhiều cô, bà đến xin làm quen. Tôi ngẫm nghĩ lẽ ra, anh chỉ cần ngồi ngó ngang hay ngó xéo chị, im lặng gửi tình si qua những bài bản có sẵn, biết đâu...

– Mai kia định cư, những phút giây này sẽ là thiên thu, Nhạn ạ!

– Hừm?

– Đời sống sẽ lôi em đi. Thời gian lôi em đi, người xung quanh, đời xung quanh che mắt em, em sẽ phải chỉ nhìn về phía trước. Phải không? Đời sống và con người thay đổi từng giây phút.

– ...?

– Chị sẽ đổi thay. Em cũng sẽ không mãi là em bây giờ.

– Không!

Tôi thảng thốt kêu lên. Tôi không muốn nghe nói đến những đổi thay. Đủ lắm rồi. Chị thở dài, đổi đề tài.

– Được tin mẹ em chưa? Dịch cho chị câu này sang tiếng Anh xem nào. Mẹ tôi theo chồng sang Mỹ từ năm 1973. Địa chỉ... Đọc cho chị nghe bài kinh em đốt hôm tang lễ bà ngoại…

Tôi vừa yêu vừa ghét những bài học ấy. Chị vẫn muốn đi trước thời gian. Những đổi thay, tôi đã biết, đã miễn cưỡng, kinh hoàng đón nhận. Không ai có thể lớn một mình? Thật ư? Nhưng hãy để em lẳng lặng biết điều đó... một mình!

– Em sao cứ nhích mãi ra ngoài! Đổi chỗ đi, lăn sang bên này. Coi chừng rơi xuống dưới... Lạnh rồi, phải không? Về nhá?

Một tối khác, một trong những tối sau cùng trên đảo, mảnh trăng liềm lơ lửng trong bầu trời đen lấp lánh sao. Biển cũng đen tuyền, loáng thoáng, bập bềnh những vụn trăng vỡ. Gió thổi lộng, lùa tiếng lá dừa lao xao từ bãi lên tận chỗ cả hai đang ngồi. Đôi khi gió đem cả những giọt nước ném lên cánh tay trần của tôi. Cây đèn dầu lim dim chao ngọn, lảo đảo từng chập. Tôi kêu:

– Mưa!

Chị Loan dịu dàng nâng cánh tay tôi đưa lên môi. Đầu lưỡi ấm mềm lướt nhẹ trên da. Tôi rùng mình. Chị tiếp tục vuốt ve, thì thào, hơi thở chị nồng ấm:

– Nước biển đấy! Tháng tới mùa mưa mới bắt đầu, Nhạn ạ ! Em lạnh rồi, phải không?

– Em thích nước mưa. Và tắm mưa.

– Thì sắp đến mùa mưa rồi, em ạ. Tha hồ thích nhé. Sao lúc nãy chị bảo mặc thêm áo, em không nghe chị?

Chị bóp nhẹ vai tôi, những ngón tay chị mơn man lên cổ, lên mặt tôi. Cả người tôi lâng lâng đê mê dễ chịu. Làm sao tôi có thể đổi thay? Và chị nữa. Tôi không muốn chị đổi thay. Tôi không muốn giấy bảo lãnh của mẹ tôi tới nhanh chóng như chị nói. Một nửa tôi muốn lăn sát vào chị, muốn tan biến vào những ve vuốt đam mê, muốn gửi trả những ngất ngây tê dại, nhưng nửa kia sợ hãi những ngày mai thay đổi, nó muốn nhích, muốn nhấc, muốn xô, muốn lăn về phía biển. Làm sao bây giờ? Em vẫn muốn lớn với chị!

Chị chợt giật mình ngồi bật dậy, nhìn quanh:

– Em có nghe gì không?

Dường như mỏm đá này đọng đầy hồn kẻ chết oan. Nơi này, trước đó chưa lâu, là chỗ thanh toán nợ nần, tư thù: thiên hạ đánh đòn hội chợ một người công an cũ, thách đấu nhau giành giật một người đẹp, v.v... “Chuyện nam nhi!” Chị cười nửa miệng. Tôi nghe ngóng, lắc đầu. Sợ hãi nghĩ đến anh Thuận. Nghĩ đến Kiều và Ngô Hứa.

Chị kéo tôi nằm xuống, lặp lại câu hỏi hôm trước:

– Độ vài mươi hôm nữa là hết mùa ghe vượt biển. Trong mấy chuyến ghe đến tháng vừa qua, em nhìn ra ai quen không?

– Em chưa nhìn kỹ. Chẳng rõ mặt ai, có lẽ không...

Tôi nghe mặt mình nóng lên vì câu nói dối. Tim bỗng đập loạn trong lồng ngực. Chị Loan kinh ngạc, ôm siết tôi. Nhưng tôi linh cảm được tai họa sắp tới. Cúc ơi, mày phải lớn một mình thôi!

4. Người xóm cũ

Hình ảnh chiếc ghe to đến đầu tháng trước bỗng hiện ra trước mắt tôi, đêm đầu tiên hãy còn le lói những ánh đèn dầu tìm kiếm những kỷ vật sau cùng, vài hôm sau nó đã trơ sườn như oan hồn binh tôm tướng cá mắc cạn.

Buổi sáng ấy, một buổi sáng nắng chang chang mặc kệ những cuộn mây bông gòn và những đợt gió biển ào ào. Gió đem theo tiếng reo hò đầu tiên. Có tàu! Có ghe tới, bà con ơi!

Từ lúc chiếc lá khô thành hình thuyền trên đường tiếp giáp biển với mây, trên đảo, như những ngọn gió quần tụ từ góc trời bên này, xoáy tròn tạo nên con trốt, cuồn cuộn, vỡ thành đám người rùng rùng túa ra từ những túp nhà, chạy tràn xuống bãi. Nhiều người, thanh niên, trẻ con chạy tuôn xuống nước, hò reo, vẫy gọi tạo nên những lớp sóng với trùng điệp chấm đầu đen nhấp nhô, những cánh tay giơ cao, tiếng kêu réo bùng lên, lan rộng, vang dậy ầm ầm thành từng đợt hoan hô, cổ võ.

Tôi bỡ ngỡ, lúng túng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Ôi, những tràng pháo tay, những lời nói vỗ về, đẩy ngược vào trong những giọt nước mắt. Ôi, chưa lâu lắm trước đây, mình cũng được cổ võ, hoan hô như thế.

Từ đâu tới? Bến nào? Cần Thơ hả? Vũng Tàu phải không? Hòn Yến? Có bà con nào tới từ dốc Lết? Anh, anh... anh chi mặc áo xanh. Chị ơi, chị chi áo vàng, có phải người miệt Vũng Rô, trông mặt quen quá, có phải người quê tôi? Biết gia đình ý Hồng, ý Muối, pá Xương không? Bị cướp không? Mấy lần? Bà con ở bển ra sao? Các lãnh tụ và gia đình vẫn quyết lòng bám tủ lạnh, truyền hình, ngôi báu, vì nước vì dân cho đến hơi thở sau cùng?

Những tiếng cười vỡ ra. Tôi biết.

Như võ sĩ trên khán đài. Mặt sưng, mũi gẫy, mi nát, mắt vỡ, đầu cổ loang lổ máu. Võ sĩ ơi, có nghe thấy những bó hoa mừng tung đến từ những bầm giập ngang hàng? Những thông cảm và thương cảm bao la ngang hàng.

Ai nghĩ đến ngày sau? Ai biết giá phải trả sẽ kinh khủng thế nào khi chúng ta, từng người một, lăn lưng vào đời sống bình thường, khi sống không còn là sống tạm, sống mòn, khi tất cả lắng xuống cho ác mộng được vực dậy?

Biết, biết chứ!

Nhưng chiến thắng này, lúc ấy, rất hiện tại, cộng hưởng. Rất thực.

Mỗi lần chào đón những người mới đến, cảm giác bỡ ngỡ, sung sướng của tôi ngày đầu tiên đặt chân trên đảo, trào dâng, gần như nguyên vẹn. Rất có thể vì thân còn say sóng nhưng hồn đã trụ đất liền, nghe, biết rằng những ngón chân đang an toàn đạp trên cát mềm, nghe tâm vững chãi, nghe tất cả rủ rê cùng đâm rễ vào đời sống.

Chúng tôi len lỏi xuyên qua đám đông, ra tận bãi.

Anh Thuận mỉm cười:

– Chúng ta vẫn cần quá khứ. Cần nhìn hoài về quá khứ...

Tôi nhìn anh kinh ngạc, tim hụt mất mấy nhịp:

– Em có nói gì đâu?

Chị Loan quay sang anh, gằn giọng:

– Cần quá khứ để sống tận tình hiện tại và chuẩn bị tương lai. Nhưng không nhìn về quá khứ để thương tiếc, oán trách! Chúng ta khẳng định tương lai bằng cách ghi nhớ hiện tại!

Vẫn một đề tài bàn cãi. Ai lì hơn ai?

Anh đỏ mặt lùi một bước. Đôi mắt anh sầm lại. Chị đứng yên, ngẩng mặt, thản nhiên, thách thức.

Rồi như định thần, tỉnh táo hơn, anh tiến đến sát bên chị. Gương mặt xương xương toàn hảo cúi gần sát mặt chị. Tôi run lên. Thêm một chút can đảm, anh có thể đặt môi trên chiếc trán cao bướng bỉnh kia. Những tiếng động xung quanh giãn ra xa. Tôi kêu lên trong tim: Chị Loan ơi, đừng đổi thay!

Chiếc hôn tưởng tượng rơi tuột ra ngoài. Có lẽ vì cái nhìn thảng thốt của tôi, có lẽ vì cái nhìn thẳng của chị, hàng mi lướt một đường cong tuyệt đẹp, như lưỡi liềm. Như nhát dao.

Đám đông bùng vỡ ra, ồn ào. Chị Loan bấm vai tôi:

– Đã thấy người quen chưa, Nhạn?

Tôi cong người lách thoát bàn tay nóng của chị, cố chen ra phía trước, chăm chú tìm kiếm. Những người khách hải hành bất đắc dĩ được giúp leo ra khỏi thuyền, bước chân mệt mỏi xắn vào nước, khó nhọc di chuyển dần vào bờ. Những xác người tả tơi lần lượt đến gần.

Chỉ một phút sau, tôi quên hẳn chị Loan và anh Thuận, nghe tim bắt đầu gõ loạn trong ngực. Đừng, đừng một ai reo lên khi thấy tôi: A, kìa con Cúc xóm Bến Đò! Sợ, nhưng tôi vẫn kiên trì điểm từng mặt người hân hoan rã rời kia. Như tìm cách mở lại vết thương. Như mấy giây đồng hồ tuyệt vời chờ đợi bọn quỷ yêu xóm cũ thổi phồng nỗi đau và cơn thịnh nộ.

Tìm một người biết Cúc mồ côi cháu ngoại bà Ba Tu, tìm một kẻ quen biết Đại ca Phượng Hoàng, thủ lĩnh lũ trẻ chỉ biết hát một bài duy nhất?

Đại ca Phượng Hoàng. Chỉ vài năm sau khi mẹ tôi ra đi, Hoàng lột xác. Tôi lớn phổng phao. Hoàng cũng vậy, đại ca vươn mình thành chúa đảng, bỏ thuốc lá để hút ma túy, nghỉ chơi Cúc cụt đuôi, bám sát Kiều lai.

Như một ánh chớp kinh dị, ngay trước mặt tôi, Hoàng bỗng biến thành Kiều.

Tôi muốn quên đi, khi nhìn thấy Kiều trong nhóm người sống sót. Tôi muốn quên ngay lập tức những cánh tay vẫy gọi, những tiếng reo hò chiến thắng.

Kiều nhợt nhạt, hai con mắt trừng trừng ngây dại, nụ cười ngỡ ngàng, như mếu. Mái tóc nâu dài cột túm sau lưng. Kiều khoác một chiếc áo sơ mi đàn ông rộng và không cài hết nút, bên trong là chiếc áo thun vàng quen thuộc ngày xưa. Đúng Kiều rồi.

Không phải giấc mơ. Vai tôi trĩu nặng vòng tay chị Loan, vẫn anh Thuận bên cạnh chị, vẫn đám đông nói cười ồn ào. Kiều đến ngang chỗ tôi đứng, rồi lướt qua, trôi đi. Kiều nhìn mà không thấy tôi, Kiều không thấy ai cả. Chiếc quần jean xanh bẩn và đẫm ướt kéo trì những nước chân nặng nhọc.

Tôi còn nhớ như hôm qua, tiếng cười Kiều, mái tóc nâu dầy sợi mịn đong đưa, nũng nịu bên vai đại ca. Ánh mắt đờ đẫn mê dại của đại ca chết cứng trên đôi đầu vú nhọn chĩa thẳng như súng thần công. Đôi đỉnh hãnh diện, nhún nhẩy, ngồn ngộn, bềnh bồng, chở nặng những ngắm nhìn ngất ngây, sóng sánh theo mỗi tràng cười. Hoàng mê tít nên quên cười góp với lũ trẻ. Chiếc áo ngày xưa, quà đại ca cho, giờ đây đã thành màu dưa cải, úa phai vì nắng gió và rách toạc nơi đường biên trước bụng. Hàng chữ kiss me màu đỏ chói trước kia bây giờ cũng nhợt nhạt, âm thầm như gương mặt Kiều vô hồn.

Kiều không thấy ánh mắt kinh hoàng của tôi. Và cũng không trả lời bà Yvette trong những ngày sau đó. Không ai khác biết rõ lý lịch Kiều lai, hoa khôi xóm Bến Đò ngày xưa. Kiều đang trở thành con Cúc khốn khổ và đến lượt tôi trả thù, sắp hát bài đồng dao cũ?

Bởi nỗi đau tôi còn nguyên. Chiến thắng Kiều đã tiêu tan sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đại ca giác ngộ, cai ma túy, xung phong đi đâu mất biệt. Lũ trẻ xưa chợt hiểu sâu xa lý do hiện hữu của Kiều.

Bà ngoại tôi an ủi dì Sáu, má Kiều, khi dì phải đi học trường phục hồi nhân phẩm:

– Nghiệp dĩ có căn từ kiếp trước con ơi! Đừng buồn. Đừng tiếc. Mơi mốt về quê sống.

Nhân phẩm là gì, dì Sáu và má tôi đã sống qua bao nhiêu giằng xé, bao nhiêu cảnh đời rối rắm để đánh mất nó? Má tôi ra đi, còn dì Sáu vẫn ở lại với đám con, sao người ta bảo rằng cả hai cùng không còn giá trị con người? Thứ giá trị chỉ cần chủ nhân đi học vài hôm là trở về nguyên vẹn trinh trắng như rửa bằng một thứ thuốc nhiệm mầu. Đôi lúc, tôi mong má tôi bỏ Mỹ trở về đây cùng đi học với dì Sáu. Đôi lúc tôi muốn đi học giùm cho má. Không biết vì tôi muốn có được má bên cạnh hay muốn má làm người bình thường trong xã hội mới này.

Ngoại cứ nhắc hoài những nghiệp tội nợ nần vô hình và vô lý đối với tôi. Ngoại không thấy cái nghiệp sờ sờ chướng mắt nằm nơi ba chị em Kiều, đứa đen đứa trắng không giống người thường, lại rất khác những người hùng. Nghiệp, nợ từ những người lính Mỹ đã chết hay còn sống, đã không lường được hoặc không thể/ không cần biết hậu quả/ tương lai.

Sau đó, vì quê nhà quá xa, hoặc giản dị hơn, vì Kiều có ông cậu Hai cách mạng đích thân đưa cả nhà đi cho khuất mắt (hoặc) làm gương cho nhân dân, bốn mẹ con Kiều rơi vào khu kinh tế mới cách xóm độ trăm cây số.

Và chưa đến hai năm sau, vài tháng trước khi tôi vượt biên, mấy mẹ con Kiều lục tục kéo về xóm cũ, trong đêm che bạt ở ngay trước cửa nhà tôi. Khi bà ngoại tôi nhìn ra mấy đứa nhỏ, kêu kéo hết vào nhà, dì Sáu khóc ơi là khóc. Lúc lũ nhỏ sụt sùi khóc theo, dì mới nở nụ cười hom hem sạm nắng kể chuyện:

– Má con ở quê lên tiếp tế, thấy mấy đứa nhỏ ốm nhom, ghẻ chóc cùng mình, bả ngồi khóc hu hu hết hai ngày. Rồi má lên nhà anh Hai con nằm vạ. Bả nói đứa nào đưa đi thì đứa đó phải lên rước về, ngay lập tức. Ảnh nói đợi... đợi ít lâu... Bà già giãy đành đạch: “ Đợi? Đợi gì? Đợi chân trời chín mươi? Đợi cho nó rụng hết răng, và con nít đứa chết đói đứa chết bịnh? Ác chi mà ác vậy hả con?” Bác Ba ơi, thiệt ra thì ảnh muốn nói đợi cho được mùa. Đợi cây ra trái, đợi khoai ra củ! Được ảnh cho tiền hôm qua, con chở tụi nhỏ về đây.

Bây giờ Kiều chẳng cần gì, chẳng cần ai.

Hôm tôi cùng với chị Loan và bà Yvette đến tìm, Kiều đã bớt vẻ lờ đờ, nhưng cái nhìn xa vắng, câu trả lời giắm giẳn, cộc lốc. Bà mẹ nuôi Kiều, là vợ cả ông Hứa, lăng xăng bên Kiều nhưng bà chỉ nói được dăm câu tiếng Việt. Những người còn lại cũng chìm đắm trong vết thương riêng của mình. Chỉ có lão thuyền trưởng Ngô Hứa vẫn còn nguyên vẹn hồn xác, thao thao nói kể.

Thì ra ít lâu trước ngày khởi hành, Kiều trở thành con nuôi ông, cựu thương gia hai ba vợ (năm sáu nàng hầu?) và một đống con. Tháng 4 năm 75 đến bất ngờ, không kịp gom đủ đại gia đình lẫn của cải nên ông chẳng thể rời Chợ Lớn. Ba năm sau, sẵn dịp Nhà nước kiếm chuyện đuổi Hoa kiều cướp của, ông bèn thanh toán gia tài chìm nổi, đếm kỹ nhân số cũ thời Mỹ Ngụy, cộng thêm niềm an ủi thời bình: một bà vợ bé bụng bầu, thêm hai đứa con ruột và một đứa con nuôi, với gia đình hai người em gái và người con trai lớn. Thương gia trở thành thuyền phó, mướn một thuyền trưởng và một thợ máy, (bán) chính thức đóng tàu vượt biên.

Người vợ trẻ vòng tay ôm bụng mình, vừa liếc Kiều vừa kể về các trận bão và cướp biển. Những đứa trẻ lặng lờ, khép nép rụt rè, nét kinh hoàng còn vương trong mắt. Tôi nhìn Kiều ngồi bất động, nhớ tiếng cười giòn giã cũ xưa, nhớ những tiếng hát chế nhạo. Nhớ tiếng ngoại nói như năn nỉ con ơi, chúng sanh lầm lỡ yêu ghét oán thù triền miên. Nhớ đến những nắm tay nén hận ngày xưa.

Hai tuần sau, những người đàn bà sống lại, có lẽ vì/ và cho những đứa con. Những đứa trẻ đi học, đã ê a tiếng Anh, tiếng Việt, giợm bước tung tăng thăm dò vùng đất mới. Riêng Kiều vẫn quạu quọ, khó chịu.

Chưa rời đảo nên gia đình này vẫn phải chiều chuộng cái thông hành mang tên Kiều. Họ chỉ hoảng kinh khi bà Yvette ngỏ ý muốn Kiều đi nhìn mặt những tên hải tặc vừa bị bắt vài ngày sau đó.

Bà Yvette muốn Kiều hồi phục nhanh. Với chị Loan và ê kíp bác sĩ Davis, bà chuẩn bị hồ sơ, sẵn sàng đưa Kiều và vài cô gái khác nhận mặt, tố cáo, đưa ra tòa những tên hải tặc này. Trừng phạt làm gương và cho Kiều sống trở lại.

Chị Loan kiên nhẫn, giận dữ, dịu dàng, đôi lúc khôi hài, quả quyết. Thuyết phục và năn nỉ. Tôi muốn bắt chước chị, muốn đưa Kiều trở về hiện tại và tương lai nhưng đồng thời kinh hoàng nghe trái tim thổn thức tràn ngập ám ảnh cũ và ghen hờn, lo sợ mới.

Nhạn ơi, em hiểu không điều chị muốn nói?

Kiều phải can đảm nhìn lại dấu vết bạo lực đã qua. Muốn vĩnh viễn quên nó đi, Kiều phải bình tĩnh nhớ mặt, chỉ tên. Bình tĩnh nhận ra nét xâm vẽ trên những bộ lưng thớt thịt, những bả vai đầy dấu chữ ngòng ngoèo, như những bùa chú lạ lùng.

Những bộ lưng trần đó, năm ba thằng chúng sanh thời mạt pháp như ngoại em nói đó, vẫn kéo nhau đi vòng vòng ngoài rào trại, đôi khi leo được lên những chiếc jeep nhà binh lao vào trong này. Những con mắt âm u đen kìn gân máu đỏ tìm kiếm, thách thức.

Những con mắt âm u ấy muốn tìm lại những nạn nhân xưa, muốn sống lại hình ảnh điên cuồng nguyên thủy.

Họ muốn tái tạo những giây phút quyền uy ban phát sống chết? Những sát na tắm đẫm trong sức mạnh vô nhân? Sống lại những khoái cảm, sức mạnh không hề biết đến trong những ngày tu học bắt buộc nơi chùa chiền, bỏ quên những đêm vật lộn với sóng nước, tan chảy dưới mặt trời trong cuộc sống gian nan, miệt mài đuổi bắt cá tôm nhãi nhép?Bẻ gãy, chà đạp người khác, chiếm đoạt vàng bạc, của cải, mạng sống, mà không cần viện dẫn bất cứ lý do nào: ý thức hệ chính trị, nòi giống, chủng tộc, tôn giáo, v.v... Hay chỉ giản dị: thỏa mãn bản năng sơ đẳng thấp kém nhất?

Những tên đàn ông hiện nguyên hình, nguyên thủy, nguyên chất. Chúng phải trả lời tội ác đã phạm. Phải trừng trị chúng làm gương. Chúng ta ở thế kỷ hai mươi chứ không còn vào thời Trung cổ.

Nhạn ơi, em hiểu điều chị muốn nói?

Tôi nhớ hoài bản cáo trạng ấy, tôi ghi khắc ánh mắt, giọng nói khinh bỉ khi chị nhắc đến bọn đàn ông, thuộc phe hải tặc lẫn đồng bào trong trại, với những trận cãi vã, thanh toán nhau, những đòn thù, thủ đoạn, giành giật nhỏ nhen.

Tôi nhớ hoài những ngày chị săn sóc bọn trẻ con, những người mẹ, những bà vợ, những thiếu nữ sống như đã chết; và trên da thịt tôi vẫn đọng mãi đôi tay mềm đã sinh ra tôi trong rúng động tuyệt vời. Tôi và những cố gắng thụ động, tuyệt vọng; gượng gạo níu kéo, chọn lọc những gì sắp sửa vuột khỏi tầm tay.

Kiều bớt dần những đêm mất ngủ. Chị Loan vui mừng. Hai bà mẹ nuôi cũng hài lòng. Kiều chịu khó gượng dậy, ra tận ngoài hàng rào, mua bán, đổi chác. Kiều ghi tên học Anh văn, đi nghe con nhỏ Cúc ngày xưa hát giúp vui, chờ ngày ra đi.

Kiều sắp hồi sinh. Nhưng Kiều vẫn nhìn tôi xa lạ.

Cựu thuyền trưởng, trong đôi mắt xếch sáng ngời một tương lai đất liền, vẫn gửi một tia long lanh la đà, lén lút trên hai chữ kiss me bồng bềnh khiến tôi lạnh xương sống.

Chuyện phải tới đã tới vào hôm ấy, sau buổi trình diễn văn nghệ.

Đang loay hoay dọn dẹp đàn, sáo, tôi không nghe Kiều len lỏi đến gần, đứng cạnh tự bao giờ, bàn tay đặt nhẹ lên tay tôi:

– Cúc ơi! Kim Nhạn ơi!

Tôi giật mình đánh rơi ống sáo. Tôi hất tay Kiều:

– Muốn gì? Tôi tên Nhạn! Kim Nhạn!

Kiều ngỡ ngàng lùi lại, tắt ngấm nụ cười.

Tôi lượm sáo, ôm đàn biến thoắt đi. Những tiếng vỗ tay lùi xa. Nỗi lo vô cùng bắt đầu lớn. Càng lúc càng lớn. Đất trời bất công chưa? Kiều không còn đáng thương nữa, Kiều dẫn đầu một lũ quỷ tung tăng đeo theo tôi lẳng nhẳng hỏi han mai mỉa: Ai nuôi mày lớn?

Làm sao cắt mối dây Kiều vừa bất ngờ nối lại?

Cho đến tối hôm sau, nơi mỏm đá, Kiều bất thần sà tới:

– Kim Nhạn ơi!

Tôi hốt hoảng nhìn quanh. Định thần lại, tôi nhận ra Kiều gọi tôi bằng tên mới. Tiếng gọi dịu dàng, khẩn khoản. Kiều ngồi day lưng ra biển, ngọn đèn dầu nhỏ đưa ánh sáng mờ bao vòng khuôn mặt trắng thon, vẽ to thêm đôi mắt nâu, rót một giọt tối vào cái lõm đồng tiền trên má trái, viền quanh chiếc cằm đầy đặn rất Tây phương. Kiều vẫn đẹp thần sầu.

Khi tôi hỏi han về xóm cũ, đôi mắt nâu to, đẹp mà thoáng nét âm u, bỗng đựng đầy nước mắt và những tia chớp nhỏ. Tôi sợ hãi, nghiêng người giấu mặt vào vùng tối.

Kiều chậm rãi kể chuyện, giọng nhẹ và bình tĩnh.

Thì ra chỉ mới hai năm lang thang, tôi tưởng mình xa xóm nhỏ đã từ lâu lắm. Mấy lần vượt biên, ở tù, ra tù, tôi không dám quay về nhà, đầu tóc rối túm trong chiếc khăn rằn còn thơm mùi trầu cau ngoại và nặng những miếng lá vàng khâu dính bên trong. Như những ngày vô vọng trước đó, chờ má tôi về xóm nhỏ khi Xuân Lộc bị bao vây.

Nhận được giấy tờ bảo lãnh, dì Sáu đặt chúng lên bàn thờ ngoại tôi, đốt nhang cầu khẩn:

– Má Ba ơi, có linh thiêng xui khiến cho con Cúc trở về nhà làm giấy xuất cảnh!

Tôi nhìn đôi môi mọng, nhìn núm đồng tiền lay động. Tự nhắc mình hãy nhớ mối hờn xưa. Hoàng đã chết nhưng một thời đại ca mê đắm nó, bỏ quên bạn bè. Bỏ quên con Cúc. Kiều chợt nói:

– Khổ lắm!

Tôi nghĩ đến Ngô Hứa, rùng mình. Kiều cúi đầu ngập ngừng giây lát, rồi thở dài:

– Nhớ bà già và mấy đứa em tui quá, Nhạn ơi!

Dường như cả hai chúng tôi đều nhẹ nhõm. Vì những lý do hoàn toàn khác nhau. Kiều kể chuyện người yêu đã hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế ở Kampuchia. Tôi thở dài nhớ đến ánh mắt đại ca nhưng cổ nghẹn, không dám hỏi tiếp.

Kiều khóc, tiếng nấc nho nhỏ. Đang do dự không biết nên làm gì, nói gì, tôi giật mình thấy chị Loan xông vào, cúi xuống ôm Kiều dỗ dành:

– Kiều ơi, nín đi em!

Và quay sang mắng tôi:

– Nhạn ác lắm! Sao em lại làm cho Kiều khóc?

Chị lau nước mắt cho Kiều. Chị vuốt tóc Kiều, một tay chị ôm choàng qua hông nó, bàn tay kia dịu dàng xoa vuốt chiếc cổ trắng ngần. Tôi nhắm mắt, nhớ đến đêm trăng năm xưa. Tôi nghe như những ngón tay nâu thon của chị hình như đang chảy xuống vai, la đà đảo lượn trên đôi gò ngực Kiều, rồi vòng lên, những ngón tay mơ hồ trở bề lưng xoa nhẹ bờ cằm, vành môi mộng. Cử chỉ quen thuộc. Tôi bật dậy chạy ra ngoài.

Mưa đổ ụp bất ngờ, quất xuống trăm nghìn sợi roi dài. Tối tăm mặt mũi, tôi khựng bước chân. Biển trước mặt giận dữ vươn mình chồm tới. Gió gào rú, quét mạnh những đợt hung hãn, những luồng sóng ầm ầm dồn dập đổ tạt trên bờ đá. Những nhánh cây cuống quýt cong cành quật từng chập vào mái lá, như những bàn tay quờ quạng kêu cứu.

Tôi lạnh run, hoảng hốt. Em đang ở giữa đại dương đây. Nhưng con thuyền Tây hiên bất động và thật xa. Tôi quay vào, gọi chị yếu ớt.

Chị Loan dường như vẫn mải mê âu yếm vỗ về Kiều. Chị muốn Kiều tỉnh táo chỉ mặt từng đứa hải tặc, đưa chúng ra tòa. Phải đưa chúng ra tòa. Em có biết bao nhiêu kẻ sát nhân đang nhởn nhơ? Ánh đèn vàng khiến hai khuôn mặt đam mê đang kề sát nhau kia càng tuyệt đẹp. Tiếng tôi gào lùng bùng trong đầu. Từ cổ họng không thoát ra âm thanh nào... Em muốn lớn với chị, mãi mãi.

Chị trừng mắt nhìn tôi:

– Cúc phải dịu dàng an ủi, nhắc nhở chuyện xưa chứ sao lại làm cho Kiều khóc? Em ác lắm! Hay là em có trái tim đàn ông!

Cúc, Cúc? Tôi cãi yếu ớt:

– Em tên Nhạn... Em tên Nhạn mà...

Chị gằn giọng:

– Bao giờ em mới trưởng thành, làm được người “nhớn?”

Kiều bật cười. Chị cũng cười theo, vừa âu yếm hôn lên mặt nó. Những tiếng cười đột ngột vỡ lớn ra.

Tôi hét lên xông đến. Hai thân hình mềm mại như mây kia rơi xuống vực thật nhẹ nhàng, thật dễ dàng. Hai khuôn mặt thon đẹp vẫn quyện vào nhau, âu yếm. Và những tiếng cười vẫn lanh lảnh, trượt dài trên sóng.


5. Đêm đồng phạm

Tôi giật mình thức dậy, nghe mặt ướt lạnh nước mắt.
Come on baby. Chỉ là một cơn mộng dữ.
Sylvia bật đèn lên, ngồi ghé vào giường:

– Lại nằm mơ thấy mẹ em hử?

Sylvia âu yếm tước đi những sợi nước mắt. Trời ơi, y như kiểu vớt của chị Loan. Hai bàn tay ôm gọn lấy mặt tôi, đôi ngón cái xoay vòng từ đôi bên sóng mũi, vuốt nhẹ bờ môi, chậm rãi lướt lên vành tai. Những ngón tay mơn man xuống vòng cổ, đường vai. Hai cánh môi mềm chạm nhẹ trên mi. Chỉ là cơn mộng dữ.

Tôi tỉnh hẳn, nhưng bỗng dưng nghe tim mình rắn lại, tôi không hôn trả, chỉ thở ra:

– Có cả án mạng nữa, Sylvia. Nhưng không phải chuyện giết mẹ đâu nhá. Chỉ giết thầy thôi.

- Ôi, em yêu!

Sylvia cúi xuống hôn khắp người tôi, đôi tay như thân rắn mềm ấm áp. Tôi oằn mình, nghe dưới lưng đang kêu réo, à tấm thiệp cưới. Sylvia tựa cằm lên hông tôi, ngắm nghía những dòng chữ, trả lời:

– Bạn nào của em lấy vợ lấy chồng? Mà tôi không biết?

Rồi mềm giọng âu yếm:

– Nhưng chắc chắn không đứa nào vẫn khóc trong mơ như em đâu, baby!

Tôi nhìn tấm thiệp cưới, qua bờ vai Sylvia và những vuốt ve, xem kỹ lại tấm thiệp cưới. Chú rể tên Thuận. Tôi bật cười hân hoan. Ôi, chấn động đến nỗi trông mèo ra cáo!

– Lái xe sang bên đó mất mấy tiếng đồng hồ? Hay đi máy bay?

– Tùy ý em.

Chợt tôi thấy hàng chữ tái bút phía sau:

Tuần sau đó là đám giỗ Kiều. Em nhớ Kiều không? Ông Hứa sẽ đến, gia đình họ có tiệm bán furniture gần nhà chị lắm. Chị nhận được cả thiệp và quà mừng bà Yvette gửi.

Sau đêm ấy, tôi lánh mặt, không muốn nghe Kiều kể tiếp chuyện ngày xưa. Kiều đã tỉnh, ra tòa và chỉ vào mặt từng thằng hải tặc. Chị Loan hài lòng. Tôi được tin mẹ, sửa soạn giã từ đảo, trước khi phải chạm mặt vết thương cũ.

Cho đến một hôm, tôi vùng chạy trốn sau khối đá khi thoáng thấy Kiều một mình lên dốc, đi về phía căn chòi nhỏ.

Mãi đến khi trời gào thét báo mưa, tôi quyết định rời chỗ nấp. Kệ, ra sao thì ra. Nhưng tôi lặng người bất động khi nghe tiếng chân nặng nề và hơi thở hào hển đến gần. Đấy là Ngô Hứa, đại gia chìm tàu, âm thầm như ma, cái đầu tóc lưa thưa hớt ngắn không ngớt xoay đảo nhìn quanh quất với cái cổ to như võ sĩ sumo, ông ta vén tấm vải nhựa chui vào chòi. Tôi vẫn đứng lặng, tay chân tê cứng, những giọt nước mưa lạnh pha lẫn với nước mắt nóng giàn giụa trên mặt, trên áo quần. Lâu lắm, dường như lâu lắm sau đó, con ma bụng tròn lại hào hển vuốt tóc bước ra, gương mặt thỏa mãn, hai bàn tay mum múp đan kết làm nón che đầu, chạy vội về phía trại.

Mưa ngừng. Sương đêm, hơi nước, hơi đất tỏa dầy.

Tôi run rẩy rời chỗ ẩn, ngần ngừ sắp sửa bước vào lều thì Kiều đi ra. Đôi mắt nhìn tôi căm hờn. Không, Kiều không nhìn thấy tôi. Tôi khóc lớn, lôi tay Kiều. Vô ích, Kiều không nghe thấy gì nữa. Kiều đẩy tay du người tôi ra.

Xoay người hướng về biển, Kiều đứng yên, bóng mờ lẫn trong sương. Tôi ngập ngừng, do dự. Tiếng sóng vỡ đều đặn trên đá nghe thật gần.

Kiều chợt giơ cao đôi cánh tay dài và gầy lên. Thân Kiều vút dài. Đẹp như Sylvia, đẹp như Carolyn Carlson múa solo “Blue Lady” trong chiếc robe mousseline màu xanh. Tôi thảng thốt mềm lòng.

Lâu lắm, thật lâu. Kiều buông thõng tay, bước ra khoảng không trên vực. Tiếng tôi kêu rơi chìm trong tiếng sóng. Mơ hồ những cành lá ướt vật vã lao xao trên mái chòi lá.

Tôi ngồi yên nơi mép vực. Xung quanh tối đen, tôi chỉ lờ mờ tưởng tượng ra chiếc màn nhựa in nét mơ hồ, bên trong chiếc đèn dầu đã tắt từ bao giờ.

Chị Loan lay tôi, han hỏi. Tôi lẳng lặng chỉ xuống phía dưới vực.

Chị dìu tôi về trại.

Hôm sau xác Kiều được mang về chùa. Tang lễ yên lặng. Ngô Hứa đứng yên, mắt nhìn xuống đất, bên cạnh những người đàn bà khóc thút thít. Ánh mắt chị Loan đau đớn, hoang mang. Bà mẹ nuôi mắt đỏ, đốt bức thư tuyệt mệnh của Kiều cùng với những giấy tờ, thư từ khác. Tôi cảm sốt mê sảng nhiều ngày sau đó.

Tôi đã thấy gì? Chuyện gì đã thật sự xảy ra? Thư Kiều viết từ bao giờ? Tôi biết chị Loan vẫn nghĩ tôi là kẻ vô tâm dù chị giữ im lặng. Tôi lẳng lặng, ân hận, xa chị cho đến ngày rời đảo.

6. Bẻ quả cho người?

Tiệc cưới được tổ chức trong phòng khánh tiết nhà hàng Tàu Đại Long, trên sân thượng tòa nhà tám tầng.

Bên ngoài trăng tròn và mờ nhạt, như một ánh đèn vô danh giữa trăm nghìn đèn đêm thành thị.

Trong phòng trang điểm dành riêng cho cô dâu, chị Loan giữ tôi thật lâu trong vòng tay. Âu yếm, dịu dàng. Nói đi em. Kể đi em.

Hương Eternity nữ nhân thơm nồng nàn. Chị hôm nay như Ava Garner của 55 ngày ở Bắc Kinh. Gương mặt đầy đặn, vẫn đẹp, cái đẹp mãn khai, dù dường như những cánh hoa ngoài cùng đang sắp sửa ngậm ngùi tính sổ.

Tôi bình thản, chậm rãi kể chuyện như tội phạm đang đầu thú để cõi lòng bớt nặng. Chuyện hiện tại ngắn ngủi rồi lùi dần về chuyện quá khứ dài và rắc rối.

Ẩn hiện ánh trăng. Tôi thấy mình không còn trái tim thời ấy. Tôi thấy chị nghe tôi chỉ bằng một nửa trái tim. Xung quanh đêm cao ốc càng khuya dường như càng rực rỡ. Giữa triệu triệu đời lung linh lóng lánh dưới kia và quanh đây, có ai đang khóc như gió như mưa? Ai lần thần như ma? Ai toan tính kết liễu đời mình? Ai bước nhẹ đều trong nhịp nhạc tân hôn cổ điển? Có phải, tất cả đã chẳng đổi thay mà chỉ chuyển đổi cho nhau phần bối cảnh?

Tôi tiếc nuối khi nghe mình già cỗi, mệt mỏi, dù hôm qua, trên máy bay còn loay hoay sắp đặt một dự định ghê gớm.

Kể chuyện xong, chị trầm ngâm ngắm mình trong gương. Tôi chợt nghe buồn đến muốn phục xuống chân chị hay gục đầu lần nữa trên đôi vai trần thơm tho của chị. Nhưng tôi chỉ ngước mắt nhìn chiếc gáy thon và mớ tóc bới cao, thả một lọn nhỏ chạm bờ vai. Tôi hỏi:

– Thấy có khả thi không, hở chị?

Chị thở dài, xoay người ôm tôi hôn lần nữa. Tóc chị phía trước chải cao, buông thả một nhánh hoa hồng vàng tí hon xuống chiếc cổ dài, tấm lưng chị vẫn thon mềm, đôi vai ngang, xương vai tròn, êm ái. Áo cưới màu vàng nhạt toàn sợi tơ thêu nổi những đóa hoa nâu óng ánh sợi vàng, quấn quyện, hài hòa. Cổ áo hình thuyền dài và sâu, rộng, mấp mô bờ ngực đầy, bó gọn chiếc eo thon con gái, buông những lớp voan mỏng xòe nhẹ vòng quanh, lớp tỏa rộng, lớp buông phủ gót. Nhưng không phải chị Loan ngày xưa nữa. Chị đổi thay như đã từng báo trước. Chị đã rời đảo lâu lắm rồi, trong khi tôi hãy còn thơ thẩn dưới vầng trăng xưa, bị dày vò, ám ảnh vì hối hận, oán thù xa xăm.

– Chị sẽ giúp em?

Ừ, chúng tôi sẽ kín đáo gọi lão, kể chuyện xưa như đọc bản cáo trạng. Đẩy lão nhào xuống vực sâu, trước khi lão vén màn chui vào căn lều nhỏ. Dù dưới kia, đường nhựa với đèn thành phố muôn màu, chắc êm ái hơn bãi đá lởm chởm. Dễ ơi là dễ. Hái quả cho người trả nghiệp. Dứt nghiệp!

Tôi nghe thấy mình ngắp nghé bờ vực, sắp sửa thực hiện mơ ước đêm nào đã bỏ dở dang vì hèn nhát, vì ghen tuông. Tôi sẽ vĩnh viễn rời đảo cũ, thật sự lăn mình vào cuộc sống như một kẻ trưởng thành. Sẽ đổi thay, lột xác, trưởng thành.

Khi tôi gặng hỏi lần nữa, chị Loan trầm ngâm:

– Nhạn chờ gặp lại ông ta đã.

Nếu chị Loan không giới thiệu, tôi không thể nhìn ra người thuyền trưởng dáng võ sĩ sumo kiêm bóng ma lần thần đêm mưa gió năm xưa. Đó là một ông già, già trước tuổi, già xám, ốm quắt queo vì, ông cho biết, giọng run run “bác sĩ nói ung thư tụy tạng.” Hung thần đã bật khóc bàng hoàng khi nghe tôi nhắc chuyện đêm xưa.

Đêm Kiều nhảy xuống biển, tôi nhìn thấy ông chui vào và chui ra khỏi mái Tây hiên.

Không một chút ngạc nhiên trong đôi mắt lờ đờ. Không biết ông có nghe tiếng tôi? Có cảm nhận được ánh mắt đe doạ và âm sắc oán giận trong lời tôi?

Tôi ngẩn ngơ suốt buổi. Những lời kinh xưa gió đưa văng vẳng mơ hồ trong tiếng ồn ào. Thủy tri hải nguyệt tại ngô tâm.2

Và khi ba người chúng tôi, nhóm “Nhạn Lạc” ngày xưa cầm đàn, sáo hát tặng các bạn cũ ngày xưa ở đảo và tưởng nhớ Kiều, tôi thấy ông lại len lén đưa tay gạt nước mắt. Giọt nước mắt cho ai? Tôi đến nhớ nét hoảng hốt trên mặt chị Loan khi nãy. Đừng em, đừng. Ai cũng đổi thay.

Trừ tôi, vẫn mãi không lớn được! Chị Loan ơi, làm gì có phiên tòa cho Ngô Hứa, hãy cùng tưởng tượng rằng mấy năm nay ông ta đã tự xử mỗi ngày. Đã dần dà tự cắt đứt sợi dây nghiệp. Thôi thì cứ nghĩ như vậy. Cho chị (tôi?) an tâm.


11/2000

1 Thơ Đức Phổ 2 Thiền sư Nguyệt Am trong Nhặt lá Bồ Đề. Nguyên văn Thủy tri g







Nhà văn Miêng & Phan Thị Trọng Tuyến







Phan Thi Trong Tuyen & Phan Nguyen










Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.