Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

Trần Vàng Sao (1941 - 2018)
















Trần Vàng Sao

tên thật: Nguyễn Đính
(1941 Huế - 9/5/2018 Sài Gòn)
nhà thơ








Tiểu sử

Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ) ở Thừa Thiên - Huế. Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là "hậu phương xã hội chủ nghĩa" và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành "một con vật, một con chó, theo như Hồi ký "Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)" sau này của ông

Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984. Hiện ông đang sống tại thành phố Huế.

Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với "Bài thơ của một người yêu nước mình" ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.

Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình" của ông.














Nhiều khi ngồi nói chuyện chơi
bà con hàng xóm nhìn tôi cứ cười
vui theo cách mạng quá trời
bây giờ nghĩ lại đã đời vui chưa
Khi không đang nắng lại mưa
Tháng năm còn lụt có chừa ai đâu

Gởi Đinh Cường

Nguyễn Đính
Vỹ Dạ 24.11.2013























TRẦN VÀNG SAO – MỘT NHÀ THƠ BỊ CẦM TÙ TRONG SỰ THẬT


Lúc 14 h 30’ chiều 9-5-2018 hôm qua, nhà thơ Trần Vàng Sao ( Nguyễn Đính sinh năm Tân Tỵ 1941) tác giả bài thơ nổi tiếng : “Tau chửi” và “Bài thơ của một người yêu nước mình” đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thọ 77 tuổi.
Thỉnh thoảng ra Huế, tôi lại ghé ngôi nhà ở Vĩ Dạ thăm Trần Vàng Sao. Anh có gương mặt cổ quái, già nua như người của thế kỷ thứ 17, 18 còn sót lại. Thông qua cuốn sách anh viết : “Tôi bị bắt” (nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi thả ra sống như tù) của Trần Vàng Sao in trên mạng, tôi tìm thấy ngôi nhà tù vĩ đại trùm lên cả thế hệ chúng tôi. Đó là những tù nhân được thả rông đã bị cầm tù tư tưởng, thậm chí tâm hồn bị nhốt trong tù mà lại cảm thấy tự do.
Trần Vàng Sao – Nguyễn Đính sinh năm 1941, lên sáu tuổi cha anh tham gia Việt Minh chống Pháp tại Huế bị Pháp bắn chết năm 1947. Mẹ anh chỉ có mình anh, ở vậy nuôi anh ăn học. Nguyễn Đính đương nhiên là con liệt sĩ. Anh được nền giáo dục nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa nuôi dưỡng tinh thần để có thể trở thành con người chân chính.
Oái ăm thay, anh Đính lại tham gia phong trào thanh niên sinh viên đấu tranh theo Việt Cộng. Năm 1965 anh Đính lên rừng để làm cuộc cách mạng bằng bắn giết mà giải phóng miền Nam cùng lứa với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Trần Quang Long, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân…
Sau 5 năm sống trong sốt rét, đói khát, bệnh tật tại chiến khu rừng Thừa Thiên Huế làm công tác viết báo viết văn phục vụ đảng, anh Đính được ra “Miền Bắc thiên đường của các con tôi” ( thơ Tố Hữu) chữa bệnh và an dưỡng.
Trên đường ra miền Bắc lòng anh vui vô cùng, liên tục gọi thầm lời thiêng liêng : miền Bắc ơi, lý tưởng của tôi ơi, tôi sắp đến bên Người…Và anh Đính đã cảm động ứa nước mắt khi bước chân anh đã đến Quảng Bình…
Khi ra đến Hà Nội, anh khóc òa vì đã tới thủ đô của thiên đường, điều mà hàng nghìn hàng vạn đồng đội đồng chí của anh đã hi sinh ở miền Nam chỉ được đến bằng ước mơ, bằng tưởng tượng và khát vọng…Anh muốn hát to lên mà gọi ba ơi, má ơi, đảng ta ơi, con đã tới được nơi con hàng mơ ước…
Nhưng thực tại của miền Bắc xã hội chủ nghĩa năm 1970 rất nghèo đói, rất phi đạo đức, rất bất công, rất bê bối và tồi tệ…đã giết chết dần miền Bắc thiên đường trong giấc mộng của anh. Ra đường, hở tí là anh nghe thanh niên đàn ông đàn bà chửi nhau, toàn bằng tiếng Đan Mạch…Hầu như không ai có văn hóa giao tiếp, không ai có văn hóa và lịch sự…Vào cửa hàng mậu dịch quốc doanh ăn phở, cái thìa cũng bị đục lỗ chi chít để không bị đánh cắp…
Đi đâu cũng xếp hàng rồng rắn : xếp hàng để mua một lạng thịt, xếp hàng để mua một bao diêm, xếp hàng để mua một mét vải phin đen may quần, xếp hàng để chẳng mua được cái gì ngoài câu chửi ĐM nó… Trong khi cửa hàng Tôn Đản dành cho cán bộ cao cấp không thiếu thứ gì để các bà vợ các ông to mua hàng thúng hàng gánh ra bán cho chợ đen. Một xã hội quá bất công, quá hèn hạ chia giai cấp cả miếng ăn đại táo trung táo với tiểu táo…
Nguyễn Đính thất vọng, rồi tuyệt vọng hoàn toàn về cái gọi là miền Bắc thiên đường xã hội chủ nghĩa. Anh bắt đầu viết nhật ký để thoát khỏi những ẩn ức thực tại có thể làm anh tuyệt vọng đến vỡ tim mà chết vì cái xã hội cộng sản bánh vẽ kia…
Ô hay, một xã hội dã man, nghèo đói tột độ sao lại đòi đi giải phóng xã hội văn minh giàu có. Những ý nghĩ, những tư tưởng do thực tại cung cấp cứ từ đầu anh ộc ra trang giấy như một người bị ộc máu.
Và cái gì đến sẽ đến. Một kẻ nào ( đồng bọn hay đồng chí) đã đọc trộm cuốn nhật ký dám cả gan viết ra sự thật tồi tệ của xã hội miền Bắc của anh và nộp nó cho cấp trên…
Tất nhiên, giờ chết của Nguyễn Đính đã điểm. Cấp trên, và cả cấp trên của cấp trên anh đã chuyền tay đọc cuốn nhật ký phạm thượng của một trí thức miền Nam ra an dưỡng đất Bắc còn chưa được giác ngộ, chưa biết nói dối để gọi đói là no, gọi bất hạnh là hạnh phúc, gọi ác là thiện, gọi nô lệ nhà tù là tự do.
Nguyễn Đính – nhà thơ Trần Vàng Sao bị gọi lên thẩm vấn hàng nhiều tháng trời, còn kinh hơn bọn SS phát xít Đức thẩm vấn kẻ phản bội làm tay sai cho kẻ thù của thống chế Hít Văn Le.
Nền giáo dục nhân bản của Việt Nam cộng hòa dạy anh nói dối là vô văn hóa. Nhưng quy luật của chế độ cộng sản lại là, nói thật sẽ mất mạng. Muốn tồn tại trong thiên đường của nghèo đói và nô lệ kia, mày, Đính ơi, mày phải biết nói dối. Anh thầm mắng mình : mày sẽ phải bị thủ tiêu, vì mày đã dám gọi sự vật bằng tên của nó ngay trong nhật ký.
Anh trí thức miền Nam theo cộng sản chưa quen nói dối đã mấy lần toan tự sát vì bị thẩm vấn, bị quy kết phản động, bị hành hạ cho tới mức muốn anh phải khai bịa ra mình là CIA, là em kết nghĩa của Thiệu Kỳ mới làm công an cộng sản toại nguyện.
Anh không dám tự sát ( chết sướng hơn) chỉ vì anh còn có mẹ đang sống một thân một mình tại Huế chờ anh con trai độc nhất trở về. Đêm nào anh cũng mơ thấy mình bị xử bắn, bị cắt cổ, bị ném trôi sông…Đêm nào anh cũng nằm mơ thấy mẹ anh khóc ngất ngồi ôm xác cha anh bị Pháp bắn chết tại chợ Đông Ba năm 1947. Đêm nào anh cũng mơ thấy mẹ anh ngồi ôm xác anh bị mất đầu do các đồng chí của anh vừa cắt, ru à ơi à ơi, Đính ơi con chết không đầu / Mẹ ru con mắt còn đâu ngủ vùi…
Anh đã bị cầm tù trong chính doanh trại, trong chính nơi an dưỡng với khẩu phần tù chết đói. Anh Đính kể may mình có hai người trong tiểu ban văn nghệ miền Nam là chị Ngọc Trai ( Tôn Nữ Ngọc Trai con gái thượng thư Tôn Thất Đàn) và anh Doãn Triều cứu giúp những khi mình tuyệt vọng muốn tự sát. Anh chị này luôn động viên Đính phải sống để sau này còn gặp mẹ…
Năm 1975, sau mấy tháng trời Huế “giải phóng” anh Đính mới được về ôm mẹ. Mẹ anh chờ anh và đã biết chuyện con mình phản động bị tù trên đất Bắc vì tội nói ra suy nghĩ thật của mình trong nhật ký…
Trần Vàng Sao – Nguyễn Đính một người tù chuyên nghiệp, một thứ tù thả rông, một con người sinh ra để sự dối trá phi nghĩa hành hạ tới mức xuýt bị thủ tiêu.
Anh đã đi theo cha mình là liệt sĩ, nguyện đứng dưới ngọn cờ đỏ sao vàng mãi mãi nên mới có bút danh Trần Vàng Sao…
Ngôi sao vàng kia không chấp nhận anh, không cho phép anh nhìn và viết ra sự thật. Ngạn ngữ Pháp có câu : “Với chữ nếu, ta có thể bỏ tháp Eiffel vào cái chai”. Vâng, nếu sống lại, trở về thời 20 tuổi, Trần Vàng Sao chắc chắn sẽ lấy bút danh là Trần Vàng…Vĩnh biệt ngôi sao của ảo tưởng đã bị sự giả dối nuốt sống, cũng như cuộc đời anh đã bị lý tưởng kia nuối sống và nhả ra một cái bã người tội nghiệp, khổ đau uất hận đến chết . Trần Vàng …Sao, thương anh vô cùng ! Anh một nhà thơ đã bị sự thật cầm tù.,.
Sài Gòn 10-5-2018
T.M.H.

( xin quý vị vào mạng xem cuốn hồi ký của người tù thả rông là Trần Vàng Sao, với tên cuốn sách : “ Tôi bị bắt” còn lưu trên trang mạng )














Tác phẩm tiêu biểu






Hồi ký Tôi bị bắt
(1976)









Trần Vàng Sao
Tôi bị bắt
(Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù) 10 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Lời người sưu tầm: Tài liệu mà tôi gởi tới độc giả sau đây là một tập hồi ký, dày 134 trang A4 đánh máy vi tính chữ nhỏ xuất hiện dưới hình thức samizdat được photocopy (thứ văn chương chuyền tay khá phong phú ở Việt Nam sau những năm “đổi mới”) cách đây có hơn 10 năm [1] . Tác giả của nó là Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính), một người làm thơ ở miền Nam, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đã cùng với nhiều bạn bè đồng lứa đứng lên chống lại chế độ chính trị của miền Nam lúc đó bằng cách “đi lên núi” để cuối cùng, sau khi thoát khỏi bom đạn Mỹ, anh đã vướng phải một tai hoạ cực kỳ tệ hại. 

Cuốn hồi ký này kể lại cái tai hoạ đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đã ghi lại những suy nghĩ của mình về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” đó bằng nhật ký và chính vì những suy nghĩ ghi thành chữ viết này anh bị các đồng chí của mình truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”. Trong rừng, tôi đã nghe biết một số trường hợp những trang nhật ký bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao. 

Những ai đã đọc Đặng Thuỳ Trâm cùng những bàn tán về nhật ký của chị, khi đọc xong hồi ký của Trần Vàng Sao, sẽ thấy rất khó mà coi các tài liệu chiến tranh này là những “bản chứng nghiệm chân thực của lịch sử” – như có một tác giả nào đó đã cho là vậy. Tuy cùng “chung một chiến hào”, thuộc cùng một thế hệ những người đi vào chiến tranh (Trần Vàng Sao cũng sinh năm 1942 như Đặng Thuỳ Trâm), nhưng những giá trị mà Đặng Thuỳ Trâm tin tưởng một cách “chân thực” để sống và để chết thì đối với Trần Vàng Sao lại chỉ là những điều huyễn hoặc đơn thuần. Không thể nói là không “chân thực” nỗi thất vọng của một trí thức như anh, một người đi qua máu lửa để tìm đường chợt thấy trước mắt mình hiện ra một khoảng hư vô mù mịt. 

Với tai hoạ ấy, anh đã bị đẩy vào tình thế đứng giữa hai lằn lửa. Là người miền Nam, nhưng anh đã phủ định cái huyền thoại ngô nghê về một “một miền Nam đúng nghĩa” dưới một chính thể mệnh danh “dân chủ, tự do, no ấm” để chọn lựa đi về “phía bên kia”, cuối cùng đã bị cả “phía bên kia” lẫn “phía bên này” kết án. Ngày nay, với sự xuất hiện lại của hồi ký này, không thể loại trừ những tố cáo ấy sẽ tái diễn, và nếu như vậy thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Như có người đã nói rồi, cuộc chiến đã chấm dứt 30 năm nhưng những vết thương mà nó để lại trong lòng người còn quá sâu đậm: bên cạnh hàng triệu người vui vẫn còn hàng triệu người buồn. Những vướng mắc trong quá khứ vẫn chưa tìm được cơ sở chung để tháo gỡ một cách thanh thản, hoà bình. 

Dù sao, tôi thấy giới thiệu lại những trang hồi ức của Trần Vàng Sao như dấu tích của một thời đã qua vẫn là cần thiết, nhất là với những ai chợt thấy có mong muốn nhìn lại cái thời đã qua ấy một cách nhiều mặt hơn: ngoài những tiếng nói của hai phe đối nghịch có đủ lý do (Bắc/Nam, quốc/cộng…) để tố cáo nhau một cách ác liệt, còn có tiếng nói của những người cũng có đủ lý do để không còn phải đứng về phe nào trong hai phe ấy nữa. Có thể chẳng giải quyết được gì: nhiều lắm cũng chỉ là trải nghiệm của một cuộc dấn thân máu lửa, cần được nhắc đến để rọi sáng thêm một cuộc máu lửa mà những hệ luỵ của nó chưa chịu nằm yên trong những nấm mồ. Sự chân thực mang tính chất nhân chứng ở đây không có lý do nào chính đáng để nâng mình thành sự chân thực của bản thân lịch sử, dù đó là sự chân thực của một niềm tin hay là sự chân thực của một hận thù. 

Sài Gòn ngày 2.11.2005 

Lữ Phương 

I. Ở K65 thị xã Sơn Tây 


1. 

“Ngồi đó!” 

“Ngồi đó!” 

“Ngồi xuống!” 

“Ngồi xuống đó!” 

Một hai ba ông không nhìn tôi chỉ cái ghế quay lưng ngay ở cửa ra vào nói. Tôi ngồi xuống, rồi dớm người kéo vạt áo bông lên. Hình như hai cái bàn đâu lại với nhau. Ghế, ghế xung quanh. Tôi nghe tiếng chân ghế kéo lẹt xẹt trên nền xi măng. Rất nhiều ông đã ngồi trước. Rất nhiều ông đội mũ cát dạ, kiểu Trung Quốc, kiểu Liên Xô; một hai ba cái mũ bê-rê. Tất cả đều mặc áo ấm, áo đại cán và áo bông, và choàng khăn cùng một loại bằng len, chỉ khác màu, lấm tấm đỏ đen xanh trắng. Tôi lấy thuốc ra hút. Trước mặt tôi là cái cửa sổ to rộng, nhiều cánh, không có song và tàng cây xanh ở ngoài xa. Sột soạt, với tiếng ghế đụng nhau, họ soạn sổ sách, giấy bút. Tất cả bọn họ đều là một màu xanh đậm đen và đen, và to phồng. Mặt của họ đỏ, đen chì, trắng xám, có mặt đỏ láng. Số đông bọn họ đều già, tuổi từ 50 trở lên. Có một hai người suýt soát trên dưới 40. Bọn họ đều lạ đối với tôi và hầu hết tôi không biết tên, và nếu tôi có biết thì cũng nghe họ xưng hô với nhau. Tôi cũng không biết rõ họ là ai, ở đâu đến. 

Tôi nghe có tiếng nói giữa đám người đó, giọng Thừa Thiên pha giọng Bắc rất khó chịu: 

“Thôi, làm đi!” 

Ông vừa nói tên Lai, mặt đỏ láng. 

Một người mở tờ giấy ra để trước mặt và đọc: 

“Họ và tên: Nguyễn Đính. Sinh ngày: 12-12-1942…” 

Người đó dướng hai con mắt khỏi cặp kính ngó tôi; nói bằng giọng Quảng cũng pha Bắc chớt chớt: 

“Thật không?” 

Tôi ngó người đó không trả lời. Người đó cuối xuống đọc tiếp. Trong lúc ông này đọc lý lịch của tôi, tất cả bọn họ đều ngó chằm tôi. Một ông trễ kính xuống đầu chót mũi dướng mắt ngó; một ông nghiêng đầu sang ông bên cạnh miệng mấp máy, mắt liếc xéo tôi; một ông dim mắt tay đỡ cằm ngó tôi; một ông dựa ngửa nhìn tôi qua khói thuốc; một ông miệng méo như cười, tai đụng vai ngó tôi, ông nữa phía bên cạnh chống tay một bên đầu, răng cắn vào môi ngó tôi; ông nữa cắn gọng kính khịt mũi ngó tôi; ông nữa vừa xoay vừa thổ xuống mặt bàn cái bi-kê Trung Quốc, đánh hai hàm răng theo nhịp ngó tôi; ông nữa mím thít hai hàm răng, bạnh cằm ra ngó tôi; ông nữa cắn răng vào khẩu tay ngó tôi; ông nữa ngửa mặt lên trần ngó mắt xuống vào tôi. 

Ông kia đọc xong, một ông khác dựa ngửa gõ gõ cả bàn tay xuống mặt bàn, gục gặc đầu, hất hàm hỏi: 

“Anh khai thật chứ?” 

Tôi nghe tiếng nước chảy dưới nhà lỏng bỏng. Có tiếng đàn bà nói: 

“Mở nước ra rồi thì phải đóng lại chứ. Lãng phí thế này…” 

Tiếng nước chảy to hơn, nước đổ vào cái thau men thì phải; tiếng bọt sủi, nước tràn rồi. Chỗ này thỉnh thoảng tôi hay rửa chân cho mát khi đi qua đây. Tiếng nước tắt. Tiếng người đàn bà: 

“Đun nước lên con!” 

“Từ ngày ra Bắc đến bây giờ anh đã làm gì?” Cái ông tên Lai mặt đỏ láng, đội mũ cát xanh gần như đen kiểu Trung Quốc, lắc người trên ghế. Khi cái ghế dừng lại, ông ta chồm người ra phía trước, nói như thế. Hai con mắt ngó thẳng vào tôi. Hết câu ông ta dựa ngửa người lại, mười ngón tay gõ hết lên mặt bàn, điếu Điện Biên bao bạc ngậm trên miệng, đầu hất ra phía trước, cằm đụng vào cái cổ áo lông màu đà. Hai hàm răng ông Lai đó mở ra: 

“Nói đi và nói thật!” 

Có tiếng kẹt bi-kê. Tôi rút một điếu thuốc, rối vuốt điếu thuốc cho thẳng. Tôi đưa điếu thuốc lên môi, hai bàn tay đan vào nhau trên mặt bàn. Tôi không hút. Tôi khịt mũi, rồi lấy điếu thuốc ra khỏi miệng và nhổ từng sợi thuốc dính trên môi ra. Tôi hút thuốc. 

Hôm đó là sáng 25 tháng 1 năm 1972 tại Viện điều dưỡng K65 ở Thị xã Sơn Tây. 

Đêm hôm qua, khoảng bảy tám giờ, tôi thấy có một người đàn ông trên 50 tuổi vào phòng tôi ngồi nói chuyện với ông già người Phú Yên tên Giác ở cùng phòng với tôi. Trong khi nói chuyện, thỉnh thoảng ông người lạ này giả đò bâng quơ nhìn tôi. Lúc đó tôi ngồi ở phòng trong. Tôi không để ý đến thái độ của ông ta. Tôi đang đọc và viết. 

Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 25-1-1972, ông trưởng khối bệnh nhân đến gặp tôi nói: 

“Anh qua gác hai nhà C, có mấy anh ở trên gặp.” 

Thôi, tôi bị rồi. Tôi đi dọc dãy hành lang. Những con mắt, những con mắt ngó tôi không như thường. Họ biết hết tôi rồi. Họ đã cùng nhau họp hành, sắp xếp hết cho tôi rồi. Tôi bị dòm ngó như một con quỷ sứ bắt đầu từ dãy hành lang này, từ ngày này. 

Gần một tháng nay tôi đã đoán biết mọi sự rồi sẽ xảy ra cho tôi. Nhưng tôi không biết người ta sẽ xử tôi như thế nào và bằng cách nào. Cách đây một tháng, bà bác sĩ chủ nhiệm khoa tôi ở, tên Quy, đến báo cho tôi biết: 

“Sáng mai anh về E2 kiểm tra sức khỏe và nhất là để chụp phim lại cái dạ dày. Anh nhớ mang theo quần áo để dùng trong một tuần.” 

E2 là bệnh viện dành cho cán bộ miền Nam ra Bắc chữa bệnh. Bệnh viện này ở làng Cổ Nhuế cách trường đảng Nguyễn Ái Quốc độ ba trăm mét. Về E2 kiểm tra sức khỏe là phải ở lại đó một tuần. Tôi hoàn toàn không biết đây là sự sắp xếp của Ban bảo vệ Đảng (thuộc Ban Thống nhất của Chính Phủ) (?) và Cục đón tiếp cán bộ B. (Tất cả các cơ quan bí mật hay công khai này tôi không biết rõ, chỉ gọi chung là Ban Thống nhất hoặc Cục đón tiếp). 

Tôi lại cho là tôi gặp may, vì đây là một dịp tôi ở gần Hà Nội để đi chơi với Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình (bí danh là Hồ Thanh) và những anh em bạn bè khác. Hơn nữa, thường sau một thời gian chữa bệnh, người nào được kiểm tra lại sức khỏe tức là sắp sửa chuẩn bị vào Nam lại. Lúc này tôi rất muốn trở lại chiến trường. Tôi vui. Những ngày ở E2 thỉnh thoảng tôi về Hà Nội ở chơi với bạn bè. Thời gian này tôi viết tiếp cho xong bài thơ dài trên 500 câu: “Bản Thánh ca của một người dựa cột đình liếm lá bánh”. Một sáng thứ bảy tôi thanh toán tiền ăn của tôi những ngày ở E2 (tất cả đều trên giấy tờ). Sáng Chủ nhật tôi qua K10 ở Gia Lâm thăm ông Sự. Ông Sự là Phó ban tuyên huấn Thành ủy Huế ra Bắc chữa bệnh và học tập. Lúc đó, ông ta đang ở K10 bồi dưỡng sức khỏe chuẩn bị vào Nam. Tôi ngỏ ý với ông Sự là tôi muốn trở lại chiến trường và nhờ ông tạo điều kiện cho tôi vào càng sớm càng tốt. Khác với những lần gặp trước, bao giờ ông Sự cũng hỏi tôi đã khỏe chưa, vết thương ở đầu gối và cái bụng thế nào, có đủ sức leo dốc không. Lần này ông Sự chỉ ậm à ậm ừ với tôi. Tôi không để ý đến thái độ lạnh nhạt của ông đối với tôi. Tôi hỏi ông: 

“Bao giờ anh vào lại?” 

Ông Sự loay hoay xếp dọn, lục lọi, tìm kiếm những thứ vặt vãnh giấy má gì đó giữa giường, trong ba lô với những cử chỉ, động tác của chân tay quờ quạng lúng túng, thừa một cách vô ích, thỉnh thoảng lại khịt mũi vài cái. Ông nói không nhìn tôi: 

“Cũng chưa biết nữa.” 

Rồi xoay qua xoay lại Ông nói lảng một mình: 

“Chà không biết để mô hè?” 

Tôi đi gặp một vài người quen ở các phòng gần đó. Lúc tôi quay lại thì ông Sự đã đi đâu rồi. Tôi tìm một miếng giấy loại để đi cầu. Tôi thấy ở dưới đất phía trên đầu giường của ông Sự một tờ giấy vo tròn lại. Tôi nhặt lên. Vào ngồi trong cầu, tôi trăn tờ giấy ra, hoàn toàn tình cờ. Chữ của thằng Trần Nguyên Vấn, bằng bút bi bấm màu xanh viết trên giấy kẻ ngang, tờ ét, xếp đôi. Hèn gì ông Sự đối xử với mình lạnh nhạt và đờ đẫn. Lâu nay tôi có hơi nghi thằng Nguyễn Viết Trác (chứ không nghĩ nó có thể phản tôi), tôi nghi ngờ về lòng thành thật và thẳng thắn của hắn. Khi nói chuyện với tôi, nhất là về chuyện chính trị, về tình trạng xã hội ở miền Bắc, về chiến tranh, về Đảng… hắn bao giờ cũng chỉ ậm ờ và làm ra vẻ lắng nghe, và không bao giờ tỏ vẻ phản đối hay đồng ý. Còn thằng Trần Nguyên Vấn, hắn ở với tôi cùng một cơ quan trong rừng. Lúc ra Hà Nội cho đến lúc này, hình như tôi có gặp một hai lần gì đó. Nó không biết gì về tôi lúc ở miền Bắc hết. Chỉ có thằng Trác. Tôi giật mình và đắng cuống cổ. Tôi hoàn toàn không ngờ và cho đến hôm nay, ngày 25 tháng 1 năm 1972, người ta đem xử tôi, tôi cũng không nghĩ là người ta đã xử sự với tôi như thế. Không phải là công việc của họ đã được tổ chức và âm mưu một cách bí mật, rất tài nên tôi không biết được. Thực sự lúc này đây, lúc tôi đang ngồi trong cầu tiêu của K10 này, tôi đã dự đoán được một đôi điều sẽ xảy đến cho tôi và tôi đã biết người muốn “lật tẩy phản động, chống Đảng” của tôi là ai. Tôi cho rằng tôi không có gì phải sợ về những điều tôi viết trong nhật ký và trong những bài thơ của tôi lúc tôi ở miền Bắc. Trong thư gửi cho ông Sự mà tình cờ tôi tưởng là giấy loại đó và lúc này tôi ngồi trong nhà cầu đang đọc đây, thằng Vấn báo cho ông Sự biết công việc của hắn và thằng Trác, đại ý thế này: Cả hai đứa đã làm việc với Ban bảo vệ Đảng và Cục đón tiếp cán bộ B về tôi và hỏi ý kiến ông Sự với tư cách là thủ trưởng của tôi về cách xử lý trường hợp của tôi như thế nào. Cứ như lời lẽ trong thư thì thằng Vấn không nói trắng ra nhưng cố giành phần lớn công cho hắn về việc “phát hiện tôi là một tên phản động chống Đảng”. Khoảng năm 1978, 1979 gì đó; Võ Quê có nói với tôi “ông Trác luôn vỗ ngực cho là mình đã lập được một công lớn là phát hiện Trần Vàng Sao là một tên phản động”. Võ Đại Ngẫu kể hồi 1976 hắn gặp thằng Vấn ở Hà Nội, thằng Vấn cũng vỗ ngực giành công kịp thời tố cáo tôi là một tên phản động chống Đảng. 

Tôi vò lá thư của thằng Vấn lại như cũ và xé bao thuốc thay vào cho việc riêng của tôi trong nhà cầu. Tôi bỏ lại lá thư vào chỗ cũ dưới thềm nhà trên đầu giường của ông Sự. Tôi nghĩ một cách dại rằng như thế làm như tôi không biết gì về âm mưu của thằng Trác, thằng Vấn với ông Sự. Tiếc là tôi đã không giữ được lá thư đó. Nhưng nếu tôi có giữ thì sau này cũng bị tịch thu. 

Tôi chào ông Sự rồi về Hà Nội. Gặp Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình tôi chỉ nói: Sáng thứ hai tao lên Sơn Tây. Loanh quanh luẩn quẩn trong Hà Nội với anh em bè bạn, mượn một vài cuốn sách, mua một vài tờ báo rồi về bệnh viện E2. Tôi hoàn toàn không biết kể từ lúc này tôi đang bị theo dõi sát nút. Tôi đi đâu, đến nhà ai, gặp ai ở Hà Nội người ta đều biết. 

Sáng thứ hai có xe, tôi lên Sơn Tây. Tôi sống trong một tâm trạng bồn chồn, lo lắng, không yên. Trước sau tôi cũng bị. Thằng Trác cố tránh tôi. Tôi hoàn toàn không biết là thời gian tôi ở bệnh viện E2, va ly của tôi đã bị lục soát. Và thằng Trác chủ mưu trong việc này. (Lúc tôi về E2 tôi gửi chìa khóa va ly cho hắn). Vài ngày sau đó tôi tìm cách đốt mấy tập nhật ký của tôi rất dày, khoảng 4, 5 tập vở một trăm trang viết hai mặt. Việc đốt tập nhật ký rất khó. Tôi đã đốt và làm như việc đốt giấy loại. Có khi tôi đốt trước mặt mọi người, nhưng không ai để ý. Có khi nhân chuyện làm vệ sinh đốt rác, tôi xé nhỏ các tập vở lấp rác lên rồi đốt. Tôi làm như một kẻ không có việc chi làm lấy chuyện đốt rác nhìn lửa cháy khói bay cho vui. 

Và bây giờ đây tôi đang bị tra tấn trong cái phòng của căn nhà C này. 

“Từ ngày ra Bắc đến nay anh đã làm gì? Hãy khai đi, khai cho thật.” 

Bây giờ cái ông tên Lai mặt đỏ láng này không nói “hãy nói” nữa mà “hãy khai đi”. 

Những người chung quanh tôi mặt mày lạnh tanh. Tôi có cảm tưởng họ bất động. Tôi nói: 

“Tôi không biết các anh muốn tôi khai cái gì?” 

Cái ông Lai đó ngó căm vào tôi: 

“Anh khai hết tất cả những việc mà anh đã làm từ ngày ra Bắc đến nay.” 

“Nhưng mà việc gì mới khai được chứ? Tại sao tôi lại phải khai? Tôi không biết các anh muốn gì?” 

Những người chung quanh tôi động đậy. Có người cầm tách nước lên uống; có người đổi thế ngồi; có người phịp phịp trong miệng. Ông tên Lai trề môi dưới, gật gật cái đầu, dim mắt nhìn tôi. Ông ta hừ trong miệng một tiếng: 

“Anh đừng có giả vờ. Anh tưởng anh qua mặt được chúng tôi hả? Chúng tôi biết hết anh rồi. Anh thành thật đi cho rồi.” 

Đến lúc này thành thật mà nói tôi không hiểu họ muốn gì ở tôi. Tôi nói: 

“Tôi ra Bắc làm gì các anh đều đã biết.” 

Có tiếng “hử” và tiếng khịt mũi. 

“Này, tôi nói cho anh biết. Anh không giấu được chúng tôi đâu. Tất cả những việc làm của anh chúng tôi đã biết và có đầy đủ tài liệu làm bằng cớ. Anh thành khẩn sẽ được khoan hồng.” Cũng cái ông tên Lai đó nói. 

Đã đến nước này, tôi bực lắm rồi: 

“Tôi không hiểu các anh muốn tôi nói gì. Tôi ra Bắc nằm ở E2, lên E1 và bây giờ ở K65. Những việc đó các anh đã biết rồi.” 

“Anh ngoan cố, không chịu thành khẩn.” 

Ông Lai đó hất hàm cho một người trong bọn. Ông này khoảng dưới bốn mươi tuổi. Ông ta thủng thẳng hỏi tôi: 

“Anh Đính, chúng tôi gặp anh hôm nay là tạo cho anh một cơ hội để anh sớm thức tỉnh, đừng đi sâu thêm nữa vào con đường tội lỗi của anh. Anh nên thành thật khai hết những việc làm của anh.” 

Ông ta nghỉ một lát, rồi nói tiếp: 

“Khi ra Bắc, ai giao nhiệm vụ cho anh? Nhiệm vụ đó là nhiệm vụ gì? Anh đã gặp ai, ở đâu, bao giờ? Anh đã tổ chức họ như thế nào? Công việc của anh hiện nay đã tiến hành đến đâu? Anh phải nói thật, nói hết, không được giấu giếm. Sinh mạng của anh là do nơi sự thành khẩn của anh quyết định đó.” 

Đợi cho ông này nói xong, một ông khác một tay dựa lên thành ghế, một tay đặt trên bàn, nghiêng người về phía tôi, nó thêm vào: 

“Chúng tôi biết hết những việc anh làm, nhưng chúng tôi muốn tự anh nói ra hết. Vì chỉ có như thế, anh mới hưởng được lượng khoan hồng của Đảng.” 

A, thì ra như thế. Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi, họ nói tôi là CIA. Như thế tôi chẳng cần gì phải đối phó gì với họ về điều này nữa. Tôi dựa ngửa người ra và hút thuốc. Thái độ của tôi làm cho họ bực tức. Tôi nói: 

“Tôi đau dạ dày và bị thương. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa bệnh.” 

Ông tên Lai đó chồm người ra phía trước, cùi tay chống lên bàn, rung rung ngón tay trỏ chỉ vào tôi, lần này ông ta nói to, dằn từng tiếng một: 

“Đến lúc này mà anh vẫn còn ngoan cố. Được, chúng tôi có cách để cho anh phải khai thật, nhưng chúng tôi vẫn muốn chính anh thành thật khai báo để cho anh có cơ hội được hưởng khoan hồng của Đảng. Anh nghe chưa?” 

“Tôi có gì mà ngoan cố. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa bệnh. Tôi có làm gì đâu mà các anh bảo tôi phải khai báo.” 

“Thôi được. Anh không nói, nhưng rồi anh cũng phải nói.” 

Cái ông độ dưới bốn mươi tuổi mở cặp ra, cái cặp da rất to màu đen, loại cặp đựng sách vở của học trò (loại cặp bấy giờ khó thấy có ở miền Bắc). Bây giờ tôi mới để ý người nào trong bọn họ cũng có cặp xách riêng. Một hai người có cặp to, còn phần đông là xách. Ông này lấy trong cặp ra một cái cặp bìa cứng dày to đựng toàn giấy. Ông ta lật lật giấy tờ. Trong lúc đó, ông tên Lai vẫn cái giọng dữ tợn hỏi tôi: 

“Anh đã viết gì trong nhật ký?” 

Hỏi chi lạ. Tôi nói: 

“Tôi không thể nhớ hết được.” 

“Được rồi, anh phải nhớ.” 

Cái ông dưới bốn mươi tuổi đó để hai tay lên cặp giấy mở ra trước mặt, nói: 

“Anh Đính, tất nhiên đã gọi anh đến đây để làm việc, chúng tôi phải có đầy đủ hồ sơ và bằng chứng về anh. Anh đừng tưởng là tôi nói thế để dọa anh đâu, cũng không phải nói thế để lừa anh. Chúng tôi chỉ muốn cứu anh. Một người có học như anh tôi chắc anh hiểu được những hậu quả của việc làm của mình lâu nay.” 

Tôi uống nước và ngó ra ngoài cửa sổ. Trời khô và lạnh. Không khí bắt đầu căng thẳng. Trên mặt của họ đã lộ vẻ căm tức. Họ không còn như bất động nữa. Tiếng giày dép kéo trên sàn nhà; tiếng áo quần xát trên ghế; chân ghế đụng chân bàn. Bọn họ xoay người, nghiêng, ngửa, đổi thế ngồi, chống tay lên cằm, cắn môi, cắn ngón tay, đẩy gương sát vào mắt, đẩy tách nước ra xa, bẻ ngón tay. 

Ông tên Lai, chắc ông ta là trưởng đoàn của đoàn người tra khảo tôi, nói, nói nhanh: 

“Tôi biết hiện nay anh đang nghĩ gì về chúng tôi. Tôi biết những gì đang chứa trong đầu óc của anh. Tôi nói thẳng anh là một tên phản động, chống Đảng. Anh căm thù chúng tôi, căm thù chủ nghĩa xã hội, căm thù chế độ này. Anh đang âm mưu lật đổ chế độ này. Có phải chính anh đã kêu gọi biểu tình, viết báo chữ to lật đổ chế độ này hay không? Anh sợ? Anh chối à? Nói đi, nói đi, có phải không?” 

Ông ta chồm người ra trước dằn giọng: 

“Đây, đây này, anh đòi bắn, đòi treo cổ tất cả bọn chúng nó; đã đến lúc phải biểu tình, viết báo chữ to tố cáo tội ác của chúng nó.” 

Ông ta dừng lại, bỏ kính xuống bàn nghe cạch: 

“Có phải anh đã viết trong nhật ký như thế không?” 

“Tôi không nhớ.” 

“Anh viết mà anh lại không nhớ à?” 

“Làm sao tôi nhớ hết những gì tôi viết.” 

Cái ông trẻ dưới bốn mươi tuổi đứng dậy, xoay người ra phía sau lấy cái cặp da để đứng dưới sàn nhà. Cái cặp đã mở sẵn. Ông ta xây lưng về phía tôi. Ông rút ra một tờ giấy đưa ra trước mặt tôi: 

“Cái gì đây? Có phải chữ của anh không?” 

“Phải?” 

Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, khổ bằng tờ giấy kẻ ngang. Đến lúc này tôi mới biết là toàn bộ nhật ký của tôi đã bị chụp ảnh trong thời gian tôi về bệnh viện E2 để kiểm tra sức khỏe, và bây giờ tôi mới biết việc tôi đi E2 kiểm tra sức khỏe là một sự xếp đặt của Ban Thống nhất Trung ương, Cục đón tiếp cán bộ B và Cục 78. 

Ông Lai nói: 

“Anh hết chối chưa?’’ 

Mọi người ở đây đều đã biết trước sự việc sẽ diễn tiến ra sao rồi. Tối hôm qua họ đã họp với nhau bàn kế hoạch. 

“Tại sao anh lại đòi bắn, đòi treo cổ? Bắn ai, treo cổ ai? Nói đi!” 

Tôi nói: 

“Tôi đòi bắn tất cả những kẻ nào, người nào đã ăn đường, sữa, tã lót của trẻ con, ăn hòm, vải liệm của người chết, những kẻ đã đẩy con dân vào chiến trường còn con cháu họ thì qua Liên Xô, Bulgari, Hungari…”

“Anh đòi bắn cả Trung ương Đảng kia mà.” 

“Nếu trong Trung ương Đảng, trong Chính phủ có người nào đã ăn như thế, theo tôi, đều đem bắn được hết.” 

“Anh lại còn kêu gọi biểu tình?” 

“Tôi đâu có kêu gọi ai. Tôi nói là đã đến lúc phải làm như thế.” 

“Vì sao lại viết báo chữ to?” 

“Viết báo chữ to để mọi người đều biết.” 

“Mọi người là ai?” 

“Nhân dân.” 

“Nhân dân, hừ”, một ông chỉ vào mặt tôi, “nhân dân! Anh làm gì có nhân dân. Nhân dân theo Đảng làm cách mạng, đổ xương, đổ máu để có được như ngày nay. Nhân dân của anh là nhân dân kiểu Mỹ Ngụy. Anh là kẻ thù của nhân dân thì có.” 

Giọng ông ta mỗi lúc một to, mỗi lúc mỗi gấp. 

“Anh là một tên gian dối. Anh khai lý lịch không thật. Anh bảo anh thuộc tầng lớp dân nghèo thành thị. Anh tưởng anh qua mặt được tổ chức à? Dân nghèo thành thị dưới chế độ Mỹ Ngụy mà học hành được như anh à, mà lại lên được đại học như anh à? Không phải là tư sản thì gia đình anh cũng thuộc tầng lớp tay sai Mỹ Ngụy. Đúng là Mỹ Ngụy đã đào tạo anh không uổng. Anh chui rúc vào tổ chức cách mạng cũng khá sâu, anh Đính.” 

Ông ta dừng lại. Một vài người trong đám người này gật gật đầu tán thưởng ý kiến của ông ta. Một vài người ghé đầu vào nhau to nhỏ. Ông ta nói tiếp vừa nói vừa nhìn xuống cuốn sổ: 

“Theo tôi, tất cả những tư tưởng phản động của anh trong nhật ký, trong thơ không phải chỉ là lẻ tẻ, ngây thơ, không phải là do nhận thức bị hạn chế. Tất cả đều có hệ thống, đều nằm trong một hệ thống, từ văn chương đến triết học, chế độ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội, chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng, hạn chế sinh đẻ, sinh hoạt xã hội, chiến tranh, các đồng chí lãnh tụ, thậm chí cái áo, cái quần, lon sữa miếng đường, rác rưởi đều có trong nhật ký của anh, đều bị anh xuyên tạc, nói xấu. Anh xem cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta hiện nay là máu, là chết chóc. Anh không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc. Anh lên án tất cả mọi cuộc chiến tranh, cho chiến tranh là ghê tởm.’’ 

Cái ông dưới 40 tuổi lại chìa ra một bức ảnh: 

“Có phải như thế không?’’ 

Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, trong đó có đoạn tôi nói về chiến tranh. Tôi không nhớ nguyên văn, đại ý tôi cho rằng tất cả mọi cuộc chiến tranh đều là thảm họa, đều là máu và xác chết. Tôi ghê tởm và sợ chiến tranh. Hình như tôi có dẫn lời của một người nào đó nói về trận đánh ở Nam Lào: “Đó là một chiến thắng vĩ đại, nhưng hết sức đau lòng, vì có quá nhiều người chết mà đều là người Việt Nam”. 

“Vậy là anh đã không phân biệt địch và ta, tức là anh đứng về phía kẻ thù. Anh ghê tởm cuộc chiến tranh này, tức là anh chấp nhận cuộc chiến tranh xâm lược, anh cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là chính nghĩa.’’ 

Một ông khoảng 57, 58 tuổi mặc áo đại cán màu nâu, ngồi đối diện với tôi ở cuối hai cái bàn đâu lại, từ nãy giờ không nói, bây giờ vươn hai tay ra trước và nhìn vào xấp giấy để trên bàn, nói: 

“Đây này, anh viết bằng tiếng Pháp, đại ý: ‘Chiến tranh là thế đấy con hãy nhìn và nhớ lấy, vâng, chiến tranh là thế đấy, là chết chóc, hận thù, hủy diệt, là làm cho con người quên tất cả những tình cảm nhân loại’. Hừ, nhân loại, nhân dân! Nhân loại, nhân dân của anh là nhân loại, nhân dân của bọn tư sản, đế quốc. Chủ nghĩa của bọn thực dân đã làm cho anh trở nên ngu đần.’’ 

Tôi nhớ tôi có ghi lại trong nhật ký lần tôi, Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình đi thăm ông Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm và bà Nguyễn Đình Chi ở phố Nguyễn Du, Hà Nội. Lúc đó những người này ở trong Mặt trận Liên minh thành phố Huế ra Hà Nội cư trú. Ông Đóa là thầy dạy Pháp văn, ông Tiềm là thầy dạy quốc văn của tôi năm đệ tứ ở trường Bồ Đề Huế. Tôi nói với thầy Đóa: “Thưa thầy, con nhớ mãi câu mà thầy dạy bọn con năm học đệ tứ ở Bồ Đề”. Tôi đọc câu nói về chiến tranh đó bằng tiếng Pháp. Thầy Đóa xua tay: “Thôi, thôi…..”. Tôi biết lúc đó, trong hoàn cảnh đó thầy ngại. 

Cái ông trẻ dưới 40 này (thôi cứ tạm gọi ông ta tên Thanh) nói tiếp theo liền: 

“Rõ ràng đây anh Đính này. Anh viết: ‘Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù, tôi tự do và trở thành thi sĩ’’’. 

Ông ta đọc thêm một số câu trích trong bài “Những con đường đã đi qua và những con đường sẽ đi tới” của tôi viết khoảng đầu năm 1968 lúc còn ở trong rừng, trong đó có những câu nói về những bàn tay rướm máu vì kéo thép gai (tôi không nhớ rõ nguyên văn). Hình như ông ta có đọc câu: “hàng cờ bay trên đống thịt người” thì phải. 

Ông mặc áo đại cán màu nâu giải thích thêm: 

“Kẻ thù? Hừ! Anh đã để lộ rõ con người thật của anh rồi. Kẻ thù ở đây, thưa các đồng chí, là kẻ thù của anh ta, là cách mạng, là chúng ta ngồi ở đây. Anh ta đâm vào cách mạng, vào Đảng để anh được tự do và trở thành nhà thơ. Kinh thật! Còn những người kéo thép gai tay rướm máu, đó là anh muốn ám chỉ các chiến sĩ giải phóng phải sống cuộc sống đọa đày… chớ gì nữa.’’ 

Tôi không cãi gì thêm mệt. Khoảng tháng 11-1968, tôi có làm bài thơ tưởng niệm Trần Quang Long (hy sinh tháng 10-1968 tại chiến trường Tây Ninh) và dán trên tờ báo tường của Chi đoàn Thanh niên thuộc cơ quan Thanh vận Thành Uỷ Huế (C90). Tôi nhớ mấy câu của Trần Quang Long trong bài “Thưa mẹ trái tim”: 

Con sẽ vót nhọn thơ thành chông 

Xuyên vào gan lũ giặc 

……… 

Và tôi viết: 

Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù 

tôi tự do 

và trở thành thi sĩ 

Tôi chỉ nói: 

“Chỉ có ta mới dùng chông chứ địch không dùng chông. Còn những bàn tay kéo thép gai rướm máu là tôi nói đến những người sống trong vùng địch bị bắt đi xây đồn đắp lũy.’’ 

Cái ông 57, 58 tuổi mặc dại cán màu nâu, xoay sang hỏi tôi: 

“Trong nhật ký anh có viết mấy chữ tắt C. C., nghĩa là gì?’’ 

“Comité Central.’’ 

“Vì sao anh lại viết tắt mà không viết thẳng ra là Trung ương Đảng?’’ 

“Đó là thói quen ghi chép của tôi. Tôi viết cho tôi.’’ 

“Anh cố ý che mắt những người nào đó tình cờ đọc nhật ký của anh chứ gì nữa? Đây, anh viết…’’ 

Ông ta chìa cho tôi một tấm ảnh khác. 

“Một câu tiếng Pháp có nghĩa như thế này: “Cách mạng cần lao muôn năm!” Anh có giấu ý đồ của anh ở đâu cho được. Anh vẫn nuôi mộng Bắc tiến của bọn Cần lao nhân vị Ngô Đình Diệm.’’ 

Tôi cấm bức ảnh đọc và nói: 

“Không phải như thế. Tôi viết thế này: “Vive la révolution prolétarienne!”, nghĩa là “cách mạng vô sản muôn năm!”. Đó không phải tôi nói, câu đó là của Lenine.’’ 

Tôi biết đây là một sự cố tình xuyên tạc của ông ta. Ông ta có lẽ là người duy nhất trong đoàn khảo tra tôi biết tiếng Pháp. Ông ta là người tra vấn tôi về những đoạn ghi chép, trích dẫn của tôi bằng tiếng Pháp. Nhưng từ đó, người ta vẫn cứ buộc tôi là một tên CIA-Cần-lao-nhân-vị-tay-sai-Mỹ-Ngụy, “muốn phục hồi một chế độ đã từng lê máy chém khắp miền Nam sát hại nhân dân, tiêu diệt cách mạng, một chế độ mà ngay nhân dân miền Nam đã đạp đổ từ năm 1963”. 

Ông này nói tiếp, ông coi như không có những lời của tôi nói vừa rồi. 

“Cho nên tôi nói thẳng cho anh biết rằng trong máu anh đã có sẵn máu phản động chống Cộng rồi. Những tư tưởng suy nghĩ như thế sẽ dẫn anh đến hành động chống đối, làm loạn.’’ 

Rồi ông ta chuyển sang vấn đề khác: 

“Trường Nguyễn Ái Quốc là một trường Đảng nổi tiếng khắp thế giới mà anh cũng không trừ ra. Anh cho trường Nguyễn Ái Quốc chỉ đào tạo những mẫu người trung thành với chế độ, với Đảng mà không có đầu óc suy nghĩ độc lập, thậm chí anh còn nói là có những người mới học có lớp bốn trên danh nghĩa, chữ viết còn sai chính tả mà cũng học lớp trung cấp, cao cấp Nguyễn Ái Quốc.’’ 

Trong nhật ký tôi có ghi lại lần Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình và tôi gặp ông Phạm Như Cương với ông Tịnh và một bà nào đó (hình như tên Quỳ thì phải) tại Viện Triết học ở Hà Nội. Trong câu chuyện tôi có nói đại ý: trường Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo được những cán bộ trung thành với đường lối và chủ trương của Đảng, nhưng không đào tạo được những con người có đầu óc phản tỉnh, suy nghĩ độc lập, nhất là về mặt tư tưởng triết học. Hình như ít có người (hay là không có người) sau khi học xong có thể viết được một bài ngắn về triết học Mác-Lênin, một vài dòng về bản tuyên ngôn Đảng Cộng sản… 

Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính Tình nói: “Những thứ mà các anh gọi là triết học đã dạy ở các trường Đảng chỉ là một thứ triết học hành chính, mà hết chữ cho nên phải dùng hai chữ triết học đó…”. 

Tôi có nói: “Theo tôi, tinh thần triết học trước hết là đối thoại. Đối với triết học Mác-Lênin thì không có đối thoại. Vì chủ nghĩa Mác-Lênin là vô địch, là bách chiến bách thắng, là muôn năm. Đối thoại ở đây là vô ích mà còn bị… tù nữa là khác. Bởi vì các anh hãy cất khẩu súng trong hộc bàn đi khi nói chuyện triết học, văn chương với người khác… Đối với các anh, chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao tuyệt vời nhất của nhân loại, và xưa nay, chỉ có tư tưởng, triết học Mác-Lênin là triết học chân chính, duy nhất vĩ đại. Thậm chí, trong các bài giảng, sách vở của các anh, các anh đã khinh bỉ Hegel. Các anh cố tìm xem trong nhân loại xưa nay, có ai có tư tưởng duy vật hay không. Và nếu có ai, na ná như thế, hoặc các anh tự gán ép na ná như thế, và kết luận: một thứ chủ nghĩa duy vật ngây thơ, tự phát… và những người đó, các anh cho là… tiến bộ… còn toàn thể là duy tâm phản động…”. 

Tôi nói, thằng Ngô nói, thằng Tình nói… Ông Phạm Như Cương (tôi không nhớ lúc đó có phải ông ta là Viện trưởng Viện triết học hay không) vẫn để tay trên cuốn sách mở ra làm như đang đọc nữa chừng: Les Problèmes de la dialectique dans le Capital de Karl Marx của Rosenthal (bản dịch từ tiếng Nga, cuốn này đã có bản dịch tiếng Việt). Sau này khi nghe tin tôi là một tên phản động, ông ta nói: “CIA giỏi thật, cài anh ta vào sâu đến như thế”. 

© 2005 talawas

[1]Tôi có được một bản do bạn bè cho mượn nhưng lại là một bản không bìa, nên không biết nhan đề của tập hồi ký là gì. Đáng lẽ tôi phải nhờ tác giả xác minh, nhưng do không quen biết anh, lại đọc thấy ở trang cuối trong hồi ký của anh dòng sau đây: “Tôi muốn yên ổn. Nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn cứ bị nhòm ngó”, nên rất ngại phải liên lạc với anh trong việc này. Vì vậy (trong khi chờ đợi được bổ sung), tôi tạm đặt cho cuốn hồi ký của anh cái tên Hồi ức của một người tù không bị giam vào ngục, như anh đã viết về mình trong hồi ký là “trường hợp một thằng tù không bị giam vào ngục”. 
















Trần Vàng Sao
Tôi bị bắt
(Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù) 10 kì
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10



Ông tên Lai nói tiếp: 



“Đối với anh ta chỉ có triết học duy tâm phản động của bọn đế quốc tư bản mới là triết học. Đúng anh ta là một tên phản động nguy hiểm. Đây, nhật ký của anh ta đây. Anh đã nói gì về Quốc hội, về Đảng… Anh ta tỏ ra khinh bỉ giới tri thức miền Bắc, anh cho đó chỉ là những kẻ nói thuội, Đảng dạy gì nói nấy, không có đầu óc suy nghĩ độc lập, sợ. Trí thức, học giả được phân sách gì, tài liệu gì để đọc là phân theo tiêu chuẩn thịt, đường, sữa. Người này tiêu chuẩn một tháng một lạng thịt thì chỉ được đọc sách này, người kia năm lạng một cân thì đọc sách này. Anh nói gì mà vô học thế. Nhưng người viết phê bình văn học… thì chỉ biết trích dẫn Nghị quyết, phê bình văn học miền Nam thì cái gì cũng Mỹ Ngụy hết. Đối với anh ta chỉ có bọn Nhân văn-Giai phẩmphản động chống Đảng mới là nhà văn thực sự.’’ 



Tôi nói: 



“Tôi nói điều này cho rõ. Còn chữ viết của tôi đó. Trong nhật ký tôi có nhắc lại một lần trong cuộc nói chuyện với bạn bè ở Huế khoảng 1961, 1962 gì đó, một người bạn tôi tên là Lê Văn Mỹ (tôi cầm bức ảnh chụp những trang nhật ký của tôi đưa ra trước mặt họ), có nói: “Ở miền Bắc của mi chỉ có nhómNhân văn-Giai phẩm là có tư cách của người cầm bút” (Đại ý như thế tôi không nhớ rõ nguyên văn).’’ 


Ông Lai không để cho tôi nói nữa, ông ta dằn dọng: 

“Còn văn chương chữ nghĩa của anh thì thế nào?’’ 

Tôi nói cho anh biết: Mỹ Ngụy đã nhồi nhét vào đầu óc anh những tư tưởng phản động, chống đối. Nó làm cho anh trở nên mù quáng, phản động. Bác Hồ, giọng ông ta chậm lại và đằm thắm hết gắt gỏng, Bác Hồ là một vị lãnh tụ của nhân dân ta, của Đảng ta, cả thế giới đều kính phục, ngay cả kẻ thù, bọn Mỹ Ngụy cũng phải kính phục. Thế mà anh, anh, ông ta la to lên, chính anh đã nói xấu Bác. Đây này, đây này, thơ anh đây này. 

Ông dưới 40 tuổi tên Thanh cầm một tờ giấy lên nói: 

“Trong bài “Sân khấu II” anh ta viết : 

Một tập sách giấy hồng 
Ghi lời thánh 
Ông thánh già đã chết 

Bác Hồ chứ còn ai nữa? Ở một chỗ khác, cũng trong bài này: 

A ha tôi là một tên hề 
Một tên hề không có râu 
Một tên hề không có bánh mì mà ăn 

Anh ta nói đến Bác Tôn Đức Thắng đấy.” 

Quay sang tôi ông ta gắt với vẻ dọa nạt: 

“Có phải anh đã viết ra đó không? Anh căm thù chế độ này, Anh nói xấu Bác Hồ. Anh hết rồi. Bác mà anh cũng nói như thế thì còn gì nữa. Giọng ông này trầm dần lại. Hình như có một lúc những người xung quanh tôi xúc động. Có một người Việt Nam đã xúc phạm Bác Hồ. Bác Hồ không ai được đụng đến, không ai được nói xấu, không ai được nói khác về Bác những gì Đảng đã cho phép. Bác là vĩ đại, nên phải ngợi ca và chỉ được ngợi ca, mà có ngợi ca cũng chỉ được phép trong khuôn phép của Đảng. 

Chung quanh tôi có những tiếng động lạo xạo, giấy, quần áo, cặp da, túi xách nhựa, giày dép, chén uống nước, lạo xạo, lạo xạo. Mọi người đều xúc động và nổi điên vì tôi đã xúc phạm đến Bác Hồ.” 

Tôi nói: 

“Tôi làm thơ, còn việc hiểu thơ tôi như thế nào đó là quyền của người đọc. Tôi là tác giả, tôi không nói gì thêm (thật ra lúc này tôi dám nói gì). Nhưng không lý, bác Tôn Đức Thắng lại không có bánh mì mà ăn.” 

Một người khác lớn tiếng chỉ vào mặt tôi: 

“Thế ông thánh già là ai? Anh ám chỉ Hồ Chủ Tịch chứ gì nữa? Hả, hả.” 

Tôi nói: 

“Thánh thần Phật thì nhiều, tôi chưa nghe ai gọi Bác Hồ là thánh cả, mà chỉ nghe nói Bác Hồ cũng chỉ là một người như mọi người…” 

“Ngoan cố! Ngoan cố! Anh đừng lấp lửng vô ích. Chính trong đoạn ghi chép đây này.” Ông ta chìa ra cho tôi một bức ảnh. “Anh viết… tên Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh… Các lãnh tụ đáng kính của Đảng ta, của nhân dân ta mà anh gọi bằng “tên”. Anh phản động thật. Hãy nói đi bọn địch cài anh vào tổ chức cách mạng với nhiệm vụ gì? Nói đi!” 

Tôi đã là kẻ đối địch với họ, họ coi tôi là kẻ thù và ngày mai sẽ là kẻ tử thù. 

Tôi cầm tấm ảnh, nói: 

“Tôi viết thế này còn đây: “Hễ mỗi lần những nhà nghiên cứu, phê bình văn học lúng túng không tìm ra lối thoát thì họ lại dẫn ra những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… và chỉ thị, nghị quyết của Đảng ra làm bằng cớ và bùa phép. Vì không ai dám cãi lại…”. Chữ tên ở đây có nghĩa là tên tuổi, chứ không phải như các anh hiểu…” 

“Lấp lửng.” 

“Có gì mà lấp lửng. Tôi viết cho tôi kia mà, có phải viết cho các anh đọc đâu mà lấp lửng.” Ông tên Lai gầm mặt nhìn tôi: 

“Chúng tôi không cần anh phải biện bạch, giải thích gì hết. Vô ích. Tất cả những điều anh viết ra đó đã nói lên hết con người của anh là thế nào rồi. Điều mà chúng tôi muốn chính anh nói ra là ai đã tổ chức anh? Từ ngày ra miền Bắc anh đã làm gì, liên hệ với ai, công việc đã tiến hành tới đâu? Anh đừng để chúng tôi dẫn ra bằng cớ.” 

Lúc này tinh thần tôi căng thẳng. Đã có dấu hiệu của những cơn dạ dày hành hạ. Nhưng tôi không sợ gì hết, thành thật mà nói như vậy. Cái thất sách của họ là nói tôi là CIA. 

Ông Lai tiếp, giọng khi không có dịu bớt và chậm lại: 

“Anh Đính, anh có thương mẹ anh không?” 

Mới nghe nói như thế là tôi đã lộn ruột lên rồi. Đồ mất dạy. 

“Nếu anh thương mẹ anh, chắc anh nghĩ rằng sẽ có ngày anh về gặp lại mẹ anh. Anh hãy khai thật đi, khai hết đi, chỉ có như thế anh mới hy vọng có cơ hội gặp lại mẹ anh.” 

Thằng Trác, cả thằng Vấn nữa, là những thằng bẩn thỉu, vô lương, mất dạy. Tôi thường nói chuyện với chúng về mẹ tôi, và chính trong nhật ký tôi viết rất nhiều về mẹ tôi. Đối với tôi, trên đời này tôi chỉ còn có mẹ tôi. Cả hai thằng này đã mách nước cho bọn này cách tra khảo tôi. Tôi chợt nghĩ, nếu lúc này mẹ tôi ở miền Bắc, chắc bọn người này sẽ bảo tôi: “Hãy khai thật đi, không thôi tao bắn mẹ mày”. Những người đang ngồi bao vây tôi ở đây không thể hiểu câu hỏi: “Anh có thương mẹ anh không?” đã làm cho tôi khinh bỉ và ghê tởm họ, và đã làm cho tôi bình tĩnh hơn, mặc dù lúc đó cái dạ dày của tôi đang lên cơn. Hạ sách tàn tệ đó của họ đã đặt tôi vào thế đối thủ, kẻ thù với họ. 

“Thế các anh có thương cha mẹ của các anh không mà các anh lại hỏi tôi câu đó?” 

Tôi nhìn từng mặt người một, không phải để ghi nhớ vì cho đến bây giờ tôi có nhớ ai đâu, mà, đối với tôi tất cả bọn họ cũng chỉ là một; cũng không phải để dò xem họ sẽ xử tôi như thế nào, vì làm sao tôi biết được những âm mưu của họ. Tôi nhìn họ để nói với họ rằng đến nước này các người muốn làm chi tôi thì làm, tôi trơ ra rồi. Họ tức tối. Họ cúi đầu vào nhau thì thầm. Một hai người lánh ra ngoài hội ý, rồi đi vào gật gật cái đầu. Những cảnh đó cứ lập đi lập lại mãi suốt thời gian họ tra khảo tôi. 

Tôi không còn nhớ rõ những diễn biến của cuộc khảo tra này nữa. Hai mươi năm rồi. Đây là một cuộc khảo tra, ở đây tôi không được xem như một người đối thoại. Kể cả tư cách một bị cáo trong một phiên tòa, tôi cũng không có. Tôi là kẻ phản động thù địch, một tên chống Đảng, chống chế độ, xúc phạm lãnh tụ. Tất cả mọi người đều có quyền xỉ vả tôi và coi tôi như một con chó ghẻ tởm lợm. Một ông ở trong cuộc khảo tra này đã nói giữa chừng cuộc: “Anh đừng tưởng anh ngồi đây với tư cách của người tham dự một buổi họp. Anh phải hiểu như thế để ăn nói cho đàng hoàng”. 

Tôi nhớ hình như đã gần 11 giờ 30. Ông Lai đứng dậy đi ra cửa, chỉ tay vào mặt tôi nói: 

“Bây giờ anh về phòng, mang hết lên đây tất cả va ly, quần áo, sách vở, tư trang, tất cả những gì mà anh có, mang lên đây hết. Nhờ đồng chí (……) và đồng chí (…..) theo anh Đính kiểm tra.” 

Tôi xuống thang gác, mệt mỏi, chán nản. Dạ dày tôi lên từng cơn. Đã đến giờ ăn, nhiều người đang cầm chén đũa đi xuống nhà ăn. Người ta nhìn tôi. Tôi đoán họ đã biết hết những gì đã xảy ra trên gác khi nhà C. Những con mắt họ nhìn tôi không bình thường nữa. 

Tôi sắp xếp đồ đạc vào va ly. Sách tôi bỏ vào cái thùng các-tông. Hai ông đi theo kiểm tra lật hết mùng mền, giường chiếu, rũ từng cái xem tôi có giấu tài liệu gì không. Một vài tờ giấy loại lót trên vạt giường, mảnh báo cũ… họ đều lấy hết. Bức chân dung Karl Marx tôi vẽ trên giấy khổ rộng bằng mực Cửu Long xanh đen họ cũng giật xuống. Họ mở cả cánh cửa ra vào giữa hai phòng mở khép sát tường, lục mắt vào. Tôi mang sách vở đồ đạc đi. Tôi phải đi hai chuyến, qua về, hai ông đó cứ lẽo đẽo theo. Giữa đường có rớt một vài thứ lặt vặt, tôi để va ly xuống, lượm lên. 

Tôi bước vào phòng, lúc này mọi người ngồi, đứng hút thuốc, uống nước nói chuyện cười vui. Ông Lai ra lệnh cho tôi: 

“Anh để tất cả ở đây.’’ 

Tôi để mọi thứ lên bàn. 

“Anh ngồi xuống đó.’’ 

Tôi lấy thuốc ra hút. Lúc để đồ đạc lên bàn, tôi có mở va ly ra lấy mấy gói Tam Đảo bỏ vào túi áo bông. Có một ông khi thấy tôi bật nắp va ly, định sấn lại, nhưng thấy tôi lấy thuốc, ông bỏ hai tay lên thành ghế, đứng lại. 

Ông Lai hỏi: 

“Anh mang tất cả lên đây rồi chứ?’’ 

“Vâng.’’ 

Một trong hai cái ông theo kiểm tra tôi nói: 

“Hết cả rồi.’’ 

Tôi ngồi xuống, uống một hớp nước. Mọi người đã ngồi vào chỗ của mình. Một hai người còn đứng ở ngoài. Lúc đó thằng Nguyễn Viết Trác nhăn mặt, mệt nhọc xách va ly bước vào. Hắn ngó tôi vẻ thiểu não. Con c… họ. Tôi chửi trong bụng. Bọn chúng giả vờ làm như thằng Trác chơi với tôi nên bị liên lụy. Hắn cũng bị lục soát va li. Nhưng suốt trong thời gian tôi bị khảo tra không bao giờ người ta hỏi tôi về hắn. Chính hắn đã nhúng tay vào việc tổ chức cuộc tra khảo tôi hôm nay. Hắn có công. Lúc tôi quay ra ngoài hành lang lượm một vài cuốn sách thì gặp hắn, mặt mày trân đi, xách va li một cách nặng nhọc đi tới. Hắn ngó tôi, nói: 

“Mi làm khổ tao.” 

Mả cha cái thằng con nhà không ai răn dạy. Cái mặt hắn nhăn nhó vì giả đò như hắn thường giả đò lên cơn suyễn. Không có một vẻ xúc động hay thay đổi nào trên cái mặt của hắn hết. 

Tôi có nói với hắn: 

“Mi cố sống, sau này gặp nhau.” 

Hắn đặt va li xuống sàn nhà. Ông Lai nói: 

“Thôi cho anh Trác về.’’ 

Hắn bực nhọc như cố lê bước đi ra. 

Thằng Trác quen tôi là tình cờ. Hắn đến chơi với thằng Lê Ngọc Từ nằm cùng phòng với tôi ở khoa ngoại B1 bệnh viện E2 khoảng giữa năm 1970. Lúc đó hắn cũng đang chữa bệnh và nằm ở khoa khác. Hắn mượn tôi sách báo. Sau đó hắn cho tôi mượn quyển Larousse. Tôi nói chuyện với hắn nhiều lần về chủ nghĩa Marx-Lénine, về Đảng, về nền kinh tế ở miền Bắc, về tình trạng xã hội… Tôi có đọc cho hắn nghe nhiều đoạn trong nhật ký của tôi và đưa thơ tôi cho hắn đọc. Lúc gặp hắn ở bệnh viện E1 (Thạch Thất – Hà Tây) tôi đã đọc bản đề cương của tôi về nền chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng. Khi nói chuyện, hắn cứ ngó quanh quất làm như có ai lảng vảng đâu đó. Hắn nói: “Nói nhỏ nhỏ a”. Suốt thời gian nói chuyện, tôi nói nhiều hơn hắn nói, hắn không tỏ vẻ phản đối hoặc đồng ý những suy nghĩ của tôi. Hắn chỉ ầm ừ, miệng ngậm khít, mắt mở trừng. Hắn biết tư tưởng và suy nghĩ của tôi. Hắn báo cáo Ban bảo vệ Đảng biết. Hắn cùng Ban bảo vệ Đảng để mưu sắp lớp lục va ly tôi và chụp ảnh nhật ký của tôi. Hắn gặp thằng Trần Nguyên Vấn lúc đó mới ra Bắc ở khu tập thể số 2 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội, toa rập với nhau bàn với ông Sự cách trị tôi. 

Và bây giờ thì hắn giả bộ đau khổ, vì chơi với tôi mà phải liên lụy. Hắn giả vờ sợ sệt một cách tội nghiệp, thảm não. 

Đã quá giờ ăn trưa, người ta cho tôi về. 

Tôi về phòng. Mọi người đã đi ăn cơm. Một bát miến và một hộp sữa đã để sẵn trên bàn. Cô Chanh y tá bước vào nói: 

“Anh Đính, anh ăn ở đây, đừng xuống nhà ăn nữa.” 

Tôi có báo ăn miến đâu. Người ta biết tôi bị căng thẳng và sẽ bị dạ dày hành nên cho tôi ăn miến và sữa để có sức tiếp tục chịu đựng cuộc tra vấn. 

Ăn xong tôi nằm nghỉ. Những người trong phòng đã về; cả phòng trong và phòng ngoài có khoảng sáu bảy người. Tôi ở phòng trong, ba người. Người ta vẫn nói chuyện, nhưng khác với mọi ngày không ồn ào. Tôi biết phận mình, tôi nằm. Chỉ có ông già Tuyết, người Quảng Ngãi cùng phòng với tôi, hỏi tôi: 

“Không đi ăn hả mày?” 

“Dạ ăn rồi…” 

Ông nhìn lên bàn rồi “à” một tiếng. 

Không biết chúng còn giở trò gì nữa với tôi đây. Đầu tôi nóng bừng. Trời lạnh tanh. Bây giờ mà có một cơn mưa. Một giờ rưỡi chiều, một ông trong đoàn khảo tra vào báo tôi: 

“Anh lên làm việc tiếp.” 

Vẫn những người cũ: đầy đủ những ông trong đoàn khảo tra, bí thư đảng ủy, bốn bí thư chi bộ bốn khoa bệnh nhân, chủ tịch hội đồng bệnh nhân…, bí thư chi bộ K65, không có mặt ông Điềm, bác sĩ trưởng K. Người ta cho biết anh Điềm bận chuyên môn không dự được. Tất cả sách vở, giấy tờ của tôi đã được xếp chồng để trên cái giường sau lưng những người ngồi đối diện với tôi. Trước mặt ông tên Lai mặt đỏ láng là những chồng giấy tờ, vở ghi chép của tôi. 

“Ta làm việc thôi, các đồng chí ạ.” 

Ông Lai nói, rồi nhìn tôi, tiếp: 

“Bây giờ vẫn chưa muộn đâu anh Đính ạ. Anh nên nói ra tất cả những suy nghĩ của anh, những công việc của anh từ ngày ra Bắc, nói hết, nói thật…” 

Tôi biết họ nghi tôi là gián điệp của Mỹ Ngụy cài vào tổ chức cách mạng để phá hoại, và họ muốn tôi thú nhận điều đó. Họ muốn tôi phải đầu hàng họ như một tên gián điệp đầu hàng cách mạng. Tôi không còn sợ gì nữa. Họ không thể lấy điều này để trấn áp tôi được. Cái đáng phải sợ là tìm cách che giấu những việc mình làm. Tôi không làm gì hết thì việc gì mà phải tìm cách đối phó. Nhật ký của tôi họ đã chụp ảnh, sách vở ghi chép, các tập thơ của tôi đó. Tôi không che giấu gì cả. Chắc chắn họ chỉ còn một cách là truy bức tôi về mặt tư tưởng. 

Ông già mặc đại cán màu nâu chỉ đống sách của tôi nói: 

“Anh đọc nhiều đấy. Có lẽ chúng tôi ở đây không ai đọc bằng anh đâu. Nhưng vô ích anh Đính ạ. Anh đọc để anh xuyên tạc, anh đọc để anh chống đối.” 

