Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Phan Thuý Hà

 









Phan Thúy Hà sinh năm 1979, 
Ở nhà nội trợ, đưa đón con đi học. Rảnh thì viết facebook, viết báo, viết truyện. Tốt nghiệp khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2002; từng là biên tập viên phòng Văn học, NXB Phụ nữ trong 10 năm. 








Tác phẩm đã in







1
Qua Khỏi Dốc Là Nhà








2
Tôi la Con Gái Của Cha Tôi









3
Gia Đình









4
Nhừng Trích Đoạn Của Các Anh










5
Đoạn Đời Niên Thiếu









6
Đừng Kể Tên Tôi








7
Những ngày tháng năm




KHÔNG THỂ TRÍCH DẪN
Nhà văn Tạ Duy Anh



Chưa khi nào tôi cảm thấy khó khăn đến vậy, khi đọc và định nói điều gì đó, về một cuốn sách. Cuốn sách đó có cái tên khá khô khan: "Những Ngày Tháng Năm". Và tác giả của nó là Phan Thúy Hà (Sơn Khê), một cây bút tôi đã quen tên từ lâu, chưa biết mặt, và đây là lần đầu đọc cô ấy.
Đáng sợ và nể phục.
Chính tôi cũng không chắc chắn mình đang nói cảm nhận về cuốn sách hay tác giả của nó. Có lẽ cả hai.
Về cuốn sách.
Lối viết trong "Những Ngày Tháng Năm" không mới, bởi ít nhất tôi đã thấy ở cây bút giải Nobel Svetlana đã được dịch sang tiếng Việt. Tác giả đóng vai người nghe, để nhân vật tự kể lại những chuyện xảy ra đối với mình và người thân, gắn với cuộc chiến thảm khốc. Họ là người dân bình thường, hầu hết đều khốn khổ ở làng Hạ Lội. Họ là bộ đội phía bên này, lính chiến phía bên kia. Họ là những phụ nữ mất chồng mất con, mất sạch tương lai, mất nhẵn tuổi xuân. Họ là thương nhân, sinh viên, thầy thuốc, sĩ quan, tù nhân, thuyền nhân, trí thức, người dân tộc, người ngoại quốc...
Mỗi người một cuộc đời không bình thường. Mỗi người bị nhào nặn để có một số phận, theo những cách khác nhau. Mỗi người một tâm thế khi kể lại. Nhưng họ có chung một thứ: Đó là nỗi khổ đau, bất hạnh tột cùng, đều do cuộc chiến gây ra.
Mỗi câu chuyện của họ không đơn giản là thứ có thể ghi chép lại bằng chữ nghĩa. Mỗi câu chuyện của họ là một mảnh ghép, những mảnh ghép độc bản, bị thất lạc, lưu lạc trong sự lãng quên hoặc vùi lấp cố ý của thời cuộc. Chỉ có điều nó là những mảnh ghép nếu không tìm lại, không phục dựng, thì không chỉ lịch sử mãi mãi chưa hết khoảng trống, lịch sử trở thành thứ bày đặt những điều ăn gian nói dối, mà mỗi thế hệ nối tiếp sẽ khó thoát cảm giác mình đang lưu lạc ngay trên đất nước mình, với món nợ truyền đời, một thứ Tội tổ tông trần gian.
Tôi đã gạch dưới, đánh dấu khoảng 20 chỗ, định sẽ trích dẫn giùm bạn đọc, cũng là để làm chứng cho điều mình đang nói. Nhưng suy đi ngẫm lại, lật lên lật xuống, tôi quyết định bỏ ý định ấy. Không thể trích dẫn, giống như không thể xé một mảnh da, một mảng tóc, lóc một khúc xương và bảo đó là một cuộc đời, nhất là khi cái cuộc đời đó hoặc đã tan biến vào cát bụi, hoặc vẫn đang quằn quại đau đớn, không ngớt bị thiêu đốt bởi kí ức.
"Chị Thân" không thể trích dẫn.
"Nhất ơi", làm sao có thể trích dẫn, khi câu chữ nào cũng khiến ta dựng tóc gáy.
Không thể trích dẫn thiên truyện dài, bi thương, kinh hoàng, tráng lệ một cách u buồn mang tên "Một gia đình ở Khe Sanh". Tiện thể nói luôn, đây là phần tôi thích nhất của cuốn sách, không chỉ vì những sự kiện chiến tranh, văn hóa, di dân lần đầu tôi biết, mà còn bởi nó cho tôi khá nhiều kiến thức địa lý, lịch sử, sinh học, nhân chủng học...
Tôi đang có trong tay cuốn tiểu thuyết "Thuyền" của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, được ca ngợi như một hiện tượng văn học, viết về nạn thuyền nhân kinh hoàng. Tôi sẽ phải lắng lại một thời gian mới có thể mở cuốn tiểu thuyết đó, sau khi đọc "Những Ngày Tháng Năm". Bởi một phần quan trọng cuốn sách của Phan Thúy Hà là ghi lại lời kể vượt mọi ngưỡng chịu đựng, của các nhân chứng về nạn thuyền nhân.
Và đều không thể trích dẫn mà không sợ làm tổn thương đến chính mình.
Quả thực rất khó đối mặt thêm lần nữa với những gì xảy ra trong "Khóc em", “Tờ ngân khố của bà ngoại", "Con tàu hòa bình"...Khi mà bỗng có lúc, tưởng đã thoát khỏi cuốn sách, ta chỉ muốn khóc thật to lên mới mong không bị bẹp gí xuống. Vì đau đớn, vì buồn thương, vì ta là đồng bào của những con người sống không bằng chết!
Về tác giả.
Tôi sẽ còn tìm đọc Phan Thúy Hà. Ở trên tôi có ý so sánh cách viết của Hà, với tác giả của những tác phẩm gây kinh hoàng như "Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ", " Vỡ mộng". Nhưng nếu chỉ xét riêng về độ lạnh lùng thì tôi thích (và sợ) Phan Thúy Hà hơn. Svetlana vẫn hơi nhiều lời và thích can dự. Viết theo lối "điều tra" kiểu báo chí, tác giả càng dửng dưng tách ra xa khỏi nhân vật, hiệu quả mà nó tạo ra cho bạn đọc càng lớn. Bởi giá trị quý nhất của những tác phẩm loại này là sự thật. Bạn đọc và tác giả ngầm khế ước là cả hai đang đối diện với sự thật không che đậy. Một chút nghi ngờ, đôi khi do tác giả mủi lòng phải lên tiếng, là khế ước tan vỡ và tác phẩm bị ghẻ lạnh. Chỉ những ngòi bút lão luyện, mới đủ sức nén cảm xúc xuống, để mỗi câu văn đều đạt đến độ lạnh lùng của con dao mổ. Trong toàn bộ tác phẩm "Những Ngày Tháng Năm", tác giả không lần nào chen ngang, phát ngôn thay, tranh cãi với nhân vật, hoặc đưa ra những lời thuyết giáo. Một bản lĩnh đáng nể có được không chỉ do tài năng, mà còn nhờ công phu rèn luyện. Điều này tưởng ai viết văn cũng có thể làm được nhưng thực tế không nhiều người làm được.
"Những Ngày...Tháng...Năm, thường là cách người ta đặt sẵn lên đầu mỗi trang giấy để ghi lại sự kiện, sự việc, mang tính biên bản. Nhưng khi là tên cuốn sách của Phan Thúy Hà, nó gợi đến những khoảng trống, những ô bỏ trắng hoặc đen thui của lịch sử, của kí ức từng cá nhân, xảy ra vì lý do nào đó. Giờ tác giả mời gọi bạn hãy dũng cảm điền vào những gì bạn biết rõ là không thể xóa, không cách gì quên lãng trừ sự lảng tránh. Hãy điền vào, hãy một lần đối diện, dù có thể khốc liệt không kém đối diện cái chết, để lần cuối chúng ta có thể tự tin từ biệt quá khứ, sau khi đã kính cẩn vuốt mắt cầu nguyện cho nó yên nghỉ, bằng tình yêu thương và tha thứ vô điều kiện. Con người cần sự thanh thản để cuộc sống không là gánh nặng.
Cuối cùng xin trích một câu của nhà báo nổi tiếng Nguyễn Thông:
"Không hiểu sao tôi cứ đinh ninh tin rằng, về sau, nhắc đến văn chương hậu chiến xứ này, người ta nhớ ngay đến cái tên Phan Thúy Hà chứ không phải ai khác".
Về phần mình, tôi muốn nói lời cảm ơn tác giả và Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông.
------------











