Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016

Hoàng Cầm (1922 - 2010)

















Hoàng Cầm

Bùi Tằng Việt
Bút danh khác: Bằng Việt, Bằng Phi, Lê Thái, Lê Kỳ Anh
(22/2/1922 - 6/5/2010)
Hưởng thọ 88 tuổi
Nhà thơ, nhà biên kịch








Tiểu Sử



Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, (sinh 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, nay là thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang – mất 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội).
Quê gốc của Hoàng Cầm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.
Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.
Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.
Thời gian cuối đời ông sống tại Hà Nội và mất vào ngày 6 tháng 5 năm 2010 vì bệnh nặng.





T Ì N H  C Ầ M

Một ca khúc của hai danh tài
Hoàng Cầm - Phạm Duy 














Hoàng Cầm lúc trẻ










HOÀNG CẦM – một đời “nhớ tiếc”,
một đời “níu xuân xanh”



Nhà thơ Hoàng Cầm bên bờ sông Đuống (ảnh chụp năm 2000)


Là nhà thơ được yêu mến bậc nhất trong đời sống thơ đương đại, gần một năm sau khi lìa trần, Hoàng Cầm vẫn là một hồ sơ chưa được bạch hóa. Cả về đời lẫn về thơ.
Về đời, tuy ông đã kể khá nhiều với người hâm mộ, với giới truyền thông, nhưng tiếc thay phần lớn chỉ là những câu chuyện tình đã được thi vị hóa và huyền thoại hóa trước tiên bởi chính người kể và khuyếch đại sau đó bởi người nghe, trong khi phần quan trọng nhất trong văn nghiệp cùng những hệ lụy của nó lại chưa có cơ hội trình ra ánh sáng. Về thơ, có thể nói ngoài những tác phẩm tình ý rõ ràng như Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống..., thành tựu lớn nhất của ông là Về Kinh Bắc chưa được hiểu và phân tích đến nơi, một phần do tính chất mơ hồ, đa diện, đa nghĩa của một số bài quan trọng, mà chính tác giả cũng nói rằng mình không minh định được, ông còn sẵn sàng khoác thêm một màn sương khói hư hư thực thực bằng những câu chuyện kiểu như bài thơ ra đời từ tiếng ai văng vẳng trong đêm…
Lại nữa, truyền thông nước ta góp phần lớn vào việc làm cho công chúng cảm nhận Hoàng Cầm một cách phiến diện. Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai loại tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn chương.
Có lẽ đây là dịp để, sau những tràng vỗ tay ồn ào cũng như những vòng hoa thương tiếc, cả sau khi những ân oán thời cuộc thường chi phối sự nhìn nhận tác giả và tác phẩm đã lùi xa vừa đủ, ta có điều kiện lắng xuống, tịnh tâm để nhận diện con người và thơ Hòang Cầm một cách thuần túy hơn.

Tôi chưa dám nói về kịch thơ, truyện thơ Hoàng Cầm, ở đó ngay từ Kiều Loan, và sau đến Người con gái nước Tần, Trương Chi, tài năng của một nhà soạn kịch sóng với tài năng của người nhuần nhụy ngôn ngữ thơ đảm bảo giá trị cho những tác phẩm thuộc một thể loại sân khấu tiếc rằng vì hoàn cảnh lịch sử đã không được nuôi dưỡng. Tôi tự hạn chế trong lĩnh vực THƠ viết hoa.

Điều đầu tiên tôi muốn nói, Hoàng Cầm đa dạng hơn những gì công chúng quen nhìn thấy.

Ở nửa cuối cuộc đời, người ta dễ thấy ông, mà ông cũng thường tự nhận, là con người dễ dãi, uỷ mị, thậm chí nhu nhược, có gì đó nữ tính,“theo dòng mẫu hệ”. Có thể trong sâu xa con người ông phần “âm” có sẵn đã nổi lên do hoàn cảnh khốn cùng ông bị đẩy vào, trong hoàn cảnh ấy cái “âm”, cái “ẩn” có tác dụng bảo toàn, che chở. Cũng nên lưu ý đến tính nữ ở những vai nam trong quan họ hay chèo, một đặc trưng văn hóa dân gian đồng bằng Bắc Bộ mà Hoàng Cầm thấm đẫm. Vì thế người ta dễ quên đi gương mặt hùng của anh bộ đội Hoàng Cầm trong tấm ảnh mũ nan áo trấn thủ chụp ngày mới giải phóng thủ đô, quên đi giọng ngâm thơ sang sảng trên đài phát thanh của một Hoàng Cầm trong Đêm liên hoan “Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng/ Ta muốn hét cho vỡ toang lồng ngực/ Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn”. Mê mải những “em mặc yếm thắm em thắt lụa hồng” bên kia sông Đuống,ta bỏ qua những anh “bộ đội bên sông đã trở về/ Con bắt đầu xuất kích/ Đồn giặc bắt đầu run trong sương/ Dao lóe giữa chợ/ Gậy lùa cuối thôn.” Cũng như khi cùng tác giả trở về Kinh Bắc, bị ám ảnh quá nhiều vì cái lá Diêu Bông, cỗ bài tam cúc chị chị-em em, người ta không mấy quan tâm đến tâm trạng bi phẫn Trăng lên chém đầu ngọn gió, Cành si bưng chậu máu chát chao… Người ta cũng tránh nhắc đến dũng khí của một nhân vật chủ chốt Nhân Văn – Giai Phẩm, người quyết định công bố Nhất định thắng và sau đó khẳng khái bênh vực tác giả của nó (Con người Trần Dần).

Tất nhiên thơ Hoàng Cầm cũng đa dạng như con người ông. Và thay đổi khá nhiều theo theo thời gian, hoàn cảnh. Không thể nhận ra tác giả những lời thơ lãng mạn tuổi 20 “Những khoảng chiều buồn phơ phất lại/ Anh đàn em hát níu xuân xanh” trong những giai đoạn kháng chiến, đầu hòa bình. Nhưng đến những năm tháng của tuổi 70, 80 thì ta nhiều lúc bắt gặp ông trở lại nhạc điệu, thi ảnh, và cả ngôn từ của thời “vớt mắt em về bến hoá sinh”. Vâng, ở cái tuổi xưa nay hiếm, Hoàng Cầm vẫn chạy theo những mối tình đơn phương, ảo vọng, vẫn “níu xuân xanh” với hết sinh lực (không còn bao nhiêu) và thi lực (vẫn tràn đầy).

Giữa hai đầu lãng mạn đầu đời và “níu lãng mạn” cuối đời, ta có Hoàng Cầm thơ kháng chiến lượng không nhiều mà nổi đình đám chỉ cần với một Bên kia sông Đuống. Một Hoàng Cầm thơ trữ tình phê phán sắc sảo và cay độc thói quan liêu đạo đức giả: “Rúc đầu vào nách vợ/ Hút hít như chó con…Mắt thầy nhắm nghiền lại/ Thầy đọc kinh giáo điều… Dao ngọc với gươm vàng/ Chém nát nhừ trận gió…”, “Diễn văn cót két chân giường mới/ Gặm hết tình yêu hết ước mơ. Ta có cả một Hoàng Cầm biết tụng ca anh hùng với những hình tượng sáng tạo “Anh đứng là lưỡi cày/ Anh nằm là dòng mương/ Anh ngồi là cót thóc/ Anh đi là con đường”. Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam (U gì, tặng khối u của Đặng Đình Hưng) đầy bi phẫn kinh hoàng ác mộng: “Lỗ chỗ chín chậu nắng tóe mắt võng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ngòm cỗ xe bánh vuông (không thấy mui) sa lầy bãi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung rê-ma-giơ quắt nhức ba cạnh nhung gai lì ái ân gì dài thon mười búp lóa kim cương trắng sữa đầu vú núi cao ngất lùm cỏ ngọt ước ao”… “lố nhố nhiều u gì sau xe hình mắt lé mã tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp ngọt xớt thanh xà nép lá bồ đề”.


Về Kinh Bắc
Nhưng có thể nói, tác phẩm gắn chặt nhất với tên Hoàng Cầm truyền lại cho hậu thế phải là Về Kinh Bắc. Hoàn cảnh ra đời tối ưu cho một kiệt tác: tác giả bị dồn đẩy vào tâm thế chìm đắm hoàn toàn trong thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất (“cô đơn là cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng” – Đặng Đình Hưng); tác giả đang ở độ chín tới của tuổi tác và tài năng.
Về Kinh Bắc là tổ khúc tám nhịp hồi quang một vùng văn hóa lịch sử, trên nền ấy nổi lên nhịp Năm gửi gắm tâm sự của một đứa “Em” (không) gửi tới “Chị”, người mà “Em” thầm yêu, cả tin, rồi vỡ mộng, nhưng chẳng dám thốt ra lời gì hơn là nỗi lòng bơ vơ, ngậm ngùi, có chút hờn trách.
Hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Với những chớp lóe ấn tượng thật gợi cảm trong nhịp Một, cũng là khúc dạo (prelude) của một đại tổ khúc, gồm năm đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - lướt nhanh một Kinh Bắc huyền tích (Néo Đông Triều khép mở gió kỳ lân/ Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ…),Kinh Bắc huê tình non tơ (Chũm cau căng nứt mạch tằm/ Yếm may ba ngày mẹ vá lại… Gió ra hồng da trinh nữ… ong bay vai áo tiểu thon mình), Kinh Bắc bi tráng (Chợt mê thét giữa sân/ Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng), Kinh Bắc ma mị (Châu chấu ma vờn cổ yếm xây…Trò chuyện gì ai đâu/, mồ tháng giêng mưa ướt sũng…), Kinh Bắc của những sinh hoạt văn hóa dân gian giàu bản sắc (Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ Mắt nghiêng dựa liếp/ Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu… Kèn già lam ai tập thổi/ Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy… Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu…). Với lịch sử bi hùng được kể trong ba nhịp Hai, Ba, Bốn. Với chân dung những người con gái đa tình, đa truân trong nhịp Năm. Với phác hoạ những hội hè trong nhịp Sáu. Có thể nói Về Kinh Bắc cùng với truyện thơ Tiếng hát quan họ và nhiều bài thơ lẻ cuối đời cho thấy Hoàng Cầm là kết tinh vùng văn hóa nghìn năm Kinh Bắc, là thi sĩ của đất quan họ, chẳng khác thi sĩ Tây Ban Nha Federico Garcia Lorca với quê hương Andalusia qua những khúc cante hondo (trầm ca) và romance.
Nhưng cũng phải nhận rằng, Về Kinh Bắc in đậm vào dư luận và sống trong lòng công chúng phần nhiều ở chùm thơ đặc biệt trong nhịp Năm: bộ ba Cây, Lá, Quả (Cây Tam cúc, lá Diêu bông, Quả vườn ổi), mở rộng là bộ bốn (Cây, Lá, Quả, Cỏ - Cỏ Bồng thi). Không nói tới việc số phận đoạn trường của chùm thơ này kéo theo số phận đoạn trường của tác giả đã góp phần không nhỏ làm cho chúng nổi tiếng và được yêu mến, “đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991).
Ngoài chùm thơ trên, có Về với ta, một bài làm thanh cả nhịp cuối, nhịp kết của tập thơ. Không nổi tiếng với công chúng rộng, nhưng bài thơ được đánh giá cao trong giới bạn thơ của tác giả và cũng là một trong những bài tâm đắc nhất của ông. Tôi nghĩ bài này chứa đựng những gì là Hoàng Cầm nhất.
Về mặt thi pháp, thực ra Về Kinh Bắc chưa tạo dựng một thi pháp nhất quán rõ rệt như ở Trần Dần, Lê Đạt, nhưng nó rất riêng một lối thơ Hoàng Cầm của thời kỳ này, cũng là lối thơ Hoàng Cầm nhất.
Trước tiên là một nhạc điệu Hoàng Cầm: dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt. Có thể nhận ra tất cả hồn quan họ ngân nga trong ấy. Thứ nhạc này khiến cho thơ tự do không vần của tác giả, trong khi theo sát diễn biến của từng tâm trạng cụ thể, thậm chí còn du dương hơn lối thơ vần điệu (cuối đời tác giả hay tự hát thơ của mình trong những cuộc gặp gỡ bỏ túi). Ta có thể gọi nó là “điệu tâm hồn Hoàng Cầm”.
Rất rõ một lối tạo hình Hoàng Cầm: xen tả với gợi, xen ấn tượng, biểu tượng với khắc hằn xuất biểu. Ở những bài thành công nhất, việc sử dụng biểu tượng gửi gắm những tâm ý không nói ra được (có thể là “tàn dư” của thủ pháp “biểu tượng hai mặt” thời Nhân Văn – Giai Phẩm nhưng đã từ tầng lý trí chìm xuống tầng sâu tiềm thức, bộc phát, nên sức ám ảnh rất cao), kết với sức gợi và ám của nhạc thơ, cho ta một Hoàng Cầm của thi pháp tượng trưng thời mới – tôi tạm gọi là “tân tượng trưng”.
Hoàng Cầm cũng có một kiểu dắt dẫn tuyến thơ: Một cách mở đầu hầu như bao giờ cũng tự phát từ sự mách bảo của tiềm thức, bản năng, không từ sự lập ý (cho nên ông hay nói về tiếng người trong đêm đọc câu thơ mở đầu cho bài thơ của mình), rồi phát triển bài thơ xen kể với tả, và cấu trúc bài thơ không bao giờ thiếu kịch tính.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm tài hoa óng chuốt bay bướm nhưng vẫn tự nhiên, tuy cũng có những lúc hơi lạm phát vàng son song ít khi rơi xuống sáo mòn.
Có một nét rất riêng Hoàng Cầm nữa: sự tạo dáng ký thác tâm trạng trong các bài thơ. Ngay từ Bên kia sông Đuống, cái dáng nghiêng nghiêng của con sông đã ám ảnh bao nhiêu người yêu thơ ông (có nhà nghiên cứu còn ngây thơ thử đi đo độ nghiêng của sông Đuống thực!). Trong một lần chở xe đạp nhà thơ trên phố dịp ông vào Sài Gòn lần đầu, tôi bỗng “phát hiện” cái thế nghiêng nghiêng của con sông có lẽ là từ cái dáng nằm nghiêng nghiêng của chính tác giả trong cái đêm trằn trọc nhớ về con sông quê sa vào tay giặc. Cái dáng này cũng như tiên cảm sự chông chênh của đời ông! (Đứng không yên ổn, ngồi không vững vàng – Kiều). Trong Về Kinh Bắc, ta gặp cái dáng bơ vơ Em đứng nhìn theo em gọi đôi, lạc lõng Từ đấy em đi khắp sông khắp núi/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông, lủi thủi Lẽo đẽo em đi vườn mai sau/ Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng, bị du đưa như trong cơn mộng du Chị đưa em đến chốn này/ Cheo leo mỏm đá, chết đứng không trói mà không đi… em vọng ai đâu mà hóa đá… kìa rau muống dại kín em rồi…
Bao trùm tất cả, Về Kinh Bắc dựng lên một không khí, một thế giới Hoàng Cầm. “Thế giới thơ Hoàng Cầm như một cõi mơ giữ nguyên những cái không hề có thật, cái “lá diêu bông” là cái lá gì, “cầu bà Sấm bến cô Mưa” là ở đâu, nhưng cứ ngỡ như là thật; có những chất liệu bình dị của vùng quê Kinh Bắc một thời vừa đủ xa để nhớ tiếc, cỗ bài tam cúc đôi cá đòng đong... nhưng lại kết thành hư ảo hàm chứa một cái gì bí ẩn. Hoàng Cầm thuộc nòi thi sĩ giao tiếp được với người âm, biết cách gọi về những gì đã mất, đẩy cái trước mắt ra xa vời, nên thơ anh ám ảnh như mộng triệu đòi được giải mã.” (HH- Bài giới thiệu tập thơ Mưa Thuận Thành, báo Lao Động 1991). (Tác giả rất tâm đắc ý cuối này, ông lấy nó khi viết Chân dung tự thú năm 1994: “Gọi chiều xưa trở lại/ Đẩy chiều nay về xa/ Thường trò chuyện với ma/ Như với người đang sống”).
Về Kinh Bắc là tập thơ được Hoàng Cầm sáng tác trong mùa Đông-Xuân 1959-1960 tại nhà riêng (43 Lý Quốc Sư Hà Nội), sau khi ông bị kỷ luật vì vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Bản thảo sau đó được ông chép tặng một số rất ít người quý mến mà số lượng ngày càng tăng dần, nhất là sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Tuy có tiếng xì xầm về những “ẩn ý” oán trách xã hội của một số bài trong đó, nhất là bài Lá Diêu bông, nhưng chưa hề có nhận định hay kết luận chính thức nào của các cơ quan hữu trách về tập thơ, cũng chưa hề có một quyết định nào không cho phép lưu truyền nó. Nhưng đến khoảng cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, khi một số bài thơ do Hoàng Cầm chép tặng được truyền ra hải ngoại, thì Về Kinh Bắc đã “thành vấn đề” đối với “các cơ quan chức năng”.
Năm 1982, một nhà văn người Việt từ Canada về xin nhà thơ chép tặng toàn bộ tập thơ để mang đi. Cùng lúc đó, tình cờ tôi từ Sài Gòn ra, cũng xin ông chép tặng để mang vào. Trong bối cảnh ấy vụ án Về Kinh Bắc ra đời với mục tiêu phá vỡ từ trong trứng một âm mưu “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”.
Tháng 8 năm 1982, tôi – người mang tập bản thảo do Hoàng Cầm chép tặng với phụ bản tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái và bìa của nhạc sĩ Văn Cao – bị bắt, ngay sau đó là tác giả của nó.
Trong quá trình điều tra, vì quá yếu mệt, để mong sớm được ra, nhà thơ đã nhanh chóng nhận tội nói xấu chế độ qua một số bài thơ trong tập và ông tỏ lòng ăn năn hối lỗi. Điều trớ trêu là, sau khi có lá thư thỉnh nguyện của một số trí thức Pháp gửi về xin trả tự do cho nhà thơ, ông lại bị kéo dài thời gian giam giữ. Ông được “tạm tha” sau 16 tháng “giam cứu” (giam giữ để điểu tra) tại Hỏa Lò (nhà tạm giam Hà Nội) và Trại tạm giam của Bộ Nội vụ - từ cuối tháng 8 năm 1982 đến cuối tháng 12 năm 1983.
Thời gian bị giam giữ đã ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần của Hoàng Cầm. Phải đến hàng năm sau, nhờ sự động viên của bạn bè, ông mới dần hồi phục.
Sau Đổi Mới, một số bài trong Về Kinh Bắc được công bố trong vài tập thơ của Hoàng Cầm (Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông, Bên kia sông Đuống), trong đó có những bài quan trọng nhất mà dăm năm trước đây còn bị coi là “phản động”. Đến năm 1994 thì Về Kinh Bắc được xuất bản. Trong giải thưởng Nhà nước về VHNT trao cho Hoàng Cầm năm 2007, tuy Về Kinh Bắc không được nêu danh, nhưng có những tập thơ kể trên.
Sau Về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm không còn tập trung được sức mạnh vào một tác phẩm lớn, không còn giữ được nhạc điệu rất riêng, nhưng thế giới thơ Hoàng Cầm vẫn hiện diện một phần ở tâm trạng tải trên hàng trăm bài thơ lẻ. Một tâm trạng tha thiết đòi yêu, níu yêu, không cam chịu, nhưng không giấu được tiếng thở hắt phẫn chí, ngậm đắng, nuốt cay: Gió cấp ba thổi méo thân hình… Vào tim dao khía bịa ra cười… Thứ thuốc mà ông mang tên càng già càng đắng.
Cuộc đời và thi nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho điều mà tôi coi là một trong những “bí quyết” thành công trong văn giới Việt Nam đương đại. Đó là sự “nằm giữa”. Nằm giữa con người thi nhân và con người chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), con người Hoàng Cầm là một mẫu lý tưởng ngấm ngầm cho một bộ phận trí thức văn nghệ sĩ; thất bại trong cuộc đời tranh đấu phủ thêm hào quang cho thi nghiệp của ông. Nằm giữa lối sáng tác truyền thống coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt. Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây. Nằm giữa kể chuyện và giãi lòng. Nằm giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng, huyền thoại và chuyện thật, văn chương và thế sự. Thơ Hoàng Cầm dễ lan truyền mà không bình dân, đáp ứng tâm lý thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó; trong cảnh tranh tối tranh sáng, tiếng xì xào lắm khi còn mạnh hơn lời bình chính thức.
Ngẫm lại một đời thơ ông, tôi thấy ngay từ thưở 20 đến khi về cõi, ông như không thôi bị ám ảnh bởi cái nhu cầu nội tâm sâu xa đọng trong một chữ NÍU.

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Bao nhiêu tha thiết hàm chứa cái gì bất lực, tội nghiệp trong câu thơ từ 70 năm cũ dự cảm một điều quý báu nhất sắp vuột khỏi tay.
Đời ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đã mất ấy (“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao xót xa như rụng bàn tay”), mà ông chỉ hòng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh. Níu một mối tình ảo, níu một thời trầu cay má đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế.

Hoàng Hưng
Bán đảo Tân Phong mùa trăng tháng 3/2011

Nguồn : Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do Công ty Nhã Nam phát hành tháng 4/2011 đã bị biên tập cắt, sửa một số chỗ. Đây là bản gốc tác giả gửi Diễn Đàn.
(Nguồn: Diễn Đàn Forum)



Hoàng Hưng & Hoàng Cầm










Tác phẩm




 1
Hận ngày xanh
(phóng tác theo Lamartine 1940)




 2
Bông sen trắng
(phóng tác theo Andersen 1940)




 3
Cây đèn thần
(phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941)




4
Thoi mộng
(truyện vừa, 1941)




 5
Tỉnh giấc mơ vua 
(phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942)




 6
Hận Nam Quan 
(kịch thơ, 1944, 1942)




 7
Bốn truyện ngắn 
(đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943)














 8
Kiều Loan 
(kịch thơ, 1945)

Khúc hát mở đầu

Phần 4
Đoạn 1
Đoạn 2
Đoạn 3
Đoạn 4
Đoạn 5
Đoạn 6
Đoạn 7
Đoạn 8
Đoạn 9
Đoạn 10
Đoạn 11
Đoạn 12
Đoạn 13






Vì sao tôi viết kịch thơ Kiều Loan?
Hoàng Cầm

Đầu năm 1940, chiến tranh thế giới thứ hai đã bước sang năm thứ hai và đi vào giai đoạn khốc liệt. Tại nước ta, Nhật đã hất cẳng Pháp. Pháp vẫn được giữ quyền hành chính ở Đông Dương, nhưng quân Nhật muốn đóng ở đâu cũng được, yêu cầu gì Pháp cũng phải vâng theo. Hồi bấy giờ, gia đình tôi ở thị xã Bắc Giang, một đầu mối giao thông quan trọng, cửa ngõ phía Bắc của Hà Nội, nơi Nhật đóng quân rất đông. Trong thị xã, cùng phố Tân Ninh với tôi, có gia đình ông bà Nghị Tính có người con trai lớn tên là Đức cùng học với tôi ở Hà Nội. Anh Đức có hai người em gái, một cô tên là Loan, vừa tròn 18 tuổi, cũng đã có bằng xéctiphica (tiểu học), nói được tiếng Pháp, đặc biệt là trời cho nhan sắc, nhiều cậu con trai trong thị xã đã mê, đã có người ngỏ ý muốn lấy làm vợ nhưng cô Loan chưa một lần bằng lòng với ai. Khi Nhật mới chiếm đóng thị xã Bắc Giang được vài tuần, bà Nghị Tính đã trúng thầu việc cung cấp gạo, ngũ cốc và một số thực phẩm chính cho toàn thể binh lính Nhật đóng ở thị xã. Làm việc cùng Nhật chỉ non tuần lễ thì nhà bà Nghị nườm nượp khách Nhật ra vào. Lý do chính là vì cô gái Vũ Thị Thanh Loan. Tôi cũng xin thú thực, tôi tuy đã có vợ từ đầu năm 1940 rồi có con, nhưng tôi không thể kìm nén được tình yêu với cô Loan, dù không dám có một hành động nào trái với đạo lý thông thường. Những lúc nghỉ, tôi vẫn thường sang bên hè bên kia, đi dăm bước là rẽ vào nhà bà Nghị để được nói chuyện vu vơ với Loan. Có thể nói những võ quan Nhật chỉ đến chơi nhà Loan một lần cũng bị sắc đẹp ấy cuốn hút. Sĩ quan Nhật vốn khó tính, bà Nghị sợ các quan có điều gì mếch lòng nên yêu cầu Loan phải ngồi tiếp khách. Loan chán ngấy công việc nặng nề ấy nhưng vẫn phải miễn cưỡng vâng lời mẹ. Sau vài tháng, số sĩ quan thường xuyên đến nhà Loan dừng lại ở con số 8 người. Cả 8 thằng, đứa nào cũng mê Loan. Tôi nói với anh Đức: Kể cũng là hiểm họa đấy anh ạ. Không ngờ “một lời là một vận vào”... Tối chủ nhật hôm ấy, khi đến chơi không thấy Loan ra tiếp như thường lệ, cả 8 gã nhao nhao hỏi cô. Bà Nghị đáp một cách buồn rầu, lo lắng: - Từ buổi trưa, em nó kêu váng đầu, sau rồi sốt cao, anh nó đo nhiệt kế lên đến 41 độ rưỡi. Một quan Nhật đeo lon trung tá vội vàng đứng dậy sốt sắng: - Nếu thế, để tôi về trại mời bác sĩ đến ngay. Chỉ không đầy 20 phút, viên trung tá đó trở lại, cùng đi với một sĩ quan khác không gươm không súng, giới thiệu ngay với bà Nghị: - Đây là ông Yasimato, thiếu tá, bác sĩ trong trại binh của chúng tôi, ông đến thăm bệnh cho chị Loan. Chừng hai mươi phút sau khi xem kỹ mọi chỗ, từ đầu tóc đến ngón chân cô gái, tay bác sĩ sõi tiếng Việt này nói thong thả: - Tôi đã xem kỹ, bà đừng lo. Tôi sẽ tiêm cho cô Loan một liều thuốc đại an thần. Cô ấy sẽ ngủ, mà có thể ngủ lâu. Từ giờ (lúc ấy là 6 giờ 30 phút tối) đến 12 giờ trưa mai bà cứ để yên cho cô ấy ngủ, đừng đánh thức, lúc nào cô ấy dậy thì hẵng hay. Vì lời dặn của viên bác sĩ người Nhật nên sáng hôm ấy cả nhà không có tiếng động mạnh. Mãi đến 10 giờ, bà Nghị thử đặt tay lên ngực cô gái vẫn đang thiêm thiếp. Bà chăm chú nghe, nhưng không có tiếng đập nào. Rồi tiếng khóc rưng rức vang động khắp nhà. Một vài bà hàng xóm cũng chạy sang xúm đông quanh giường Loan. Đang lúc tình hình bi đát đến thế thì không biết từ lúc nào, anh Đức đã đi mời được ông bác sĩ người Pháp mà ông quen biết – ông Jôli. Ông Jôli lên gác xem cho Loan cũng khá lâu, cuối cùng chính ông cũng ứa ra hai dòng nước mắt: - Cô Loan tắt thở vào khoảng từ 6 giờ đến 6 giờ 30 sáng nay. Tôi có nghe anh Đức thuật lại, chắc có một lý do cực kỳ quan trọng nên bác sĩ người Nhật kia mới dám tiêm cho cô ấy một liều thuốc ngủ quá liều lượng. Tôi không có gì thù ghét người Nhật đâu, nhưng về việc này thì họ độc ác quá... Độc ác quá! Hai hôm sau, bà Nghị Tính tổ chức lễ cầu siêu cho con gái ngay tại nhà. Anh Đức có mời tôi sang dự, cũng là để chia nỗi buồn đau này với gia đình anh. Đến gần trưa, khi ăn cơm với gia đình Đức, tôi nghe kỹ từng lời Đức nói, như nói thầm mà diễn ra tường tận cái thảm kịch Thanh Loan: - Hôm qua, cái cậu thiếu tá trẻ nhất, có vẻ tử tế nhất trong số 8 sĩ quan thường lui tới hằng ngày ấy có tiết lộ với tôi một bí mật: Có hai sĩ quan trong bọn họ cùng muốn hỏi Loan làm vợ. Đương nhiên Loan không đáp lời ai một cách cụ thể, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Và hai người thì ai cũng hy vọng và ngày càng hận nhau. Nắm được ý định đọ súng của hai kẻ tình địch, viên thiếu tướng chỉ huy đã nảy ra một ý đồ cực kỳ êm nhẹ mà vô cùng độc ác: Ra lệnh ngầm cho viên thiếu tá bác sĩ tìm một phương thuốc gì êm ái nhất thủ tiêu đối tượng của sự say mê mà ông cho là điên rồ kia... Đức nói hết thì gục mặt vào lòng hai bàn tay còn run run trên bàn ăn. Riêng tôi, niềm uất hận, căm thù quân Nhật, nỗi thù ghét chiến tranh cứ nghẹn nghẹn trong cổ họng, cứ thắt bẹp trái tim. Tôi uống đến gần nửa chai rượu và hơi men lại càng thiêu đốt hồn tôi lúc đó đã giống như một cây rơm khô cao ngất. Sau cái tang như một núi vải xô lạnh lẽo bao trùm khắp cơ thể, tôi như người điên mà rất tỉnh táo trước những cái gì gọi là độc ác, là bẩn thỉu trên thế gian này. Độ mươi hôm sau, tôi nghĩ ra một câu chuyện bi thảm, dựa trên một bài giảng lịch sử của thầy giáo Võ Nguyên Giáp về cách cai trị tàn ác của vua Gia Long sau khi lên ngôi... Vở kịch thơ mà tôi viết, có nội dung là: Nguyễn Ánh muốn giết một người phụ nữ đẹp vừa bị bắt giam vào ngục vì cô ta như một người điên, đi lang thang khắp kinh thành Phú Xuân luôn mồm hát vớ vẩn, ngụ ý chửi Nguyễn Ánh là hèn nhát, cõng rắn cắn gà nhà, độc ác hơn thú dữ. Phiền một nỗi, người thiếu phụ điên ấy lại là vợ cũ của Vũ tướng quân - một danh tướng rất có tài mà Nguyễn Ánh đã ủy thác nhiệm vụ tiến quân ra Bắc, tiêu diệt nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản. Không thể công khai diệt trừ người phụ nữ ấy, sợ Vũ tướng quân bất bình và có thể làm phản, Nguyễn Ánh đã sai người đánh thuốc độc nhằm thủ tiêu ngầm người của Tây Sơn. Cách giết người của ông ta na ná như cách diệt trừ cô Loan của viên chỉ huy Nhật.
Truyện kịch đã bố cục xong, tôi đặt bút viết những dòng thơ mở đầu cho kịch bản mà tôi đã kết cấu thành ba hồi, bốn cảnh. Nhưng trong cốt lõi của vở kịch thơ mà tôi lấy tên làm nhân vật chính (thành ra vở Kiều Loan), chủ đề thực chất bắt nguồn từ cái chết nhẹ nhàng mà vô cùng bi thảm của cô Vũ Thị Thanh Loan. Cả đến họ Vũ của cô Loan bạc mệnh tôi cũng xin lấy để đặt họ cho người chồng, người yêu xưa của vai chính trong kịch bản.

HOÀNG CẦM
(Người Lao Động ngày 6-3-2006)




Hoàng Cầm & Kiều Loan














 9
Ông cụ Liên
(kịch nói, 1952)






10
Đêm Lào Cai

(kịch nói 3 hồi, 1957)







 11
Tiếng hát quan họ 
(trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956)




 12
Những niềm tin 
(thơ dịch của Bonalan Kanfa - Algérie, 1965)










 13
Men đá vàng

15
Trương Chi 
(kịch thơ, xuất bản năm 1993)










16
Tương lai 
(kịch thơ, 1995)
















 17
Bên kia sông Đuống
(tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007



Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai xanh biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời khôn nói năng

Ðêm buông sâu xuống dòng sông Ðuống
Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vót gậy nhọn
Ta rũa mác dài
Ta xây thành kháng chiến ngày mai
Lao xao hàng cây bụi chuối
Im lìm miếu đổ chùa hoang
Chập chờn đom đóm bay ngang
Báo tin khủng khiếp
Cho giặc kinh hoàng
Từng từng tiếng súng vang vang
Trong đêm khuya thoảng cung đàn tự do
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa
Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi, đừng hát nữa lòng anh đau
Mẹ ơi, đừng khóc nữa dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Việt Bắc, tháng 4/1948

Nguồn: Bên kia sông Đuống, NXB Văn hoá, 1983












18
Lá diêu bông 
(tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007

Lá Diêu Bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều,
Cuống rạ.
Chị bảo: Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em đi tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi.
Diêu Bông hời...
ới Diêu Bông














Hoàng Cầm & Hoàng Hưng











19
Về Kinh Bắc
(tập thơ, 1994)

Nhịp 1: Khấn nguyện (Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo bòng)
Đêm Thổ
Đêm Kim
Đêm Mộc
Đêm Thuỷ
Đêm Hoả


Nhịp 2: Kiếp trước (Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử)
Nắng phù sa
Gió lông ngỗng
Sương Cầu Lim
Khói Yên Thế


Nhịp 3: Rũ bụi gia phả (Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn)
Đèn nhang 1
Đèn nhang 2
Ngựa 1
Ngựa 2
Hội vật
Lính thú


Nhịp 4: Rồi cùng đi tất cả (Những cuộc dọn nhà, tuần du trang sử rách)
Trai đời Trần
Gái Hậu Lê
Đứa trẻ
Người không về
Đi xa
Đi mãi


Nhịp 5: Còn em (Cỏ bồng thi phải cheo leo mỏm đá)
Cây tam cúc
Lá diêu bông
Quả vườn ổi
Cỏ Bồng thi
Nước sông Thương
Tắm đêm
Đếm sao
Đếm nắng
Đếm giờ
Theo đuổi


Nhịp 6: Điểm trang (Những hội hè Kinh Bắc)
Thi sợi bún
Thi ăn mía thổi cơm
Thi đánh đu
Thi hát đúm
Thi dệt vải
Thi thêu gấm
Hội chen Nga Hoàng
Hội Gióng
Hội Long Khám
Hội Vân Hà
Hội đền tám bua triều Lý


Nhịp 7: Rồi lại đi (Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng)
Luân hồi
Đợi mùa
Quà mẹ
Nhớ
Mưa Thuận Thành


Nhịp cuối: Về với ta (Ngủ say rồi đôi cá đòng đong)
Xong cuộc tuần du
Vĩ thanh
Về với ta
Ước nguyện





Ba mươi năm “Về Kinh Bắc”

Hoàng Hưng


Ba mươi năm thoắt như giấc mộng. Kể từ buổi chiều oan nghiệt (ngày 17/8/1982) khi chiếc xe bịt bùng chở mình từ đồn Công an Hàng Bạc về thẳng Hỏa Lò, mở đầu vụ án văn tự có lẽ là kỳ quái nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Đến hôm nay vẫn không biết nên cười nhiều hơn hay mếu nhiều hơn! (Chi tiết vụ án đã được kể trong bài “Về Kinh Bắc: một vụ án “hậu Nhân Văn” viết nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày ra tù, 2010).
Hôm nay nhắc lại chuyện cũ vì một kỳ duyên mới: Sau 30 năm, thật bất ngờ gặp lại cố tri, “tang vật” chính của vụ án: tập chép tay Về Kinh Bắc mà anh Hoàng Cầm chép tặng, với chữ ký của người can tội “lưu truyền văn hóa phẩm phản động” (tức là tôi) xác nhận trên từng trang. Trang đầu Hoàng Cầm viết bằng chữ đỏ: Chép gửi Hoàng Hưng, cho mai sau của chúng ta. Hà nội tháng Tám 1982, với hình vẽ đầu một cô gái đẹp. (Mười hai năm sau, cái “mai sau” ấy thành hiện thực, khi Về Kinh Bắc được xuất bản chính thống, anh Hoàng Cầm vẽ lại bìa tập thơ có hình cô gái y như thế để tặng tôi và một số người thân). Kèm một trang có hình vẽ màu nước ba cái lá (chắc là “lá Diêu Bông”) mà anh Văn Cao vẽ làm bìa tập thơ theo yêu cầu của tôi. Lại thêm cái bìa montage siêu thực mà ông Trần Thiếu Bảo hứng chí làm chơi. Nhưng thiếu những phụ bản mà tôi xin họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ cho, thể hiện các cô gái quan họ quen thuộc của ông. Các cô giờ lưu lạc nơi đâu?

Chẳng biết con đường lòng vòng nào đã đưa “tang vật” này đến tay nạn nhân-chủ nhân của nó sau 30 năm lưu lạc. Còn nhớ 10 năm trước, trong ngày sinh nhật thứ 80 của Hoàng Cầm tại nhà thi sĩ, thiếu tướng Phạm Chuyên, giám đốc CA Hà Nội, đã hứa trước mặt nhiều văn nghệ sĩ là sẽ tìm để trả cho tôi báu vật này. Ít lâu sau ông bắn tin là tìm không thấy. Thì ra nó đã lọt ra ngoài từ bao giờ!

Thì giờ đây cũng có thể coi là “châu về hợp phố”! Có phải Ý Trời để chính thức khép lại mọi ân oán của vụ kỳ án này?

Đối với hai nạn nhân của vụ “Về Kinh Bắc”, anh Cầm thì đã ngậm cười nơi chin suối, còn tôi cũng dần dần “ngộ” lẽ tha thứ và thương cảm của Đức Như Lai, chuyện ân oán chẳng còn bận tâm.

Nhưng chừng nào những người hữu trách vẫn không chịu thay đổi cái chính sách gọi theo từ nhà Phật là “vô minh” – vẫn tìm cách dập tắt các tác phẩm nghệ thuật, báo chí, nói rộng ra là các tư tưởng mà họ tùy tiện áp đặt tội danh “phản động”, bất chấp sự thực là những tác phẩm ấy không cần chờ quá lâu để được xã hội tôn vinh - thì ân oán còn “trùng trùng giao kết căn duyên” (Nhập Môn, thơ HH).

Tôi đã có lần nói với các sĩ quan an ninh “làm việc” với mình: “ Các anh nên nhớ rằng chính trị là chuyện nhất thời, còn văn hóa thì sống mãi.” Nay muốn nói thêm: Chính trị hóa văn hóa là tự chuốc họa cho chính mình, vì tự tạo ra kẻ thù không đáng có. Thay vì thế, xin hãy một lần thực tập “pháp môn lắng nghe”, lắng nghe những tiếng nói khác biệt, những tiếng nói phản biện, cả những tiếng nói đối lập. Đó là con đường duy nhất để đạt được sự đồng thuận của dân tộc trước hiểm họa lớn lao của đất nước.

Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm vụ “Về Kinh Bắc”, tình cờ cũng là năm sinh nhật thứ 90 của Hoàng Cầm, thứ 70 (đã là “xưa nay hiếm”) của bản thân, tôi xin trân trọng công bố toàn vẹn bản chép tay quý báu của Hoàng Cầm với tranh bìa của Văn Cao và Trần Thiếu Bảo. Đây cũng là mở đầu cho việc lần lượt công bố trên mạng mấy bản thảo của tôi đã nhiều năm nay không xin được giấy phép xuất bản. Xét thấy mình thật vô duyên, cứ cố “xin” mãi mà người ta không “cho”, mà có cho thì chắc cũng chỉ in được vài trăm cuốn không biết có ai mua trong tình hình khủng hoảng thị trường sách in hiện nay, vậy tội gì mình không EBook cho nó “phẻ” ? Tôi bèn coi đây là mở đầu cho bộ sưu tập HHEBOOKS, trước hết phục vụ cho bản thân, sau đó là chia sẻ với đồng bào mạng, mong nhận được ít nhiều đồng cảm.

Tháng 8/ 2012

Hoàng Hưng










Chép gửi Hoàng Hưng cho mai sau của chúng ta
Hà Nội, tháng Tám 1982
Hoàng Cầm


(Nguồn: Diễn Đàn Forum)










Ấn tượng Hoàng Cầm

Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 23:00
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 02/09/2009 21:47
Tác giả: Nguyễn Trọng Tạo


Không hiểu sao trong tâm thức thơ ca của tôi luôn ám ảnh bởi Hàn Mặc Tử và Hoàng Cầm, dù thơ của hai thi sỹ này rất khác nhau về hồn thơ và giọng điệu. Hàn Mặc Tử thăng hoa cõi trần vào cõi mơ:” Thơ có tích và chiêm bao có tuổi”, Hoàng Cầm lại phất cánh diều thơ từ trầm tích của văn hóa Kinh Bắc Giải yếm lòng trai mải phất cờ; Hàn Mặc Tử mất năm 28 tuổi (1940) cũng là lúc Hoàng Cầm 18 tuổi xuất hiện trong làng thơ và tới những năm tuổi bảy mươi vẫn còn sung bút. Tôi nhớ hồi nhỏ đã từng chép tay hàng chục bài thơ của Hàn Mặc Tử, và sau chiến tranh trở về Hà Nội (1976), tôi lại mải miết chép vào sổ tay tập thơ VỀ KINH BẮC từ bản thảo của Hoàng Cầm, bởi thơ ông rất lôi hút những nhà thơ trẻ chúng tôi lúc bấy giờ. Quả là thơ Hoàng Cầm có một ma lực kỳ lạ ở sự cách tân, ở hồn cốt văn hóa làng quê Việt. Có lẽ vì thế mà Trần Dần gọi Hoàng Cầm là “nhà tân cổ điển”.

Thực ra, thế hệ chúng tôi lớn lên sau vụ Nhân văn - Giai phẩm ít được đọc Hoàng Cầm dù trước cách mạng 1945 ông đã đóng góp không nhỏ cho kịch thơ với hai vở Hận Nam Quan và Kiều Loan cùng với những bài thơ kháng chiến, tiêu biểu là Bên kia sông Đuống nổi tiếng và trường ca Tiếng hát Quan họ. Thơ của ông đẹp một vẻ đẹp thướt tha mà lại dạt dào, hào sảng:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Những hình ảnh thân thương gần gũi của quê làng vào thơ ông bỗng trở nên sang trọng lạ lùng.

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Nói như nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì thơ Hoàng Cầm “trầm đầy một nỗi phương Đông”. Đúng như vậy, cái “nỗi phương Đông” luôn “trầm đầy” chính là nhờ ông đã nhập hoà hồn thơ mình vào chiều sâu văn hóa Việt để rồi hiện ra trên trang giấy với dáng vẻ năng động của thơ mới trong sự luân chuyển về hiện đại.

30 năm vắng bóng trên thi đàn (1958-1988) lại chính là thời gian mà Hoàng Cầm đã tạo nên sự đột khởi trong nghiệp thơ của ông bằng tập VỀ KINH BẮC và nhiều tập thơ lẻ như MEN ĐÁ VÀNG, MƯA THUẬN THÀNH, 99 BÀI TÌNH, v..v... Nhiều bài thơ trong những tập thơ này, mà đặc biệt là tập VỀ KINH BẮC đã trở thành “ngôn truyền” trong công chúng với những Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi, Cây Tam Cúc, Cỏ Bồng Thi... Theo Hoàng Cầm thì VỀ KINH BẮC chính là tập thơ cột sống của đời ông. Đây là một tập thơ mà tinh túy của văn hoá Quan họ - Kinh Bắc đã được chưng cất, kết đọng lại. Ông chia tập thơ thành các “nhịp” với những đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như nén lại để rồi làm thăng hoa thơ Việt trong một không gian, thời gian thực ảo biến hoá khôn lường. Đọc thơ ông, ta gặp một con người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp tự do tài tình lướt qua khuôn phép. Chính vì thế mà thơ ông không cũ đi trong cổ điển, và cũng không quá xa lạ trong hiện đại. Nhiều câu thơ của ông đầy tài hoa, quyến rũ, khiến người đã "phải lòng" rồi thì không thể nào dứt ra được nữa:

- Vắt áo nghe thầm tiêng vải kêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta con chào mào khát nước
về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Ta con chim cu về gù rặng tre
mang nắng ấu thơ về sân đất trắng
Chị gánh gạo về nhà phú hộ
nứt vai thành sẹo lá lan đao
..........


Mảng thơ tình của Hoàng Cầm lại là một đóng góp đáng kể về cảm giác tình yêu trong thơ ta. Đấy là một cảm giác si mê hưng phấn trong ái tình, mà có người nhầm tưởng là kích động nhục cảm. Ví dụ những câu thơ rất gợi này:

Chân em dài đi không biết mỏi
Má hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mênh mông
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội đầu xanh

Những chân dài, má hồng, lưng thon khiến ta nhớ tới "trường túc", "hồng nhan", "chiết yêu" trong quan niệm tính dục của người Tàu, nhưng khi những chi tiết ấy vào thơ Hoàng Cầm nó đã được Việt hóa một cách thần tình, khiến cho câu thơ trở nên lung linh tơ lụa bọc che những ẩn dụ xa xăm.

Thực ra, nhục cảm trong thơ tình Hoàng Cầm luôn đa nghĩa, mà cuối cùng hướng về cái đẹp e ấp luôn có nguy cơ biến mất. Trong đời thực, Hoàng Cầm là một người đa cảm và cũng đa tình lắm. Da trắng, môi son vẫn còn phảng phất trên gương mặt chữ điền dưới mái đầu bạc trắng như cước. Cho dù khi đã gần tuổi 80, ông vẫn thường khát khao một mối tình chân thành, đắm đuối. Có lẽ nhờ thế mà trái tim trong thơ ông vẫn rộn ràng những điệu nhạc xa xăm:

Ai bảy mươi tươi ròn
Nằm mơ đưa võng mẹ
Ru say dòng mẫu hệ
Vòng tay quê bế bồng

hoặc:

Em ơi! Em ơi!
Tóc xanh bạc óng
Như hai con sóng
Dễ gì chẻ đôi...


Ngoài tình yêu và thơ ca, Hoàng Cầm cũng là người còn nhiều đam mê khác. Mươi năm lại đây, nhiều bài phê bình, tiểu luận và hồi ký của ông thường làm giật mình người đọc về một trí tuệ và khả năng sung mãn trong sáng tạo. Có thể nói ông là một người thẩm thấu văn chương rất tài tình, tinh tế và nhạy cảm. Không chỉ chia sẻ với các nhà văn nhà thơ cùng thời, mà ông rất gần gũi với cả những thế hệ sau. Ông viết phê bình, giới thiệu thơ của nhiều nhà thơ chống Mỹ với lòng ưu ái và nể trọng. Những bài viết gom nhặt cái hay cái đẹp như vậy bao giờ cũng chân tình và hứng thú. Khi không còn sức đẻ dọc nhiều nữa, ông vẫn dành thời gian đọc những người trẻ, chỉ bảo và cổ súy họ. Có lẽ nhờ thế mà sáng tác của Hoang Cầm không bị già cỗi, không bị tụt hậu như một số người cao tuổỉ khác. Gần đây ông cho in tập VĂN XUÔI HOÀNG CẦM khoảng 500 trang đã cung cấp cho bạn đọc nhiều điều lý thú bất ngờ. Văn xuôi của ông bộc lộ một bề dày văn hóa cùng nhưng trải nghiệm về đời, về nghề vô cùng sâu sắc và bay bổng. Có cảm giác dòng sông tâm hồn ông lúc nào cũng đầy ắp những con sóng dạt dào trẻ trung và ngọt mát.

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Hoàng Cầm vẫn khao khát được chung tay với Hội Nhà văn ra một tờ báo THƠ để thúc đẩy thơ ca ngày càng đạt tới những thành công mới và đáp ứng nhu cầu của công chúng yêu thơ. Đọc những lời tâm sự của ông trên báo, càng thấy khát vọng ấy của ông nhức nhối đến chừng nào:”Thơ là một mặt vô cùng trọng yếu của đời sống tinh thần dân tộc ta, thì lại không có một tờ báo dẫu chỉ là hai trang thôi! Lấy đâu ra sức mạnh đẩy thơ lên tới mức hiện đại hóa văn chương và nghệ thuật cho kịp với các trào lưu thế giới?”...

Những khao khát của Hoàng Cầm là khao khát nghiêm cẩn. Cũng chính những khát vọng ấy đã giúp ông vượt qua bao trắc trở thị phi bi kịch không đáng có trên con đường văn học. Và giờ đây, khát vọng vẫn nâng đỡ cho ông chống chọi với bệnh tật hiểm nghèo, với gánh nặng tuổi tác, giành lại những phút giây sáng tạo cuối cùng. Hôm qua, ông lại vừa đọc cho tôi nghe mấy bài thơ mới, và vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Nhìn ông tóc bạc, da trắng, môi son và cặp mắt ánh lên những tia sáng đắm đuối, tôi như thấy cả thời tuổi trẻ của ông vẫn còn song hành cùng ông trên con đường văn chương đầy mê đắm.

Hà Nội, 11. 1999 - sửa lại, 8.2004
















20
99 tình khúc
(tập thơ tình, 1955)
Giải thưởng Nhà nước 2007
















Những bài thơ khác của Hoàng Cầm


Anh đi và em đi
Ánh mơ
Ánh sao sa
Đêm liên hoan
Đêm tạm biệt
Đòi hồn
Ðôi lời tâm giao với người bạn thơ Tố Hữu
Bao giờ nói hết chuyện diêu bông
Bình yên
Bất ngờ
Buồn có lý
Bơ vơ
Có trai tơ
Cô gái giặt lụa
Cô gái hái chè
Cắt cánh thời gian
Chùa Phật Tích
Chút nghĩa cũ càng
Chị em xanh
Chuyện trăm năm
Cưới
Dày vò
Duyên kiếp
Em bé lên sáu
Em có về không
Em cứ về bên ấy
Gặp
Giả vờ
Giữ lấy tuổi trẻ
Giăng sao đi vòng
Hai ngả
Hình rêu bóng nhớ
Hận Nam Quan
Hứa
Hội yếm bay
Hoa gạo đầu đình
In dấu chân
Kỷ niệm
Khóc anh Lê Lương
Khi em đi xa
Khi mùa xuân đến
Khi mùa xuân trở về
Lá nhớ
Lão làng tiên chỉ
Lại gặp
Lấy lẽ
Lời đề tặng
Lời hẹn sông Hương
Lời ru của anh
Lỡ hẹn
Liệu còn gì nữa
Mai sau dù có bao giờ
Mê không có em
Mùa xuân đến rồi đây
Mới
Một lời quan họ
Một mình
Mong mỏi
Nén linh hương
Nếu anh còn trẻ
Ngã ba sông
Ngủ vỉa hè
Nguyên hình ảo vọng
Nhân câu chuyện một tuổi trẻ anh hùng chống Mỹ
Nhận lỗi
Những dòng lang bạt
Nhớ xa
Nơi hẹn
Nương nhẹ
Phía sau thư cầu hôn
Phương xa
Quan họ lại bắt đầu
Quan họ mở đầu
Sám hối
Sáng tối
Suốt tháng giêng
Tìm đến chân trời của mẹ
Tìm cái đẹp
Tôi người làng quan họ
Từ đó...
Tháng giêng đi chậm
Thèm
Thất vọng
Thể phách tinh anh
Theo dòng mẫu hệ
Thua một không
Thơ qua đài phát thanh
Tiếng cười
Tiếng hát sông Lô
Tiễn đưa
Tinh anh thể phách
Tu
Tơ tưởng
Tương biệt hành
U gì
U uẩn
Vào đường mê
Vào bến
Vào xuân
Viết trong quán cà phê





























Tham khảo thêm về nhà thơ Hoàng Cầm











Buổi nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm, một trong những người chủ chốt của phong trào Nhân văn Giai phẩm. Nhà thơ Hoàng Cầm sẽ cung cấp cho chúng ta một số dữ kiện văn học sử về thời kỳ hậu Nhân văn, về sinh hoạt sáng tác của các nhà thơ hiện là những người đang đưa ra những tìm tòi khai phá mới nhất cho thơ hiện đại.

Thụy Khuê: Thưa anh Hoàng Cầm, anh đã sống những ngày sóng gió với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và cũng là những ngày mà thơ hiện đại manh nha mầm mống ở, không khí ấy như thế nào thưa anh?

Hoàng Cầm: Nhân Văn chưa ra nhưng cái chuyện thơ thì Lê Ðạt, Trần Dần có rất nhiều ý kiến về thơ ca để cho nó tách hẳn ra. Còn riêng tôi thì tôi cũng không hẳn là cũ mà cũng chưa hẳn là mới. Anh em cứ bảo tôi là một loại poète né. Bài Bên kia sông Ðuống thì anh em vẫn đánh giá là nó cách tân đấy. Thế nhưng tôi cũng chả nghĩ gì đến cách tân hay không cách tân bởi vì tôi, về mặt lý luận, tôi lười lắm. Và đến khi Nhân Văn ra, thì tập Những người trên cửa biển rõ ràng là nó có nhiều cái rất mới và đặc biệt là 1/3 đầu:

Sinh ra tôi đã có Hải Phòng
đầu nhà mới trồng cây mận

thì tôi cho đó là những câu thơ rất hay, và

đêm đêm tôi vẫn ngủ trên cầu

đấy. Nói được cái khao khát nó mông mênh, nó vô tận như thế. Mà một trời một nước như thế với cái khát khao, cái khát vọng lớn của những thi sĩ như chúng tôi lúc bấy giờ, thì anh Văn Cao đã đạt được những câu thơ tôi cho là hay của cái thời kỳ giữa năm 56, từ mùa xuân đến mùa hè.

T.K.: Thưa anh, rồi sau đó có phải đến thời kỳ hoạt động mạnh của Nhân Văn Giai Phẩm không ạ?

H.C.: năm 56 là làm cái Giai Phẩm Mùa Xuân, Giai Phẩm Mùa Thù, Giai Phẩm Mùa Đông, cũng là do tôi và anh Lê Đạt làm là chính. Thế rồi đến Nhân Văn thì anh Nguyễn Hữu Ðang là người sinh ra báo Nhân Văn, tôi là người đặt tên cho tờ báo. Nhưng đồng thời sau đó cũng lại chính mình phải làm tất cả mọi viêc của tờ báo. Phụ thêm thì có anh Lê Ðạt. Thế còn anh Trần Dần thì vì anh ấy cũng yếu và những công việc của một tờ báo thì anh ấy cũng không làm được.

Năm 57 thành lập Hội Nhà Văn và lúc bấy giờ về báo Nhân Văn thì chỉ có một cái lệnh là đóng cửa thôi. Cái lệnh là đình bản. Cũng bị phê phán nhiều ở các báo, nhất là báo Nhân Dân, báo Văn Nghệ đều có phê phán cái tư tưởng Nhân Văn. Nhưng mà còn về mỗi người thì chưa có kỷ luật gì cả, đó là năm 57.

Tôi lại còn được bầu vào ban chấp hành Hội Nhà Văn và phụ trách phó giám đốc nhà xuất bản Văn Nghệ (lúc bấy giờ đổi tên là nhà xuất bản Hội Nhà Văn), do anh Tô Hoài làm giám đốc, thêm có anh Ðoàn Giỏi nữa để cho gọi là có đại biểu của miền Nam. Thế nhưng công việc làm lúc bấy giờ tôi làm là chính, vì anh Ðoàn Giỏi lúc bấy giờ anh ấy cũng chưa thân với anh em viết văn ở ngoài Bắc lắm bởi vì anh ấy mới tập kết ra. Còn anh Tô Hoài, anh ấy khôn lắm. Anh ấy cứ lỉnh đi để sáng tác. Ðấy là năm 57.

T.K.: Thưa anh, thế thì vì lý do gì dẫn đến những bắt bớ sau đó?

H.C.: Đến năm 58, đầu năm 58, bên Trung Quốc có việc đánh đả phá phái hữu. Hai nhân vật được nêu ra để phê phán ghê nhất là Đinh Linh và Trần Sĩ Hà. Bên nhà Nhà nước, lãnh đạo của ta ấy, mới cử ông Huy Cận. Nếu tôi nhớ không nhầm thì là ông Huy Cận với ông Lưu Trọng Lư, hay là ông Hà Xuân Trường nào đó tôi cũng không nhớ rõ lắm nhân vật thứ 2. Nhưng mà tôi nhớ chắc chắn là anh Huy Cận được cử sang Trung Quốc để rút kinh nghiệm cuộc đấu phái hữu. Khi các anh ấy về thì lập tức bên này lại mở ra một lớp gọi là lớp học chính trị, nhưng chính ra là để đấu, đấu tranh chống tư tưởng Nhân Văn. Tức là chống tư tưởng mà lúc bấy giờ ngườ ta cho là tư tưởng phá hoại, chống Đảng, tiếng thông thường là “phản động”. Đấy là đầu năm 58.

Lớp học đó kéo dài gần 2 tháng, sau đó thì đi lao động này, đi vào các xí nghiệp, xuống nông thôn, nông trường. Nhưng mà không phải chi riêng anh em Nhân văn đi. Tất cả văn nghệ sĩ đều phải đi tham gia lao động thực tế. Nhưng mà trong số chúng tôi đó, thì anh Trần Dần, anh Lê Đạt, anh Đặng Đình Hưng, Tử Phác thì đi về nông trường Chí Linh để chăn bò, chăn trâu, làm việc suốt ngày. Thế còn tôi và Phùng Quán, Trần Lê Văn, Quang Dũng thì đi về một hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Bình để lao động, nhưng mà nửa ngày thôi. Đó là sau khi giải quyết kỷ luật. Tôi thì thôi chức phó giám đốc nhà xuất bản văn nghệ, nhà xuất bản Hội nhà văn, khai trừ khỏi ban chấp hành. Lương cũng bị cắt đi rất nhiều, chỉ có một đồng lương nho nhỏ gọi là trợ cấp, đủ ăn cho một người. Đợt đầu tiên đi 6 tháng, 6 tháng rồi lại về Hà Nội, kiểm điểm rồi tổng kết vân vân…

Sau đó thì Hội nhà văn cũng không thu xếp được chỗ nào để đi lao động nữa lại hẵng cứ ở nhà tạm nghỉ một thời gian.

T.K: Thưa anh, trong thời gian nghỉ đó thì các anh làm gì ạ?

H.C: Chính lúc bấy giờ anh em lại tập trung viết được rất nhiều. Không phải là có một cái kỷ luật gì cấm sáng tác cả. Cấm không được in báo, xuất bản sách. Cấm xuất hiện cái tên của mình. Lúc bấy giờ tôi phải trông vào bà vợ. Như ở trong tập Về Kinh Bắc mà tôi đã viết đấy: Bà vợ rất tốt, chịu đựng kham khổ, hy sinh cho chồng con. Lúc bấy giờ tôi tập trung được tình cảm và suy nghĩ của mình liền trong năm tháng trời viết xong tập thơ Về Kinh Bắc. Trần Dần cũng trong vòng nửa năm ấy viết được Cổng tỉnh. Lê Ðạt làm một loạt thơ về quê hương của mình, thuở thơ ấu của anh ấy tức là thời kỳ Yên Bái đấy, những bài thơ như là Lão núi, Ông lão chăn dê hay là Ông phó cả ngựa đều đã có bắt nguồn ngay thời bấy giờ. Chỉ có là về sau này anh ấy hoàn chỉnh lại thôi. Thế nghĩa là anh em không hề ngừng sáng tác, chỉ có điều là không được in thôi. Không được xuất bản. Ðấy là năm 59.

Sang năm 60 trở đi thì lại bắt đầu đi lao động. Anh Trần Dần và tôi lại vào cái xí nghiệp nhà máy gỗ Hà Nội, anh Trần Dần làm thợ cưa, còn tôi thì đứng máy, ở cái máy cưa.

T.K.: Thưa anh, về công việc sáng tác sau giai đoạn 60 thì ra sao?

H.C.: Về cái việc sáng tác, thì sau khi anh Trần Dần làm xong Cổng tỉnh, anh Ðặng Ðình Hưng viết tập thơ đầu tiên trong cuộc đời anh ấy, đó là một tập thơ cực kỳ giá trị, tức là cái đầu ô, hay cái cửa ô, chưa xuất bản đâu, nhưng mà đấy mới thật là thơ Ðặng Ðình Hưng. Tôi thì Về Kinh Bắc, anh Trần Dần sau Cổng tỉnh lại tiếp tục, vào khoảng ngoài năm 60, 61-62 gì đó, anh ấy lại viết một tập thơ nữa là Mùa sạch. Và anh Lê Ðạt vẫn làm những bài thơ lẻ hoặc là những bài thơ dài, tức là mới phác thảo thôi, nhưng vẫn làm việc đều đều suốt từ năm 60 trở đi. Cho đến năm 75, số tác phẩm viết ra mà chưa được in ở mỗi người đề có là khá nhiều. Không hề là ngồi chơi không. Riêng anh Văn Cao thì lúc bấy giờ anh ấy có khuynh hướng muốn trở thành họa sĩ, anh ấy lại đi vẽ những minh họa, minh họa sách rồi minh họa trên báo. Riêng về thơ thì anh ấy không làm nữa. Cho đến khi phục hồi, lúc bấy giờ đều già cả rồi và Văn Cao thì cũng không còn một tình cảm nào say đắm về thơ như trước. Anh ấy vẫn làm thơ, nhưng riêng tôi thì mình thấy là thơ Văn Cao như thế, so với thời kỳ Cửa biển tức là Những người trên cửa biển ấy, thì xuống. Ðến cái Cửa biển thì tôi cho là đến cái đỉnh cao của Văn Cao. Về sau, anh ấy vẫn làm nhưng không bằng Những người trên cửa biển.

Anh Trần Dần thì liên tục làm và anh ấy tìm tòi nhiều cách lắm. Sau đó anh ấy đi vào thơ mini, tức là có khi chỉ có một câu, hai câu, rất ngắn mà nó chứa đựng những tư duy rất hay và đặc biệt là ít lời, rất nhiều cảm xúc, rất nhiều trí tuệ.

Anh Lê Ðạt vô cùng chịu khó học tập. Có khi anh ấy vào thư viện suốt cả tháng, anh ấy ở thư viện đến 10 giờ đồng hồ một ngày, đọc sách rồi nghiên cứu tìm tòi các thứ thơ văn cổ kim đông tây. Học rồi về nhà thì anh ấy lại làm. Có khi làm bài ngắn, có khi làm bài dài v.v… Và cuối cùng ra được tập Bóng chữ đấy. Nó chứng minh sự làm việc của anh Lê Ðạt rất công phu.

Anh Trần Dần cũng bị tật, sau khi bị cảm một trận năm 1974, anh ấy hơi liệt liệt, nhưng vẫn sáng tác thơ như thường, chịu khó tìm lắm. Gần đây, anh ấy lại sưu tập lại rút ra ở tất cả thơ của anh ấy, những chỗ nào hay nhất để đưa vào từng vấn đề của một tư duy thơ, gọi là lẩy Trần Dần. Anh tự lẩy. Anh ấy đã cố đưa ra một thế giới gọi là thế giới Trần Dần, cái univers Trần Dần, thì tôi đã thấp thoáng thấy nó hiện ra qua cái lẩy Trần Dần.

Tóm lại, sự làm việc của anh em thời kỳ hậu Nhân Văn, tức là thời kỳ 58, 59, 60 cho đến 75 gần như là không ai nghỉ một tháng, một ngày nào mà không lo về việc thơ ca cả. Chỉ có từ 75 về sau này, tình hình nó cũng có đổi khác, nhất là đến năm 88, được phục hồi, chính thức trở lại sinh hoạt Hội Nhà Văn, cái đà sáng tác ở mỗi người nó lại dâng lên, thì anh Lê Ðạt cũng làm nhiều. Anh Trần Dần bắt đầu làm được một ít, thì chẳng may anh ấy lại bị bệnh khá nặng, cho nên là độ hai năm nay anh ấy không làm được gì nữa.

T.K.: Thưa anh, vừa rồi anh nói rất nhiều đến công việc sáng tác và tìm tòi của các bạn anh,thế còn công việc tìm tòi của riêng anh thì ra sao ạ?

H.C.: Tôi là người hết sức giữ cái sức khỏe, nhất là sức khỏe tinh thần của mình, cho đến hơi thở cuối cùng để mà làm công việc của thơ. Tức là để sáng tác. Ðể nghiền ngẫm. Ðể nghiên cứu. Ðể đọc tất cả những công việc về thơ. Tôi là mọt người mà chắc chắn là tôi còn đủ sức cho đến hơi thở cuối cùng để mà làm việc cho thơ.

T.K.: Xin cám ơn nhà thơ Hoàng Cầm .








Lược kể về cuộc đời làm thơ của Hoàng Cầm, từ những ngày thơ ấu, qua thời kỳ cách mạng kháng chiến đến ngày nay.

Phần 2: Hoàn cảnh sinh sống của Hoàng Cầm sau thời kỳ Nhân văn Giai phẩm và việc in thơ Hoàng Cầm những năm gần đây


Nguồn: Thụy Khuê



Thụy Khuê: Thưa anh, sau thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, anh đã làm gì để sinh sống?

Hoàng Cầm: Tôi nhắc lại: trong vòng 30 năm, tức là kỷ luật bắt đầu từ 1958 đến 1988 thì phục hồi, nghĩa là 30 năm tôi không thể đem ngòi bút của mình kiếm được một đồng xu nào hết. Thế thì phải đi lao động chân tay. Tôi với anh Trần Dần, đã từng kéo xe bò. Lúc thì anh này cầm càng, anh kia đẩy, cứ thay phiên nhau như thế. Chỉ mới đi được hai hôm, cả Trần Dần và tôi đều ốm, tức là sốt, rồi nó đau hết mình mẩy và trận ốm ấy kéo dài có khi hàng tuần lễ. Sau không chịu được lao động chân tay nữa, đành phải đi kiếm ăn bằng cách, ví dụ như anh Trần Dần được một người bạn giúp cho đi tô màu ảnh. Lúc bấy giờ chưa có máy ảnh màu đâu. Ai thích ảnh màu thì cứ chụp đen trắng, xong Trần Dần cứ ngồi bôi thuốc, bôi cái má hồng, bôi cái môi son, bôi cái áo hoa nọ kia, nghĩa là bôi màu vào ảnh để kiếm ăn. Mỗi cái ảnh như thế được một hào hay hào rưỡi gì đó. Nghĩa là cứ thế suốt ngày ngồi cặm cụi tô màu vào ảnh. Còn tôi thì đi làm phim đèn chiếu. Viết những lời thuyết minh để kể chuyện chiến sĩ thi đua, hoặc là người tốt, việc tốt, hoặc là an toàn lao động v.v… Những đề tài như thế thì cũng vẫn cứ làm, để kiếm được mỗi tối ba đồng.

T.K.: Xin anh cho biết rõ hơn anh làm phim đèn chiếu như thế nào và anh còn giữ một vài kỷ niệm gì về việc ấy không?

H.C.: Có một hôm anh Phùng Quán đến chơi vào khoảng 7 giờ. Phùng Quán hỏi: “Anh sắp đi đâu đấy?” Tôi bảo là tôi sắp đi chiếu phim đây. Thì Phùng Quán hỏi: Phim gì? Tôi bảo phim đèn chiếu. Phùng Quán cũng chẳng hiểu phim đèn chiếu nó thế nào, mới theo tôi đi. Xuống sân một xí nghiệp thì người ta mắc cái máy ở đấy, rồi thì cũng có écran. Họ bắt đóng hết các cửa ra vào nhà máy và bắt buộc công nhân phải xem. Bởi vì đây là một bài học về an toàn lao động. Phim chính tôi làm, an toàn lao động, thuyết minh bằng lời thơ, có lúc bằng văn xuôi. Ðầu tiên là công nhân nó tức lắm, vì công đoàn bắt nó phải ở lại xem mà: Úi giời ơi! Ở giữa cái thành phố Hà Nội này mà lại chiếu những phim -ngày xưa người ta gọi là ống nhòm ấy mà- nó cứ keng keng keng gọi ra xem ống nhòm ở bờ hồ. Cái này nó cũng y như thế thôi. Chỉ có là nó chiếu lên màn ảnh to, chiếu ảnh lên, rồi nó phóng to lên. Thế rồi thuyết minh, y như ngày xưa xem ống nhòm ở ngoài bờ hồ, nó bảo: Này! Ðây quan toàn quyền Pasquier đi kinh lý đây! A lô! A lô! Ðây là Quốc Trưởng Bảo Ðại… thế này thế kia… Ðây! Vua Bảo Ðại, hoàng đế Bảo Ðại đi thăm tỉnh Thanh Hóa đây! Ngày trước thì nó như thế! Tức là mỗi cái ảnh nó bật ra, thì cứ chổng mông ra mà nhìn vào cái ống nhòm, trẻ con là thích lắm! Cứ bỏ vào đấy một xu thì được xem khoảng một vài chục cái ảnh. Còn cái này nó chỉ khác tí là nó chiếu lên écran, có lời thuyết minh một tí.

Ðầu tiên công nhân nó phản đối, nhưng cũng không thể làm thế nào được, bởi vì đây là kỷ luật bắt buộc phải xem để học tập về an toàn lao động. Nhưng đến khi tôi bắt đầu cất tiếng thuyết minh và đến chỗ tôi bắt đầu cất giọng ngâm thơ lên thì họ bắt đầu chú ý và im lặng, chứ lúc đầu họ phá phách ghê lắm. Cứ ầm ầm, ầm ầm. Thế rồi dần dần họ theo dõi phim cho đến hết và khi ra về có vẻ rất mãn nguyện. Họ bảo: “Ờ, tưởng cái gì chứ phim đèn chiếu xem cũng được đấy nhỉ! Mà lại hay đấy nhỉ!” Thì đấy! Ði kiếm ăn như thế và Phùng Quán dự từ đầu đến cuối. Ðến khi về thì tôi bảo: “Mình có ba đồng đây này, mời Phùng Quán đi ăn phở với mình.” Bát phở chỉ có 5 hào thôi. Phùng Quán bảo: “Không, đáng nhẽ em phải mời anh chứ! Anh làm gì có tiền, khổ thế mà anh mời em. Thôi, thế thì mỗi anh em ta làm một ly rượi suông vậy.” Mỗi ly rượu có 5 xu ấy mà. Rẽ vào một hàng, mỗi anh em uống một ly rượu suông. Phùng Quán nói một câu thế này: “Trời đất ơi! Nhà thơ nổi tiếng nhất nước thế này mà đi làm cái phim đèn chiếu! Cái ống nhòm ngày xưa! Em nghĩ nó tủi thân lắm, anh ạ”. Mình bảo chả có cái gì là tủi cả! Mình lao động bình thường như một con người bình thường. Mình kiếm ăn, có cái gì mà tủi mới buồn! Chả có cái gì đáng buồn cả! Tôi lại phải nói với Phùng Quán như vậy. Ðấy là những kỷ niệm về thời bấy giờ.

T.K.: Thưa anh, sau buổi liên hoan do tờ Văn Nghệ tổ chức đánh dấu việc anh đã được chính thức phục hồi, thì sau đó anh làm gì, và nếu anh viết thì những điều anh viết có in được không ạ?

H.C.: Sau cái buổi ấy rồi thì tôi cũng tiếp tục sáng tác và chuẩn bị in các tập thơ. Ðầu tiên là định in ngay tập thơ Về Kinh Bắc, vì nhiều nhà xuất bản đã biết tên tập thơ đó. Khổ cái là tôi mất hết bản thảo. Bị tịch thu, rồi thì chỗ nào có thì người ta cũng phải giấu đi, chứ không thì mắc tội gì đó. Tôi không làm thế nào mà nhớ hết cả tập thơ 48 bài, chỉ nhớ được độ mươi bài ngăn ngắn thôi. Thế nhưng đến các nhà xuất bản thì cũng không ai dám in. Nhà xuất bản Văn Học, nhà xuất bản Hội Nhà Văn (lúc bấy giờ còn tên là nhà xuất bản Tác Phẩm Mới), nhà xuất bản Phụ Nữ… tất cả đều rất quý, rất thích nhưng không ai dám xuất bản cả. Tôi mới nói chuyện chơi với anh Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản Văn Hóa, và đưa cho anh ấy xem một tập thơ, toàn những bài mới làm, mà toàn là thơ tình thôi, chứ không có dính dáng gì đến cái tập Về Kinh Bắc cả, bởi vì tôi biết rằng nếu còn dính dáng đến cái tập ấy thì không ai cho mình in. Ðọc xong anh ấy bảo: Thôi anh để cho tôi in tập Mưa Thuận Thành này nhưng phải yêu cầu anh cho một số bài nổi tiếng mà anh đã đăng báo rồi như Lá diêu bông, Cây tam cúc, Qua vườn ổi, Cỏ bồng thi, Tắm đêm, Về với ta, v.v…, tức là vào khoảng độ 7, 8 bài, mà là những bài anh em đã rất quen thuộc ngấm ngầm trong suốt 30 năm. Tôi bảo: “Cái này thì ông phải đối phó với cơ quan chính quyền thôi”. Anh Quang Huy bảo: “Ðược rồi, tôi sẽ có cách”. Quả nhiên khi anh ấy in, tôi cũng đưa vào đấy 8 bài trong tập Về Kinh Bắc. Thì cuối cùng đúng là anh ấy phải tiếp mấy cán bộ đại diện cho cơ quan công an của trung ương, hỏi anh ấy tại sao in tập này, lại có lẫn mấy bài ở trong tập Về Kinh Bắc. Rồi họ yêu cầu cho mượn bản thảo và cho xem cả bản sắp chữ, bản morasse. Anh Quang Huy vẫn thực hiện đúng ý kiến của trên, nhưng anh ấy có yêu cầu thế này: “Các anh mượn, chúng tôi rất vui lòng, nhưng các anh phải trả lại tôi để tôi in cho đúng kế hoạch của nhà xuất bản, nếu không thì nhà xuất bản chúng tôi phá sản, chúng tôi lỗ vốn đấy”.

TK: Thưa anh họ đã làm khó khăn như vậy nhưng mà theo anh tại sao họ vẫn cho phép anh in ạ?

HC: Tôi thì tôi cho rằng những bài thơ này đã từ những năng 87, 88 đều đã đăng rất nhiều báo rồi mà đều không có ý kiến gì của ai phản đối hay chê bai cái gì cả, không có ai nói rằng đó là những bài thơ xấu cả, chứ cũng không phải rằng tôi in mới toanh. Nhưng mà qua những chuyện nói vừa mềm dẻo nhưng cũng vừa rất có nguyên tắc của anh Quang Huy thì cuối cùng người ta cũng nhân nhượng. Thì đấy, bấy giờ mới ra được tập đầu tiên, đó là tập “Mưa Thuận Thành” của nhà xuất bản Văn hóa, thì nó chỉ có 8 bài trong tập “Về Kinh Bắc” thôi chứ cũng không có nhiều.

T.K.: Bây giờ trở lại những ngày đầu mà anh bắt đầu làm thơ, thưa anh, anh đã đến với thơ trong trường hợp như thế nào?

H.C.: Bây giờ tôi mới nghiệm ra là hình như tôi là thơ bẩm sinh thì phải, hình như là thơ đã nhập vào người tôi từ lúc tôi còn là cái bào thai. Không biết là có đúng không. Mà ngay từ khi tôi biết được khách quan tức là có ý thức được rằng mình đang ở đâu, bố mẹ mình thế nào, rồi chung quanh mình thế nào, tức là từ năm lên 5 tuổi. Lúc bấy giờ gia đình tôi ở môt phố xép, bên cạnh đường số 1, còn 6 cây số nữa mới đến thị xã Bắc Giang. Nhà tôi có một cái tủ thuốc của ông bố tôi làm cụ lang chữa bệnh, với lại một cái bồ hàng xén của bà mẹ tôi, thường thường là gánh đi bán ở các chợ chung quanh mấy xã đó, là huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Sống nghèo nàn như thế thôi. Không hiểu sao khi tôi lớn lên một chút thôi, tức là từ năm lên 5 tuổi, luôn luôn tôi cứ mơ mộng về những đám mây, nó cứ đi, nó cứ bay rồi nó về một ngọn núi xa xa là dãy núi Nham Biền ở tỉnh Bắc Giang đấy. Ðằng sau đường xe lửa đi độ vài trăm mét thì có một con ngòi, khi mùa nước lũ nó cũng to, mùa khô thì có thể lội qua được. Tôi hay ra bờ con ngòi đó. Mình cứ mơ mơ màng màng vào con sông đó, cái ngòi đó, cứ trôi mà không biết trôi về đâu. Có khi mình thả những con thuyền, lấy một cái lá đa bó bó nó lại như hình con thuyền ấy, rồi mình thả cho nó trôi. Ðể muốn nói rằng, thời thơ ấu của tôi cho đến khi tôi học hết tú tài thì cái nghiệp thơ đã định vào người tôi từ quá sớm. Mà tôi sống rất cô đơn, ở một xóm quê, cứ thơ thẩn trên cái đường làng hiu hắt như thế cho đến bây giờ 77 tuồi, tức là 70 năm. Bởi vì tôi cũng bắt đầu làm câu thơ đầu tiên vào năm lên tám tuổi. Cái nghiệp thơ ấy nó cứ theo đuổi tôi suốt bảy chục năm. Có thể nói là không có một ngày nào, tôi buông rời được cái hồn thơ của tôi.

T.K.: Anh có thói quen làm thơ vào những lúc như thế nào? Ban ngày hay ban đêm? Hay là phải những giờ phút đặc biệt mà anh có cảm hứng?

H.C.: Không hiểu làm sao mà cái hồn thơ của tôi nó cứ luôn luôn đêm nào cũng thế, nó cứ thao thức ở trong người. Có lúc thì bật ra được bài thơ. Mà không chăng nữa thì nó cũng vẫn là những giấc mê hoặc những mơ mộng, hoặc những nguyện vọng, những ao ước. Nó luôn luôn bám lấy tôi, nhất là về ban đêm. Và cũng phải nói một điều là từ lúc biết làm thơ, chưa bao giờ tôi làm thơ ban ngày hay chưa bao giờ tôi làm thơ theo một chủ đề định sẵn. Cứ tự nhiên nó đến, rồi tự nhiên nó đi. Không hề có một sự cố gắng tìm tòi chữ nghĩa hay bố cục gì cả. Tất nhiên là cảm xúc đầu tiên có ghi ra giấy, sau đó là cái thời gian phải nâng cao lên, tức là chọn chữ hoặc thay đổi chữ nọ, nhịp kia v.v… thì tất nhiên phải làm. Và cái giai đoạn này nó đã bắt đầu ngay từ lúc còn thơ ấu.

T.K.: Xin cảm ơn nhà thơ Hoàng Cầm





Hoàng Cầm: 'Trời bắt tội tôi yêu sớm' 

Cậu bé ngày nào mải miết đi tìm lá diêu bông vì trót thương thầm nhớ trộm người chị xứ Kinh Bắc, giờ đã thành ông lão tuổi 84. Dấu ấn thời gian đổ cả vào mái tóc bạc trắng của ông để giữ lại vẹn nguyên đôi mắt tinh anh và một tâm hồn thi nhân rộng mở. Thi sĩ Hoàng Cầm trò chuyện với VnExpress.


- Thưa ông, chàng trai trẻ Hoàng Cầm đã đến với những vần thơ tình như thế nào?
 
Nhà thơ Hoàng Cầm
 
- Tôi sớm viết thơ tình vì trời "bắt tội" tôi yêu sớm. 8 tuổi đã biết say mê. Nàng thơ đầu tiên của tôi hơn tôi 8 tuổi. Ngày ấy, mẹ tôi bán hàng xén. Một lần từ tỉnh lỵ trọ học về thăm nhà, tôi nhìn thấy chị mua hàng ở chiếc quầy nhỏ. Trong ánh nắng chiều, chị hiện ra trước mắt tôi, đẹp rực rỡ như một thiên thần.
Từ đó trái tim tôi lao đao, choáng ngợp vì chị. Tôi hiểu đó là thứ tình cảm gái trai thật sự chứ không phải là tình chị em con trẻ. Trước, mỗi thứ bảy tôi mới về thăm nhà một lần thì từ khi biết chị, cứ đều đặn đến thứ tư và thứ bảy là tôi mua vé tàu về quê. Rồi tôi lẽo đẽo đi theo chị, chỉ để ngắm thôi. Hai chị em cứ quyến luyến nhau như thế cho đến ngày chị đi lấy chồng. Chị tên là Vinh, là người con gái đã gợi hứng cho bài thơ Lá Diêu Bông của tôi.

- Cuộc đời ông có khá nhiều "lá diêu bông" bay qua. Tại sao không có chuyện tình nào kéo dài?

- Khi yêu nhau, ai chẳng muốn có một tình yêu bền vững. Tôi cũng muốn tình yêu của mình được lâu dài chứ, nhưng hoàn cảnh và số phận vốn mang nhiều điều éo le, bất trắc. Khi một mối tình đi qua, cũng có nhớ, có tiếc thương, khổ đau... đủ cả. Nhưng số tôi vốn đào hoa, luôn luôn được sống trong trạng thái yêu và say mê. Thời gian dành để bâng khuâng và buồn đau quá ít. Bóng hồng này đi qua chưa lâu lại đã có bóng hồng khác tới.

- Ngày xưa, ông thường tỏ tình như thế nào?

- Ngày còn là cậu bé, say mê chị Vinh, tôi viết những vần thơ tình đầu tiên để mỗi dịp về quê lại dúi ngay vào tay chị. Những lần như thế, chị lại thận trọng đút vào túi áo. Tôi biết là chị Vinh hiểu rõ tình cảm của tôi.
Còn những mối tình về sau là do các bà ngỏ lời trước. Cũng có những lúc vì nguyên nhân này nọ tôi phải từ chối nhưng thường thì họ cứ tỏ tình là tôi đồng ý luôn.

- Trong cuộc đời mình, mối tình nào khiến ông phải hối tiếc, ân hận?

- Đấy là chuyện tình với cô Ninh. Mối tình này ập đến khi tôi đã có vợ con đề huề. Nhưng cuộc hôn nhân đầu tiên không xuất phát từ tình yêu mà do mẹ thày sắp đặt và ấn định ngày cưới từ khi 17 tuổi.
Ninh là một người xinh đẹp, sắc sảo, con gái của một gia đình địa chủ giàu có, chúng tôi đã quen biết nhau từ trước. Nhưng đến năm 1942, trong những ngày về Tiên Du (Bắc Ninh) với ý định nhờ Ninh đóng vai Kiều Loan, tôi mới thực sự mê cô ấy. Sau 3-4 chuyến đi đi về về giữa Hà Nội và Bắc Ninh, tôi đã chinh phục được cô Ninh. Ngày đó Ninh đẹp, thông minh, có nhiều gia đình thanh thế giàu có dạm hỏi. Nhưng mà Ninh từ chối hết để nhận lời tôi. Bởi vì tôi ngâm thơ rất hay, nhất là những đoạn trong kịch thơ Kiều Loan. Tôi còn đẹp trai nữa, nhất là khi diện complet, đi giày tây vào thì trông oách lắm. Từ đó, thỉnh thoảng tôi lại lặn lội từ Hà Nội về Bắc Ninh thăm Ninh. Ban ngày chúng tôi xuống làng chơi, còn ban đêm, nhất là những đêm trăng sáng thì đi dạo với nhau, lãng mạn vô cùng.
Nhưng con gái có thì, cũng đến lúc Ninh phải lấy chồng, mà không thể lấy một người đàn ông đã có vợ con như tôi. Năm 1944, cô ấy rủ tôi bỏ trốn vào Sài Gòn nếu còn muốn duy trì mối tình oái oăm này. Đó là những tháng ngày tôi phải đấu tranh với bản thân rất quyết liệt. Bỏ đi là hành động đúng theo tiếng gọi của trái tim nhưng con người ta đâu chỉ có một tình yêu, mà còn biết bao mối quan hệ ràng buộc. Tôi còn bố mẹ già, vợ và con thơ. Đó là chưa kể, cuối năm đó hàng triệu người Việt Nam đang lâm vào cảnh chết đói. Trong lúc cả đất nước đang phải chống chọi với cái chết, tôi đâu đành bỏ tất cả vì hạnh phúc riêng tư. Chúng tôi chia tay nhau. Về sau cô ấy lấy chồng ở Hà Nội. Ông Trời cũng éo le. Trong những ngày tháng ăn ở với tôi, cô ấy không có mang. Nhưng khi lấy chồng, cô ấy đẻ một mạch 7-8 đứa con. Đến lần sinh nở cuối cùng thì cô ấy bị băng huyết và chết khi mới gần 40 tuổi. Đó là một cuộc tình vừa gây thương tiếc, vừa ân hận dẫu rằng nếu có quay ngược thời gian, tôi cũng không thể làm cách nào khác được. Cuộc chia tay ấy là tất yếu, như định mệnh vậy.

- Những mối tình thực trong cuộc đời ảnh hưởng thế nào đến thơ ca của ông?

- Thơ tôi thường nảy sinh từ những mối tình có thật trong đời. Tôi liên miên sống trong tình yêu, có những mối tình trở nên ám ảnh, khiến cho những bài thơ của tôi bật ra một cách tự nhiên và kỳ lạ như từ trong vô thức. Cũng có những bài thơ tôi làm có ý thức hẳn hoi nhưng cũng bắt nguồn từ những tiếc nhớ, yêu thương rất đỗi thật lòng dành cho một người phụ nữ nào đó.

- "Nhớ mưa Thuận Thành/Long lanh mắt ướt/Là mưa ái phi/Tơ tằm óng chuốt/Ngón tay trắng nuột/Nâng bồng Thiên Thai..." (Mưa Thuận Thành). Đấy là những câu thơ rất giàu nhạc điệu, nghe như chính tiếng mưa rơi. Vậy theo ông, nhạc điệu có vai trò như thế nào trong thơ?

- Nhạc điệu có vai trò rất quan trọng trong thơ tôi. Tôi học được điều này từ Verlaine (nhà thơ Pháp). Khi bàn về thơ, ông cho rằng: "Nhạc điệu trước hết". Tôi luôn chăm chút đến nhạc điệu trong những vần thơ của mình. Và trong thơ tôi, nhạc điệu cũng vang lên một cách rất tự nhiên chứ không phải gượng ép, chắp nối. Nó như là thứ đã hình thành sