Hoàng Ngọc Biên
(1938 Quảng Trị - 16.5.2019 San Jose)
Nhà văn, Nhà thơ, Họa sĩ, Dịch giả
(1938 Quảng Trị - 16.5.2019 San Jose)
Nhà văn, Nhà thơ, Họa sĩ, Dịch giả
Có những không gian vừa hé mở
đã lập tức bị đóng lại
Có những khoảnh khắc chưa kịp bắt đầu
đã đến hồi kết thúc
Tiểu sử
Hoàng Ngọc Biên sinh năm 1938 tại Quảng Trị, là một họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, dịch giả cùng thời với Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Phan Anh, và còn được xem là nhóm Tiểu thuyết mới (Nouveau roman) tại miền Nam Việt Nam.
Hội viên sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam (VNCH trước 75), cùng với những họa sĩ nổi tiếng sau này như Đinh Cường, Nguyễn Trung, Mai Chửng v.v ...
Ông dạy học, làm xuất bản, vẽ đồ họa trong Ban biên tập tạp chí Trình bầy (1961-1975), phụ trách mỹ thuật cho các báo và nhà xuất bản ở Việt Nam (1975-1991) và tuần báo The Salt Lake City Weekly ở Mỹ (1993-2004). Trong giới làm sách báo Việt Nam trước và sau 75, Hoàng Ngọc Biên được biết đến như một chuyên viên thiết kế đồ họa có đẳng cấp.
Trước 1975 Hoàng Ngọc Biên cũng đã từng triển lãm tranh tại Viện Đại học Dalat, Goethe Institut, Alliance Française, Hội Họa sĩ Trẻ VN, Phòng Thông tin & Báo chí SG, Trung tâm Văn hóa Vũng Tàu, La Dolce Vita (Hotel Continental); và đồ họa, Nxb. McGraw-Hill, Singapore năm 1972.
Ông đã nghỉ hưu, định cư tại San Jose và qua đời ngày 16.5.2019 tại đây.
"những người cầm bút trẻ tử tế tuyệt nhiên không cần “tấm lòng” của nhà văn lớn tuổi, hay của hội nhà văn; ngoài ra, cũng nên để ý hai từ xa cách “nhà văn” và “người cầm bút”
HNB
chân dung
tôi toát mồ hôi thức dậy...
người vẽ chân dung tôi đã biến mất
và không để lại tăm hơi
tôi chạy đi tìm một cái gương soi.
không có gương.
từ lâu tôi đã tập quen không nhìn mình –
tôi sợ phải trông thấy tác phẩm của đoạ đày...
một em bé từ đâu chạy vụt qua
tôi nắm tay cháu
& khẩn khoản xin bỏ mấy đồng bạc nhờ cháu đái một vũng
để soi xuống tôi nhận rõ mức độ của sự giả dối
phải thu hoạch hơn bảy mươi năm qua
HNB
Đã xuất bản:
1
2
tập truyện ngắn, Cảo Thơm, Saigon, 1970
3
Trình bầy, 1974
https://hoangngocbien.wordpress.com/category/ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn-nh%E1%BA%ADn-d%E1%BB%8Bnh/
https://hoangngocbien.wordpress.com/category/ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn-nh%E1%BA%ADn-d%E1%BB%8Bnh/
4
Andrei Sinyavski: Thơ Pasternak, trong
BORIS PASTERNAK, CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1988.
BORIS PASTERNAK, CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1988.
5
thơ Joseph Brodsky, Thuận Hóa, Huế, 1991
6
MỐI TÌNH ĐẦU
truyện Samuel Beckett, Trình bầy, 1993.
7
THƠ MỚI BA LAN
tuyển tập thơ mới Ba lan, Trình bầy, 1993.
8
MARCEL PROUST
tiểu luận Samuel Beckett, Trình bầy, 1995.
9
UỐNG TRÀ SỚM MAI
thơ, Trình bầy, 1996.
10
NGƯỜI ĐẠP XE VÀO THÀNH PHỐ BUỔI SÁNG
truyện, Trình bầy, 1997.
11
truyện, Trình bầy, 1997.
12
thơ, Trình bầy, 1997.
13
BIỂN NGÀY ĐÊM
thơ, Trình bầy, 1999.
14
THƯ HÀ NỘI
Jean Tardieu
[dịch chung với Nguyễn Thu Hồng]
Trình bầy, 2001.
[dịch chung với Nguyễn Thu Hồng]
Trình bầy, 2001.
15
QUÊ HƯƠNG, NGƯỜI VỀ
[hai đoản văn viết theo một tấm tranh dán của Nguyễn Đăng Thường]
Trình bầy, 2001.
Trình bầy, 2001.
16
CHUYẾN ĐI MÙA ĐÔNG
truyện Georges Perec, Trình bầy, 2003.
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=2701
truyện Georges Perec, Trình bầy, 2003.
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=2701
17
thơ
[in chung với thơ Đỗ Trung Quân và tranh Nguyễn Quỳnh]
Trình bầy, 2003.
[in chung với thơ Đỗ Trung Quân và tranh Nguyễn Quỳnh]
Trình bầy, 2003.
18
DJINN
truyện Alain Robbe-Grillet, Trình bầy, 2003.
KẺ CHỜ XE
Từ lúc lọt lòng mẹ cho tới khi về lòng đất, con người luôn sống trong chờ đợi. Chờ đợi là hy vọng. Ngay cả khi chờ đợi chuyến tàu suốt, người ta cũng hy vọng. Hy vọng đến thật sớm, thật muộn, hay không bao giờ đến. Chờ đợi, hy vọng là lẽ sống, mà cũng là bi kịch của con người.
Chuyến xe của Hoàng Ngọc Biên là một chờ đợi được lồng vào bối cảnh miền nam Việt Nam sau 75. Chờ đợi ở đây là chờ đợi một chuyến xe lửa để lên đường. Kẻ chờ xe là một người đàn ông không trẻ chưa già. Nơi đợi là một công viên cỏ khô lá khô với vài thân cây khẳng khiu, và một chiếc ghế băng đóng bằng gỗ tạp đã ngả qua màu trắng của nắng mưa. Thời gian chờ đợi có thể là một khoảnh khắc đôi ba ngày, hay là cả một thiên thu.
Cái phố quận đìu hiu, cái ga xép, cái công viên nhỏ xíu, là một thứ no man’s land – một nơi hoang vắng – có thể thuộc về Việt Nam hay ở bất cứ đâu. Tựa như căn lều tròn trắng xoá trong cái truyện Beckett, nó là một không gian khép kín, chật hẹp, nhưng cũng rất bao la, có thể là biểu tượng của cuộc đời – của cõi sống.
Chuyến xe là “truyện”, là “chuyện hư cấu”, là “ficcion” (Borges). Tôi nghe nói một nhà thơ tên tuổi nọ có dịp đọc tác phẩm trước khi in, đã có gợi ý dùng “thơ” thay cho “truyện”. Mỗi chương, như vậy, sẽ là một bài thơ văn xuôi? Gợi ý như vậy kể cũng... hay, nhưng e sẽ gây ngộ nhận. Chuyến xe lai láng chất thơ, nhưng tranh trừu tượng đôi khi cũng toả thơ. Mặt khác, bút pháp của Hoàng Ngọc Biên không thuộc loại “prose poétique”, hiểu theo nghĩa thông thường là có mỹ từ và hình ảnh được làm đẹp. Chuyến xe gồm cả thảy tám chương. Để độc giả có vài ý niệm về cái/cuốn truyện tiếc thay không được phát hành rộng rãi này, người viết xin thử làm cái công việc lẽ ra không nên làm, là đặt tiểu đề cho mỗi chương.