Ông dưới 40 tuổi, tạm gọi là tên Thanh, hỏi tôi: 

“Anh đã mang tất cả sách vở, tài liệu ghi chép, sổ sách của anh lên đây rồi chứ? Có còn cái gì cất giấu ở đâu không?” 

“Tất cả của tôi là ở đó.” 

“Thế bản đề cương về chuyên chính vô sản của anh đâu?” 

“Tôi đốt rồi?” 

“Cả nhật ký nữa?” 

“Tôi cũng đốt rồi.” 

“Tại sao anh đốt?” 

“Viết xong không thích thì đốt hay xé đi là chuyện thường.” 

“Anh sợ à?’’ 

Tôi không trả lời câu này. 

“Trong bản đề cương đó anh viết gì’’ 

“Tôi ghi lại những suy nghĩ của tôi về sự lãnh đạo của Đảng và nền chuyên chính vô sản.’’ 

“Anh nói cụ thể xem!’’ 

“Tôi trình bày hai phần. Phần một, những quan niệm kinh điển của Lénine và Staline về chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng; phần hai, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và nền chuyên chính vô sản trong thực tế ở miền Bắc. Tôi cho rằng hiện nay ở miền Bắc mối quan hệ giữa chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng không đúng như sách vở của Lénine và Staline đã nói. Chỉ có Đảng là trên hết, là tuyệt đối. Không những Đảng đã nhúng tay quá sâu vào chính quyền mà Đảng đã lấn áp cả chính quyền. Chỗ nào cũng là Đảng hết cả. Ở miền Bắc không có chính quyền, không có Nhà nước, chỉ có Đảng. Ông chủ tịch Hội đồng bệnh nhân cũng là phó bí thư đảng ủy, ông trưởng Khối bệnh nhân cũng là phó bí thư chi bộ hay chi ủy viên. Ông trưởng K là bí thư chi bộ hoặc phó bí thư. Các cơ quan, các tỉnh, trung ương…’’ 

“Tại sao anh lại bảo ở miền Bắc không có tổ tiên, không có ông bà, chỉ có Đảng?’’ 

Ông Lai nổi tức: 

“Xuyên tạc và phản động như thế là cùng. Các lập luận như thế chỉ có địch… Anh không hiểu thật hay là cố tình xuyên tạc?’’ 

Và ông ta dạy cho tôi một bài về sự lãnh đạo của Đảng: Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng là vĩ đại, là tuyệt đối… Trên thế giới, có đảng nào vĩ đại như Đảng ta đâu v.v…’’ Tôi nghe quá mệt. 

Hình như họ chỉ nghe thằng Trác nói lại về bản đề cương của tôi nên tôi đã chỉ nói cho có và tránh hai điểm. Một là nhân dân làm nên lịch sử, nhưng chỉ có Đảng, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương, hiểu và nắm được quy luật của lịch sử. Làm sao một thiểu số người lại có thể nắm và hiểu được quy luật lịch sử mà lại hiểu đúng và vận dụng đúng? Hai là, nhân dân đâu có bầu ra Đảng và Ban Chấp hành Trung ương mà Đảng lại bắt nhân dân phải tuyệt đối trung thành và tin tưởng Đảng? Tôi cho là quá vô lý. 

Một ông nào đó dằn giọng: 

“Anh có tin Đảng không? Anh nói đi, nói đi!’’ 

“Lúc này tôi có trả lời thế nào các anh cũng không tin tôi nói thật. Vì không lý tôi lại dám nói là tôi không tin.’’ 

Ông ta hừ một tiếng. 

“Tôi nói cho anh biết. Cuộc họp này chấm dứt sớm hay kéo dài là tùy theo thái độ của anh. Và tôi cũng nói cho anh rõ là anh ngồi đây không phải với tư cách như trước nay của anh trong các buổi họp đâu. Rất may cho anh là chúng tôi đã không để cho anh đi sâu hơn nữa vào con đường phản động của anh. Chúng tôi muốn cứu anh, muốn anh sớm tỉnh ngộ. Anh còn trẻ. Anh hiểu chưa? Anh nói láo, anh không tin Đảng. Anh không tin gì ở chủ nghĩa xã hội cả. Anh có quan điểm lập trường của anh, đó là lập trường và quan điểm của bọn tư sản phản động tay sai của đế quốc Mỹ. Những thứ đó đã có sẵn trong con người anh, nó có từ lúc anh ở trong vùng địch. Cho nên nói thẳng ra, lập trường quan điểm của anh là chống cộng.’’ 

Một người khác nói chen vào: 

“Chống cộng có hệ thống! Không phải anh ta chỉ chê chế độ miền Bắc, mà anh chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa, anh ta cho là một chế độ bế môn tỏa cảng, do đó mà chỉ thấy trời bằng cái vung. Trí thức thì bế môn tỏa cảng, dân chúng thì cấm làm giàu. Đó không chỉ là luận điệu tư sản phản động mà chính là của bọn xúi làm loạn.’’ 

Một ông khác chĩa vào: 

“Anh cho là miền Bắc không có chủ nghĩa xã hội. Quan hệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc chỉ có trong nghị quyết, chỉ thị. Còn về mặt hiện thực thì chỉ là một sự áp đặt, làm lấy được của những người lãnh đạo, của trung ương Đảng.’’ 

“Tôi không thể nhớ hết được…’’ 

“Đây này, cả trang nhật ký và cả trong các ghi chép của anh, đây, đây này!’’ 

“Không nhớ, thì đây.’ Một ông khác nữa ném một tấm ảnh và quyển vở ghi chép của tôi đã lật sẵn và có đánh dấu. “Này, anh Đính ngẩng mặt lên, nhìn đây.’’ Ông ta ngó tôi qua khoảng trống giữa sống mũi và cặp kính. Ông ta vừa đọc vừa nói xen vào: 

“Anh nói thế này. Những điểm ưu việt của chủ nghĩa xã hội chỉ có trong sách vở, trong nghị quyết, kinh điển. Chủ nghĩa xã hội chỉ có trong đầu óc của những người lãnh đạo. Miền Bắc không có cái chủ nghĩa xã hội như sách vở và các nghị quyết đã nói. Cái quan hệ xã hội chủ nghĩa trong sản xuất cũng như giữa người và người trong xã hội hiện nay chỉ là một sự áp đặt hoàn toàn không có nội dung hiện thực. Còn nếu cái hiện thực xã hội ở miền Bắc hiện nay là xã hội chủ nghĩa như sách vở đã nói thì cần phải xem lại cái chủ nghĩa xã hội đó.’’ 

Ông dừng lại, rồi nói tiếp: 

“Này, anh Đính, chính trong nhật ký anh đã nói rằng không có cuộc kháng chiến chống Mỹ hiện nay thì xã hội miền Bắc chỉ là một vũng bùn lộn cứt… Không có đánh nhau với Mỹ thì cái chủ nghĩa xã hội và Đảng là tiêu dên rồi. Phải không? Phải không?’’ 

“Phải, tôi có nói.’’ 

Ông Lai: 

“Đấy, các đồng chí thấy không, anh ta đang ngồi đây với chúng ta, và lâu nay ta gọi anh ta là đồng chí và anh ta gọi chúng ta là đồng chí. Chúng ta sơ hở và thiếu cảnh giác…’’ 

Ông quặt sang hỏi tôi: 

“Anh nói là thủ đô Hà Nội có năm nhứt thế giới, là… nhứt trộm cướp, nhớp nhứt… phải không?’’ 

“Tôi nói Hà Nội có ba nhất: cây xanh nhiều nhất, xe đạp nhiều nhất và nhớp nhất.’’ 

“Chắc chỉ có Sài Gòn, thủ đô của bọn Mỹ Ngụy của anh mới tốt đẹp chớ gì? Những gì phồn vinh giả tạo của Mỹ Ngụy thì anh cho là tốt đẹp. Những gì ưu việt của chế độ ta thì anh chê bai đủ điều. Anh chê cả các nếp sống văn minh của chế độ ta nữa. Anh cho sắp hàng ở miền Bắc không phải là một nếp sống của người văn minh mà do thiếu thốn. Cái gì cũng sắp hàng, mua gạo sổ, mua thịt cá, bánh mì theo tem phiếu, mua cà phê, bát bún, tô phở… cũng sắp hàng. Rồi, bữa ăn của cán bộ công nhân viên ở các nhà ăn tập thể tại Hà Nội anh cho là quá tồi tàn. Anh nghi trong nhật ký: “Con mừng được chiếc áo hoa, nhờ tiền tiết kiệm mẹ cha để dành”. Anh mở vòng đơn (trên tấm áp phích ở đầu thị xã Sơn Tây phía từ Hà Nội vào). Anh viết thêm: đó là chủ nghĩa xã hội! Hừm, cả nước đang đánh Mỹ. Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Bắc phải chi viện cho miền Nam, người, của cải vật chất… phải thắt lưng, buộc bụng… chắc anh cũng đã học tập những điều đó chứ? Tại sao anh cho câu đó là bi đát?’’ 

Tôi làm thinh. Ông ta gõ tay xuống bàn nhắc lại: 

“Anh nói đi.’’ 

Tôi nói: 

“Một cá nhân thì không kể, nhưng kêu gọi cả toàn xã hội mà là một xã hội xã hội chủ nghĩa ưu việt phải như thế, tôi cho là bi đát.” 

Chung quanh tôi mọi người đều tức giận, hầm hừ. Có một khoảng im lặng, chỉ nghe tiếng giấy tờ lạo xạo. Còn tôi, cái dạ dày lên cơn. Tôi hút thuốc liên tục. Cái ông mặc đại cán màu nâu chậm rãi thuyết giảng cho tôi một bài triết học về thế nào là hiện tượng, thế nào là bản chất. Từ đó ông chuyển sang giảng thêm cho tôi hiểu về bản chất của chế độ ta và bản chất của chế độ địch. Ưu việt và tốt đẹp là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; độc ác, bóc lột, xâm lược là bản chất của chế độ tư bản. Những cái gì chưa hoàn thiện mà tôi thấy hàng ngày ở miền Bắc chỉ là hiện tượng, có tính nhất thời; còn những gì tốt đẹp của bọn tư bản, đó chỉ là cái bề ngoài, cái phồn vinh giả tạo, cái hiện tượng. Tất cả những cái đó đã che lấp cái bản chất xấu xa của chủ nghĩa tư bản v.v… 

Lúc này nghe những thứ lộn xộn như thế tôi cũng mệt. Đầu óc tôi chỉ lùng bùng những tiếng bản chất, hiện tượng, chủ nghĩa xã hội, đế quốc, tư bản, xâm lược, bóc lột, Marx, Lénine, Hồ Chủ tịch… lẫn trong tiếng người lao xao, tiếng sắt thép gỗ chạm nhau lóc cóc, lách cách… ở xa ngoài thị xã chen vào.. Trước mắt tôi bây giờ là những cái đầu, những con mắt nhìn chằm hăm tôi. Đầu cúi, ngẩng, lắc lư; mắt ngó thẳng, ngó xiêng, ngó xéo, mở trừng, mở to, lim dim; có những con mắt nhắm lại. Tôi hút thuốc, tôi uống nước, nước hơi nguội. Nước máy lại chảy ộc ộc dưới nhà. Tiếng đàn bà la to, lấy nước rồi không chịu khóa lại. Khóa sao được. Nhiều lần tôi phải lấy một cục đá chận lên cái robinet nước mới không chảy. Có hai ba hộ ở dưới đó, và một hộ ở đằng kia gần phòng tôi đều lấy nước ở đây. Tôi nghe tiếng nước chảy ào một cái rồi tắt luôn. 

Có tiếng dằng hắng, tiếng nước rót vào bình trà. 

“Đảng có đối xử gì anh khác biệt đâu, mà còn ưu đãi anh nữa là đằng khác. Ra Bắc anh được hưởng mọi tiêu chuẩn mà một cán bộ miền Bắc không thể có được. Anh bất mãn cái gì? Hay là…. Hay là… à… à… một thanh niên ở vùng địch tham gia cách mạng lâu ngày… như anh… mà không được kết nạp Đảng cho nên anh bất mãn phải không?” 

Tôi không trả lời. 

Khoảng cuối năm 1964 hay đầu 1965, tôi nhận được một lá thư theo đường dây bí mật, từ trên rừng gửi về Huế. Đó là quyết định của thành ủy Huế kết nạp Nguyễn Thiết, Nguyễn Đình Hương và tôi vào đảng, viết dưới hình thức một bức thư do đồng chí Hà, tức Lén, bí thư Thành ủy ký. Anh Đàm, tức Văn Nhạc, được cử làm bí thư chi bộ dự bị. Nguyễn Thiết xin hoãn việc kết nạp mình một thời gian, nhưng không nói rõ lý do. Thiết nói với tôi: “Vào Đảng có những ràng buộc về mặt kỷ luật rất mệt. Tao thích như thế này tự do hơn”. Nguyễn Thiết lúc nhỏ đã học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An hồi kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, theo lời Thiết kể, Thiết theo đoàn của Ủy hội Quốc tế bảo vệ đình chiến vào Nam. Anh Đàm chọn phòng X-quang ở bệnh viện bài lao để làm lễ kết nạp vì ở đó đã có cơ sở của ta. Đúng hẹn, một giờ ba mươi chiều, tôi lận tờ giấy đỏ trong áo trước bụng, thằng Hương nhét trong quần lót hai mảnh búa liềm do Lê Minh Trường cắt, đến Viện bài lao. Anh Đàm cho biết không hiểu thế nào tên phó bí thư huyện ủy Phú Lộc đã chiêu hồi lại có mặt hôm đó ở phòng X-quang. Tay này cũng làm việc ở đây, nhưng không phải ở phòng X-quang. Ba chúng tôi đi thẳng luôn ra cửa sau vòng tay trái chuồn về ngay. 

Tháng 6-1965, chúng tôi thoát ly lên rừng, không nghe thành ủy nhắc lại chi về chuyện này nữa. Nhất định người ta muốn thử thách chúng tôi. Về sau, tuần tự, Thiết, Hương, Trường đều vào Đảng. 

Cái ông già mặc đại cán màu nâu cầm lên một xấp giấy màu vàng đất đưa ra trước mặt tôi hỏi: 

“Đây là bài “Sân khấu II”. Thế “Sân khấu I” ở đâu?” 

“Mất đâu ở trong rừng rồi.” 

“Thế còn “Sân khấu III”? Trong nhật ký anh có viết anh sẽ viết “Sân khấu III”?” 

“Tôi chưa viết.” 

Rồi ông quay lại đàng sau lấy một cuốn sách, lật trang đầu hỏi: 

“Anh có viết một câu tiếng Pháp trong này, đại ý nói là mọi sự rồi sẽ trở nên sáng sủa hơn. Có phải anh có ý tưởng làm loạn không?” 

“Câu đó tôi ghi lại lời của một nhân vật ở trang cuối. Ông cứ giở sách ra mà xem.” 

Ông ta làm thinh để cuốn sách xuống bàn. Ông ta nhìn tôi một lúc gật gật cái đầu, tay cầm một tập sách khác đưa cao dứ dứ trước mặt tôi: 

“Anh lấy cái này ở đâu? Ai đưa cho anh?” 

Đó là tập san HÒM KẼM của một nhóm sinh viên ở Cộng Hòa Liên Bang Đức, xuất bản năm 1969 (?), Nguyễn Hữu Ngô cho tôi mượn. Tôi nói: 

“Tôi mượn ở Đài Giải phóng.” 

Ông ta cười ra tiếng, rồi ngậm miệng trề môi dưới ra hứ hứ trong họng. Ông ta cầm tờ báo trên hai tay lật qua lật lại những trang trong: 

“Đây là tờ báo của bọn sinh viên Sài Gòn xuất bản ở Tây Đức. Bọn này được Mỹ Ngụy gửi sang Tây Đức đào tạo để sau này về nước làm công cụ tay sai đắc lực cho chúng, chống lại nhân dân và cách mạng. Mà Tây Đức… là một nước tư bản thuộc loại đầu sỏ, kẻ thù của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, kẻ đối đầu trực tiếp với Cộng hòa Dân chủ Đức. Toàn bộ nội dung tờ báo này sặc mùi tư sản phản động. Tư tưởng và lập trường của bọn này lập lờ, hai mặt, nhưng nhìn chung, bản chất là chống cộng triệt để.” 

Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi: 

“Anh mê những thứ bẩn thỉu này lắm phải không, đồng hội đồng thuyền mà? Anh có biết là anh đã phạm một tội rất nặng là oa trữ và phổ biến tài liệu sách báo của địch không?” 

Tôi cũng chịu không biết nói thế nào nữa, mà có nói cũng vô ích. Tôi làm thinh, và họ cứ chửi bới tôi. Cái ông tên Lai mặt láng cầm cái thẻ kiểm tra bọc nhựa của tôi bỏ xuống bàn ngay trước mặt ông, nói: 

“Có phải anh giữ cái thẻ kiểm tra mà bọn ngụy quyền đã cấp cho anh đây để có ngày anh trốn về vùng địch hay không?” 

Một ông nào đó nói xen vào: 

“Ngày đó là ngày anh đã hoàn thành nhiệm vụ của Mỹ Ngụy giao cho?” 

Chán lắm rồi. Tôi cũng quá mệt. Tôi nói: 

“Cái thẻ kiểm tra đó tôi đem theo đi đường lúc thoát ly và sau đó giữ làm kỷ niệm.” 

Có những tiếng đằng hắng và ậm ừ trong họng. Ông Lai nói: 

“Những tư tưởng và lập trường của anh là phản động, chống cộng. Anh hãy nói thật để được hưởng sự khoan hồng của Đảng. CIA Mỹ Ngụy cài anh vào tổ chức cách mạng từ khi nào, ra Bắc anh đã thực hiện nhiệm vụ của anh tới đâu rồi? Anh móc nối với những ai? Anh nói đi, tôi cần chính anh tự thú nhận. Chúng tôi đã có đầy đủ bằng cớ và tài liệu.’’ 

Một ông khác nói tiếp: 

“Chỉ có anh mới cứu được anh. Anh phải thành khẩn nói thật, khai thật.’’ 

Tôi nói liền: 

“Tôi mà CIA thì tôi đã không viết nhật ký và làm thơ như thế.’’ 

Không ai nói gì cả. Ông Lai nói: 

“Chưa hết đâu, anh Đính ạ. Còn có nhiều điều, nhiều việc chúng tôi chưa nói với anh. Chưa hết đâu. Rồi anh sẽ biết hậu quả những hành động của anh.’’ 

Bao giờ họ cũng nói: “Những hành động của tôi”. 

Cái ông trẻ dưới 40 tuổi tên Thanh hỏi tôi: 

“Anh có cần đọc lại biên bản hay không?’’ 

“Không.’’ 

Một vài người đã đứng dậy để đi ra ngoài. Ông Lai ngã người trên ghế nhìn tôi. Ông Thanh vẫy tôi lại, nói: 

“Anh xem lại và ký vào. Đây là biên bản những gì của anh mà chúng tôi tạm giữ để nghiên cứu. Anh kiểm tra lại đi.’’ 

Tôi nói, thôi không cần và ký. Toàn bộ các tập thơ, các tập vở ghi chép, tất cả những giấy tờ gì, dù là một tờ rời, một mảnh nhỏ có chữ của tôi đều bị họ tịch thu hết. Sách họ trả lại, trừ một vài quyển, trong đó có một quyển tiểu thuyết bằng tiếng Pháp (tôi mua ở nhà sách ngoại văn ở Hà Nội), vì ở trang đầu cuốn sách này tôi có ghi một câu của một nhân vật trong truyện nói đại ý: mọi sự mọi việc rồi sẽ được sáng sủa và tập san Hòn Kẽm. 

Một ông ra lệnh cho tôi: 

“Anh mang va ly và đồ dùng cá nhân về phòng. Còn sách sáng mai anh sẽ nhận. Tôi xin họ cuốn tự điển Anh-Việt loại bỏ túi của Võ Lang (quyển này tôi mang từ chiến trường ra), họ đồng ý. Sau này có một ông cho tôi biết việc này làm cho họ nổi tức và không có lợi cho tôi, vì họ cho đến lúc đó mà tôi vẫn còn bình tĩnh đọc sách được.’’ 

© 2005 talawas 







Trần Vàng Sao
Tôi bị bắt
(Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù) 10 kì

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10



Tôi trở về phòng. Một bát miến đã để sẵn như bữa trưa. Ăn xong, tôi ngồi hút thuốc. Cô Lý, y sĩ, bước vào:

“Anh Đính uống cồn Ben-la-don.”

Cô lấy một cái cốc rót nước vào rồi nhỏ mấy giọt cồn Ben-la-don vào đưa cho tôi.

“Anh uống thêm mấy viên Ka-vét này nữa.”

“Cảm ơn cô.”

“Khi nào ăn xong anh cứ để chén bát ở đây, sẽ có người đến lấy.”

Mọi người đi vắng hết. Ông già Giác ở phòng ngoài đi đâu một lúc về chế trà ngồi uống. Ông gọi tôi:

“Uống nước anh Đính.”

Tôi uống với ông một chén, rồi rót một chén khác đem về phòng tôi. Ông già Tuyến, người Quảng Ngãi, bước vào nhìn lên bàn, lên giường tôi nói:

“Họ lấy sách vở của mầy hết rồi à?”

“Dạ.”

Buổi tối tôi thắp một cây đèn dầu ngồi uống nước hút thuốc một mình. Tôi mệt và chán lắm rồi. Tôi không cần suy nghĩ là ngày mai họ sẽ còn làm gì tôi nữa. Dạ dày tôi đau quặn lên. Tôi không còn gì nữa. Họ tịch thu hết rồi. Tôi tiếc và tức, uổng quá, uổng thiệt. Quá dại, đáng ra mình phải gửi trước một ít cho thằng Ngô, thằng Tình. Bây giờ thì tay không. Độ hai ba hôm sau, tình cờ tôi lượm được ở trong góc phòng dưới đầu giường của thằng Trác cái thư của mẹ tôi gửi cho tôi hồi đầu năm 1968, lúc còn ở trong rừng và bài “Nhân dân và tôi” viết trên tờ giấy croquis, cả hai đều bị vò cục lại. Tôi mừng hết sức. Thằng Trác hơi hoảng và lúng túng. Hắn ở ờ gì đó trong cổ rồi nói không ra tiếng: “chắc họ bỏ lộn trong đồ đạc của tao. Tao cũng không để ý…”. Để đánh lạc hướng tôi, đoàn khảo tra tôi đã giả đò bắt hắn mang va ly đến cho họ kiểm soát. Trong lúc cùng với ban bảo vệ Đảng lục soát va ly sách vở của tôi lúc tôi lúc tôi đi vắng, hắn đã bỏ quên những thứ này trong va ly hoặc dưới giường của hắn.

“Nhân dân và tôi” là bài thơ duy nhất còn sót lại của tôi lúc đó và tôi còn giữ cho đến bây giờ.

Nhân dân và tôi
chúng ta gặp nhau 
mỗi ngày 
như người câm
không nói
chiến tranh đi qua đi qua
người vẫn chết
còn chết vô tình 
ở Sơn Mỹ Ba Làng An
Đắc tô Đắc Xiêng 
Đường Chín
ở miền Nam 
miền Bắc
Cam pu chia
ai biết 
còn chết mãi 

Nửa đêm thức dậy
nghe tiếng còi tàu thở hơi than máy đen 
cùng nỗi mệt mỏi
của những khúc gỗ trôi trên sông một mùa nước trước
đã đi qua những chặng rừng không cây cối
đất đỏ bom hoang 
khi cuộc biểu tình bị đàn áp
chúng ta rát cổ hô hào 
dân chủ tự do 
trong mạnh máu những con giòi còn rúc
đứng đầy đường đại bác xe tăng
chúng ta nói chúng ta còn lực lượng 
nhân dân ơi
tôi khóc tôi khóc

em bỏ về một mình 
hai hàng cây xanh đường Trưng Trắc 
bao giờ tôi mới được hôn em 

Chúng ta gặp nhau
còn gặp nhau 
mỗi ngày
như nhân dân 
còn gặp nhau 
bốn ngàn năm chưa thấy mặt
Việt Nam 

Nhân dân ơi 
mỗi lon gạo lon bắp 
mỗi củ khoai củ sắn trồng trên đất này
chưa được tự do ăn 
nên còn đẩy xe thuê 
làm đĩ 
lượm lon
hốt rác
mỗi ngày 
như mọi đêm

Nhân dân ơi rất anh hùng
Nhân dân ơi chúng ta còn đông
nơi mũi chông nhọn chúng ta giận dữ 
đòi trả thù 
và được ăn no

Chúng ta gặp nhau 
mỗi ngày
thân mật
như nhân dân còn đông lực lượng 
tôi yêu em 
như người lạ
vô cùng đắng cay 
hôm qua hôm nay 
ngày mai ngày mốt
người chết
người sống 
không nói 
không cười 
không khóc
hòn đạn bắn vào đầu 
hòn đạn đồng thối 
quá khứ như một đống phân 
tương lai treo ngọn cờ đỏ
nhân dân tôi 
rất độ lượng
chống đất đứng dậy làm anh hùng 
nhân dân ơi 
trong giọt máu này của tôi 
da vàng Châu Á

tháng năm 1970

Có lẽ bài thơ này tôi viết lúc nằm ở bệnh viện E2 ở Hà Nội.

Lúc này tôi cảm thấy trống trải dễ sợ. Mệt mỏi và chán nản thoáng một lúc không còn nữa. Tôi cứ ngồi im, ngó hai mắt vào hai cánh cửa sổ đóng trước mặt. Tôi như đờ ra. Bình thường những buổi tối như thế này tôi đọc, tôi làm thơ hoặc viết nhật ký ghi lại những suy nghĩ của mình về cuộc đời này, về cuộc chiến tranh này, về cuộc cách mạng này, về bạn bè, về những ngày còn nhỏ của tôi ở Vỹ Dạ… Nhưng tôi biết kể từ nay tôi không thể viết được nữa, tất cả những suy nghĩ, xúc động, tư tưởng… chỉ được nằm trong đầu óc tôi, không thể viết ra trên giấy được. Và, kể từ nay, những sinh hoạt bình thường hàng ngày của tôi cũng phải thay đổi.

Sáng mai như thường lệ tôi dậy sớm, xách phích đi lấy nước uống. Tôi mở hé một một cánh cửa sổ và chế nước ngồi uống. Đối với tôi, sự yên tĩnh của những buổi sớm mai rất tuyệt vời. Tôi để mình lang thang trong trí nhớ trở về với những buổi sớm mai ở Vỹ Dạ. Không biết bây giờ mẹ tôi đi lấy lòng về chưa. Rồi tôi đọc lại những bài thơ mới làm hoặc những đoạn viết dỡ đêm qua. Bây giờ thì không được nữa rồi. Khoảng tám giờ, ông Thanh đến gặp tôi, hướng dẫn tôi viết bản kiểm điểm. Một giờ sau, ông ta trở lại, tôi đang nằm trên giường. Ông đứng ngay trước cửa chỉ tay vào tôi hỏi:

“Anh viết xong chưa?”

“Rồi.”

“Đưa tôi xem.“

Đọc xong bản kiểm điểm của tôi ông nói:

“Anh viết chưa đạt yêu cầu.”

Rồi ông ta bắt tôi thêm chỗ này, bỏ chỗ kia. Có đến mấy lần ông ta lui tới bắt tôi sửa đi sửa lại bản kiểm điểm.

“Anh nhớ kèm theo bản sơ yếu lý lịch của anh nữa.”

Tôi viết. Ông lại góp ý. Xong xuôi, ông bảo tôi lên lấy sách về. Ông ta hoàn toàn không nói cho tôi biết viết lý lịch và kiểm điểm để làm gì, và tôi cũng không hỏi. Tới đâu thì tới. Chán, mệt và đau đầu lắm rồi.

Một giờ chiều, hôm đó là ngày 26 tháng 1 năm 1972, ông trẻ tên Thanh này vào bảo tôi:

“Chiều nay, anh sang hội trường làm việc.

Anh sẽ kiểm điểm trước toàn thể cán bộ bệnh nhân K65 về những việc làm của anh. Tuyệt đối anh không được có một thái độ hoặc hành động xúc phạm đối với bất cứ một người nào. Khi nào chúng tôi cho anh nói anh mới được nói. Anh hãy ngồi đây, bao giờ tôi đến báo anh hãy sang hội trường.”

Ông ta còn dặn thêm tôi phải thế này thế nọ trước những phản ứng của mọi người. Một giờ rưỡi tôi sang hội trường. Hơn ba trăm con người đã tụ tập ở đó. Tôi bị đấu tố rồi. Sáng nay bốn chi bộ bệnh nhân đã họp để phát động gây căm thù và phân công đấu tố tôi.

Tôi bước vào. Mọi người xôn xao, thì thầm. Khẩu hiệu Đảng Lao động Việt Nam muôn năm, tượng Bác Hồ để trên cao. Ba bốn cái bàn dài phủ khăn trắng làm bàn chủ tịch đoàn. Cũng những cái ông khảo tra tôi hôm qua ngồi hết ở đó, có thêm ông bí thư Đảng ủy bệnh nhân và ông Điềm, bác sĩ trưởng K. Ông Lai mặt láng ngồi giữa. Các cửa đóng kín, trừ cửa ra vào mở rộng. Ông Thanh dẫn tôi đi thẳng lên phía bàn chủ tịch. Một cái ghế đặt sẵn phía bên phải bàn chủ tịch đoàn. Cũng vẫn ông Lai đó đứng dậy chỉ tay vào cái ghế để sẵn đó:

“Ngồi đó!”

Tôi ngồi xuống, tôi vẫn hút thuốc. Một ông ngồi ở hàng ghế đầu đứng dậy quay mặt lại nói:

“Đề nghị các đồng chí ổn định.”

Ông Lai đứng dậy:

“Ta làm việc các đồng chí ạ. Thưa các đồng chí, từ ngày ra Bắc đến nay, anh Nguyễn Đính đã phạm những sai lầm hết sức nghiêm trọng về mặt lập trường, quan điểm và tư tưởng. Lát nữa chúng tôi sẽ tóm tắt một số điểm chính cho các đồng chí rõ. Hôm nay, chúng ta họp ở đây là để phân tích góp ý cho anh Đính thấy rõ hơn nữa những sai phạm của mình, và để anh có hướng sửa chữa, cải tạo mình tốt hơn. Tôi đề nghị các đồng chí trong lúc góp ý phải bình tĩnh, thể hiện bản chất tốt đẹp của người cách mạng, là những người, hơn ai hết, đã góp máu xương của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải tỏ cho anh Đính biết Đảng ta rất khoan hồng đối với những người có tội biết ăn năn hối cải. Đây là một cơ hội cho anh Đính làm lại cuộc đời của anh, một cơ hội để anh ăn năng, hối cải. Số phận của anh lúc này đây là do anh quyết định.”

Rồi ông ta đọc sơ yếu lý lịch của tôi và tóm tắt những gì mà hôm qua họ đã khảo tra tôi. Tất cả là những lời buộc tội, áp đặt và có kết luận.

Ông quay sang tôi:

“Phần anh, anh không được phát biểu gì cả khi mọi người góp ý. Khi nào chúng tôi cho phép anh mới được nói. Anh nghe chưa?”

Ông ta quay sang ông Thanh:

“Đồng chí Thanh làm biên bản buổi họp cho với.”

Một ông khác ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:

“Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại, đề nghị các đồng chí hãy bình tĩnh khi phát biểu ý kiến.”

Ông bí thư Đảng ủy khối bệnh nhân ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng lên:

“Các đồng chí ạ, chúng ta là những cán bộ, Đảng viên được Đảng cho ra miền Bắc, hậu phương lớn, chữa bệnh và học tập. Rồi đây tất cả chúng ta sẽ trở lại chiến trường của mình. Hôm nay chúng ta góp ý cho anh Đính là để bảo vệ Đảng, bảo vệ tư cách của những người cán bộ Đảng viên của Đảng. Các đồng chí phải hết sức bình tĩnh. Tôi đề nghị các đồng chí khi góp ý, cần phân tích kỹ những sai lầm nghiêm trọng của anh Đính mà các đồng chí ở Cục vừa trình bày. Tôi đề nghị các đồng chí cần vạch rõ thêm những sửa chữa, cải tạo, cụ thể và đúng mức cho anh Đính.” [1]

Hội trường im lặng một lúc, rồi gần như tất cả lồng lộn lên, mỗi người một cách, xỉ vả tôi. Người trợn mắt, bậm môi; người nghiến răng chỉ tay thẳng vào mặt tôi; người dong hai tay nắm đấm lên trời đập vào không khí; người chống nạnh dậm chân xuống nền nhà; người bước ra khỏi ghế ngồi vừa nói vừa vung tay tiến về phía tôi; người nói nửa chừng bật lên tiếng khóc… Hễ lúc nào không khí có hơi lắng đi, sẽ có người đứng lên gợi ý cho mọi người phát biểu: “tôi thấy chúng ta chưa đi sâu mặt này…”; “tôi thấy điểm kia cần phân tích sâu thêm”; “tôi đề nghị các đồng chí triển khai những điểm này…”

Sau một vài ý kiến, khi cuộc đấu tố bắt đầu có đà, ông Thanh trên bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:

“Tôi nói thêm một số điểm để các đồng chí hiểu rõ thêm về anh Đính, và trên cơ sở đó các đồng chí phát biểu ý kiến tập trung hơn.”

Ông ta đọc bài thơ “Hồ Chí Minh muôn năm” của tôi [2] .

Tôi chỉ nhớ mấy đoạn:

Sông mang phù sa đỏ
Chảy ra biển muôn năm
Người mang hồn sông đó 
Lòng như biển vô cùng [3]

Chín chín ngọn Hồng Lĩnh 
Máu đất đà kết tinh 
Đã đem tin điềm lạ
Mang tên Hồ chí Minh
……….

Nuôi Người bằng sữa đắng 
Nước mắt mẹ lầm than
Nên tim Người từ đó
Đau niềm đau Việt Nam 
………

Hôm nay đang đánh Mỹ 
Miền Nam chưa ngủ yên
………..

Nhớ Người vẫn gọi tên
…………..

Còn tôi tên lính nhỏ
Vác súng đi theo Người 
Mấy năm đà gian khổ
Tim hồng vẫn đỏ tươi [4]

Đọc xong bài thơ ông ta nói:

“Đó là cái bề mặt hay nói cho đúng đó là mặt giả của anh ta. Còn đây mới là mặt thật, chân tướng và bản chất của anh ta:

Một tập sách giấy hồng
Ghi lời thánh
Ông thánh già đã chết

Các đồng chí có biết anh ta nói ai không? Ông ta nói đến Hồ Chủ tịch vĩ đại và kính yêu của chúng ta đó.

A ha ta là một tên hề 
Một tên hề không có râu
Một tên hề không có bánh mì mà ăn

Đó là anh ta nói về bác Tôn.»

Cả hội trường lao nhao. Tôi có cảm tưởng như tất cả mọi người đều gầm thét lên, vung tay sấn đến bao vây lấy tôi. Tôi tức ngực, tôi ngộp thở trong đám người phủ kín tôi đó. Không phải sự sôi động mà là sự tức tối, phẫn uất đã nổi lên.

Tôi ngồi im. Tôi chịu đựng, cái dạ dày tôi chịu đựng. Tôi ngồi im có khi bất động như một xác chết để ngồi cúi đầu trên ghế. Sau này cô Mộng, một người bạn của tôi nói: “Thấy họ xỉ vả và hành hạ anh, em thấy họ ác quá. Em sợ anh lên cơn dạ dày rồi ngã lăn ra. Em mà như anh lúc đó chắc em chết thôi”.

Tôi ngồi im, ghi hết những lời họ chửi mắng tôi. Tôi được phép làm việc này, vì trước khi vào cuộc đấu tố, một ông có dặn tôi đem theo giấy bút ghi chép để sau này có dịp suy ngẫm lại những điều người ta nói về mình. Những tờ ghi chép này tôi còn giữ cho đến bây giờ. Tôi chỉ ghi tóm tắt những ý chính của những người phát biểu. Tôi chép lại những lời phát biểu này và chỉ thêm một số câu chữ cho rõ nghĩa ở những chỗ cần thiết. Một gạch đầu dòng là ý kiến của một người; có người phát biểu nhiều lần.

Ý kiến tập thể.

“Tên Đính, phải gọi hắn là tên Đính, không phải anh. Mỹ Diệm đã cài hắn lại để phá hoại, để chống đối lại nhân dân, chống đối lại chế độ chuyên chính vô sản của ta. Tên Đính đã viết những lời giận dữ đả kích Đảng, chế độ; đó là kẻ thù, chúng ta không còn mơ hồ gì nữa.

Tôi đề nghị: Chính quyền xử trị đúng mức“

“Tên Đính, phải gọi là tên Đính, không anh gì cả.

Tên Đính không phải vì va chạm quyền lợi, không phải vì tức tối, mà do suy nghĩ kỹ, mang tính chất phản động chống lại chính sách, đường lối của Đảng ta. Mục đích của hắn là nhằm cái gì đây cho hắn thôi.

Những suy nghĩ của tên Đính đã đi trái với con người của tôi.

Hắn đả đảo chiến tranh, đả đảo chiến tranh nào? Hắn đả đảo chiến tranh chống xâm lược chứ gì nữa. Như vậy là tên Đính bảo ta phải đi đầu hàng sao?

Tên Đính là một tên phản động. Không biết có phải hắn do một tổ chức của địch nào đó đưa vào tổ chức của ta để phá hoại? Chúng ta không thể dung thứ hắn được.

Chúng ta hết sức đau đớn, vì tên Đính đã phỉ nhổ lãnh tụ của chúng ta.“

“Tên Đính là một tên, một tên phản động nói xấu lãnh tụ của chúng ta. Hắn không phải là một người sai lầm, ngu dại, hắn là một tên phản động. Hắn có một tổ chức của hắn. Hắn bị địch nhồi sọ. Hắn chui rúc vào tổ chức của ta để cung cấp tài liệu cho địch.“

“Tên Đính đã tham gia cách mạng, là cán bộ tuyên huấn, nhưng hắn lại có chân trong tổ chức Cần lao nhân vị. Hắn phản động rõ ràng. Đúng hắn là một tên phản động chửi bới Đảng và lãnh tụ. Chúng ta phải thù tên Đính. Chính đầu óc phản động của tên Đính đã tạo cho tên Đính những cái nhìn xấu về miền Bắc. Hắn đã cố tình làm một tên phản động, cố kết với địch.“

“Tên Đính, phải gọi hắn như thế mới đúng. Tên Đính có một tổ chức phản động. Đúng, hắn là một tên phản động có tổ chức. Tôi yêu cầu trừng trị tên Đính đúng mức.“

“Tên Đính xuất thân từ gia đình nghèo, đáng ra hắn phải căm thù đế quốc. Chưa căm thù đế quốc hắn đã làm tay sai cho địch. Hắn chửi Đảng, chửi nhân dân, chửi lãnh tụ. Một tên phản động. Hắn không còn học vấn, học vấn của hắn vất xuống hố xí. Học vấn cái gì, hắn là một tên phản động.“

“Tên Đính là một kẻ thù của chúng ta. Hắn là một tên phản động, hắn là kẻ thù của nhân loại. Tôi đề nghị: phải làm cho hắn có thái độ thức tỉnh, hối cải, có như thế, hắn sẽ sẵn sàng được hưởng lượng khoan hồng của chúng ta. Còn nếu hắn ngoan cố, chúng ta sẽ có biện pháp đối với hắn.“

“Tên Đính, một tên tay sai phản động. Tên Đính đã đả kích lãnh tụ. Hắn là một tên ngoan cố đắc lực của địch. Chúng ta phải có hình phạt xứng đáng đối với hắn, nếu tên Đính còn ngoan cố.

Hắn đã không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Nguy hiểm hơn nữa hắn đã viết thư vào Nam cho bạn bè của hắn xuyên tạc, nói láo về miền Bắc. Thật rất nguy hiểm.“ [5]

“Đó là cách luồn gió để bẻ măng của một tên phản động. Tôi nói lên đây tôi rất đau lòng. Đính là một tay phản động chui vào hàng ngũ của ta để phá hoại. Tôi rất hổ thẹn về con người quê hương của chúng ta như thế.“ [6]

“Nó đã đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta căm thù nó, nhưng vẫn đủ bình tĩnh, chúng ta vẫn đủ bình tĩnh. Do bản chất giai cấp vô sản của chúng ta, chúng ta vẫn còn dùng lời lẽ nói với nó. Chúng ta sẵn sàng khoan hồng cho nó. Nhưng nếu nó ngoan cố thì chúng ta sẽ có biện pháp xử trị.“

“Anh ta có nói đến giá trị làm người. Giá trị đó là cái gì? Động cơ tham gia cách mạng của anh ta là không đúng. Anh ta là tiểu tư sản, là cơ hội. Giá trị làm người của anh Đính là chống Đảng, anh hùng của anh là anh hùng kiểu Mỹ, anh hùng của cao bồi.

Người ta bị lầm về anh. Anh đọc chủ nghĩa Mác để xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Anh nói đến tự do, anh đòi tự do. Anh có đầy đủ mọi tự do của một con người sống ở đất nước này, anh còn đòi hỏi đến tự do gì nữa? Đúng là tên Đính lập luận hai mặt. Cần lao mà tên Đính nói ở đây là Cần lao nhân vị. Tất cả lời lẽ của tên Đính đều mang hơi hám của bọn Nhân văn – Giai phẩm và của đài Gươm thiêng ái quốc. Anh học đại học văn khoa của địch, anh ở trong vùng địch nên bị nhồi trong óc nhiều tư tưởng phản động. Chứng tỏ cũng đủ kết án anh rồi. Nhưng tùy anh, anh muốn đi theo con đường nào thì đi.“ [7]

“Lời lẽ tên Đính là hoàn toàn đả kích Đảng, đả kích Trung ương, Đảng viên. Cho nên tên Đính là một tên trắng trợn phản cách mạng. Phải có biện pháp trừng trị đích đáng. Tên Đính phản cách mạng hoàn toàn.’’

“Tôi chưa từng nghe ai dám xúc phạm đến lãnh tụ. Tên Đính rõ ràng là phản động. Tên Đính, một tên ngu ngốc. Nhưng chúng ta phải tỏ ra có độ lượng, đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại. Bản thân tên Đính phải thấy sai lầm của mình.’’

“Trần Vàng Sao! Có lạ gì với cái tên của anh đâu. Ở trong Nam anh đã từng làm những bài thơ tình đăng trong các báo ngụy như Hiện đại, Bách khoa, Mai… [8] Anh nên đổi tên để khỏi phải nhục. Hay là địch đã đưa anh vào hàng ngũ của ta? Anh bất bình với tổ chức, với Đảng. Thế kẻ thù của anh là gì? Kẻ thù của anh không phải là địch thì là ta, là cách mạng, là Đảng. Anh muốn đi theo con đường nào, con đường của bọn Nhân văn-Giai phẩm hay bọn bồi bút ở Sài Gòn? [9] Anh Đính, anh đừng tưởng anh giỏi, anh còn kém nhiều và phải học nhiều nữa. Anh phải làm như Trịnh Đình Thảo, Dương Quỳnh Hoa, Tôn Thất Dương Kỵ…’’ [10]

“Sự căm giận của tôi cũng giống như của toàn thể các đồng chí ở đây, nhất là các đồng chí ở Trị Thiên. Nguyễn Đính đã đối lập với chúng ta, đã quay mũi súng về phía chúng ta. Những bài viết của Nguyễn Đính khác với những lời Đảng đã dạy. Đó là những quan điểm chống cộng đã cũ. Nguyễn Đính có một ý thức khác với ý thức của chúng ta, có một lập trường khác với lập trường của chúng ta. Anh phải nhìn rõ kẻ thù hơn. Kẻ thù của Nguyễn Đính là chủ nghĩa Cộng sản, là Trung ương Đảng. Chúng ta chẳng bao giờ nhổ nước miếng vào bãi phân. Chúng ta cần phân tích, bộc bạch cho nó rõ. Tư tưởng phản động của Nguyễn Đính đã rõ rồi.’’

“Anh Đính chống Đảng. Thế thì anh Đính theo cách mạng để làm gì? Đúng là tri thức không đáng bằng một cục phân.’’

“Văn hóa có tác hại rất lớn. Địch đã tiêm nhiễm văn hóa của chúng vào đầu óc anh Đính. Anh Đính chưa hiểu về chuyên chính vô sản. Đảng ta rất nhân đạo, trấn áp anh thì không khó, nhưng ta có chính sách.’’

Đến đây, một ông trong chủ tịch đoàn đứng lên hướng dẫn, gợi ý, phát động mọi người góp ý:

“Tóm tắt về anh Đính như thế này: Anh Đính tự cho anh là con người, còn chúng ta là những đinh ốc, con vật; anh là người có tri thức, còn chúng ta là những người ngu ngốc. Như thế anh Đính phải nghĩ đến một cuộc cách mạng nào khác đây? Anh nói xấu lãnh tụ, không có lập trường về chiến tranh. Anh cho chế độ miền Bắc là bất công. Toàn bộ nhận thức, quan điểm của anh Đính đều có giấy trắng mực đen. Thực chất bên trong của anh ta là một tên phản động, chống đối Đảng, chống đối cách mạng. Anh ta đối lập với chúng ta.

Giữa anh Đính và chúng ta có một mâu thuẫn đối kháng. Lẽ ra anh Đỉnh không được ngồi ở đây nữa. Nhưng vì lòng nhân đạo của ta nên anh Đỉnh còn ngồi đây. Chúng ta muốn giáo dục, cải tạo anh Đính’’.

“Rồi đây tên Đính nó sẽ có những lời đường mật xin tha, xin khoan hồng. Nhưng ta phải mở cho nó một con đường tốt. Và chúng ta phải có một biện pháp cho tốt, đó là biện pháp chuyên chính vô sản.’’

“Thằng Đính phải gọi như thế mới được. Tất cả những người theo cách mạng ở đây không phải là cuồng tín đâu, mà bởi ruộng đồng, quê hương, vì cha mẹ chết. Nó khinh mẹ nó, vì mẹ nó đẻ nó ra đâu để cho nó phản động như thế này. Nó không đáng là cục cứt đáng cho ta nhổ nước miếng. Anh em bức xúc quá không nói được.’’

“Nói với thằng Đính, chứ không anh gì cả, thằng Đính hãy nghe đây. Tôi đề nghị: xét lập trường của nó mà có biện pháp xử trị.’’

“Tôi nói với tư cách là K trưởng, một Đảng viên, một trí thức. Chúng ta phục vụ cách mạng vì mục đích thiêng liêng, chứ không phục vụ những đối tượng có đầu óc phản động.’’

Tôi đề nghị chúng ta phải đề cao cảnh giác hơn nữa. Anh Đính có những hiện tượng chống Đảng, chống lãnh tụ, chống chế độ. Lôi Phong tự nguyện làm một đinh ốc của Đảng, một đinh ốc ý thức được nhiệm vụ của mình. Tôi hãnh diện khi nói tôi là một người Việt Nam, tôi là một Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam.’’ [11]

“Tôi phát biểu hai điểm về anh Đính.

Một là, anh Đính đả đảo chiến tranh, anh muốn hòa bình. Anh nói miền Bắc bất công. Nhưng, ai là kẻ gây chiến tranh? Đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa? Rõ ràng anh Đính phản động. Anh Đính đi tìm tự do của Mỹ Ngụy phải không?

Hai là, theo sơ yếu lý lịch mà anh Đính đã khai với tổ chức, tôi nghi ngờ về lý lịch của anh ta. Nghèo mà đi học được là do địch đỡ đầu, địch không đỡ đầu làm sao mà đi học được. Anh Đính khai chưa đúng lý lịch của mình.’’

“Tôi xin phân tích thêm về ý thức và tư tưởng của anh Đính. Anh Đính đã nhiễm độc những hư thối của chế độ Mỹ ngụy. Anh có quan điểm rất mơ hồ về chiến tranh. Anh không phân biệt chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Anh kêu gào tự do cho những người nghèo là thế nào? Anh tiêm nhiễm học thuyết Hê-ghen (Hegel) mà Hê-ghen là kẻ đã từng kêu gọi ném bom nguyên tử hủy diệt nhân loại (!). Cái trường đại học văn khoa ở Huế đã đầu độc anh ta. Bọn Cờ đỏ [12] cũng có cùng một luận điệu như thế. Anh Đính cũng có cùng một luận điệu như thế. Anh Đính chỉ là một con giòi mang biết bao nhiêu bệnh tật trong người.’’ [13]

“Năm nay tôi 57 tuổi, hơn 40 năm đi theo con đường của Đảng, bây giờ tên này phản động chống Đảng, tôi đau xót vô cùng. Chưa ai dám xúc phạm đến Bác Hồ, nay tên Đính lại dám xúc phạm đến Bác Hồ. Đính là người Việt Nam, người Việt Nam mà lại dám xúc phạm đến Bác Hồ. Tôi muốn đánh gục tư tưởng sai lầm của tên Đính.’’

“Tôi đứng trên quan điểm của người Đảng viên để nói. Anh Đính là kẻ thù của tôi, vì anh xúc phạm đến lãnh tụ. Hoạt động cách mạng của anh Đính chẳng có chi cả, không đáng là chi cả. Anh Đính đã bộc lộ những tư tưởng phản động. Văn hóa miền Nam của bọn đế quốc đã xâm nhập vào anh Đính. Tôi đề nghị: phải có biện pháp cương quyết và cứng rắn với anh Đính.’’

“Đồ bịp bợm. Tên này là một tên bịp bợm. Nó hô nhân dân muôn năm, nhưng lại chống Đảng. Luận điệu của tên Đính giống như luận điệu của Ngô Đình Diệm.’’

“Luận điệu của tên Đính là luận điệu của kẻ thù. Chế độ ta là chế độ của chuyên chính, của giai cấp vô sản. Chỗ đứng của tên Đính không phải là chỗ đứng của một người nghèo mà là đường đi của kẻ thù. Tư tưởng sai lầm của tên Đính rất nghiêm trọng. Tên Đính đừng dựa vào các lời nói của các Đảng viên và cán bộ ở đây mà kích động.’’

“Tay Đính, phản động. Học thức là vô ích. Tôi bóp bụng, tôi chịu đựng, mặc dù tôi hết sức căm thù nó.’’

“Đính là một kẻ do địch cấy vào để phá hoại hàng ngũ ta. Đó là một tên phản động tày trời. Bản chất của tên Đính là phản dân hại nước. Mang danh nghĩa cán bộ B [14] là nhơ bẩn. Cho tên Đính ăn hóa ra vô ích. Tôi tức giận. Tôi phát biểu để cởi mở hết sự tức giận của tôi. Phải có biện pháp trừng trị nó.’’

“Chúng ta rất tiếc là sự việc này xảy ra trong đơn vị của chúng ta, trong Đảng bộ của chúng ta. Anh Đính nói xấu Đảng, nói xấu lãnh tụ, Đảng viên. Thế học thức của anh Đính là ở chỗ nào? Những người bình thường như chúng ta nhận ra được con đường đi giáp mặt với kẻ thù, chịu hy sinh thân mạng của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc là trí thức. Đó mới là trí thức.’’

“Tên Đính phải mở mắt ra mà xem. Cách nhìn về chiến tranh của tên Đính rất phản bội. Chúng ta lên án tư tưởng, hành động này của tên Đính, phải cải tạo nó theo đường lối và chính sách của ta.’’

Đến đây, ông Lai đứng dậy:

“Thưa các đồng chí. Tôi biết các đồng chí còn rất nhiều ý kiến muốn phát biểu. Nhưng bây giờ ta phải để cho anh Đính thú nhận tội của mình đã.’’

Ông ta quay sang tôi:

“Anh Đính, đứng dậy. Anh hãy đọc bản kiểm điểm thú tội của anh đi! Đứng đó đọc!’’

Tôi mệt mỏi, chán nản và muốn mửa, mấy lần tôi dợn dợn rồi cố nín. Cái dạ dày của tôi rúc rúc. Tôi muốn đưa tay ôm bụng, nhưng tôi đứng dậy. Có một vài cặp mắt ở đàng sau cuối hội trường nhìn tôi rồi quay đi. Có những cặp mắt đỏ máu mở trừng như trân không muốn nhắm ghim vào tôi. Có người nhổ nước miếng, khịt mũi; có người hừ; có người cất điếu thuốc khỏi miệng, phun nước miếng thẳng vào tôi; có người xô ghế đứng dậy nghiến răng; có người mặt lạnh tanh, chỉ hơi dim mắt ngó tôi; có người liếc nghiêng, đầu hất ngược lên mấy cái. “Đồ mất dạy!”, “đồ chó đẻ!”, “bắn được rồi!”, “bắn mẹ hắn đi!”, “để chi cái đồ đó!” “dơ dớp!”, “dơ dáy!”….

Tôi muốn ói ra thật rồi. Tôi nói [15] :

“Từ ngày ra Bắc đến nay, tôi đã phạm những sai lầm về ý thức, tư tưởng sau đây:

Bằng những ghi chép và trong những bài thơ, tôi đã có những suy nghĩ phản động có hại đến thanh danh của Đảng:

- Tôi đã chê bai và mạt sát các Đảng viên,

- Tôi đã xúc phạm đến uy tín của lãnh tụ,

- Tôi đã nói xấu các đồng chí ở trung ương;

- Tôi đã nói xấu chế độ;

- Tôi đã có thái độ bất kính đối với một số tri thức ở miền Bắc [16] ;

- Những điều tôi đọc ở sách vở chưa thấu đáo nhưng đã vội kết luận;

- Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay (trong một số bài thơ của tôi) tôi đã mất bình tĩnh vì quá lâu mà chưa kết thúc. Tôi nghĩ rằng ta sẽ thắng, nhưng nhân dân sẽ phải chết rất nhiều.

Những sai lầm của tôi hết sức nghiêm trọng. Đó là những tội phạm của tôi đối với Đảng, đối với nhân dân, đối với cách mạng. Tập thể đã căm thù tôi, đã xúc động khi tôi xúc phạm đến uy tín của lãnh tụ. Tập thể đã coi tôi như một kẻ thù và yêu cầu xét xử tôi theo pháp luật. Tự bản thân tôi, tôi thấy tội của tôi theo pháp luật là bỏ tù. Tôi mong ở sự độ lượng và khoan hồng của tập thể đối với tôi.

Xét quá khứ tham gia cách mạng của mình, nay mình lại phạm những sai lầm hết sức nghiêm trọng có tính chất phản động như thế, tự tôi tôi đã xóa bỏ cái quá khứ trước của mình đi.

Tôi đã thấy rõ những sai lầm của mình. Tôi tin tưởng ở tập thể.

Tôi phải sống hòa mình trong lao động, trong tập thể để tự cải tạo mình, để mình trở thành người tốt đối với xã hội.

Tôi mong sự giúp đỡ của trên, của tập thể. Nhưng chính bản thân tôi, tôi phải tự rèn luyện học tập những anh em đồng chí xung quanh.”

Tôi đọc xong, ông Lai ngoắt tay ra dấu:

“Ngồi xuống.’’

Mấy cái đầu đội mũ cát trên hàng ghế chủ tịch đoàn cụng vào nhau vừa hút thuốc, vừa uống nước thì thầm. Ông bí thư Đảng ủy bệnh nhân vừa đứng nhỏ to với một ông trong đoàn khảo tra trong góc hội trường vừa vẩy tay một ông khác đến. Tôi dựa người vào thành ghế nhìn thẳng ra cửa ra vào. Mấy ông bí thư chi bộ bệnh nhân đi chen giữa các hàng ghế rỉ tai. Ông tên Lai đứng dậy nói, đại ý:

“Thưa các đồng chí, anh Đính đã đọc bản kiểm điểm của anh. Chúng tôi biết các đồng chí chúng ta chưa nói hết những ấm ức, phẫn nộ của mình, các đồng chí còn rất nhiều điều muốn phát biểu ra ở đây.

Bây giờ chúng tôi đề nghị các đồng chí hãy đi sâu góp ý kiến về những biện pháp nhằm giúp anh Đính cải tạo mình.’’

Ông Lai vừa nói xong, ở cuối hội trường đã có người vừa dong tay vừa đứng dậy:

“Đối với tên Đính, tôi đề nghị chúng ta cần phải tiếp tục đấu tranh nữa.

Đấu tranh để tên Đính thấy rõ những tội phạm của nó, và buộc nó phải thú nhận tất cả những tội phạm của nó.’’

“Bây giờ ta xử tên Đính như thế nào? Xét những sai lầm của tên Đính, tôi thấy có mấy nguyên nhân thế này: là đầu óc tiểu tư sản, cái tự do mà tên Đính nói là một thứ tự do cá nhân. Tất cả đều do bị ảnh hưởng văn hóa của địch.’’

“Tên Đính phải có một hệ thống, một dây móc nối ở trong Nam, trong vùng địch.’’

“Xử lý tên Đính thế nào à? Cho đi cải tạo!’’

“Tội của nó đáng lẽ là bắn.’’

“Cho đi cải tạo.’’

“Tên Đính nhận thức và đánh giá những điều mà nó trình bày ra là chưa đúng. Tên Đính tiếp thu chưa đúng đắn và thiếu thành khẩn những ý kiến của chúng ta. Tội của nó rất to lớn đối với toàn dân tộc ta. Phải giáo dục nó, nhưng cũng phải có biện pháp cải tạo nó.’’

“Tên Đính chưa thành thật nói hết. Hai là, hắn là một tên phản động, phản động có ý thức chính trị, điều này chúng ta cần chú ý vì rất quan trọng.’’

“Tội trạng rất to, đem bắn ở đây cũng được rồi.’’

“Cho nó đi cải tạo dài hay ngắn hạn là tùy mức độ tội trạng sau này ta xét xử.’’

Ông tên Lai nói:

“Tôi biết các đồng chí còn có nhiều ý kiến và nhiều đồng chí cũng chưa nói hết những ấm ức, tức giận của mình. Qua sự góp ý, phân tích hết sức sâu sắc và đúng đắn của các đồng chí, đến đây tôi tạm sơ kết, tạm gọi là sơ kết một bước về anh Đính. Thế này các đồng chí ạ. Những tư tưởng phản động trong con người của anh Đính đã có từ năm 1968 [17] . Tôi nhắc lại từ năm 1968 là lúc mà anh ta còn ở trong rừng. Từ năm 1968 đến nay, 1972, là 4 năm; hai năm trong rừng, hai năm ở miền Bắc. Tôi nhắc lại như thế để các đồng chí thấy rõ tác hại của những tư tưởng và hành động phản cách mạng của anh Đính là nguy hiểm tới mức độ nào. Chúng ta phải khẳng định trách nhiệm của Đảng là Đảng ta kiên quyết loại bỏ tất cả những tư tưởng khác và sai trái đối với tư tưởng, lập trường và quan điểm của Đảng. Hơn nữa, ở đây lại là những tư tưởng phản động, chống phá Đảng, chống phá cách mạng thì phải đánh chứ không phải chỉ loại trừ nữa. Nhưng chúng ta không đánh con người anh Đính, chúng ta đánh là đánh cái tư tưởng, cái hành động phản động của anh ta. Vì chúng ta tin tưởng rằng con người của anh Đính có thể cải tạo được với điều kiện là bản thân anh Đính phải thú nhận một cách thành khẩn và đúng đắn hết những sai phạm của mình trước Đảng. Chủ trương của Đảng ta luôn luôn kết hợp trừng trị đi đôi với giáo dục, mà giáo dục là chủ yếu.

Thưa các đồng chí, vấn đề của anh Đính vẫn còn tiếp tục. Ngang đây chưa hết. Tôi xin nhắc lại, ngang đây chưa phải là hết. Chúng tôi chưa kết luận về anh Đính như thế nào cả. Chúng tôi đưa ra mấy khẳng định sau: một là, trước đây hai hôm anh Đính là cán bộ tuyên huấn, một người bạn ở K65, nhưng hôm nay bước đầu, tôi nói rõ là chỉ mới bước đầu ta kết luận, con người của Nguyễn Đính có những sai lầm nghiêm trọng chống đối Đảng, chống đối chính phủ. Tư tưởng của Nguyễn Đính là tư tưởng phản động chống đối Đảng ta. Chính phủ ta. Mức độ phản động đến đâu, như thế nào ta chưa kết luận. Nguyễn Đính chưa thú nhận hết những tội lỗi của mình, mặc dầu Đính đã có thú nhận. Do đó chúng ta cần phải tiếp tục đấu tranh với Nguyễn Đính, đấu tranh đến cùng, đấu tranh không khoan nhượng. Hai là, tập thể chúng ta đã có nhiều ý kiến về việc xử trị anh Đính, cụ thể là: một là bắn, hai là tiến hành giáo dục, cải tạo một cách nghiêm túc. Thưa các đồng chí, chúng ta chưa quyết định được. Nguyễn Đính phải thấy sự khoan hồng của Đảng, nếu Nguyễn Đính là một tên phản động có nợ máu thì phải xử lý bằng biện pháp mạnh. Muốn như thế nào đó, cái đó là tùy Nguyễn Đính. Và anh ta phải tự thấy cái đó. Chính sách của Đảng ta là luôn luôn độ lượng với những người biết hối cải. Nguyễn Đính vẫn chưa thú hết tội. Và chúng ta phải nói cho anh ta biết rằng ngang đây chưa phải là hết đâu.’’

Mọi người đã ra khỏi phòng. Căn phòng sáng hẳn lên. Tôi vẫn ngồi một chỗ và hút thuốc. Mấy ông trong đoàn khảo tra ngồi trên bàn chủ tịch đã đứng dậy. Họ đang nói chuyện tiếng to và cười vui vẻ.

Trước mặt tôi ba dãy ghế băng, cái thồi ra, cái thụt vào xô lệch nhau. Một vài cái ghế dựa nghiêng ngửa giữa các lối đi. Ngọn đèn ở ngoài hành lang vừa tắt. Ông thợ điện đang đi thu dây và các bóng bắt thêm trong hội trường. Tối nay điện không bị cắt. Bây giờ chắc khoảng hơn mười một giờ. Các cửa gương đã đóng. Trong phòng đã hết hơi người, nhưng vẫn còn cái mùi gì nằng nặng lẫn với khói thuốc lá lảng vảng. Ông Thanh bước lại gần tôi nói:

“Anh về được rồi đó.’’

Tôi đứng dậy bước đi. Ông thợ điện người Nam Bộ khoảng trên 50 tuổi mở một cánh cửa hông nhìn tôi nói:

“Anh đi ngả này, anh Đính.’’

Lạnh, có gió thổi hút vào. Những dãy nhà, những dãy lầu, cửa sổ khép mở, đèn thắp sáng như những toa tàu. Dãy nhà tôi ở phía bên kia đường.

Các giường ngủ trong phòng đã mắc mùng. Bốn người còn tụm lại uống nước trà, nói chuyện. Họ nhìn tôi rồi lặng thinh. Ông già Giác vẫn ngồi xếp bàn trên giường. Ông đưa hai tay vuốt tóc rồi để yên sau đầu. Thường ngày ông già Giác hay uống nước trà với tôi. Hễ có trà ngon thế nào ông cũng gọi tôi uống. Ông hay ướp bông bưởi với trà loại ba hoặc trà bồm để uống. Cho đến sau này, ông Giác, ông Tuyến và anh Khôi là những người ở cùng phòng với tôi vẫn đối xử tử tế với tôi như thường. Tôi bước vào phòng trong, ông già Tuyến người Quảng Ngãi nằm trong góc đã đi ngủ. Hình như ông bỏ về trước, không dự hết cuộc đấu tối tôi. Tôi nhai mấy viên Ka-vét rồi để nguyên áo quần đang mặc đi nằm. Tôi mệt và chán. Tôi không muốn suy nghĩ và tính toán gì nữa. Tôi cũng chẳng cần tìm cách đối phó như thế nào về sau này nữa, và cũng chẳng cần tìm hiểu xem người ta sẽ xử sự với tôi ra sao nữa. Chán và mệt lắm rồi.

Cô y tá trực xách cái đèn bao đi vào. Lần này cô không đong đèn nhìn vào giường tôi như mọi khi nữa. Ông già Tuyến trở mình ho, rồi lẹt xẹt mở cửa đi ra ngoài.

Tôi nhớ mẹ tôi, tôi nhớ nhà, tôi khóc.
Năm đó tôi ba mươi tuổi.

© 2005 talawas

[1]số Đảng viên ở K65 có trên 80 phần trăm.

[2]bài này in trong tờ Cờ Giải Phóng – Cơ quan của mặt trận dân tộc Giải phóng thành phố Huế, tháng 5-1969, sau đó một tờ báo nào đó ở Hà Nội in lại.

[3]Mấy câu này tôi viết về mẹ tôi, sau tôi làm đề từ cho bài này.

[4]Khi đăng lại tờ báo ở Hà Nội sửa lại câu “còn tôi tên lính nhỏ” thành “còn tôi người lính nhỏ”.

[5]Tôi thường hay viết những bức thư trong các tập vở hoặc giấy rời cho những người mà tôi tự đặt ra những cái tên A, B…. nào đó, trình bày những suy nghĩ của tôi về miền Bắc, cảnh vật, sinh hoạt của dân chúng ở những nơi tôi đến, sinh hoạt hàng ngày của tôi, có khi nhắc lại những kỷ niệm của tôi với bạn bè, ở trong rừng, ở Huế, lúc còn đi học… Tất nhiên những bức thư này không bao giờ tôi gửi. Viết thư như một cách ghi chép, viết nhật ký của tôi, nhưng dưới hình thức đối thoại, nói chuyện. Cách này lâu nay tôi vẫn hay làm. Ông Lai đã dẫn ra một số đoạn trong những bức thư này và cho đó là thư tôi gửi cho bạn bè ở trong Nam.

[6]Quê hương đây là Thừa Thiên. Người phát biểu là một người quê ở Thừa Thiên.

[7]Người phát biểu này tôi nhớ không rõ tên, là Hoàng Hương Việt hay Hoàng Việt Hương. Anh ta người Quảng Nam, sau này có đi học một lớp báo chí ở trường Tuyên huấn Hà Nội thì phải. Khi anh ta nói có tiếng xì xào “anh gì mà anh, tên Đính thôi”.

[8]chắc anh ta nhầm tôi với một người nào đó.

[9]anh ta có kể một số tên mà anh ta liệt vào bọn bồi bút ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại nên không nhớ.

[10]Đây là phát biểu của một người tên Hoàng Hương Việt hay Việt Hương gì đó

[11]ông này tên Điềm, bác sĩ trưởng K, người ở Nghệ An hay Thanh Hóa tôi không rõ.

[12]Có thể chỉ Đài Phát thanh Cờ đỏ, công cụ chiến tranh tâm lý loại „xám“ của Mỹ hoặc Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. BT

[13]Phát biểu của cái anh tên Việt.

[14]tức cán bộ ở chiến trường miền Nam.

[15]Tôi viết lại dưới đây bản kiểm điểm ghi tóm tắt những ý chính, thường gọi là gạch đầu dòng của tôi đã được hai ba ông trong đoàn khảo tra tôi hướng dẫn từng điểm, từng chữ, sửa lui sửa tới mấy lần.

[16]Tôi được hướng dẫn phải thêm vào: vì tự cao tự đại.

[17]có lẽ ông ta căn cứ vào bài thơ “Những con đường đã đi qua và những con đường sẽ đi tới” của tôi làm năm 1968. 








Trần Vàng Sao
Tôi bị bắt
(Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù) 10 kì


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10































Bài thơ của một người yêu nước mình

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày 
ra đứng ngoài đường 
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông 
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua 
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà 
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé 
Tôi yêu đất nước này như thế 
Mỗi buổi mai 
Bầy chim sẻ ngoài sân 
Gió mát và trong 
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng 
Tôi vẫn sống 
vẫn ăn 
vẫn thở 
như mọi người 

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ 
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu 
Một vết bùn khô trên mặt đá 
Không có ai chia tay 
Cũng nhớ một tiếng còi tàu. 
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm 
Năm nay ngoài năm mươi tuổi 
Chồng chết đã mười mấy năm 
Thuở tôi mới đọc được i tờ 
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần 
Nước sông gạo chợ 
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ 
Sống qua ngày nên phải nghiến răng 
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười 
Những buổi trưa buổi tối 
Ngồi một mình hay khóc 
Vẫn thở dài mà không nói ra 
Thương con không cha 
Hẩm hiu côi cút 
Tôi yêu đất nước này xót xa 
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng 
Thương tôi nên ở góa nuôi tôi 
Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới 
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc, 
như cho một đứa hủi 
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới 
Thắp ba cây hương 
Với mấy bông hải đường 
Mẹ tôi khóc thút thít 
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người 
Con nó còn nhỏ dại 
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi 
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng 
Tôi yêu đất nước này cay đắng 
Những năm dài thắp đuốc đi đêm 
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên 
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng 
Áo mồ hôi những buổi chợ về 
Đời cúi thấp 
Giành từng lon gạo mốc, 
Từng cọng rau hột muối 
Vui sao khi con bữa đói bữa no 
Mẹ thương con nên cách trở sông đò 
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc 
Đêm nào mẹ cũng khóc 
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm 
Mong con khôn lớn cất mặt với đời 
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi 
Tôi yêu mẹ tôi áo rách 
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

Tôi bước đi 
Mưa mỗi lúc mỗi to, 
Sao hôm nay lòng thấy chật 
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc 
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua 
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước 
Chim đậu trên cành chim không hót 
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may 
Tôi yêu đất nước này những buổi mai 
Không ai cười không tiếng hát trẻ con 
Đất đá cỏ cây ơi 
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha 
Ăn quán nằm cầu 
Hai hàng nước mắt chảy ra 
Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi 
Tôi yêu đất nước này áo rách 
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió 
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở 
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài 
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai 
Tôi yêu đất nước này như thế 
Như yêu cây cỏ ở trong vườn 
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương 
Nuôi tôi thành người hôm nay 
Yêu một giọng hát hay 
Có bài mái đẩy thơm hoa dại 
Có sáu câu vọng cổ chứa chan 
Có ba ông táo thờ trong bếp 
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen 
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em 
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò 
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ 
Trong bước chân chim sẻ 
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi 
Hay nói chuyện huyên thuyên 
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ 
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá 
Cứ hay cười mà không biết có người buồn. 
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn 
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại 
Ngó cây cam cây vải 
Thương mẹ già như chuối ba hương 
Em chưa buồn 
Vì chưa rách áo 
Tôi yêu đất nước này rau cháo 
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu 
Áo đứt nút qua cầu gió bay 
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan 
Tôi yêu đất nước này lầm than 
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển 
Ăn rau rìu rau éo rau trai 
Nuôi lớn người từ ngày mở đất 
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật 
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ 
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Tôi đi hết một ngày 
Gặp toàn người lạ 
Chưa ai biết chưa ai quen 
Không biết tuổi không biết tên 
Cùng sống chung trên đất 
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam 
Cùng có chung tên gọi Việt Nam 
Mang vết thương chảy máu ngoài tim 
Cùng nhức nhối với người chết oan ức 
Đấm ngực giận hờn tức tối 
Cùng anh em cất cao tiếng nói 
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do 
Bữa ăn nào cũng phải được no 
Mùa lạnh phải có áo ấm 
Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm 
Được thờ cúng những người mình tôn kính 
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

Tôi trở về căn nhà nhỏ 
Đèn thắp ngọn lù mù 
Gió thổi trong lá cây xào xạc 
Vườn đêm thơm mát 
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi 
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc 
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử 
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người 
Ve sắp kêu mùa hạ 
Nên không còn mấy thu 
Đất nước này còn chua xót 
Nên trông ngày thống nhất 
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam 
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc 
Lòng vui hôm nay không thấy chật 
Tôi yêu đất nước này chân thật 
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi 
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi 
Và yêu tôi đã biết làm người 
Cứ trông đất nước mình thống nhất.

(19-12-1967)









Người đàn ông 43 tuổi nói về mình


1. 



tôi tuổi tỵ

năm nay bốn mươi ba tuổi
thường không có một đồng trong túi
buổi sáng buổi chiều
thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
trong nhà ngoài sân với hai đứa con
cây cà cây ớt
con chó con mèo
cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
cũng không có chi phiền
vấn một điếu thuốc hút
hai ba lần tắt đỏ
rồi nửa chừng rách giấy
bạn bè gặp nhau
cho uống một ly cà phê
một lần
qua hai lần phải tránh
không phải ai cũng nghĩ như mình
nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
đưa tay cầm lấy
miệng nói không được

2.

tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai 
tôi không muốn nhớ gì hết

3.

tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề
những người đi bán về nói chuyện to
hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối
qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa
tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
trong gió có mùi rơm cháy
tôi không biết làm gì hết
tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
trời còn lâu mới tối
tôi đi gánh một đôi nước uống

4.

tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai 
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ 
lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất

5.

lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng
nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng

6.

nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm gì hết
mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết
để đất đá lá cây đầy nhà
tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
bạn bè có đứa giàu đứa nghèo
đứa ngụy đứa cách mạng
đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết
đứa không có được một cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm
trở về xách một cái bị lát
mặt cắt không có một hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn
chờ khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
có đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàn không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam
ăn chợ ngủ đường
mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc
hết chuyện nói
hai đứa con đi chơi về cười nói
đứa nhỏ bắt tôi đánh trống
cho nó làm ông địa múa thiên cẩu

7.

cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
tôi đánh
múa đi các con
này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
múa đi các con 
cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
tôi vỗ tay hoan hô và không biết mình có nhớ ra được cái mặt ông địa không

Tháng chín 1984













Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa

(1990)



Rồi tôi chỉ còn lại có một mình em
Như thằng điên tự vẽ mặt mình hề ngồi núp mưa trong góc phố
Buổi trưa không có người đi qua đi lại tôi ngó cho đỡ buồn
Tôi sẽ đi hết cơn mưa này tối tăm mặt mũi
Em sẽ là người cuối cùng tôi còn nhớ lại

Da tóc và lông lá
Những giọt nước mưa chảy trong kẽ ngón chân

Tôi rùng mình
Trời mưa lâu quá
Em không đi qua ngã này cho tôi thấy em ướt hết
Tôi không còn tham lam gì nữa
Tôi muốn ngồi ở đây rồi ngủ quên

Một người
Hai người
Mưa như to thêm
Một ngàn một vạn muôn vạn ức triệu người chết

Hôm qua
Hôm nay
Mai mốt nữa

Timishoara Budapest Praha Berlin Bucarest Sofia Siberia Thiên An Môn

Súng máy súng trường dao găm lựu đạn
Xe tăng thiết giáp
Thuốc độc thuốc mê
Chết đứt đầu chết mất xác
Chết bị moi óc
Chết bị móc mắt
Chết như kiến chết
Chết ruồi bu kiến đậu
Chết không kịp ngáp
Chết buổi sáng
Chết buổi trưa
Chết buổi chiều
Chết lúc nửa đêm
Chết oan ức
Chết tức tối
Chết nghiến răng
Chết trợn mắt
Chết trong tù
Chết ngoài đồng
Chết giữa đường phố
Chết trong hầm mỏ
Chết một mình
Chết tập thể
Chết không có giấy đắp mặt
Chết không ai chôn
Chết hết đường chết
Chết trần truồng như cha mẹ sinh ra

Lúc đó

Kẻ giết người không đeo mặt nạ
Kẻ giết người không làm dấu thánh
Kẻ giết người không lần tràng hạt nam mô
Kẻ giết người đứng đọc diễn văn
Kẻ giết người hô nhân dân muôn năm
Kẻ giết người cười
Kẻ giết người sửa lại cổ áo



Súng máy xả vào đám đông
Nhân dân tôi muôn năm

Lúc đó

Không còn tiếng người la hét nữa

Trời mưa to thêm
Một người đàn ông bên kia đường chạy qua đứng chen chân vào chỗ tôi ngồi
Người đàn ông nhìn tôi
Tôi không nghe tiếng người đàn ông nói
Tôi đứng dậy hút thuốc bước ra ngoài
Người đàn ông ngồi vào chỗ tôi
Tấm băng khẩu hiệu giăng giữa hai cột điện nước trôi còn hai chữ muôn năm không có N (chữ Nờ)
Không biết ở nhà mấy đứa con có lấy áo quần phơi ngoài dây thép vào không.


Ngày 17 tháng 1 năm 1990





Bản thánh ca của một tên hề mất trí là thi sĩ hay là Sự tích tôi làm hề



tôi tên hề mất trí
nói lời công an theo dõi
và làm thơ bị bắt

tôi ký tên tôi
nguyễn đính

lúc đó đám rước đi qua hết dãy phố
đám đông ở hai bên đường thắp đuốc chắp tay tụng niệm

những con nộm được treo lên trên cột điện bằng dải vải đen viết lời ca ngợi người chết

còn người nhắc tuồng hoa bó hương lên trời khấn vái trước chân dung những cái mặt nạ dựng ở ngã ba đường

và bây giờ tên hề bắt đầu đọc lời phúng điếu mình

1.

tôi làm kẻ hát ca
nửa đêm lang thang ngoài nghĩa địa đọc to danh sách những người chết được vẽ chân dung dán ngoài đường
tôi đốt những tờ giấy đắp mặt

rồi đắp mặt nạ vào nhảy múa

này tên tuổi của tôi
bầy đười ươi đã rút tay khỏi hai ống lồ ô
những người sống đứng sắp hàng trước bài vị của mình
rồi ném những chùm bông nứt nẻ xuống huyệt
đám người mù bắt đầu đánh trống
này tên tuổi của tôi
kẻ mất trí làm thi sĩ
ca ngợi những anh hùng không có thật trong truyện cổ tích
mai sau chết mù mắt
lúc đó mặt trời trong suốt

thi sĩ đọc to
người anh hùng Tiên Dung không biết có Chử Đồng Tử
hột cát trên tóc nàng
và giọt nước mắt trên ngực nàng
trong miệng nàng cắn một lá cỏ
nàng đi trên bãi sông trước gió
chàng gối tay nằm trên đầu ngọn mưng ăn nắm trái non nhả hột xuống đất
mặt trời mọc trên thân thể người anh hùng Tiên Dung
thơm tho tình ái
khi chết đi Chử Đồng Tử còn giữ miếng gương soi mặt của nàng lúc tắm

thi sĩ bỗng dừng lại bên một cái giếng và ném xuống một đồng bạc
chàng cúi đầu trước thiếu nữ trên giấy bổi trên khung gỗ tụng niệm
nàng đội mũ có bông
miệng đỏ và lông mày dài
thi sĩ buồn bã đi ra bờ sông

này tên tuổi của tôi
kẻ mất trí đọc thơ cho những xác người
mầy sẽ gây thù hận

2.

trong trí nhớ chàng
lời trăn trối thê thảm của người nhắc tuồng
tới đoạn kết nhân vật chính là kẻ ác trước khi chết mở trừng mắt ngó khán giả và đánh trống
chàng nói với đứa bé kéo màn lại và ngả nón ra xin tiền
đám đông bỏ ra về la ó phản đối
thằng hề ở trần chạy ra dang hai tay lên trời rồi quỳ xuống chắp tay lạy
đám đông dừng lại
thằng hề nói
này mọi người không có kẻ tiên tri nào nói dại
mọi người phải chết và những kẻ làm thơ sẽ ca ngợi hết lời
đám đưa có thằng hề mù thổi kèn gỗ đi theo sau

về nhà thằng hề ôm con nhịn đói nhớ bài hát cổ
của người lính ba năm trấn thủ miệng ăn măng trúc măng mai bạn cùng con cá nước trong

đám đông chảy nước mắt
thằng hề vái lạy mọi người rồi ra về

3.

kẻ hát ca lang thang là tôi
đọc thơ giữa đám đông ca ngợi mình
thằng hề mất trí trúng số an ủi
nỗi vui mừng của nó và này tên tuổi của mầy
lúc đó họ sẽ căng nọc mầy và treo tóc mầy ngược lên cột nhà
cho mầy bớt thói làm hề không biết che miệng lúc cười
tôi đứng trước bàn thờ tổ tiên cúi đầu làm thinh
tượng ảnh là cảnh tiên và cây to và nhà cửa mát mẻ không có người

mọi người chưa chết hết
nên còn kẻ cho mầy hề
những anh hùng không để lại lý lịch rõ ràng
cái chết của con sâu róm bị mặt trời thiêu cháy trên đá
lúc đó tôi mang mặt nạ thật
và cầu trời
những thằng hề không mất trí

thác lời kẻ khác
bấy giờ kẻ điên đi ngang qua chỉ ngón tay vào mặt thằng hề
kẻ ngu đần là mầy hãy vất cái mặt nạ vào đống rác và khóc thật như khóc cha mầy chết

kẻ mất trí là tôi
đọc to thơ giữa những xác người là anh hùng để gây hận thù
kẻ mất trí đọc

này một hai ba bốn năm sáu
một trăm hai trăm ba trăm bốn trăm sáu ngàn vạn ức triệu xác chết anh hùng viết tên trên bia đá
kẻ đến sau đứng nghiêm đặt vòng hoa
sau đọc lại lí lịch những người chết
và loại dần những anh hùng
còn lại một hai năm sáu người được ghi tên tuổi
rõ ràng

vào lúc này
kẻ mất trí đi qua
cười ha ha
hãy thổi kèn chia tay
con bọ chét
tôi vén áo lên cho mọi người thấy những vết đạn
này một trăm một vạn ghi tên chung

không có tên ghi trên bia và không có xác thật chôn dưới đất
này kẻ mất trí làm thơ có gạo và thịt
những người không có cơm ăn không la hét
không đi biểu tình được
mọi người có quyền mặc áo rách đi ngoài đường không xấu

mọi người đều được là người
như kẻ ở trên được treo ảnh và đề tên ở dưới

tôi tên hề mất trí
nói lời công an theo dõi
và làm thơ bị bắt

4.

em chạy qua những xác chết thối tha ruồi bọ
cành cây khô trên tay
giữa đồng không
người đàn ông chạy đuổi theo là một cái xác không có mặt
em dừng lại
người đàn ông cúi đầu xuống
đêm trong mặt trăng xanh

ngày xưa
có anh Trương Chi
này tôi lúc đó làm kẻ hát ca lang thang
úp mặt vào bức tường

tôi yêu em xấu xí vô cùng
những sợi tóc em trong giấc ngủ của tôi buổi chiều
gió thổi lá tre ngoài đường
và dấu chân con trẻ trên cỏ

chàng ơi
tôi khóc thảm thiết như thế
người Trương Chi lá gan khô héo

chàng ơi
sao chàng dại dột vô cùng

những người đàn ông đó đã chết
không còn mặt mũi chân tay
đám đàn bà và trẻ con vùng chạy ra giữa cánh đồng gào thét
trên hàng rào kẽm gai những trái lựu đạn gỉ
đám người hoảng hốt ôm mặt lại
sau đó súng và bom nổ

không còn nghe ai kể thêm gì

5.

thôi rồi
này tên tuổi của tôi
mầy bị đọc to lí lịch giữa đám đông
hắn là một thằng hề giả đò để chưởi rủa mọi người
tôi cứ đứng đầu đường

cha mẹ ơi
cơm không có mà ăn nữa là
tôi bị nguyền rủa kẻ độc
xúi giục mọi người đừng thờ cúng kẻ khác hơn mình
rồi đọc thơ cười la giữa chỗ đông người
một hai người cho tôi ăn cơm
tôi cúi đầu cảm ơn
và nhảy múa làm trò coi chơi
những người đứng chung quanh chảy nước mắt

về tới nhà
tôi treo hình tôi tự vẽ tôi trên giấy báo bán ki lô lên tường
rồi sụp lạy
này tên tuổi của tôi
chết đi cho khuất con mắt

những người không có cơm ăn ngồi đông giữa chợ
không nói không khóc
dãy chân dung người chết dựng đứng trước mặt
mọi người cúi đầu
tôi cầm lá cờ đứng sau hết
tôi la thật to
hãy cứ ăn thịt những đứa ăn cơm không đổ một hột nào cho chúng ta lượm
đám đông khóc ré lên rồi ôm mặt nhảy múa như điên
tôi thắp ba cây hương đặt trên cái nồi úp giữa đất rồi đọc bài cầu an
cầu chúc mọi người chết đi có chén cơm cúng trên đầu và tờ giấy tinh đắp mặt
cầu những đứa con nít sa chân sẩy tay xuống hồ ao sông hoái có chén cơm quả trứng và ba cây hương cúng ở ngã ba đường

cầu cho tôi chết sớm đi để đừng làm hề

6.

tôi yêu em rất buồn
không có gì để nói tình yêu tôi
biển động nặng và gió có mùi cá
nửa đêm tôi đi hoài trên bãi cát

7.

biển
và sóng
và cát
và những cây xương rồng
gió thổi mặt trời trong những cây xương rồng chảy máu
tôi giận dữ la to
đưa hai tay ra trước mặt
máu
chiến tranh làm những thằng hề không có cơm ăn
và những người đàn bà khô héo
máu

tôi chảy hết mồ hôi
máu
tôi chạy giữa cánh đồng trống
trực thăng nổ máy trên trời
những cái áo giáp đầu súng AR15 và những cái mặt mỹ đỏ ối
máu

8.

tôi đứng trong góc đình chợ hát bài cầu những người chết đừng sống lại
mặt mũi buồn xo
lúc đó tôi không đeo mặt nạ và vẽ râu
tôi kính cẩn chúc mọi người quanh đây đừng sợ hãi tôi
tôi là một tên hề thật thà
đi hát dạo và làm trò sống qua ngày
không ai có mà cho

này mọi người
hãy xem tôi đi đầu xuống đất và hát
những thằng hề mất trí như tôi
có chi tên tuổi
chết đi không ai phúng điếu
chỉ còn cái mặt nạ cho con chơi
ngày mở cửa mả không có một tờ vàng bạc
mọi người đừng cười tôi tội nghiệp
trong giấc ngủ tôi thấy những miếng thịt to

rồi vùng dậy chạy ra đường la lớn
thịt thịt
người đi đường không ai ngó tôi
tôi hoa tay múa chân làm người đánh trống thùng thùng
này này hãy đến đây coi tôi làm hề

như tôi đây
a ha
như tôi
mọi người xúm lại
tôi ngậm miệng ôm mặt khóc
những điều tôi nói thật không ai tin

9.

gánh xiếc dán tờ quảng cáo đầu phố
đêm trên những bức tường lủng lỗ đạn xử bắn
(tôi nói với em rằng cái mặt nạ thằng hề vẽ trên giấy dó không giống như tôi đây)
đêm những con chuột rúc trong đống rác
tôi ngồi xuống bên đường hút thuốc
người lính đeo súng đến hỏi giấy tờ
tôi chỉ cái mặt thằng hề trên tờ quảng cáo và nói tôi ở nơi khác đến
đêm hôi hám những cống rãnh nước không chảy được
người lính nói mấy tiếng thổi xúp lê bỏ đi
đêm lộn mật

tôi đứng dậy ngửa mặt lên trời cười to
a ha những thằng hề không vẽ mặt chực ăn cơm cúng người chết dọc đường
đêm máu
và những cuộc tình duyên buồn bã trong góc phố
tôi nằm mơ bay lên trời

trời mưa to hết ba ngày không tạnh
gánh xiếc xếp đồ đạc vào góc chợ
hai đứa con người làm trò đâm dao vào cuống họng không chết ngồi trên cái trống
tôi không biết làm gì hết tôi ngó hai đứa bé thúc gót chân vào thành trống hát bài vui múa vui hát
tôi không nói gì thêm nữa
chân hai đứa bé cả bùn

10.

kẻ mất trí còn lại hòn bi chai ở trong túi quần và những trận giặc giả không có người chết thật
như trí nhớ tôi con bò ghẻ và chiếc xe bánh gỗ lên dốc
tuổi thơ đi qua hột lúa mọc cây trong nhà
cái chết thảm thương của người phu xe già đắp chiếc chiếu rách ngoài chợ
trí nhớ của tôi còn lại những cuộc khảo tra tù tội
và những bà tiên trong cổ tích
tôi đọc những chữ in trên trái bom hơi độc không nổ
biết chết bình yên vô sự sau này
tôi giấu hết trí nhớ mình trong hòn bi chai
và đem khoe với lũ trẻ hàng xóm
em sẽ không thương tiếc gì
như buổi đó em đi qua cầu
gió bay bụi nước vào con mắt
tôi đọc thơ tôi thật to giữa đám đông
tôi cảm ơn mọi người không nghe tôi dại dột
như mẹ tôi đẻ ra tôi làm hề nói như điên
hết một đời không được gì hết

chiến tranh bỏ sót tôi lại
tôi làm hề
ngay hai buổi ra ngoài chợ ngó những miệng thịt không ăn được
rồi làm thơ
sau này chết đi để lại bộ xương cứu Chúa
ngày 25 tháng 10 năm 1981












TAU CHƯỞI

tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròng
bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được cãi
phải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ tiên
đồ không biết đốt chùa thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây

29 tháng 6 năm 1997











Gọi tìm xác đồng đội

có người cười
có người khóc
có người la hét
một người cúi đầu
một người quay lưng
một người quỳ gục xuống
một người làm thinh ngửa mặt ngó trời
một người vung tay
một người sửa giọng đọc diễn văn
một người nghiến răng
rồi im lặng
rồi giết
giết
giết
không có người buồn
không có người vui
chiến tranh bắt đầu
trước hết là máu
rồi là thịt người
máu từ trên trời
máu từ dưới đất
và máu trên bàn thờ
xác thì chôn sấp dập ngửa bờ sông, bụi chuối
không đầu không chân
không xương không thịt
không có chi cả
không ai nhớ
không ai biết

tôi là một thằng câm mất trí
lang thang đầu đường xó chợ
với viên đạn còn ở trong đầu
tôi nhảy múa hát ca làm trò
cho mọi người coi chơi
theo sau tôi là đám trẻ con rách rưới
vỗ tay hoan hô tôi muôn năm

• tôi tên là Nguyễn Văn Duy
không mẹ không cha
sinh vào năm cả làng không có gạo ăn
quê ở Thọ Xuân Thanh Hóa
tám tuổi nhảy tàu ra Hà Nội sống
lang thang ăn đường ngủ chợ
nay bến xe mai bến tàu
năm 1965 tình nguyện đi bộ đội
tôi chết
lúc đánh vào thị xã Cao Lãnh năm 1967
xác phơi trên hàng rào kẽm gai
ba ngày giữa mưa giữa nắng

• pháo sáng nổ trên đầu
tôi bò qua hàng rào kẽm gai
mìn nổ và tiếng người la hét
sau đó tôi không biết gì hết
đơn vị của tôi: B4 K15 chiến trường Tây Nguyên

• tôi tên là Lê Thị Lúa
83 tuổi
con tôi là Nguyễn Văn Chót
đi nghĩa vụ năm 1963
vào Nam tháng 6 năm 1965
chết ở đường Trần Hưng Đạo Huế
tháng 2 năm 1968
không biết có còn xác không

• Lê Văn Một quê Thái Bình
mẹ đẻ rơi ngoài ruộng lúc đi mót lúa bị đuổi bắt
vào lính năm 1964
bị thương tại A-bia
chết trên đường tải thương ra Bắc
sau tết Mậu Thân 1968
lúc chết nằm trên võng một mình giữa rừng
xác đã có mùi
được phong liệt sĩ
bằng treo ở Văn phòng Ủy ban nhân dân xã

• một mụ già điêu tàn ở chợ Mía Sơn Tây
thường giữa trưa đứng bóng
mụ ngồi bệt xuống đất
rồi khóc rồi cười rồi la hét
hai con mắt như đứng tròng
con Lê Thị Cam ơi
chết đất nào về đây với bầm
bầm khô gan héo ruột
mụ già cào hai tay bới đất
có con dưới này không con
a ha này mấy người mấy người ơi
mấy người có ai có con chết như tôi không
liệt sĩ không có xác
mụ già úp một tờ giấy nhớp mồ hôi lên mặt
liệt sĩ của con đây
Lê Thị Cam ơi
a ha
có ai biết con tôi chôn ở đâu không
con ơi là con ơi

• con tôi là Phan Văn Tốt
cấp bực trung sĩ
vào Nam năm 1968
chết đâu ở Quảng Trị
có ai biết xác con tôi chôn ở đâu không
chỉ cho với
tôi chỉ có một thằng con
tôi không còn ai hết
tôi là Phan Văn Sáu
72 tuổi
ăn mày ở thị xã Phú Thọ

• binh nhì Trần Tư
không rõ sinh năm nào
chết tại Gò Nổi Quảng Nam cuối năm 1972
có ai bà con thân thích
đến Ủy ban nhân dân xã Phước Diễn Châu Nghệ An
nhận bằng liệt sĩ

• bây giờ thì tôi nhớ ra rồi
tôi làm bò
chiếc xe cải tiến chở đầy lúa xuống dốc gãy càng
tôi văng chúi sấp trên bờ ruộng
ngày hôm sau lên huyện đội tập trung
đi nghĩa vụ cái lưng còn nhức
hai con mắt còn tím dắt
mẹ tôi khóc
hai đứa em tôi chụi mắt cắn chéo áo
hai cái bụng đen to tròn lồi lỗ rún
thình lên xọp xuống
xe chạy bụi mù
người dưới xe la hét trong nước mắt
người trên xe giậm chân đầu ngoái lại đằng sau
xe qua hết đám ruộng phần trăm
tiếng hát tắt
cây cối che hết
tôi cúi người che gió đốt hút một khúc thuốc tàn
trước mặt như mưa
sau lưng bụi mù
đường xóc
nhưng thằng ngồi trong xe như tượng mắt ngó xa
gói cơm bới nóng trong bọc quần áo
tôi không còn thấy gì nữa

tôi nhớ rồi
lúc đó trên đường đi B vào đến Quảng Bình
tôi mới biết mẹ tôi đã chết cách đây hơn một tháng
B52 đánh như điên
tôi hộc máu
không biết hai đứa em tôi bây giờ ở đâu
lạy trời cho chúng lên Yên Bái ở với ngoại
giữ trâu và hốt phân cho hợp tác xã cũng kiếm được cơm
không no nhưng qua bữa
chắc chúng bỏ học

tôi nhớ rồi
tôi bị thương hai lần
lần trước ở đầu
lần sau ở bụng
nặng hơn
phải nằm trạm xá hai tháng
tôi đã qua Thừa Thiên Quảng Ngãi Bình Định Tây Ninh Ban Mê Thuột
rừng Lào đằm không dốc và trống
nhiều khi đi suốt một ngày không thấy suối
gió khô
miệng đắng
mấy đứa thằng Sanh thằng Phụng thằng Chiến chắc đi bộ đội và đã vào Nam rồi
không biết mẹ tôi chôn ở đâu
mười mấy năm nay làng tôi có ai chết
cũng chôn nhờ nghĩa địa làng bên

cuối cùng tôi cũng chết
đồi 347
cuối tháng sáu bảy mươi hai buôn Krong Gia Lai

tôi nhớ rồi
pháo sáng
F105
B57
trực thăng
bom
pháo
rốc két
mìn
ba ngày ba đêm vây chốt
thằng Sáu chết dưới chân đồi
đứt nửa người
thế là hết đời vào đảng rồi con ơi
thôi cứ nằm yên đó
để bọn tau đánh đã
rồi mầy sẽ được mồ yên mả đẹp
đất đá trên trời cứ rớt xuống lào rào
thằng Thuấn gãy chân vừa lết vừa bắn vừa cười
nó chưởi
K43 hóc đạn
địch không tiếp viện được
một thằng U ti ti một thằng cán gáo
chổng gọng bên kia đồi
khói đen hôi mùi thịt người
đứa nào cười
bắn đi
trời sắp sáng
im lặng
suối chảy ở xa như người nói
có tiếng động
cành cây gãy
khoan
dừng bắn
anh em đó
hết nước rồi
khát quá
Tứ ơi
nước nước đây
trời đất sáng quá
núi rừng đẹp quá
mẹ cha chúng nó
đánh nhau mãi thế này
dưới chân đồi
sương mờ
coi chừng
pháo sáng tắt
tôi cằn lên
thằng Phụ đâu
chết rồi
tức quá đi
trước mặt tôi mấy cành cây khô động đậy
nằm sát xuống
bắn bên trái
đừng cười nữa
bây giờ mà có một bát bún rêu
a ha
bắn đi
tôi cằn lên
khi không lại gió
bắn đi
bún rêu đó con ơi
cố lên
cố lên mầy
trước sau mầy cũng được kết nạp
đừng lo con ơi
trời sắp sáng rồi
cánh tay phải tôi tê
máu như mồ hôi tắm ướt cả người
trực thăng quần
F105 rú
bốn quả B41 nổ
lửa sáng bùng trong công sự
mặt trời chưa mọc
lửa lửa khói
đẹp quá
màu xanh của mây màu cháy của lửa
đạn nổ
Miên ơi Thắng ơi Thụ ơi
chúng mày ở đâu
tiếng la tiếng hét tiếng chưởi tiếng Việt tiếng Mỹ

mù tối
thằng Chánh cười to
bắn nữa đi
hai ba bảy tám chín mười những đống rằn ri xô nhau trượt xuống đồi
bắn
bắn nữa
F105 chúi đầu
thêm bốn chiếc trực thăng và hai OV10
tôi không còn nghe gì nữa
nổ dưới đồi nổ giữa đồi nổ trên đồi
nổ trên trời nổ trong đất nổ trong công sự địch
nổ tan hoang hết
bụng tôi rát
thằng Thắng đưa tay lên trời
mặt nó đầy máu
có đứa nào gọi tên tôi
không còn trời đất gì nữa
tôi đưa hai tay bám lấy đất
tôi thấy tôi như bay lên trời
tôi không nhớ gì hết
thân thể nhẹ quá
tôi bay lên
lựng đựng
bay lên nữa
mù mắt
đất mù
trời mù
tôi mù
thịt và máu
và đất đá và lửa khói và sắt thép
nhão nát bét
không địch không ta
thịt người
máu người
máu chảy ào
ngọn đồi lún xuống
rồi phọt bắn lên những cột lửa máu
Miên ơi Thắng ơi Thụ ơi
con đang bay
lờ đờ
mẹ chôn ở đâu
mẹ ơi

• cha tôi tập kết
năm 1965 mẹ tôi bị bắt lần thứ ba và bị đày ra Phú Quốc biệt giam
ba đứa em tôi trốn vào Bình Định ở nhờ nhà bà dì
tôi bỏ học vào du kích
hai năm sau được kết nạp đảng rồi đi chủ lực tỉnh
tôi chết trong trận đánh xáp lá cà với bọn Rồng xanh Nam Triều Tiên ở Kỳ Lam
không biết anh em chôn tôi ở đâu
trên cái bi đông Mỹ của tôi có khắc mấy chữ: Lê Văn Hiếu Tam Kỳ Q.N. 1967

• con tôi là Lê Thị Gái
quê Đồng Di
cơ sở cách mạng ở Đà Nẵng
bị bắt tại Huế tháng 6 năm 1969
chết bị treo ngược hai chân lên mái nhà
không quần không áo trong lao Thừa Phủ
nghe đâu chôn chung một hố với ba bốn người ở vùng núi Nam sông Hương
năm đó con tôi hai mươi hai tuổi
có hai mươi mấy năm nay tôi cứ hay nằm thấy con tôi ở lổ ở trần
đứng ngoài hè kêu lạnh lắm mạ ơi
tôi tên là Trần Thị Tho
hiện bán nước chè ở ga Lăng Cô

• nửa đêm chợt tỉnh tình cờ
tôi xin làm kẻ ngu ngơ đời này
còn yêu em tôi đắng cay

cuộc biểu tình bị đàn áp
tự do dân chủ muôn năm
đả đảo độc tài

bây giờ tôi là kẻ mất hết trí nhớ
là bông gai rỉ máu từng cánh
mọc trên đá một mình
em còn xa tôi xa tôi
tôi còn đi mãi đi mãi bơ vơ
trang giấy buồn
tôi xin đọc lời di chúc phúng điếu tôi
bên giòng sông này
cùng cây cỏ
cùng anh em tôi
muôn năm muôn năm tự do dân chủ
tôi sẽ chết một mình không ai biết
không giấy đắp mặt không chôn cất

tôi bị trói cặp cánh
hộc máu mũi trào máu miệng
hắn
ba bốn thằng
cất mặt nạ
và đeo tay sắt
hắn
chỉ tay vào mặt tôi
– mi phải khai hết
mi làm giặc và xúi người khác làm giặc
mi biểu tình chống đối
mi làm thơ nổi loạn
mi có tên thật không
mi không muốn ăn cơm
tau sẽ cho mi ăn cứt
mi là thi sĩ
tau sẽ lấy thơ mi đắp mặt cho mi

những buổi sớm mai
những buổi sớm mai thơm mùi lúa
tôi đi qua cánh đồng đất mới cuốc lật
hai bên đường bông cỏ vừa nở
chim hót trong gió mát
và sương mờ trong cây bên kia làng
em làm gì mà ngơ ngác như không thấy tôi
những buổi sớm mai
những buổi sớm mai
như thơ tôi
sớm mai
mặt trời mọc
như thơ tôi ở với trời đất ở với anh em
bạn bè tôi người sống người chết
thơ tôi là đời tôi là tôi đây

ngày mai có hòa bình
tôi nói với anh em bè bạn
có anh em như có tôi hôm nay
ngày mai có hòa bình
thôi em đừng ngơ ngác
hai cánh tay tôi bơ vơ suốt đời tôi rồi
tả tơi và đau lắm em ơi
ngày mai có hòa bình
có thấy nhớ nhau mà về không
mùa thu qua rồi
trời ở Huế tháng mười một tháng chạp nắng còn to

nhớ làm chi tôi
nhớ làm chi thơ tôi
cuộc đời này rồi cũng tan nát
phiêu bồng bao nhiêu năm con làm kẻ chống đối
mẹ ơi
mẹ còn ngồi dưới lá cửa chống buổi chiều
nắng dọi nửa hàng tre trước mặt nhà
con mèo nằm im trên cái ghế đẩu
tiếng la hét ăn thua của đám trẻ con chia phe đánh giặc giả đầu xóm
tháng mấy rồi mẹ ơi
a ha hãy lấy thơ tôi đắp mặt cho tôi
đừng tìm tôi
đừng tìm tôi
đừng tìm tôi nữa

có cái gì đánh vào đầu tôi
gỗ sắt gậy rựa búa
tôi quay mặt lại
tôi không thấy gì hết
cái gì đó đánh vào đầu tôi mắt tôi miệng tôi mũi tôi
dây thắt ở bụng
tôi mửa không được
tôi nghe có tiếng cười
tôi đứng dậy
máu hộc
mũi miệng mặt bụng chân tay máu hộc
tôi ngửa mặt lên
gió đâu thổi vào mát quá
máu
máu
máu tôi
máu từ trên trời chảy xuống
máu
cả máu
đầy máu
máu có bọt
trủi lên
dưới đất là máu
tôi ngập trong máu
trôi đi trôi đi
máu chảy vào cổ họng tôi
tôi chìm nghỉm

gần hết tháng chạp sắp tết rồi
có đông anh em bè bạn người sống người chết đang ở quanh đây
con không lạnh đâu mẹ ơi

• mi có cái tên như con gái – Ái Phương
mà mi ăn nói và cười như con gái
tên thật của mi là Khoa
quê mi ở Quảng Nam
đường dây lộ đang học đệ tứ trường Nguyễn Tri Phương mi trốn lên núi
chưa bao giờ mi có được một đôi dép cao su có đủ quai và một tấm ny lông mưa không rách
gần năm năm phấn đấu mi vẫn chưa thành người tiến bộ
trận Mậu Thân 1968 mi về Huế
ra khỏi cửa rừng mi cười rất sướng
– coi như thấy cầu Trường Tiền rồi
những ngày cuối trận có người đã gặp mi vác súng nhảy cà tưng dẫn tù binh trên đường Hàng Bè
mi có cười chúm chím vẫy tay chào
sau đó
không ai biết gì hết
không ai nói gì hết
không ai nhớ gì hết
không ai kể gì hết
không ai nghe gì hết
không ai nhắc gì hết
như mi không bao giờ có ở đời này

• Thiết ơi
rứa là mi chết
AK bắn ngang lưng
mi như con cá cằn trên cạn
nước không chảy
hai giờ sáng giữa trận đánh mi nhảy thành lội qua hào tính về đơn vị
anh em tưởng địch bắn trúng mi
mi cố hết sức níu từng đám rong cọng sen vợi vào bờ
mi nằm vắt nửa trên khô nửa dưới nước
mi trợn mắt thở cá rồi
không ai biết mi là ai hết
ngoài khẩu K54 cột nơi sợi dây dù đeo ở thắt lưng
và cái áo lót cổ vuông vải chéo màu đen
loáng thoáng có ai đó nói đã thấy mi nằm chết
trên cáng quá chợ Thông một đoạn
và đã vuốt mắt cho mi
đánh nhau lộn xộn
người chết dọc bờ dọc bụi thiếu chi
trước sau rồi cũng phải chôn sấp dập ngửa mi đâu đó cho rồi
hơi đâu Thiết ơi
lúc đó là vào giữa tháng giêng năm Mậu thân 1968

ghi thêm
– tháng chín tháng mười 1954 ở trường Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An về mi bị nghi là địch cài
– tháng 6 năm 1965 bị bắt mi vượt ngục lên núi có tiếng xì xào xa gần là lý lịch mi không rõ ràng
– hai lần bị thương
lần sau lủng ruột mi vẫn còn sống
rồi mi được vào đảng ở Kim Phụng
– sau 1975 cả nhà mi bị quy: có liên hệ với tư sản
em gái mi xin đi làm việc để nối bước mi bị làm khó dễ
ba mi mất trí cứ nói thằng Thiết còn sống ở Đà Nẵng
mi được cấp bằng liệt sĩ
cả nhà mi cười
– nhà này cũng có người tên Thiết
lộn rồi

• Lộ Phúc Bản Trí
bảy đứa chỉ biết tên có bốn
người Bắc
không rõ quê quán
chết tại hố bom này tháng hai 1975
không thấy máu không thấy thịt
chỉ có đất
bảy đứa được phong liệt sĩ

• Phú ơi
thằng Phác về rồi
nó có cho mẹ tiền
nó nói con không chết
mười năm mẹ chờ con không thấy
con chết chôn ở đâu
có còn đủ chân tay không con
buổi chiều ở Vỹ Dạ không có một tiếng chim
mẹ bắc ghế ra ngoài sân chờ con đi đánh căn về kêu đói bụng đòi ăn cơm
mùi rơm thơm quá
thôi mẹ vào nhà thắp hương cho ba cầu cho con chết toàn thây

• thầy nói
con chôn ở đây
con nằm sấp tay phải cầm súng
một thước đất
hai thước đất
đất chỉ là đất
sâu nữa là nước
nước
có có con đâu
mẹ chỉ mong nơi con nằm đất mát
mẹ nóng ruột quá
Thành ơi

• một cô gái tuổi khoảng 18 – 19
nằm chết trần truồng vắt chên bờ ruộng
hai núm vú bị cắt chưa đứt hẳn
phía dưới bụng là máu me
và một lưỡi lê cắm đứng
lúc kéo xác đi chôn hai trái lựu đạn cài sẵn dưới lưng nổ xé tan cô gái
chỉ có cái kẹp tóc hình con bướm màu lục còn nguyên
và một mảnh giấy giắt nơi kẹp có ghi:
tối tới nhà cho mạ nhờ một chút
đừng giận chuyện nớ nữa

không ai biết cô gái ở đâu tên gì con ai
chắc là du kích Công Lương

gần chạng vạng
có hai ông bà già lụm cụm mót lượm
từng khúc xương miếng thịt của cô gái
gói trong tấm ny lông cùng với cái kẹp
và miếng giấy chôn xuống cái lỗ bên đường
đặt viên đá làm dấu hai ông bà van vái:
có chi còn thiếu của con
con bỏ qua cho ôn mụ già này
kẻo tội

• cách đây hai mươi mấy năm
hai mươi bảy người – đàn ông đàn bà ông già trẻ con – chôn ở đây
tất cả đều bị trói cặp cánh và bị đánh giập đầu
ai có bà con thân thích – miền Nam miền Bắc Hà Nội Huế Sài Gòn
xin đến nhận hài cốt

• con tôi là Trần Hiếu
bia ở nghĩa trang liệt sĩ Quảng Trị ghi:
quê Thái Thượng Thái Bình
chết anh dũng tại Khe Sanh năm 1968
lúc dời mộ
chỉ thấy một khúc xương không biết là xương con gì và đất cát vụn với một tờ giấy đỏ có ngôi sao vàng ở giữa còn mới

xác con tôi đâu
xác con tôi đâu

(chưa hết)
Vỹ Dạ ngày 5 tháng 8 năm 1996

Nguồn: Gọi tìm xác đồng đội, NXB Hội nhà văn, 6-2012









Hai mươi mốt muôn năm


1.
21 = 20 + 1
hai mươi thêm một
là hai mươi mốt
1975
1996
muôn năm chiến tranh
muôn năm hòa bình
muôn năm tôi
muôn năm anh
muôn năm Hồ Chí Minh
muôn năm màu đỏ
muôn năm máu
muôn năm xác chết
muôn năm hài cốt
muôn năm nước lạnh
muôn năm
muôn năm năm

thêm một
là thêm một năm
dài thêm ba trăm sáu mươi lăm ngày
dài con dài cái
dài ngày thiếu gạo
dài ngày há miệng không có cái chi nuốt
nói thiệt
tới đây hôm nay lúc này đây
tôi đuối
tôi luỵ
tôi quỵ
tôi lết
trệt

ngoài trời
cây không có gió
lá im
không tiếng chim

2.
hai mươi mốt năm
chiến tranh đã qua
người đàn bà già chết khô
chiến tranh đã qua
những nấm mồ
không xương cốt
quạ

chiến tranh đã qua
thằng hề rửa sạch mặt
đi bán kẹo kéo nuôi con
chiến tranh đã qua
thằng điên thắp ba cây hương soi gương van vái mình

chiến tranh đã qua
người lính bỏ ngũ
lên núi đào sắt gỉ
lựu đạn nổ
cụt một cánh tay

chiến tranh đã qua
tôi ngồi một chỗ
đêm giật mình nghe bom nổ trong đầu
thấy thằng bạn chết
xác phơi ba ngày giữa nắng

chiến tranh đã qua
anh em bạn bè quen biết
mỗi đứa một chỗ
đứa ngó cây
đứa ngó nhà
đứa ngó đá
đứa ngó đất
đứa ngó trời
đứa cười
đứa khóc
đứa lăn lóc
đứa lặn hụp
đứa tỉnh
đứa say
cầu cho đứa nào sau này chết cũng êm thắm

3.
còn tôi
tôi ngó hai bàn tay tôi
rồi ngó trước mặt
ngó sau lưng
đêm mưa không hết
có tiếng chẻ củi ở nhà bên cạnh



Vỹ Dạ ngày 26 tháng 4 năm 1996
Nguồn: Gọi tìm xác đồng đội, NXB Hội nhà văn, 6-2012



















Trần Vàng Sao vẽ



Trần Vàng Sao là một nhà thơ nổi tiếng, nhưng rất lạ lùng. Anh làm thơ rất hay, nhưng khi Hội Nhà văn mời vô hội thì cứ xin thôi. Mỗi lần tôi xuống chơi thấy anh bao giờ cũng ngồi uống trà hoặc nhâm nhi với bạn bè tí quốc lủi ở ngay cửa ra vào. Hứng lên thì đi lật từng cuốn vở học trò đầy bụi, đọc những câu thơ mới viết. Ở anh tôi không thấy chút gì phong thái của một nhà thơ nổi tiếng cả. Anh chỉ ở nhà mình ở Thôn Vỹ, ít đi chơi đâu. Thơ anh viết như tự sự rỉ rả tâm sự hay độc thoại, mà bài nào cũng gây chấn động giới yêu thơ như Bài thơ của một người yêu nước mình (1967) được chọn là một trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ XX, Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình (1984), Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa (1990), hay mới năm ngoái đây là bài thơ dài (cũng có thể gọi là trường ca) Gọi tìm xác đồng đội. Là người quản lý Quỹ Phùng Quán, tôi đã đề xuất tặng thưởng cho tập thơ Gọi tìm xác đồng đội nhân ngày thơ Việt Nam Nguyên Tiêu Quý Tỵ. Buổi trao giải thưởng tổ chức ngay tại nhà anh với rất nhiều bạn bè văn chương thân thiết của anh như Nguyễn Khoa Điềm, Đặng Nhật Minh, Tô Nhuận Vỹ, Nhất Lâm, Mai Văn Hoan... Vợ chồng anh vui lắm...

Đối với tôi, lạ lùng hơn là ngoài thơ, anh còn say mê vẽ tranh bằng bút chì, mực xạ, có khi cả bột màu. Tôi nhìn khắp nhà anh, không có giá vẽ nào. Tôi hỏi "thế anh vẽ ở đâu". Anh bảo vẽ dưới nền nhà. Ngồi xổm mà vẽ. Chum hum mà vẽ. Anh vẽ tranh vào sau các tờ lịch cũ. Tranh treo khắp nơi. Thơ thì anh ký bút danh Trần Vàng Sao, nhưng tranh thì anh ký tên thật: Nguyễn Đính. Nhìn ngày tháng ghi dưới tranh, tôi thấy năm 2013 này anh đã vẽ nhiều bức tranh. Tôi hỏi :"Anh thường vẽ về đề tài nào?".


Tranh Bồ Đề Đạt Ma bức lớn, bức nhỏ anh treo khắp nhà. Những bức tranh vẽ sư tổ Đạt Ma của anh sắc sảo không kém gì tranh trong sách Phật, hơn nữa dưới ngòi cọ Nguyễn Đính, sư tổ Đạt Ma có vẻ phong trần hơn, không đạo mạo như trong sách Phật mà tôi đã được xem. Tôi hỏi:"- Sao bác không là Phật tử, mà lại say mê vẽ nhiều Bồ Đề Đạt Ma đến vậy ?". Trần Vàng Sao nhìn tôi như nhìn một cậu học trò, cười :Anh cười: - Họa sĩ họa siếc chi mà đề tài. Mình thích chi vẽ nấy. Mình vẽ chơi mà. Có những bức mình chép, có những bức mình thêm thắt ít nhiều. Với bản thân mình, thích nhất vẫn là vẽ sư tổ Đạt Ma. Hay 10 bức tranh chăn trâu mình chép từ Thập mục ngưu đồ trong sách Thiền. Bồ Đề Đạt Ma và bài tới, thoạt tiên mình chép, dần dà mình bóc tách một số họa tiết rồi bố cục theo ý riêng, thành cái chất mình. Các năm âm lịch, mình vẽ con Giáp để treo chơi Tết cho vui. Mậu Tý thì con chuột. Kỷ Sửu con trâu. Canh Dần con cọp. Tân Mão con mèo, Quý Tỵ con rắn... Bìa và một số trang ruột sách Tuyển tập truyện cười của Hoàng Thiếu Phủ (NXB Trẻ, 1995) sử dụng tranh mình vẽ lại bộ bài tới đấy. Cũng có ích đấy chứ.

- Nếu có một ông Phật tốt nhất trên đời để cho mình theo, đó là Bồ Đề Đạt Ma. Bồ Đề Đạt Ma là Thiền sư vĩ đại nhất. Đối với Bồ Đề Đạt Ma, mọi người đều là chư Phật. Vẽ tổ sư Đạt ma để rèn đúc chữ TÂM, như là một sự "văn ôn võ luyện".


Anh Nguyễn Đính và chị Hay một thời sống vất vả lắm. Chị chạy chợ, khi thì bán cháo bánh canh, cơm hến, khi thì cùng chồng đi bán bánh mì, nước giải khát mỗi khi có trận bóng đá trong sân Tự Do. Trần Vàng Sao cũng đã có lúc lên núi tìm vàng. Vài ba tháng đói vàng mắt mà vàng chẳng thấy đâu. Bây giờ thì hai anh chị đã thong thả hơn. Hai con đã lớn, đã lập gia đình, có việc làm. Lương hưu anh qua bao nhiêu lần tăng, bây giờ được 1,6 triệu đồng. Hai vợ chồng xây được hai dãy nhà cho sinh viên thuê ở trong vườn nhà... Anh đã vào tuổi 74, nhưng vẫn say thơ, say vẽ.Tôi nhớ mình đã đọc ở đâu đó câu chuyện Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời bỏ triều đình, Ngài đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách, 9 năm nhìn vách đá yên lặng không nói một lời. Sự yên lặng ấy như là sự ngẫm ngợi cuộc đời đã không một ai có thể hiểu nổi con người của Bồ Đề Đạt Ma. Bồ Đề Đạt Ma lại nói: "Chư Phật không cứu chư Phật". Mọi điều mà vị Phật có thể làm là đánh thức bạn dậy. Điều đó chẳng mấy cứu giúp gì. Khi bạn đánh thức ai đó dậy, bạn đã làm việc phục vụ vĩ đại cho nhân loại, bởi Chư Phật không cứu chư Phật. Đó là sự bình đẳng cho mọi người. Tôi không hiểu mấy giáo pháp đạo Phật, nhưng tôi hiểu Bồ Đề Đạt Ma đã nhập tâm Trần Vàng Sao như thế nào. Anh có thể vẽ trầm không nhìn hàng chục bức giống nhau y hệt. Vẽ để chơi. Vẽ để mỗi ngày soi mình vào đó...

Nghệ thuật Trần Vàng Sao là nghệ thuật để chơi. Nghệ thuật để chơi mới khó, chứ loại nghệ thuật để dạy bảo ai đó thì quá dễ...

Ngô Minh 










Bồ Đề Đạt Ma.
Tranh mực xạ: Nguyễn Đính / Trần Vàng Sao











Tranh Đinh Cường









Chú rể Trần Vàng Sao bên cô dâu Nguyễn Thị Hay
trong ngày cưới vào tháng 1-1976








Trở về









MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.