Tác giả Phan Thúy Hà: Để sự thật không mất đi...
Gặp gỡ & Đối thoại

LINH THOẠI



TTCT - Thẳng thắn, kiệm lời, mộc mạc và cương trực... là ấn tượng mà Phan Thúy Hà - cây bút “phi hư cấu” rất đáng đọc trong 5 năm trở lại đây với 5 cuốn sách ít nhiều gây xôn xao (4/5 cuốn đã tái bản 1-4 lần) - mang lại khi chúng tôi trò chuyện online. Phan Thúy Hà rõ ràng không thích bộc lộ mình, có lẽ vì vậy mà khi tôi ngỏ lời phỏng vấn, cô từ chối. “Hà rất ngại trả lời phỏng vấn, vì những gì muốn nói đã nói trong sách rồi. Đó là những cuốn sách cho tất cả mọi người chứ không phải của Hà”. Song, giữa những ngày dịch bệnh đầy bất an, từ Hà Nội, cô nhắn cho người bạn mới quen ở Sài Gòn: “... Cũng nên nói đôi điều về công việc tôi đã làm 5 năm qua”.



Ảnh: Tự Trung
Bức tranh đời sống của những người già



* Chị ra đời sau khi đất nước đã thống nhất bốn năm, có cha là người lính của quân giải phóng, chiến tranh có từng ám ảnh tuổi trẻ của chị không khi mà sinh thời, cha chị hầu như không kể gì với con gái? Điều gì đã thôi thúc chị đi tìm những câu chuyện kể từ người lính để viết nên cuốn sách đầu tay Đừng kể tên tôi, để rồi từ đó theo đuổi đề tài về thân phận người lính trong chiến tranh và thời hậu chiến với Tôi là con gái của cha tôi và mới đây nhất là Những trích đoạn của các anh?

Chiến tranh không ám ảnh tôi. Nhưng các nhân vật trong sách của tôi đều sống trong cuộc chiến đó, từ thuở thiếu niên cho đến bây giờ. Tôi có nỗi lo, là những chuyện có thật xảy ra trong những năm tháng ấy bị quên bẵng, bị biến mất, bị thêm bớt. Điều đó thôi thúc tôi đi tìm các bác, các chú để ghi âm, ghi chép, làm thành trang sách. Tôi làm việc này một cách gấp gáp, không gấp gáp e không kịp. Vì ngay cả người kể cũng mất dần ký ức. Và ngay cả tôi cũng không biết ngày mai còn làm được việc này nữa không.

Cuốn Đừng kể tên tôi ghi lại nhiều câu chuyện ở một ngôi làng xã Gia Phố (Hương Khê, Hà Tĩnh), trong đó có câu chuyện gia đình ông Trí, xảy ra vào trưa ngày mùng hai tháng chạp năm 1972. “Bà Trí bò lại bên từng đứa con. Bà liếm máu trên từng xác con. Máu đã khô. Máu vẫn còn rịn ra từ cánh tay đứt lìa của thằng Tám. Máu vẫn rỉ ra từ tai con Hương. Bảy cái xác nằm trên đất. Sáu đứa con và một đứa cháu. Đứa lớn nhất mười hai tuổi. Đứa bé nhất ba tuổi”.

Một câu chuyện như vậy mà người bạn tôi sinh ra và lớn lên ở đây, là hàng xóm với ông, đến khi đọc sách mới biết. Tôi không nỡ trách bạn tôi. Bởi vì tôi cũng từng vô tâm.

Tôi đi ra đường 15 cũ - đường đi B - nay là đường ra cánh đồng, hỏi các anh chị đang làm việc bên cánh đồng có biết đây là con đường ngày xưa bộ đội đi vào chiến trường miền Nam không, họ nói không biết.

Một lần tôi đến nghĩa trang đường 9, thấy một ngôi mộ đề tên Nguyễn Văn Ngọc, sinh năm 1953, trùng tên và năm sinh với chú Ngọc trong câu chuyện “Người bên sông Ngàn Sâu”. Tôi ngồi xuống rất lâu bên ngôi mộ. Một câu chuyện về anh Ngọc quê ở Thái Bình nằm lặng dưới đất.


 
Một nhân vật trong sách của Phan Thúy Hà.

* Không dừng lại ở quê nhà Hà Tĩnh, không chỉ “viết giùm” các chiến binh Bắc Việt với Đừng kể tên tôi; chị đã lặn lội nhiều chuyến xe đò, xe máy... lục tìm từng địa chỉ có thể tìm đến ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bến Tre, Huế, Quảng Trị... để mong được nghe chuyện từ các cựu binh Việt Nam cộng hòa. Tôi là con gái của cha tôi ra đời cũng là từ nỗi khao khát được biết những câu chuyện còn “nằm lặng” và sẽ bị lãng quên?

Đi vào miền Nam tìm những người lính từng phục vụ trong quân đội Việt Nam cộng hòa là cái cớ để khám phá về đất nước, tâm hồn người Việt Nam. Tôi ghi vào sách cái nhìn của tôi. Một ly cà phê bảy nghìn đồng, một chục dừa là mười hai quả, ngồi ở quán cà phê nào cũng nhìn thấy nóc nhà thờ, đi trên một đoạn đường rợp bóng dừa… với tôi là nỗi rung động lớn.

Tôi là con gái của cha tôi cũng là bức tranh đời sống của những người già mà tôi gặp ở miền Nam. Bắt đầu từ câu chuyện của ba Quốc Kiệt; rồi đến chú Giang, bác Lý, bác Diệp, bác Bưu, bác Bội, chú Ẩn, cô Dung, cô Bé, chú Khải, chú Hà Long.

69 tuổi, ước mơ của chú Hà Long là ráng bán vé số thêm 5 năm nữa rồi về quê trồng rau, nuôi gà. Bác Bưu 78 tuổi vẫn chạy xe ôm. Bác Diệp hằng ngày ngồi xe lăn đi lần ra phố, mệt mỏi đến độ nắm vé số cầm trên tay rơi lúc nào không biết. Vào tuổi lẽ ra được nghỉ ngơi, được chăm sóc, các bác vẫn phải kiếm tiền sống qua ngày.

Tác giả Phan Thúy Hà và một nhân vật trong cuốn sách 
Tôi là con gái của cha tôi. Ảnh: NVCC

* Các cuốn sách của chị đúng là một bức tranh liên hoàn về đời sống của những người già. Họ và chị hẳn đã mang lại cho nhau những giao tình đẹp đẽ và cảm động. Chị có thể chia sẻ thêm về phản hồi chung của các nhân vật - cũng chính là các độc giả lớn tuổi - sau khi đọc sách?



Các bác hỏi “Sao cháu viết ngắn thế, nhẹ thế?”. Bởi vì, mỗi cuốn sách thể hiện một ý tưởng. Rất tiếc tư liệu nhưng tôi không cố đưa vào.

Một bác chia sẻ rằng đọc lại câu chuyện của tôi và những người cùng cảnh ngộ, bác yên tâm vì quá khứ không bị quên. Các bác đều mong tôi đừng dừng lại, hãy tiếp tục tìm và giữ tư liệu.

 
Phan Thúy Hà và một nhân vật trong sách của chị.

Câu chuyện nào cũng gây chấn động mạnh với tôi

* Vô tình hay cố ý mà Những trích đoạn của các anh đều là các cuộc chạy dài đầy thương vong bi đát? Hay vì đã có nhiều chiến thắng được gọi tên, ghi chép nên chị thấy không cần kể thêm nữa; cái cần kể hơn vẫn là một khuôn mặt khác của chiến tranh mà nhiều người cầm bút chưa (dám) vẽ nên?

Trận thung lũng Sa Thầy, gò Trung An, đồi 25 bên đường 7 Bến Cát, và cả trận đánh vào thị xã Đông Hà lần thứ hai mà anh lính xe tăng bị ám ảnh là những trận thắng đấy chứ. Nhưng đó cũng không phải là cái tôi cố ý. Cuốn sách không kể về một trận đánh thắng hay thua. Chiến thắng hay thua đau thì tiếng rít của UH-1A, viên đạn găm vào lưng và ra phía trước bằng ruột, người cháy xém bên hàng rào, hình ảnh đồng đội hoảng loạn, lời nói cuối cùng… mãi mãi không ra khỏi tâm trí các anh, trở thành những cơn ác mộng về đêm khi tuổi ngày càng cao, thành những trích đoạn.

Tôi đọc quá ít sách về chiến tranh để mà biết những gì đã được kể nhiều hay chưa kể. Họ đã chiến đấu, các anh đã hy sinh… Từ nhỏ tới lớn tôi nghe quen những từ đó, dùng mãi những từ đó trong các bài thi môn sử, môn văn, nhưng không có cảm xúc gì. Bởi vì tôi chẳng biết gì cả: Chiến đấu là như thế nào. Người lính ấy nghĩ gì trước trận đánh, đã hành động ra sao trong từng tình huống chiến trận. Đồng đội đã hy sinh như thế nào trước mắt, bên cạnh, hay trong vòng tay họ … Những trích đoạn của các anh ghi lại những khoảnh khắc đó.

Cuốn sách không thuật lại các trận đánh. Không một người lính nào có thể thuật lại được trận đánh. Ký ức mỗi người chỉ lưu giữ được một góc nào đó trong trận đánh mà họ ấn tượng mạnh.



"Phan Thúy Hà chỉ cần kể lại chân thật các sự kiện, hơi trần trụi, cũng đủ làm ta xúc động. Thật lạ, một giọng kể bình thản, với những câu văn ngắn, không tỉa tót mà vẽ được những bức tranh đời bất hạnh.

GS.TS Huỳnh Như Phương


* Trong gần 90 nhân vật chị đã gặp qua 5 cuốn sách, câu chuyện nào khiến chị ám ảnh nhất? Có góc khuất chiến tranh, sự thật nào bản thân chị “giác ngộ” sau khi trở thành người - chép - sử qua các cuốn sách của mình?

Câu chuyện nào cũng gây chấn động mạnh đối với tôi. Bác Lý cụt hai chân, cụt một cánh tay, mù một mắt, một mắt mờ, hơn nửa thế kỷ không thể tự đi vệ sinh. Chú Châm đeo bên mình bịch nước tiểu suốt một đời không để cho ai biết.

Có người nói tôi là người ghi chép những góc khuất chiến tranh. Tôi không nghĩ như vậy. Những gì các chú, các bác kể trong sách không có gì mới lạ với rất nhiều người. Những câu chuyện đó bạn cũng từng nghe, có gì là góc khuất đâu.

Điều tôi nhận ra sau nhiều cuộc nói chuyện: Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, trải nghiệm khác nhau, vì thế có quan điểm riêng về những gì đã xảy ra. Họ nghĩ gì, đó là điều ta không thể đoán được. Tôi phải hỏi trực tiếp tất cả những điều tôi muốn biết.


Một nhân vật trong sách của Phan Thúy Hà (Ảnh: Phan Thúy Hà cung cấp)

* Không ít nhà văn từng cầm súng ở cả hai phía đã nói lời cảm ơn Phan Thúy Hà về những câu chuyện chị mang đến qua 3 cuốn sách về người lính. Bản thân chị không thừa nhận mình là một nhà văn, chị có bất ngờ trước nhiều lời khen tặng mọi người viết trên báo, trên trang cá nhân dành cho một cây bút mới là mình?

Tôi nghĩ mọi người khen vì cảm kích việc tôi làm, ủng hộ việc tôi làm, chứ chưa hẳn vì tác phẩm tôi làm ra tốt đến mức được nhận những lời ca ngợi như vậy. Tôi hy vọng những cuốn sách của tôi sẽ khuyến khích được các bạn trẻ đi gặp các cựu chiến binh, trò chuyện và ghi lại câu chuyện của họ. Mà không cứ là cựu chiến binh, mỗi người già trong làng cũng là một kho ký ức. Tôi gọi đó là những mỏ quặng.

Bất cứ ai quan tâm lịch sử ngoài đời thực và có lòng nhiệt tình đều có thể làm được việc này.



Là một bảo tàng ký ức đặc biệt của những người lính Bắc Việt thời chiến tranh Việt Nam, Đừng kể tên tôi có thể xem là một trong những tài liệu bổ sung quan trọng nhất gần đây về một cuộc chiến có ý nghĩa góp phần kiến tạo lịch sử thế kỷ 20. Với cuốn sách này, Phan Thúy Hà đã thực sự tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam bằng cách để họ nói lên tiếng nói của mình, bộc lộ nỗi đau mà họ đã gánh chịu suốt hơn nửa đời người. Tôi nghĩ, một cuốn sách như vậy nên được phổ cập rộng rãi trong các trường đại học và trường phổ thông, để những người trẻ được hiểu về sự thật lịch sử ở khía cạnh nhân văn của nó”.

(Tiến sĩ sử học Jason Picard)


Thương người khổ là bản tính

* Có thể thấy tuổi niên thiếu lam lũ (tác phẩm Qua khỏi dốc là nhà) đã góp phần tạo nên một cây bút luôn tìm đến người cùng khổ, những thân phận bên lề và có thiên hướng nhìn thẳng vào cuộc đời như chị. Chị có nghĩ thế không?

Tuổi thiếu niên tôi được sống bên cạnh người cha tâm hồn tinh tế. Cha có cách kể chuyện hài hước. Cha quan sát và diễn đạt được đúng tâm lý của người ta qua một chi tiết. Ngày sinh viên và cả khi mới ra trường đi làm, mỗi lần tôi về quê là cha ra ga Thanh Luyện đón. Tôi xuống tàu là cha đã chờ sẵn với vài điều thú vị cha vừa thấy ở sân ga nhỏ. Chỉ một chi tiết mà hai cha con tưởng tượng ra một câu chuyện, bàn luận, rúc rích cười cho đến khi về nhà.

Đọc những bài viết tôi đăng báo, cha nói, bài viết nào của con cũng có tứ, sao con không thử phát triển tứ đó lên thành truyện ngắn. Cha vẫn thầm mong tôi viết được cái gì đó lớn lao hơn. Tôi phớt lờ những lời cha nói. Tôi không có tài văn chương, không nuôi mộng văn chương.

Tôi viết cuốn sách Qua khỏi dốc là nhà kể lại trải nghiệm tuổi thơ chị em tôi chứ không phải là cuốn sách kể khổ. Chị em tôi ham lao động. Mẹ tôi là giáo viên, làm nhiều ruộng, chăn nuôi thêm, nấu rượu nữa, nên bọn tôi có cuộc sống khá nhất ở làng bấy giờ. Với tôi, đó là tuổi thơ sôi động, chị em đầy đủ bên nhau.

Hàng xóm, bạn bè cũng có chuyện này chuyện kia xảy ra nhưng khi đó tôi chỉ nghĩ sơ sơ vậy thôi. Sau này trưởng thành, hiểu hơn về con người, thì chuyện nào nhớ lại cũng làm tôi buồn. Thương người khổ là bản tính con người. Mãi gần bốn mươi tuổi tôi mới nhìn ra được vì sao họ khổ. Nhìn ra được vấn đề thì tôi cần phải viết.

Mỗi lần ký tặng sách các chú, các bác tôi lại mủi lòng. Các chú, các bác vẫn ở đây đọc sách con viết mà cha thì nằm dưới đất mười mấy năm rồi...


 
Tác giả Phan Thúy Hà (Ảnh: NVCC)

* Khác hẳn mạch đề tài về người lính mà chị theo đuổi, Gia đình là tác phẩm hiếm hoi ghi lại lời kể của các nhân chứng trong nạn cải cách ruộng đất ở Nghệ An, Hà Tĩnh và một câu chuyện cuối cùng ở Nam Định. Cũng vì “thương người khổ” thấy “cần phải viết” hay muốn thử thách chính mình mà chị chọn mảng đề tài đầy “chấn thương tinh thần” này?

Cuốn sách Gia đình tôi thực hiện cùng lúc với cuốn Đừng kể tên tôi, mùa hè 2017. Việc tìm nhân chứng khó khăn, nên viết đến câu chuyện thứ ba, tôi phải tạm dừng. Tôi tập trung làm cho xong cuốn Tôi là con gái của cha tôi rồi mới thong thả quay lại với đề tài đó.

Các nhân chứng trong giai đoạn lịch sử những năm 1950 còn sót lại nay đều tuổi ngoài tám mươi. Chần chừ là không bao giờ làm được nữa. Nếu không ghi ngay lúc này những câu chuyện đó sẽ mất đi mãi mãi hoặc tồn tại dưới dạng hư hư thực thực. Sách mới xuất bản được nửa năm thì ba nhân vật trong sách đã ra đi. Một số cô bác sức khỏe cũng yếu đi nhiều.

Một bác 81 tuổi ở làng tôi khi đọc xong cuốn Gia đình, trong đó có hai câu chuyện về người quen của bác là ông Trần Lệ và Ngô Việt, bác không tin câu chuyện kể đó có thật. Bác gọi điện hỏi tôi, có phải cháu sáng tác thêm không, vì Trần Lệ học một lớp với bác, sao bác không biết những chuyện đó. Chưa thỏa mãn với câu trả lời của tôi, bác đạp xe đến nhà hai nhân vật hỏi ngược hỏi xuôi. Bác Trần Lệ nói rằng những gì cô Hà viết chưa thấm vào đâu so với thực tế gia đình tôi đã trải qua.

Một người bạn của bác Nguyễn Bút nhắn tin, bác học cùng cấp hai với Nguyễn Bút, lên cấp ba học cùng lớp và ở cùng nhà trọ, bác vừa đọc vừa khóc thương bạn. Từ trước tới nay chỉ biết bạn cùng hoàn cảnh với mình nhưng không biết chi tiết như thế này.

Những người cùng thế hệ mà còn như thế, thì hỏi có bao nhiêu bạn trẻ và lớp trẻ sau này sẽ vừa đọc vừa thầm hỏi, sao có thể có chuyện như thế này, bao nhiêu phần trăm là sự thật.



“Phan Thúy Hà đã làm ra hai tác phẩm Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi không giống ai, ghi lại rất nhiều nỗi đau trần thế của những người khác, những người ngoài lề, bị bỏ quên. Tôi sững sờ khi đọc những câu chuyện ấy. Tôi ghen với tác giả - tôi đã không làm được điều tương tự, dù những câu chuyện trong sách không lạ với tôi, chúng đầy rẫy với bất cứ ai”.

Nhà văn Vũ Thư Hiên


Còn nhiều câu bỏ ngỏ...

* Công việc của một biên tập viên nhà xuất bản trước đây chắc cho chị nhiều kinh nghiệm xử lý bản thảo?

Từng là biên tập viên cho tôi kinh nghiệm xử lý bản thảo nhưng cũng nhiều nuối tiếc do tự kiểm duyệt. Có nhiều câu bỏ ngỏ, bạn đọc phải tự hiểu ý.

Những cuốn sách lần lượt được Nhà xuất bản Phụ Nữ cấp phép xuất bản. Giám đốc và biên tập viên nhà xuất bản kính trọng các nhân vật trong sách. Các chị ủng hộ công việc tôi làm. Không phải người viết sách nào cũng có thuận lợi như vậy.

* Chị có định danh cho thể loại mà mình chọn? Và chị có nghĩ việc chị chọn cùng một giọng kể cho các câu chuyện làm mất đi giọng riêng của từng nhân vật, hay chị cố tình để mọi câu chuyện được cất tiếng qua “giọng” của Phan Thúy Hà?

Tôi thấy khó viết nếu không dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Đặt mình vào nhân vật tôi mới viết được dài hơi. Với cách các nhân vật để cho “tôi” kể chuyện sẽ làm cho người đọc cảm giác được nghe trực tiếp.

Tôi lựa chọn cách viết như vậy, còn đặt thể loại gì, cả vấn đề hư cấu hay phi hư cấu có lẽ cần phải nghĩ thêm. Một bạn đọc nhắn cho tôi: “Tôi không thích, như một số người, đã gán cho thể loại các cuốn sách của Thúy Hà là "phi hư cấu". Hư cấu, chỉ là một phương pháp để tái hiện sự thật, còn "phi hư cấu" là gì? Là nói sự thật. Đọc sách Thúy Hà tôi vẫn thấy một thể loại văn xuôi rất gần gũi”.


Lịch sử nhìn từ một con người, một gia đình

Ngoại trừ Qua khỏi dốc là nhà (NXB Kim Đồng, 2018) - tác phẩm gần như tự truyện về tuổi thơ ở Hương Khê, Hà Tĩnh qua cái ngoái nhìn ở tuổi 40; Đừng kể tên tôi (NXB Phụ Nữ, 2017), Tôi là con gái của cha tôi (NXB Phụ Nữ, 2019), Gia đình (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2020) và Những trích đoạn của các anh (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2021) đều là những ghi chép từ tâm sự của những nhân vật nay đã đi gần hết một đời người, từng vào sinh ra tử, kinh qua những thời đoạn đầy biến động của đất nước. Họ là những người lính đi ra từ cuộc chiến, là nhân chứng của cuộc cải cách ruộng đất, là nạn nhân của vô thức lịch sử... Ký ức của họ đầy máu và nước mắt; hòa bình của họ, hiện tại của họ vẫn còn nhiều bóng tối của tủi buồn vây quanh... Những sự thật của riêng họ lật giở giúp người đọc một phần bức tranh chân thật của lịch sử - nhìn từ lịch sử một con người, một gia đình...

5 năm dài tìm gặp từng cựu binh, gợi chuyện, lắng nghe, sống với từng mảnh vỡ phận người rồi dùng khả năng ngôn ngữ riêng biệt để nén từng cuộc đời lên bức tranh tả thực của bi kịch chiến tranh và hậu chiến...; hành trình đó của Phan Thúy Hà đòi hỏi lòng yêu sự thật và cả sức mạnh nội tâm.

Dù giấu đi cảm xúc riêng trên các trang viết, không ít lần tác giả kể lại, chị muốn hét lên hay dừng lại khóc nấc sau khi chứng kiến, nghe chuyện từ một cảnh đời. Gãy gọn mà giàu thông tin, lạnh ở vỏ ngôn ngữ mà ấm trong nội hàm, tiết chế cảm xúc chủ quan mà vẫn đẩy cảm xúc độc giả lên cao độ qua những chi tiết đắt giá được khắc tả; Hà khiến người đọc vừa chất vấn lịch sử, vừa điều phục cảm xúc khi đọc, để rồi cảm ơn tác giả đã cho họ biết thêm nhiều cuộc đời, cảnh huống đáng được kể lại...

Trong cuộc tìm về những phận người bé nhỏ trong Tôi là con gái của cha tôi, tác giả viết: “Ở đâu cũng khuôn mặt vò võ khổ đau. Ở đâu cũng ám trên mặt người nỗi sợ. Ở đâu cũng nhiều người tốt phải sống trong bất hạnh. Ở đâu cũng ân tình”.

Ở các cuốn sách của Hà, ân tình của đồng đội, của những phận người nương nhau đi qua đau thương, những người gánh lấy oan khiên vẫn tha thứ cho những sai lầm của quá khứ... cũng luôn lấp lánh. Độc giả đau đớn trước những tàn khốc của khúc tối thời cuộc, những mong manh sống chết nhưng cũng tựa vào những ân tình đó để yêu hơn cuộc đời, yêu hơn từng con người đã chọn bình tĩnh, bình thản sống tiếp cuộc đời nhiều thua thiệt...
















MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.









Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Nguyễn Thanh Thu (1934 - 6/5/2025)














Nguyễn Thanh Thu
(1934 - 6/5/2025)
Hưởng thọ 92 tuổi

Tên khai sinh: Nguyễn Văn Thu
Điêu Khắc Gia , Hoạ Sĩ












Nguyễn Thanh Thu sanh năm 1934
tại xã Bình Hòa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
Động viên vào Thủ Đức ra ngành Quân nhu.








Tác phẩm điêu khắc tiêu biểu:




1/ Ngày về.1963

2/ Chiến sĩ vô danh. 1966 đặt ở Nghĩa trang quân đội VNCH, Gò Vấp

3/ Trung Liệt. 1966

4/ An Dương Vương. 1966 đặt ở ngã sáu Chợ Lớn.

5/ Thương Tiếc. 1966 đặt ở Nghĩa trang quân đội VNCH, Biên Hoà


Tượng Thương Tiếc mới đầu thực hiện bằng xi măng cốt thép được đặt trên bệ cao lối vào nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà.
Ngày 16.08.1968 được giải đặc biệt của Tổng tư lệnh tối cao Quân đội VNCH.

Ngày 01.11.1968 làm lễ khánh thành.
Cuối năm 1969 pho tượng Thương Tiếc được thay chất liệu, được đúc bằng đồng.








TẠM BIỆT ĐIÊU KHẮC GIA NGUYỄN THANH THU

Với chế độ VNCH, Nguyễn Thanh Thu (1934 - 6/5/2025) nổi tiếng với các bức tượng như “Trung liệt”, “Thương tiếc”, “Ngày về”, “Quyết thắng”, “Chiến sĩ vô danh”…
Với người dân Sài Gòn, thì khá quen thuộc với các tượng đài công cộng như “Trần Nguyên Hãn” (ở bùng binh chợ Bến Thành), tượng đài “An Dương Vương” (ở bùng binh ngã 6 Nguyễn Tri Phương)…
Những năm cuối đời, ông tạc lại các tượng chủ đề cũ như “Thôn nữ”, “Được mùa”, “Thương tiếc”… với kích thước nhỏ.
Đời ông nhiều vinh quang trước 1975, nhiều lao đao sau 1975… Hình như ông định cư tại Mỹ từ 1988 đến khoảng 1998, sau đó quay về quê cũ ở Gò Vấp sống cho đến cuối đời.
Đời ông tạc không nhiều tượng, nhưng nhiều tác phẩm sâu sắc và đẹp. Thế nhưng, sự nổi tiếng mà ông có được thì vượt khỏi sự khó khăn của đời ông.
Lịch sử điêu khắc VN, dù ở chế độ nào, ông cũng có 1 vị trí nhất định. VNCH đã ghi nhận, chế độ hiện thời cũng đã ghi nhận, dù cách thức có thể khác nhau.
Ở đây xin nói chút xíu về tượng đài “An Dương Vương” của ông.
Tượng này được xây dựng vào năm 1966 ở ngã sáu Nguyễn Tri Phương (ngày nay), bùng binh lớn, nơi tiếp giáp giữa quận 5 và 10. Đến năm 2022 thì được tu sửa, phục dựng gần như nguyên trạng.
Tượng An Dương Vương gần như có tỷ lệ 1-1 với chiều cao trung bình của người Việt, tay cầm nỏ, nhưng lại được đặt trên đỉnh cột kiểu La Mã xưa, cao khoảng 50 m, phía dưới là 4 tượng con nghê, nhìn ra 4 hướng.
Nếu xét về độ cao, đây có lẽ là tượng đài công cộng cao nhất ở Sài Gòn, thế nhưng rất gọn gàng, thẩm mỹ, không chiếm dụng đất công.
Cây cột kiểu La Mã là dấu vết của Tây phương, còn 4 con nghê thì Đông phương/VN. Tượng thì kết hợp quan niệm cả Đông Tây trong tạo hình.
Chiều cao của cây cột xem như là niềm ngưỡng mộ, tôn vinh của người dân với An Dương Vương, đưa ông lên tuốt trên cao, dù có thể bản thân ông chỉ muốn mình 1-1 với mọi người.
Đây là một trong số ít tượng đài công cộng trang nhã, ấn tượng của VN.
Dù tên tuổi Nguyễn Thanh Thu còn ít được đề cập rộng rãi, nhưng trong các hồ sơ, sách vở chính thức và trong lòng người dân, thì đã ghi khá rõ với những “An Dương Vương”, “Trần Nguyên Hãn”, “Thương tiếc”…


Lý Đợi





















































Câu chuyện xúc động về tác giả bức tượng Thương Tiếc






Miền Nam Việt Nam trước 1975 không ai không biết đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc đặt tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ Biên Hòa năm 1966. Chính đứa con mà ông yêu quý nhất này đã đưa ông lên đỉnh danh vọng để rồi đẩy ông xuống đáy địa ngục. Ký ức tháng Tư đen cùng câu chuyện 46 năm qua lời kể của thầy tôi – Nguyễn Thanh Thu – thật nặng nề và đầy xúc động.

Ký ức về thầy

Thầy Thu tuổi Quý Dậu (1934), dạy môn hội họa cho tôi, anh em tôi và những ai đã từng học tại Trung học Võ Trường Toản (VTT) từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước, đi dạy bằng xe Jeep cao màu xanh dương, mặc áo chemise trắng, đeo cravat đỏ luồn vào trong bụng dưới khuy áo thứ hai. Cá tính rất mạnh mẽ, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archer khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông chọn ra hai-ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6-5 cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như “người khổng lồ” so với học sinh cấp II bây giờ?





Bức tượng  "Thương Tiếc"


Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, ngày 22-8-1966, ông được Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia – Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4 m. Nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao tượng đài là 8 m. Về bức tượng Thương Tiếc, ông kể rằng ông được Tổng thống Thiệu chọn thực hiện, từ việc thể hiện ý tưởng đến việc xây dựng tượng đài tại Nghĩa trang Quân đội.

Sau bảy ngày, ông được mời vào Dinh để trình bày năm phác thảo nhưng vào cuối buổi, ông nói phác thảo mà ông yêu thích nhất là phác thảo thứ sáu mới vẽ nháp trên bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ trong khi chờ ngoài hành lang Dinh. Ý tưởng thứ sáu lấy từ hình ảnh của hạ sĩ Võ Văn Hai khóc bạn tại quán nước trước Nghĩa trang Quân đội cũ ở Gò Vấp mà ông nhìn thấy một tuần trước đó. Phác thảo thứ sáu được chọn và chỉ sau hai tháng rưỡi, bức tượng đồng Thương Tiếc cao 9 m hình thành, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng ở tuổi 32 với sự kính trọng của giới chức và quân nhân thời đó. Tượng được khánh thành ngày Quốc Khánh VNCH 1-11-1966.

Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Đó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thỏng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng đã không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó.

Đỉnh danh vọng và đáy địa ngục

Tiếng tăm của điêu khắc gia Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa khỏi quê hương. Ngày 20-7-1967, đại tá H.G. Fuller, thuộc Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV), gửi thư cho đại tá William P. Jones – Chủ Tịch Ủy Ban Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ, trong đó ông ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh. Ông William xem ông Thu là điêu khắc gia xuất sắc nhất Việt Nam lúc ấy và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William viết: “… xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng Raising The Flag on Iwo Jima ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai.

Nói đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người ta chỉ nhớ đến ông với bức tượng Thương Tiếc. Thật ra ông còn một số tác phẩm khác, chẳng hạn tượng Quyết Thắng, tác phẩm được tạc sau cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tượng cao 4m, bằng bê-tông cốt thép mô tả hình ảnh người lính Thủy Quân Lục Chiến trong tư thế ném lựu đạn. Chân trái co thấp bước tới trước, chân phải thẳng tạo thế đứng vững chắc. Cánh tay và bàn tay trái duỗi thẳng hướng về đích đến, tay phải đưa về phía lưng, làm thân người lính vặn về phía sau, thế đứng này giúp người lính có thể ném lựu đạn đi xa nhất. Khẩu súng đặt vội giữa hai chân, nón sắt rơi xuống, phần áo phía trước phủ ra ngoài quần làm cho người xem cảm nhận được sức nóng của chiến trường. Trong khoảnh khắc sống còn, gương mặt người lính trở nên căng thẳng…



Tượng Quyết Thắng

Khi vừa hoàn thành, tượng Quyết Thắng được triển lãm tại công viên Đống Đa, trước Tòa Đô Chánh vào năm 1969. Cái thần của bức tượng cùng bảy bức tượng khác về đề tài quân đội của ông Thu tại cuộc triển lãm làm cho người xem cảm nhận không khí chiến tranh lan vào tận đô thành Sài Gòn. Trước đó vài năm, có một tác phẩm điêu khắc đồ sộ cùng chủ đề người lính Thủy Quân Lục Chiến được đặt trước Quốc Hội (Hạ Nghị Viện).

Tượng do điêu khắc gia Huỳnh Huyền Đỏ tạc năm 1966. Ông Đỏ là thiếu tá Bộ Tổng Tham Mưu, là bạn học với ông Thu tại Cao Đẳng Mỹ Thuật. Ban đầu tượng được duyệt với phác thảo gồm ba người lính nhưng khi hoàn thiện thì tượng đài chỉ có hai người. Trong thời gian thực hiện, ông Đỏ rút lui không rõ lý do, công việc dang dở, vì vậy được giao cho thiếu úy Đinh Văn Thuộc (không phải điêu khắc gia), cùng làm với sự cố vấn của họa sĩ Lê Chánh và Lương Trường Thọ. Trong hoàn cảnh như vậy, tượng khi hoàn thành có nhiều khiếm khuyết mà tác giả của nó chắc không khỏi buồn lòng! Sóng gió của bức tượng này chưa dừng ở đó. Ngay khi tượng được dựng, dân biểu Hạ Nghị Viện phản đối kịch liệt, vì súng người lính hướng thẳng vào tòa nhà Quốc Hội. Họ cương quyết đòi di chuyển tượng sang địa điểm khác. Đầu năm 1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị điêu khắc gia Thu làm gấp một tượng khác để thay thế. Đó là lý do ra đời của tượng Quyết Thắng.

Chỉ ba tháng sau khi có chỉ thị, ông Thu đã gấp rút hoàn thành Quyết Thắng với kinh phí tự bỏ 300.000 đồng. Tổng thống Thiệu muốn thay thế bức tượng trước trụ sở Quốc hội ngay và có ý đưa tượng Thủy Quân Lục Chiến về Ngã Tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, không dễ gì thay thế biểu tượng một binh chủng oai hùng, khi ông Thiệu cùng lúc đương đầu với thiếu tướng Bùi Thế Lân (tư lệnh Thủy quân lục chiến) và đại tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng Tham Mưu). Bức tượng Thủy Quân Lục Chiến nhờ vậy tồn tại thêm vài năm cho đến ngày 30-4 rồi bị nhóm thanh niên “cách mạng 30-4” phá sập.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, rồi chuyển về Dĩ An. Đến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia điêu khắc gia Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa năm 1967. Đó là tượng dùng để đúc đồng (khuôn gốc) và hình thành nên bức tượng Thương Tiếc phiên bản bằng đồng năm 1970.

Nhóm người hung hãn ra sức đập phá bức tượng Thương Tiếc một cách không… thương tiếc và chỉ dừng lại khi tượng chỉ còn lại phần bụng và chân. Hiện nay tượng bê-tông bị đập phá này vẫn còn nằm trong sân sau nhà của ông Thu, cạnh các ngôi mộ gia tiên, cây dại che phủ nên ít ai chú ý. Sau khi đập phá bức Thương Tiếc, nhóm người này tiếp tục đập phá bức tượng Lính Thủy quân Lục Chiến, cao 4m, chỉ để lại đầu tượng. Ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân với thân hình tiều tụy, ông lê bước đến bên bức Thương Tiếc. Ông đã ngã quỵ dưới chân tượng và ngồi ở đó rất lâu cho đến lúc sụp tối. Ông nói sự trả thù này còn ác hơn những đòn thù mà ông phải gánh chịu trong tám năm dài ngục tối…




Bức thư của đại tá H.G. Fuller gửi cho đại tá William P. Jones về điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu







Võ Văn Hai, giờ này ông ở đâu?

Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu Đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng trở nên nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như điêu khắc gia Thu, cuộc đời bí ẩn của hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng. Không lâu sau tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời. Thật ra ông Hai chưa chết!

Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã hai lần thăm gia đình ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không thể tự đi. Ông Hai hoảng loạn, lo sợ có ngày cộng sản tìm đến ông rồi cuộc đời mình cũng chìm xuống địa ngục như thiếu tá Thu. Ông nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích”, trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Diên Khánh, ông Thu nghĩ vậy…

Trong tù, tạc tượng ông Thiệu, thay vì Hồ Chí Minh!

Tháng Tư đen đã đẩy gia đình ông xuống địa ngục. Tháng 12-1975, tại lớp 10C5 Trường Võ Trường Toản (VTT), Trí – cậu con trai của ông – được lệnh rời lớp, mang theo cặp lên văn phòng. Hiệu trưởng Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, môi mỏng, đầu hói, lạnh lùng nói: “Ba em nợ máu với nhân dân, em không được học ở đây. Từ hôm nay”. Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe, Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học”. Trí giấu mẹ vì sợ bà đau buồn, có thể sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui “lỗ chó” vào Sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do chính Ba nó tạc năm 1972.

Trại tập trung Hàm Tân, một buổi sáng cũng khoảng thời gian Trí bị đuổi, thiếu tá Thu bị gọi lên chất vấn về thành tích không khai trong lý lịch: là người đã tạc tượng Ngày về (giải thưởng văn hóa nghệ thuật Ngô Đình Diệm 1963) và tượng Thương tiếc. Sau ít phút lắng nghe ý nghĩa của các bức tượng, sáu tên cai ngục thay nhau đánh đập ông dã man trong ba ngày. Chúng dùng cánh tay hộ pháp vỗ mạnh vào mang tai khiến ông chảy máu và điếc luôn từ ngày đó. Ông bị biệt giam trong conex. Tám tháng không thấy Mặt trời. Ít lâu sau, chúng yêu cầu ông tạc tượng Hồ Chí Minh. Suy nghĩ hồi lâu, ông đồng ý với điều kiện: được về Gia Định để thăm mẹ già, vợ con và chuẩn bị vật liệu.

Ngày trở về thăm mẹ tại cư xá Việt Nam Thương Tín (Hàng Xanh), khi người em gái ý tứ giữ chân bốn tên an ninh ở phòng khách, ông Thu nghe mẹ nghiêm khắc nói: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu con muốn gì. Nếu trái ý, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Biết tính mẹ, ông đành bỏ kế hoạch trốn sau khi thăm vợ con ở Gò Vấp. Ông trở lại địa ngục, miễn cưỡng tạc tượng kẻ thù với một mật kế mới. Hàng ngày, ông nuốt vào những lời sỉ vả của chiến hữu nhắm vào ông.

Những ngày cuối tháng Tám, ông càng miệt mài thức khuya “tạc tượng”, chiến hữu càng ghẻ lạnh. Sáng ngày 1-9, cả trại tù náo loạn khi nhận ra: đây không phải tượng Hồ Chí Minh mà là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Những ngày sau đó ông sống ở đáy địa ngục. Ông chết đi sống lại nhiều lần trước những trận đòn thù hội đồng. Một ngày tháng 10, ông bị lôi ra khỏi conex lúc 4g sáng để đưa ra pháp trường. Mạng ông lớn, lệnh hành quyết được bãi bỏ ở những giây cuối cùng. Biệt giam, đòn thù, thiếu ăn…, tính mạng mong manh gần chết,
cuối cùng, ông được tha năm 1983


.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)


Một giấc mơ cuối đời
Sau bốn năm dưỡng thương, buồn cảnh gia đình tan nát, ông vượt biên bằng đường bộ mà trong túi không có một xu theo nghĩa đen. Hành trình gian khổ ly kỳ này (sẽ được hầu chuyện vào dịp khác) đưa ông đến Thái Lan, sau đó định cư ở Mỹ hơn 10 năm, rồi trở về Việt Nam cho đến nay. Tổng thống Thiệu, trong lần nói chuyện với đồng bào tại California, cảm kích về việc ông Thu dựng tượng mình trong trại tù Hàm Tân, đã xuống tận chỗ ngồi của ông Thu để thăm hỏi.

Hơn 10 năm ở Mỹ, ông trông mong cộng đồng giúp phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “confetti vương vãi trên sàn”. Không sống được bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh xứ người. Cô độc, cuối cùng ông miễn cưỡng trở về Việt Nam. Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông tạc thêm một số tượng, dựa trên các ý tưởng hình thành từ trước như: Được Mùa, Cửu Long Được Mùa… Tuy nhiên, đó là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật.

Bây giờ, với những ngày tháng còn lại cuối cùng của cuộc đời, ông chỉ mong gặp lại ba người, trong đó có hạ sĩ Hai, người đã ghé thăm gia đình ông vài lần trong lúc ông ở tù; và hai người phụ nữ mà ông mang ơn cứu mạng: cô Lan (bán canteen trong trại Hàm Tân), người giao cơm khi ông bị biệt giam với miếng thịt giấu ở đáy chén; cô Oanh, người tình của trùm du đãng xóm chài Sa Tưng (Campuchia). Ở tuổi 87, ông ấp ủ một việc làm cuối cùng: dựng tượng chính mình ngay sau khi tôi thực hiện xong album chân dung của ông. Cầu chúc ông sớm đạt nguyện để lớp hậu sinh có dịp viếng ông, nghiêng mình trước một người lính VNCH can trường.

Những tâm sự trong bối cảnh tháng Tư đen khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Cuộc đời sóng gió của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã làm cho pho tượng Thương Tiếc đẹp hơn và trở nên bất tử. Những kẻ hậu sinh rồi sẽ còn nhắc về ông: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.











Tác giả và ông Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)

































Trở về













MDTG là một webblog "mở" để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.