Chuyến xe, hay là
1. Công viên – ngày
2. Cái gì đã qua cho qua luôn
3. Bệnh nói năng loạn xạ
4. Công viên – đêm
5. Người bạn đầm lai
6. Những kỷ niệm của nhà hoạ sĩ tút hình
7. Tờ báo cũ
8. Con ruồi
Tôi không rõ chất thơ trong Chuyến xe phát xuất từ đâu. Có thể từ những tình huống bi thảm, trớ trêu, siêu thực, buồn cười, mà lịch sử ưa nghịch ngợm thường xô đẩy con người vào. Hay giản dị hơn, rất có thể từ chính cái không gian/không khí trống trải, từ chính cái giọng nói ôn tồn, kể lể, thản nhiên, không thơ? Được cấu trúc bằng những từ/cụm từ lặp đi lặp lại, câu văn Hoàng Ngọc Biên rất dài nhưng cân đối, đầy âm nhạc. Cái đẹp, cái nghệ thuật từ ngòi bút Hoàng Ngọc Biên khiến tôi thấy phấn khởi vô cùng. Với tôi, hình ảnh đứa bé “đi ỉa ngoài đồng chỉ cần lấy cục đất tròn chùi đít rồi nhảy xuống sông bơi lội trên cây chuối” cũng đẹp, cũng thơ như “một cơn gió mạnh từ hướng sông thổi vào, hất tung những đám lá khô trong công viên... bây giờ cuộn tròn trên không trung lẫn vào đám lá vàng trên cây bay tơi tả, lá cũ và lá mới lao xao, lấm tấm hai sắc vàng và nâu phủ kín cả trời đất...”
Có phải viết về những cái mà người khác không buồn để ý tới là đối tượng chính của các ngòi bút sáng tạo? Nếu không thì ít ra nó cũng là trọng tâm của tác giả Chuyến xe. Trong giới viết lách Saigon ngày xưa, tên tuổi Hoàng Ngọc Biên gắn liền với nouveau roman hay tiểu thuyết mới, cuộc cách mạng văn chương cuối cùng trong thế kỷ này, đã đột ngột xảy ra ở Pháp vào khoảng đầu thập niên 50. Đại khái nó đề nghị một lối viết mới, một cách nghĩ khác, một cái nhìn tỉ mỉ đặt lên sự vật trong đời thường, tường trình/miêu tả từng chi tiết bé nhỏ và tránh nhân cách hoá. Sự việc (chứ không phải tình tiết) tràn ngập tiểu thuyết của Michel Butor. Đồ vật xâm chiếm truyện của Alain Robbe-Grillet. Đồ vật dĩ nhiên là phải có mặt trong Chuyến xe để thay thế cho những tình tiết. Chúng – một khung ảnh nhỏ không còn hình, hai cái lược đồi mồi, dăm ba cuốn kinh mỏng bìa vàng, một bài báo nói về bệnh gan... – là vết tích “lạ lùng” và “bí hiểm” của yêu thương mộng ước đã tiêu tan, của một thời đại đã quá vãng, của những năm tháng đã vĩnh viễn phai tàn.
Ngoài các thứ lỉnh kỉnh là của cải duy nhất mà hôm trước khi đi, người đàn ông đem bán, cho, hay vứt bỏ hết, cái gì đã qua cho qua luôn, ta còn thấy, chẳng hạn, một cái vòi nước rỉ chỉ giọt những giọt nhỏ tí xíu màu gạch đỏ, một chiếc sơ mi nội hoá cổ đính nhãn hiệu made in usa, một miếng bánh mì không với mùi bột cháy rẻ tiền... Tôi nhớ gì kể nấy. Chúng có thể là biểu tượng hay chỉ là những thứ sẵn có để cho người đàn ông ngắm nghía, khoác lên mình, bỏ vô miệng, hay đúng hơn chỉ mút mút vài cái (miếng bánh mì không) như người ta ăn kẹo. Miếng bánh mì, đâu cỡ một phần tư cánh tay, đựng trong cái túi vải đỏ, là thức ăn duy nhất người đàn ông mang theo mình để phòng thân, “yên trí là nếu chẳng may nổ ra thêm những cuộc đổi đời khác nữa, tôi vẫn có cái để nhấm nháp qua ngày...”
Chuyến xe là một cái truyện không giống ai trong văn chương Việt Nam. So với Người đạp xe vào thành phố buổi sáng (ra mắt đồng thời ở Nhà xuất bản Trình Bầy), nó có da có thịt hơn vì đã lên tới 68 trang chữ lớn. Chạm mặt với cái khác lạ, những kẻ yếu bóng vía thường vắt giò lên cổ. Riêng tôi, tôi mua vui rất nhiều với Chuyến xe. Mỗi đoạn, mỗi trang là một khám phá tuyệt vời đầy ngạc nhiên hứng thú. Cười gần bể bụng với câu chuyện tút hình “các đồng chí”. Buồn muốn đứt ruột với câu chuyện lá thư của người vợ gửi cho chồng trong kháng chiến. Và còn nhiều, còn rất nhiều những xúc cảm khác nữa. Đó là cái chắc. Cái không chắc... là những suy gẫm trong bài này!
Theo thiển ý, mục đích chính của truyện và tiểu thuyết hẳn là để mua vui, nói rõ là đem vui đến cho người khác. Không, hãy thành thật, và hãy nghiêm chỉnh, dù chỉ là ở chỗ này: đọc truyện, ta mua vui trước, suy gẫm sau, nếu muốn suy gẫm. Có vui mới có đọc, mới có suy gẫm. Không vui thì không đọc, không suy gẫm. Tất nhiên cũng có những cuốn truyện chỉ để mua vui mà thôi. Nhưng xét cho cùng thì mọi thứ đều đáng cho ta nghĩ ngợi. Luận bàn về loại văn chương “rẻ tiền” (nhưng hốt bạc) vẫn khó hơn là tấm tắc về Truyện Kiều. Có khác nhau chăng là ở cái quan niệm mua vui nơi mỗi người. “Đã đành con người ta có óc để suy nghĩ, nhưng tôi không suy nghĩ làm gì cho mệt óc”, người đàn ông nói, người đàn ông vô danh như từng nhân vật chợt hiện về trong trí nhớ mình, người đàn ông ngồi/nằm độc thoại trên chiếc ghế băng chờ chuyến xe lửa đã từ mấy hôm. Chờ, và sau cùng, trong buổi trưa nắng như thiêu đốt, chiếc xe đã đi qua mất trong lúc hắn thiếp ngủ. Thế là hắn phải bắt đầu lại từ đầu: tiếp tục ngồi/nằm trên chiếc ghế băng cũ trong cái công viên vắng vẻ kia, tiếp tục chờ đợi một chuyến xe...
Xin trích dẫn một đoạn tôi cho là khá tiêu biểu: “Thế nhưng càu nhàu cũng là càu nhàu thế thôi, rửa mặt hay không rửa, đó đâu phải là vấn đề, và có thể nói từ gần cả năm nay, nói thành thật, tôi chỉ rửa mặt khi tự nhiên thấy vui, mà tôi thì ít khi vui, và cũng có thể nói, do đó, là với tôi rửa mặt là một việc làm tuyệt nhiên có tính tâm lý, nó như những hiện tượng ta vẫn gọi là nổi hứng, là động cỡn...”
●
Kẻ chờ xe là một anh chàng kỳ cục không giống ai, vì tóc bù xù râu xồm xoàm, hay vì những cảm nghĩ, những hành động ngoài khuôn khổ?
Một trong những hành động “ngoài khuôn khổ” đó là bóp cổ huyền thoại tình nhớ/thương hoài ngàn năm – cái gì đã qua cho qua luôn – dẫu hắn cũng có bồi hồi “khi quơ phải tấm hình một người bạn gái thời tiểu học, con bé người Minh hương có đôi mắt đen và sâu”. (Ậy, tôi đâu có bảo hắn là một con người khô khan tình cảm!). Hắn có thừa điều kiện để đóng vai con người lạc loài cô đơn trong một xã hội luôn luôn xa lạ, xã hội (cộng sản hay tư bản) không ngừng thay đổi từng giờ, từng phút, mặc dù hắn không than van hay hờn oán ai cả, mà chỉ tỉnh bơ nhỏ nhẹ tìm cách lý giải cuộc sống và những cái dị biệt của mình. Thời gian tạo dựng và tiêu diệt, trí nhớ là vòi nước rỉ, là miếng bánh mì thỉnh thoảng ta lấy ra mút mút vài cái: không còn gì không có ai, cô độc và trơ trụi là số phần của kẻ chờ xe, là thân phận của con người hiện đại trong một thế giới không “phi lý” hay “có ý nghĩa”, mà chỉ “hiện hữu”, vì đã vắng bóng Thượng Đế. Tuy có vẻ mâu thuẫn, ta vẫn có thể bảo là cốt chuyện của Chuyến xe vừa trừu tượng (một ẩn dụ) vừa hiện thực (một cái ảnh thời sự). Hư cấu, nhưng từ một hoàn cảnh thật, một cuộc đời thật.
Các truyện của Hoàng Ngọc Biên không lê thê bề bộn, vì chữ nghĩa được nâng niu đãi lọc kỹ càng, mỗi từ được ông sử dụng như một nốt nhạc. Ông thường tỏ ý muốn vứt bỏ hết những cái ông viết, mà (ít ra là hơn một lần trong Chuyến xe) ông nghĩ chỉ là chuyện nhảm nhí, “chắc gì có người đọc”.
Làm hoài. Thất bại mãi. Chả sao. Làm nữa. Thất bại thêm. Thất bại rực rỡ hơn. Nói theo kiểu Beckett, thì Chuyến xe là thất bại rực rỡ nhất của nhà văn Hoàng Ngọc Biên. Thông thường mà nói thì nó là một kiệt tác.
Kẻ chờ xe đã lỡ chuyến. Thế nhưng nếu đuổi kịp, chiếc xe sẽ đưa hắn đến đâu? Chính hắn cũng không chắc đã rõ. “Và ngay cái giây phút tuyệt vọng đó, ngay cái giây phút người ta có thể đập đầu vô đá đó, tôi nghe có ai nói với tôi, hoặc chính tôi nghĩ, hoặc chính tôi nói không chừng, một nội dung thật là vô nghĩa, vang lên như một lời hăm dọa giễu cợt: cũng tốt thôi!”
Cũng tốt thôi! Bởi chiếc xe có thể là con tàu cứu nguy, cũng có thể là chuyến tàu suốt, hoặc cả hai.
Cũng tốt thôi. Bởi ở đâu chúng ta cũng đều là những kẻ chờ xe...
Thơ
Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên
trùng dương
ta thấy rồi
ngọn gió vàng thoảng qua
mặt trời chìm trong biển
sóng bạc đầu bắt nhịp
mây xanh xao nhuốm bệnh
hịu quạnh
những
trời xa
ta thấy rồi
nỗi đau dày vô tận
ký ức nặng mùa đông
thời gian ngàn cánh hạc
biển
lần nữa
trùng dương
ta thấy rồi
mưa trong mây vô tận
nghiêng những giọt xanh lam
mùa khô da tróc vỏ
cây lần nữa
đổi
màu
phố phái
những bệt màu lam hồng
những bệt màu lam hồng
góc phố lạnh tanh
sắc xám
căn gác vuông
tro than ngày cũ
nét cọ đen kéo dài ký ức
nỗi buồn này
phố phái
ngàn năm
sắc xám
căn gác vuông
tro than ngày cũ
nét cọ đen kéo dài ký ức
nỗi buồn này
phố phái
ngàn năm
Một minh họa mực tàu của
Hoàng Ngọc Biên, Saigon, 1970.
Hoàng Ngọc Biên, Saigon, 1970.
ngày sinh của hắn
thế là trên bảy mươi
thế là trên bảy mươi
ta vẫn phải cứ đi
phải cứ đi
vì đã lỡ đi – đã lỡ ôm túi vải
thời trẻ tuổi
lên đường
trên bảy mươi
đất dưới chân lạnh đến nỗi
nhà cửa cây cối phải ngẩng mặt
nhìn trời phát ra những âm thanh
kinh hoàng
trên bảy mươi
nhiều người thích
được có người dắt dẫn
ôm vai quàng cổ khen nhau
trẻ già ai nấy
hớn hở đồng chí anh em
mệt nghỉ
ta vẫn phải cứ đi
đi riết vẫn không biết
mình đi đâu
đi riết – một mình
cho tới khi
gặp một bến sông
bờ bên này là đồng khô
bờ bên kia là cây xanh
bóng đổ dài lên mặt nước
a ta đã về đến chỗ ngày xưa
– tiếng nói rớt trên chỗ giáp tiếp đất và nước –
ngày trần truồng tay ta ôm chặt
một thân chuối thả trên sông
nói sòng phẳng:
đạp bằng hai chân ta thấy thú hơn
đạp bằng đầu
đi tới – mà chẳng cần biết
phải đi tới đâu
ta đã đi và ta đã đến!
tiếng thét vô duyên lạc trên chỗ tiếp giáp
quá khứ và hãy cứ coi là hiện tại
hai mắt ta tròn xoe ngơ ngác
chỗ này a? thế thì khác chỗ khác chỗ nào?
chỗ nào cũng thế – chỗ nào
cũng như nhau
chỗ nào cũng đơn một màu tẻ nhạt
chỗ nào cũng có chính điện
nằm giữa hai chái
những cánh cửa mái ngói
rồng phượng uy nghi
và những ông kẹ nham hiểm
dùng giáo mác giập tắt tiếng kêu
của đám hiền dân ở chiếu dưới
hiền dân lâu ngày lặng lẽ
sống dưới hào quang
những làng quê đầy dẫy
những đền thờ
nơi đây
mọi thứ đều tiến bộ
đến nỗi một thời
những cánh chim và ngay cả vầng trăng
trở mình không đúng hướng
nghe nói
cũng có thể bị đe doạ
lưu đày
trên bảy mươi
thế là…
trụ trên nỗi đau
hai chân trụ trên nỗi đau
ta hát bài hát riêng ta
hơn sáu thập kỷ đi - về
chiều nghiêng nghiêng màu đục
đường hai bên
cỏ dạt
đẫm thời gian
đem theo gì
con người vô định
đem theo gì – đêm lên tiếng hỏi
lời kinh của mẹ
tiếng mõ của cha
Bùi Xuân Phái ký họa
Tiểu luận & Nhận định
https://hoangngocbien.wordpress.com/category/ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn-nh%E1%BA%ADn-d%E1%BB%8Bnh/
https://hoangngocbien.wordpress.com/category/ti%E1%BB%83u-lu%E1%BA%ADn-nh%E1%BA%ADn-d%E1%BB%8Bnh/
Ngoại ô
Nhà trên núi
Tham khảo thêm về tác giả Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên trên Tiền Vệ
http://www.tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=33
HOÀNG NGỌC BIÊN
VỚI CON ĐƯỜNG TIỂU THUYẾT MỚI
VÀ THỜI GIAN TÌM THẤY LẠI
NGÔ THẾ VINH
"Thiên đường thật là những thiên đường đã mất."
"Les vrais paradis sont les paradis qu'on a perdus"
Marcel Proust, Le Temps retrouvé
Hình 1: Hoàng Ngọc Biên và Ngô Thế Vinh trong garage sách
San Jose 02-05-2008 [photo by Nguyễn Xuân Hoàng]
TIỂU SỬ HOÀNG NGỌC BIÊN
Hoàng Ngọc Biên, tên thật cũng là bút hiệu, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1938, làng Bích Khê, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Học sinh trường Thánh Mẫu Teresa Quảng Trị. 1942, theo cha chuyển sở làm, cả gia đình vô Huế, sống ở Vĩ Dạ mấy năm, sau đó lại theo cha vào Tourane / Đà Nẵng một năm rồi trở ra Quảng Trị. Năm 1950 "du học" Huế. Năm 1952, trở về Quảng Trị học tiếp trung học.
1953, Biên theo gia đình vào Sài Gòn, học trường Kiến Thiết và bắt đầu kết thân với người bạn cùng lớp Nguyễn Đăng Thường, cũng từ đó nảy nở một tình bạn lâu dài cùng với Mark Frankland, nhà báo Anh cho tới những năm về sau này.
1954, Biên lần đầu tiên được gặp nhà văn Vũ Khắc Khoan di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn, và mới được biết bác Khoan là anh em con dì với bên mẹ ruột của Biên.
[Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan: sinh ngày 27.02.1917 tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, giáo sư các trường Chu Văn An, Văn Khoa, Vạn Hạnh và Quốc Gia Kịch Nghệ Sài Gòn. Thành viên nhóm Quan Điểm. Chủ trương tạp chí Vấn Đề, tác giả Thần Tháp Rùa và Thành Cát Tư Hãn... Mất tại Hoa Kỳ năm 1986, ở tuổi 69].
1958, Thi vào Đại Học Sư Phạm Đà Lạt ban Pháp văn. Thời gian này, Biên quen với nhà biên khảo Tam Ích, lúc đó đang dạy Pháp văn tại trường trung học Việt Anh. Biên còn nhớ những núi sách báo ở nhà Tam Ích, ông cũng thường ghé thăm Biên và mượn đọc những số báo Le Figaro Littéraire và Arts et Spectacles mà Biên đặt mua dài hạn hàng tuần từ Pháp.
[Học giả Tam Ích Lê Nguyên Tiệp: sinh ngày 11.12. 1917 tại Thanh Hoá, vào Nam từ 1937, giáo sư văn chương và dạy Pháp văn các trường trung học và Đại học Vạn Hạnh. Tác giả Nghệ Thuật và Nhân Sinh (Nxb Chân Trời Mới, 1941). Ông tự vẫn năm 1971 bằng cách treo cổ, năm ấy Tam Ích mới 54 tuổi].
Tại Đại Học Sư Phạm, Biên có cơ hội kết thân với Giáo sư Etiennette Poirson là người thầy Biên mãi mãi ngưỡng mộ, sau đó về Sài Gòn bà còn cung cấp cho Biên nhiều tài liệu viết về Proust. Biên bắt đầu say mê đọc bộ sách À la Recherche du Temps perdu.
1961, Tốt nghiệp ĐHSP, về dạy Pháp văn Trung học Tống Phước Hiệp Vĩnh Long, cùng nhiệm sở với Nguyễn Thu Hồng, cùng khoá ĐHSP ban Pháp văn Sài Gòn và một năm sau cô giáo xuất thân từ Nhà Trắng Saint-Paul trở thành bạn đời của Hoàng Ngọc Biên cho tới bây giờ.
1964, Thuyên chuyển về Trung học Tây Ninh, rồi Tân An. Bắt đầu viết "Viết Giữa Mùa Hè". Tìm gặp và rồi thân thiết với nhà văn Võ Phiến, thường xuyên lui tới nhà anh chị Võ Phiến trong hẻm Trần Quang Diệu. Người viết gặp và quen Hoàng Ngọc Biên cũng trong khoảng thời gian này.
Chân dung Hoàng Ngọc Biên qua nét phác hoạ của Võ Phiến: "Anh Biên thì khuynh tả, khoái Che Guevara; chính anh thì râu ria tóc tai dài phủ tới ót. Ảnh mê M. Proust như tôi, nhưng sưu tầm về Proust đầy đủ chứ không tài tử như tôi; anh giỏi hội hoạ và âm nhạc. Anh chị Biên và vợ chồng tôi hợp tính tình, thường gần gũi tâm tình. Sau 4.1975 anh Biên vẫn giữ được râu tóc xum xuê suốt 16 năm. Tháng 10.91 anh rời Sài Gòn đi Mỹ, các con tôi như thiếu đi người chú ruột. Trong 16 năm qua, mọi việc lớn nhỏ trong gia đình các con tôi, gặp rắc rối là đều do chú thím Biên giải quyết cho. Hiện thời anh chị ấy ở Utah, Salt Lake City. [Tuyển tập Thư Võ Phiến, Los Angeles 4.12.1991]
Hình 2: từ trái: vợ chồng Võ Phiến, vợ chồng Hoàng Ngọc Biên [tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
1968, Tại Trung Tâm Học Liệu: Biên kết thân với Cao Thanh Tùng, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Lê Thị Chí... Diễm Châu từ Indiana (Mỹ) về Sài Gòn tìm gặp Hoàng Ngọc Biên, bàn dự án cùng nhau làm tạp chí Trình Bầy. Đi lính 9 tuần Quang Trung. Xuất bản Tuyển tập Mười Nhà Văn Pháp Hiện đại, Nxb Trình Bầy. Giới thiệu những tên tuổi lẫy lừng của phong trào tiểu thuyết mới Pháp như Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Natalie Sarraute, Claude Simon...
1970, Năm của Tạp chí Trình Bầy ra mắt số đầu tiên. Biên được Học bổng USAID về Book Design và Book Production McGraw-Hill đi Mỹ, sau được chuyển qua McGraw-Hill FEP Singapore. Xuất bản Đêm ngủ ở tỉnh, tập truyện ngắn, một thử nghiệm hình thức tiểu thuyết mới của Hoàng Ngọc Biên, Nxb Cảo Thơm.
1973, Dạy Pháp văn 3 niên khoá tại Đại học Bách khoa Sài Gòn.
1975, Làm báo Tin Sáng sau 1975, là trưởng ban văn hoá xã hội, rồi kiêm trưởng ban kỹ thuật sau khi Nguyễn Đồng vượt biên, cùng làm việc với mấy bạn cũ như Nguyễn Đồng Nguyễn Thị Hợp, Cao Thanh Tùng, Đinh Cường, và cả Nguyễn Xuân Hoàng.
1991, Sang Mỹ định cư tháng 10.1991, ghi danh vào Salt Lake Community College cùng với hai con là Hoàng Tân Nhân và Hoàng Tân Dân, để trước tiên làm quen với máy móc tin học. Biên bắt đần vẽ tranh trên computer với kỹ thuật số / digital art.
1993, Vào làm việc cho tờ báo Salt Lake City Weekly từ Tháng Bảy 1993 tới 1998 với vai trò Art Director; 1999 chuyển qua chuyển qua làm Production Coordinator.
2004, Bắt đầu tham gia diễn đàn tienve.org qua bản dịch Chuyến đi mùa đông của George Perec (2003) Nguyễn Hưng Quốc đem về từ nhà anh Võ Phiến.
Bất ngờ cũng năm ấy, Biên bị méo một bên mặt trái và nói khó khăn. Bạn bè không an tâm vì nghĩ Biên bị tai biến mạch máu não/ stroke nhưng thực ra anh chỉ bị liệt dây thần kinh mặt ngoại biên / dây thần kinh sọ số VII hay Bell's Palsy. [Charles Bell là nhà cơ thể học đầu tiên mô tả căn bệnh này.] Biên được chữa trị bằng tây y kết hợp với châm cứu. Điều trị hay không, trong nhiều trường hợp Bell's Palsy có tiến trình tự hồi phục. Cùng năm, Biên chọn nghỉ hưu ở tuổi 66 và sau đó vợ chồng Biên dọn về San Jose sống với gia đình người con trai.
2011, Sức khoẻ suy yếu, Biên được bác sĩ chẩn đoán bị sơ gan / cirrhosis giai đoạn cuối, và được đưa vào danh sách chờ bộ phận để được thay gan / waiting list for liver transplant.
2012, Biên được thay ghép gan tại Bệnh viện Đại học Stanford, Palo Alto 12.9.2012. Bệnh viện ĐH Stanford cũng là nơi Nguyễn Xuân Hoàng được điều trị bệnh sarcoma. Biên là trường hợp khá hiếm hoi được thay ghép gan ở ngưỡng tuổi đã quá thất thập cổ lai hy, năm ấy Biên cũng đã 74 tuổi. Vượt qua được dốc tử sinh, Biên dần dần hồi phục. Sau này được biết bộ gan mới của Biên là nhận từ một thanh niên Mỹ mới ngoài 30 tuổi.
Gởi Biên vừa thay gan
về nhà đội chiếc mũ dạ đỏ
Hình 3: từ phải, Hoàng Ngọc Biên - Đinh Cường
San Jose 4. 2012 [tư liệu Đinh Cường]
Waiting list để được thay gan
rồi cũng đến. mừng hoàng ngọc biên
đã về nhà. gương mặt có gầy hơn
nhưng thần sắc an nhiên
nằm gối đầu tên chiếc gối sọc xanh
chiếc mũ dạ màu đỏ ( thường màu xám sậm )
hàm râu lưa thưa như che nụ cười đùa
nghỉ đi biên nghỉ cho lại sức
rồi sẽ kể chuyện cùng anh em
không gì vui hơn hay tin bình yên
bạn đã rời bệnh viện về nhà
tay vẫn đeo vòng tràng hạt nhỏ
om mani padme hum hrih
quán thế âm như vầng trăng
với ánh sáng mát dịu dập tắt
những thiêu đốt của sinh tử [1]
tôi luôn đọc thì thầm
lời kinh trong đêm khuya
lời kinh không cầu xin
thấm đẫm tình nhân ái
bạn thay gan xong rồi, mùa thu này ghi nhớ …
Đinh Cường
Virginia, 19 Oct,2012
Hoàng Ngọc Biên đọc nhiều và tích luỹ. Sinh hoạt của Biên rất đa dạng, ngoài dạy học, Biên viết văn, làm thơ, dịch sách, vẽ tranh, và cả soạn nhạc, điều rất ít ai biết. Trong Ban biên tập tạp chí Trình Bầy (1961-1975), phụ trách mỹ thuật cho các sách báo và nhà xuất bản ở Việt Nam (1975-1991) và tuần báo The Salt Lake City Weekly ở Mỹ (1993-2004).
Trước 1975 đã triển lãm tranh tại Viện Đại học Đà Lạt, Gœthe Institut, Alliance Française, Hội Họa sĩ Trẻ VN, Phòng Thông tin & Báo chí Sài Gòn, La Dolce Vita (Hotel Continental), Trung tâm Văn hóa Vũng Tàu, và đồ họa, Nxb McGraw-Hill, Singapore, 1972.
Hình 4: Triển lãm tranh của Hội Hoạ sĩ Trẻ Việt Nam, Alliance Francaise
từ trái: Đinh Cường, Mai Chửng, Dương Nghiễm Mậu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Nguyễn Đồng [tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ]
XUẤT BẢN TRƯỚC 1975:
-- Mười Nhà Văn Pháp Hiện Đại, Trình Bầy, 1969;
-- Đêm Ngủ ở Tỉnh, tập truyện ngắn, Cảo Thơm, Saigon, 1970; -- Marcel Proust - Con Người Xã Hội, Trình Bầy, 1974;
XUẤT BẢN SAU 1975:
-- Uống Trà Sớm Mai, thơ, Trình Bầy, USA, 1996.
-- Người Đạp Xe Vào Thành Phố Buổi Sáng, truyện, Trình Bầy, USA, 1997.
-- Chuyến Xe, truyện, Trình Bầy, USA 1997.
-- Đất và Người và Thần Thoại Việt Nam, thơ, Trình Bầy, USA, 1997.
-- Biển Ngày Đêm, thơ, Trình Bầy, USA, 1999.
-- Quê Hương, Người Về [hai đoản văn viết theo một tấm tranh dán của Nguyễn Đăng Thường], Trình Bầy, USA, 2001.
-- Chân Mây Cuối Trời, thơ [in chung với thơ Đỗ Trung Quân và tranh Nguyễn Quỳnh], Trình Bầy, USA, 2003.
TÁC PHẨM DỊCH:
-- Andrei Sinyavski: Thơ Pasternak, Con Người và Tác Phẩm Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1988.
-- Tĩnh Vật và Những bài Thơ Khác, thơ Joseph Brodsky, Thuận Hóa, Huế, 1991;
-- Mối Tình Đầu, truyện Samuel Beckett, Trình Bầy, USA,1993.
-- Thơ Mới Ba Lan, tuyển tập thơ mới Ba lan, Trình Bầy, USA, 1993.
-- Marcel Proust, tiểu luận Samuel Beckett, Trình Bầy, USA, 1995.
-- Thư Hà Nội, của Jean Tardieu [dịch chung với Nguyễn Thu Hồng], Trình Bầy, USA, 2001.
-- Chuyến Đi Mùa Đông, truyện Georges Perec, Trình Bầy, USA, 2003.
-- DJINN, truyện Alain Robbe-Grillet, Trình Bầy, USA, 2003.
HOÀNG NGỌC BIÊN VÀ NHÓM TRÌNH BẦY
Diễm Châu tên Phạm Văn Rao, sinh ở hải Phòng, di cư vào Nam 1954. Quen Thế Nguyên từ trại học sinh di cư Phú Thọ. Diễm Châu tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn, được tu nghiệp ở Mỹ sau đó trở về Sài Gòn, tìm gặp Hoàng Ngọc Biên thuyết phục cùng làm tờ báo Trình Bầy. Biên đã cùng Diễm Châu, ngồi nhiều tuần lễ bên một vách tường café vỉa hè đường Sương Nguyệt Anh Sài Gòn soạn bài Phi lộ với tiêu đề "Con Đường Đi Tới" cho số báo ra mắt. Trích dẫn:
..."Con đường đi tới là con đường mưu cầu một nền hoà bình, trong đó mỗi một người Việt Nam, không kỳ thị ý thức hệ, sẽ có một chỗ đứng xứng đáng với phẩm giá con người trên quê hương mình."
..."Không thể có hoà bình vô điều kiện. Một nền hoà bình Việt Nam nhất định sẽ không thể chấp nhận bất cứ một sự hiện diện nào của các lực lượng nước ngoài và đồng thời cũng không thể chấp nhận bất cứ một cơ cấu, một định chế hay một thế lực nào trong nước ngăn cản công cuộc giải phóng con người Việt Nam." Hết trích dẫn.
Hình 5: Hoàng Ngọc Biên và Diễm Châu (1937-2006), là hai bạn đồng hành trí tuệ trong Nhóm Trình Bầy, Thế Nguyên đứng tên Chủ nhiệm
[tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
Trình Bầy một tờ báo thiên tả, phản chiến giữa giông bão của cuộc chiến tranh quốc cộng, với Diễm Châu tổng thư ký, Diễm Châu còn một bút hiệu khác là Võ Hồng Ngự. Thế Nguyên là chủ nhiệm. Tờ báo đã quy tụ được nhiều cây viết thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau thời bấy giờ. Không phải chỉ có ở báo Bách Khoa, Trình Bầy thực sự là một vùng xôi đậu với tên tuổi những nhà văn nhà thơ như Nguyên Sa, Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Trùng Dương, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Gíác, Du Tử Lê, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Quốc Thái, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh... nhiều người xuất thân từ quân đội, bên cạnh đó là những cây bút thiên cộng Ngô Kha, Nguỵ Ngữ... hay cộng sản nằm vùng như Nguyễn Nguyên - Nguyễn Ngọc Lương, giống như trường hợp Vũ Hạnh bên tờ báo Bách Khoa.
Trình Bầy hoạt động liên tục trong 2 năm 1970 - 1972, ra được 42 số báo cho tới khi bị đình bản. Để rồi, thực tế sau 30 tháng Tư, 1975 là sự vỡ mộng của những người trí thức thiên tả - theo ngôn ngữ thời thượng thì đó là thành phần thứ ba, trong số đó có Diễm Châu và Hoàng Ngọc Biên. Bởi vì sau thống nhất, không phải chỉ có miền Bắc mà nay là cả một đất nước phải sống trong một định chế bóp nghẹt mọi tự do của con người. Trí thức thiên tả nếu không bị tù đầy thì cũng bị trù giập bạc đãi và chỉ là những kẻ đứng bên lề. Cuối cùng họ trở thành những kẻ lưu vong nếu không ở nước ngoài thì cũng ngay trên chính quê hương mình. Diễm Châu sang Pháp 1983, Hoàng Ngọc Biên đi định cư ở Mỹ 1991. Ra hải ngoại rồi, cả Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu và Nguyễn Đăng Thường đều cố giữ sức sống cho cơ sở Trình Bầy. Manchette Trình bầy đối với họ như hình ảnh một giấc mộng lỡ.
Và trong sự thức tỉnh muộn màng, Diễm Châu trở thành rất hữu khuynh cho tới khi anh mất năm 2006.
Hình 6: Những mẫu bìa rất mỹ thuật của 42 số báo Trình Bầy đều do Hoàng Ngọc Biên vẽ và thiết kế [tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây sự giác ngộ của cả những khuôn mặt trí thức lớn thiên tả Pháp như Jean Paul Sartre, đối với cộng sản Việt Nam sau 1975, khi có xảy ra thảm trạng "boat people" trên Biển Đông; chính J.P. Sartre đã trở thành một "activist" vận động hiệu quả cho "Một con tàu cho Việt Nam/ Un bateau pour le Vietnam" đi cứu vớt các thuyền nhân. Kinh nghiệm với cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn là một bài học/ a lesson to learn cho thế giới.
VỚI M. PROUST ĐI TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT
Từ 1959, Biên đã say mê trong nhiều năm đọc và dịch Marcel Proust; 12 năm sau Biên cho xuất bản "Marcel Proust, Con Người Xã Hội", nhân dịp 100 năm sinh của M. Proust.
M. Proust sinh ngày 10.7.1871, mất ngày 18.11.1922 năm ông 51 tuổi. M. Proust đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với tác phẩm À la Recherche du Temps Perdu / Đi tìm Thời gian Đã Mất gồm 7 cuốn. Le Temps Retrouvé / Thời Gian Tìm Thấy Lại là tập cuối khép lại mấy ngàn trang sách. Proust đã trở thành một tượng đài văn học được ngưỡng mộ, tác phẩm của ông là đối tượng cho hàng trăm công trình nghiên cứu và luận án từ khi ông chết và cho tới mãi bây giờ.
Những trang sách của ông thế nào mà vẫn làm cho các thế hệ say mê. Chắc chắn chẳng phải chỉ là những ký ức về một ngôi làng, về một gia đình, hay về một thời thơ ấu của cậu bé với nội tâm dồn nén và cả ẩn ức với khuynh hướng đồng tính. M. Proust đã từng ví mình như Noé trong Kinh Thánh, vì cơn hồng thuỷ đã bị nhốt trong thuyền suốt bốn mươi ngày đêm. M. Proust viết: "Bấy giờ tôi mới hiểu được là không có chỗ nào Noé có thể nhìn cuộc đời rõ ràng bằng từ trong thuyền, cho dù thuyền đã đóng kín dù đang tối mịt mùng trên trái đất / Jamais Noé ne put si bien voir le monde que de l'arche malgré qu'elle fut close et qu'il fit nuit sur la terre." M. Proust, A la Recherche du Temps Perdu.
M. Proust với một thể chất bệnh hoạn, bị giam hãm mình trong căn phòng kín, chủ yếu viết về ban đêm. Và từ không gian khép kín ấy, M. Proust đã viết về những cái cái vụn vặt của đời sống đâu đây có phiền muộn, có hoan lạc có những tiếng động, những mùi vị... tưởng như quá tầm thường quá quen thuộc nhưng đã được một thiên tài Proust ghi lại như một ký ức của trí tuệ / mémoire intellectuel bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu đẫm chất thơ và cả nhạc tính.
Trong Thời Gian Tìm Thấy Lại / Le Temps Retrouvé, M. Proust đã viết: "Những sự vật... ngay khi ta thấy được chúng, đã trở thành một cái gì vô hình trong ta."
Cao Thanh Tùng, một nhạc sĩ cello trong bài viết "Quê hương của Nhạc sĩ" đã ví À la Recherche du Temps Perdu như "một tác phẩm giao hưởng lớn trên dòng chuyển động luân lưu bất tận của thời gian". Thời gian tưởng đã mất, nhưng rồi qua ký ức trí tuệ của Proust thời gian tìm thấy lại, và đã trở thành thời gian bất tử.
Hình 7: bìa sách Marcel Proust, tiểu luận Samuel Beckett,
Trình bầy, USA, 1995 và thủ bút Hoàng Ngọc Biên
Có thể nói chặng đường tiểu thuyết mới của Hoàng Ngọc Biên thực ra đã chịu ảnh hưởng rất sớm và sâu đậm từ M. Proust chứ không phải chờ tới thời kỳ "phong trào tiểu thuyết mới" với Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Samuel Beckett mà Biên được đọc ở những năm về sau này.
Hình 8: Bìa báo Văn 85 chủ đề "đọc văn Marcel Proust"
do Hoàng Ngọc Biên phụ trách, mẫu bìa của hoạ sĩ Lê Thị Chí.
Năm 1967 tại Sài Gòn, Hoàng Ngọc Biên đã giúp Trần Phong Giao thực hiện 2 số báo Văn 85-86 với chủ đề Đọc văn Marcel Proust. Hoàng Ngọc Biên được coi như ngòi bút chuyên khảo về M. Proust ở miền Nam lúc bấy giờ.
CON ĐƯỜNG TIỂU THUYẾT MỚI
Cho tới 1954, tiểu thuyết Việt Nam hầu như vẫn theo khuôn khổ cổ điển, có cốt truyện với diễn tiến theo trình tự thời gian. Trong khi đó, ở phương Tây đang có những bước đột phá của phong trào tiểu thuyết mới/ nouveau roman. Với các tên tuổi như: Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claude Simon, Jacque Derrida, Nathalie Sarraute... Không còn mẫu mực xây dựng tiểu thuyết truyền thống đã có từ mấy thế kỷ trước. Có thể ví tiểu thuyết mới như một bước phá thể, như từ thơ niêm luật chuyển sang thơ tự do. Hình thức tiểu thuyết mới đã không còn thứ tự thời gian, người viết không còn dùng ngôi thứ ba đứng bên ngoài nhân vật. Cùng sự việc được ghi lại qua nhiều nhãn quan khác nhau và vai trò cốt truyện gần như bị loại bỏ. Michel Butor cũng đã phát biểu: "Tiểu thuyết như một tìm tòi, hình thức của tiểu thuyết có tầm quan trọng hàng đầu".
Phong trào tiểu thuyết mới của Pháp tuy rầm rộ nhưng ngắn ngủi và không tạo được những ảnh hưởng lâu dài, nhưng nó thành công là đã mở ra những khái niệm khoáng đạt hơn về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết.
Ở miền Nam Việt Nam, thập niên 1960s, một số tác giả trẻ bén nhậy với văn học đổi mới ở phương Tây, bắt đầu dấn thân thử nghiệm kỹ thuật tiểu thuyết mới. Trong số đó phải kể tới Nhóm Đêm Trắng bao gồm Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Quốc Trụ. Ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm, đa số xuất thân nhà giáo, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc Trụ. Không tuyên ngôn, không đường lối, mỗi người sáng tác độc lập với quan niệm rộng mở hơn về viết tiểu thuyết.
Dương Nghiễm Mậu tuy không đọc các tác phẩm tiểu thuyết mới của Pháp nhưng DNM được Võ Phiến đánh giá là thành công nhất trong cách sử dụng các kỹ thuật tiểu thuyết mới. "Trong cuốn truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôi' không hẳn là một nhân vật nào, khi là nhân vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xảy ra thoăn thoắt làm nổi bật sự thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự việc khác nhau. Ông Dương lại có cái hay là mặc dầu sử dụng kỹ thuật Tây phương ông vẫn giữ được cốt cách dân tộc: đọc ông người ta không hề cảm thấy dấu vết ảnh hưởng ngoại lai, người đọc ở bất cứ trình độ nào cũng thấy thoải mái, thấy một bầu không khí quen thuộc." [Văn Học Miền Nam Tổng Quan, tr.260-262]
Nhưng theo Nguyễn-Xuân Hoàng và Nguyễn Đình Toàn thì chính Hoàng Ngọc Biên mới thực sự là người khởi đầu nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, dịch một số tác phẩm của Alain Robbe-Grillet, viết về 10 nhà văn Pháp hiện đại và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất bản Sài Gòn, 1970. Biên-Butor là một tên ghép bạn bè thân ái đặt cho Hoàng Ngọc Biên lúc đó, Michel Butor là một kiện tướng của phong trào tiểu thuyết mới của Pháp thời bấy giờ.
Hình 9: từ trái, bìa sách Mười Nhà Văn Pháp Hiện Đại, Trình bầy, 1969;
Đêm Ngủ ở Tỉnh, tập truyện ngắn, Cảo Thơm, Saigon, 1970
Trong các truyện, không có truyện của Hoàng Ngọc Biên, chỉ có cái nhìn lạnh lùng bên ngoài của sự việc, không có xen vào những suy tưởng, xúc động của người viết.
Một trích đoạn truyện ngắn Đêm Ngủ ở Tỉnh:
"Anh cúi đầu bước những bước dài ngắn không đều nhau trên quốc lộ số 4 dẫn vào tỉnh lỵ. Dưới cơn mưa mùa hè đột ngột đổ mạnh xuống che kín một bầu trời cũng đột ngột xám đen, thấp trũng, rồi thưa dần, thưa dần - những hạt mưa nhỏ bay theo hướng ngọn gió chiều từ phía cầu sắt tạt mạnh vào mặt anh, lạnh ngắt - anh cẩn thận tránh những vũng nước sâu đọng lại sau mấy ngày mưa, những vạch nước dài chảy thẳng theo những đường cày chồng lên nhau của những chiếc xe hàng ngày vẫn thường chạy lấn hai bên lề, lăn bánh trên chỗ đất vàng. Anh đi qua một quán nước bên phải, rồi một quán nước nữa, mái thấp lẻ tè không qua khỏi tầm tay với, anh đi qua một trại lính bên trái, khung cửa sắt hoen rỉ giờ đây đứng chết lì không đóng lại được, anh đi qua một khu nhà thờ nằm sâu sau một khoảng đất rộng rợp bóng lá cây, những lá cây trong năm vẫn khoác một lớp bụi vàng bốc lên từ mặt quốc lộ - với những chuyến xe hàng, những đoàn xe chuyển binh chạy vụt qua liên miên từng phút từng giây - giờ đây lấp lánh một màu xanh tươi mát.
Anh đi qua ngôi trường tiểu học xây bên hông nhà thờ giờ đây vắng bóng ê a tập đọc của lũ trẻ theo giọng lên thánh thót của các soeurs cất cao sau mỗi nhịp thước gõ trên bàn. Anh đi qua khu đất vừa được đắp lên hơn một năm nay dùng làm nơi hạ cánh cho những chiếc trực thăng hành quân, những xe cần trục, những máy móc, những đống đá xanh còn nằm ngổn ngang la liệt bên những cây sắt dài chồng lên nhau, thẳng hàng, dáng chừng để hoàn thành một sân bay lớn hơn.
Tỉnh lỵ bắt đầu hiện ra với ngôi chùa im lìm ẩn kín sau những cây cảnh nhìn thấy giữa hai hàng dậu thưa, hai hàng chữ nho sơn vàng trên nền đỏ của hai trụ lớn được cơn mưa rửa sạch, rực rỡ hẳn lên. Anh đi qua những mái lá thấp xuống, ướt át, những mái ngói đỏ chói sau những cơn mưa lại đỏ chói hơn, nằm lẫn với hai ngôi chúa Cao Đài mới và cũ, với những hình chạm bay bướm loè loẹt, anh đi qua trạm kiểm soát - nhà ga cũ nhắc lại quá khứ những chuyến xe lửa ghé qua..."
Qua suốt 40 trang sách Đêm Ngủ ở Tỉnh, vẫn một giọng văn đều đều như vậy, xuôi chảy theo dòng ý thức với giàu hình ảnh và cả chất thơ. Người đọc đi theo bước chân nhân vật không có tên, không có địa danh nơi đâu và cũng không biết nhân vật định đi về đâu. Cảnh tượng được ghi nhận như phản chiếu từ một tấm gương, cảm xúc nếu có là do tự người đọc chứ không do truyền đạt từ người viết.
Tuy rất thân thiết và quý trọng tài năng Hoàng Ngọc Biên nhưng Võ Phiến cũng có lúc băn khoăn tự hỏi, qua một lá thư riêng gửi Nguyễn Hưng Quốc: "Cái viết của Hoàng Ngọc Biên, có cố gắng thoát khỏi thời 'tiền lý thuyết' Việt Nam? Liệu anh ấy có tìm ra được hướng lý thuyết nào không, đường hướng nào mới mẻ không?"... [Santa Ana 5.6.2004]
Chính Hoàng Ngọc Biên, cả ở những năm về sau này, qua những sáng tác mới anh vẫn cứ bền bỉ và kiên trì đi trên con đường tiểu thuyết mới mà anh đã chọn. Truyện của Biên kén độc giả, Hoàng Ngọc Biên không phải là tác giả của đám đông nên tên tuổi của anh cũng ít được biết tới.
ĐỌC THƠ HOÀNG NGỌC BIÊN
Biên làm nhiều thơ. Đọc một bài thơ đầu trích từ tập thơ Biển Ngày Đêm, Trình Bầy, USA, 1999, được mở đầu với câu trích dẫn:
When a man dies
His portraits change.
Anna Akhmatova
Một chỗ ngả lưng
một chút nắng
một chút mưa
một chút chiều êm ả
một chút phật
một chút chúa
một chút bão tố trong đêm
một chút mây
một chút gió
chút địa ngục
ta ghé chơi
một chút thiên đàng
ta ngả lưng nằm xuống
CÕI TẠO HÌNH HOÀNG NGỌC BIÊN
Hoàng Ngọc Biên chưa bao giờ tự nhận mình là trong số thành viên sáng lập Hội Hoạ Sĩ Trẻ, nhưng Biên có tranh tham dự triển lãm chung với
các bạn Hội Hoạ Sĩ Trẻ; và theo Trịnh Cung thì Biên chính thức có tên trong danh sách hội viên HHST từ thập niên 1970.
Nếu Nguyên Khai năm 1994, đã mạnh dạn mở rộng tầm nhìn của người nghệ sĩ vào thế giới kỹ thuật computer hiện đại: anh sáng tạo những bức tranh sơn dầu vẫn với đường nét tài hoa rất Nguyên Khai nhưng có sử dụng thêm cả những chip điện tử như chất liệu mới trong không gian hội hoạ của mình.
Thì Hoàng Ngọc Biên từ thập niên 1990, đã bắt đầu vận dụng kỹ thuật số Digital, để sáng tạo nhiều bức đồ hoạ với đường nét thuần khiết bình dị nhưng bố cục và màu sắc thì đặc sắc.
Biên được du học Singapore về Book Design và Book Production McGraw-Hill sau đó là Nhật Bản. Tài hoa của Biên cũng được thể hiện qua những mẫu bìa báo Trình bầy và các bìa sách rất nghệ thuật theo cái nghĩa cổ điển và cũng rất Hoàng Ngọc Biên.
Rất sớm từ 1977, Hoàng Ngọc Biên đã phát biểu về quan niệm hội hoạ hay nghệ thuật nói chung: "Tôi thích nhìn công việc nghệ thuật tạo hình, trong bất cứ giai đoạn nào, đều là những thể nghiệm, cũng có thể gọi là những trò chơi thể nghiệm. Chỗ này, nghệ thuật tạo hình xích lại gần những nghệ thuật khác: nhạc, múa, văn chương, kiến trúc, điêu khắc, kể cả điện ảnh – và kể cả chuyện dịch thuật: mọi kết quả đều có thể được coi là một đề nghị, hay ít nữa trong tình trạng đề nghị. Một công trình nghệ thuật được công bố không bao giờ nên được nhìn như một sự hoàn chỉnh. Thái độ này không làm giảm giá trị của công việc nghệ thuật, trái lại, nó nâng cao cái nhìn của chúng ta về bản chất của công việc ấy." Ghi Chép về Công Việc Nghệ Thuật, Saigon 1977
Hình 10: Catalogue Triển lãm Goethe Institut của Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1969, tranh Hoàng Ngọc Biên, Feux Rouges/ Đèn Đỏ, màu acrylic, 1972
[nguồn: Nghệ Thuật Tạo Hình VN Hiện Đại, Huỳnh Hữu Uỷ, VAALA 2008]
Hình 11: Mấy mẫu bìa sách của Hoàng Ngọc Biên
[tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
Hình 12: Digital Arts, Trên, trái: Biển sâu 2014, phải: Dưới chân núi 2015
Dưới, trái: Trăng lạnh 2006; phải: Những bàn tay 2001
[tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
Với Hoàng Ngọc Biên, một tác phẩm được công bố không bao giờ nên được nhìn như một sự hoàn chỉnh, suốt đời Biên luôn luôn là một cuộc hành trình đi tìm cái mới.
CHÂN DUNG HOÀNG NGỌC BIÊN
Hình 13: Chân dung Hoàng Ngọc Biên qua nét vẽ Nguyễn Quỳnh, (trái) Đinh Cường (giữa); Đỗ Trung Quân (phải)
Hoàng Ngọc Biên qua nét ký hoạ Nguyễn Đăng Thường
Hoàng Ngọc Biên qua nét ký hoạ Bùi Xuân Phái 25-10-1979
[tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
phố phái
tặng bùi xuân phái
những bệt màu lam hồng
góc phố lạnh tanh
sắc xám
căn gác vuông
tro than ngày cũ
nét cọ đen kéo dài ký ức
nỗi buồn này
phố phái
ngàn năm
Hình 14: Sài Gòn 30.4, Digital art 2010
bức tranh đã khiến Hoàng Ngọc Biên rơi lệ
[tư liệu Hoàng Ngọc Biên]
HỒ THU NHẠC KHÚC HOÀNG NGỌC BIÊN
Biên còn nhớ từ tuổi nhỏ, nơi thị xã tỉnh Quảng Trị, đã có một ban hợp ca thiếu nhi 5 giọng, trong đó có hai chị em Hoàng Ngọc Biên, cùng hai người bạn đồng trang lứa và một người anh bà con Nguyễn Văn Dziệp - là ca sĩ Duy Khánh sau này. Biên bắt đầu học nhạc và kết anh em với Cao Cự Phúc tức nhạc sĩ Hoàng Nguyên, lúc đó 20 tuổi mới từ chiến khu về. Biên được anh Phúc chọn lĩnh xướng, và chỉ có một bài hát mà Biên còn nhớ là "Khúc hát sông Thao" của Đỗ Nhuận.
1955, Vào Sài Gòn Biên học nhạc với nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, em nhạc sĩ Võ Đức Thu. Ca khúc đầu tay "Hồ Thu" được Biên sáng tác năm 17 tuổi giữa những chuỗi ngày thơ mộng trong một chuyến đi Đà Lạt (1955). Biên làm nhạc sớm trước khi viết văn làm thơ; Hồ Thu là một ca khúc thu buồn nhẹ nhàng với ca từ trong sáng. Biên còn nhớ bản nhạc đã được nữ ca sĩ Tâm Vấn hát trên đài phát thanh Quốc Gia Sài Gòn.
HỒ THU (1955)
Hoàng Ngọc Biên
Gió lên rồi dường như nhắc mùa xưa
Tiếng thu về nhẹ rơi lá bên hồ
Buồn hiu hắt về hồ xưa chốn cũ
Hương xa rồi buồn tiếc chi ngày qua
Nước gương hồ lặng im cánh buồm mơ
Bước xưa về lặng nghe sóng bên bờ
Hoàng hôn xuống lạnh lùng hồ soi bóng
Cố nhân về lối cũ mong tìm thu
Mùa hết hương rồi lắng nghe u hoài
Hồ thu năm nay nhuốm màu tình năm cũ
Hoa lá phai tàn úa theo mây vàng
Rộn ràng nghe tiếng thu về tê tái
Gió thu về dường như nhắc mùa xưa
Lá thu vàng nhẹ rơi khắp gương hồ
Trời mây nước này ngàn năm thương nhớ
Hương thu về bối rối trên đường tơ.
Hoàng Ngọc Biên
1961, Tổ chức “Récital de Guitare et Chants” trong khuôn viên ĐH
Đà Lạt – trong đó có Tam ca nữ hát “Hồ Thu” được Biên soạn thêm
bè.
Bạn bè thân không ai biết Hoàng Ngọc Biên có soạn nhạc. Bản "Hồ Thu" ít được phổ biến, và mới đây được ca sĩ trẻ Ngọc Mai hát. Ngọc Mai cũng sinh tại Quảng Trị, tốt nghiệp Nhạc viện TP HCM 2010, từng đoạt nhiều giải thưởng; hiện là giảng viên thanh nhạc của Nhạc viện TP HCM.
Tiền Vệ:
http://www.tienve.org/home/music/viewMusic.do?action=viewArtwork&artworkId=14138
NGÔ THẾ VINH
California, 07.02.2016
Hoàng Ngọc Biên & Nv Vũ Khắc Khoan
Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng & Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên & Hs Lưu Công Nhân
Dịch giả Dương Tường & Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên & Nv Võ Phiến
Nhạc sĩ Cung Tiến, ..?..., Hoàng Ngọc Biên
Nt Vương Ngọc Minh, Hoàng Ngọc Biên, Nv Nguyễn Xuân Hoàng
Nv Thận Nhiên, Nv Trần Vũ, Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên & Phan Nguyên
Thái Bá Vân & Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên
tranh Đỗ Trung Quân
Trở về
Danh Sách Tác Giả
Chân Dung Văn Nghệ Sĩ
Emprunt Empreinte
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.
Hoàng Ngọc Biên & Nv Võ Phiến
Nhạc sĩ Cung Tiến, ..?..., Hoàng Ngọc Biên
Nt Vương Ngọc Minh, Hoàng Ngọc Biên, Nv Nguyễn Xuân Hoàng
Nv Thận Nhiên, Nv Trần Vũ, Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên & Phan Nguyên
Thái Bá Vân & Hoàng Ngọc Biên
Hoàng Ngọc Biên
tranh Đỗ Trung Quân
Trở về
Danh Sách Tác Giả
Chân Dung Văn Nghệ Sĩ
Emprunt Empreinte
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.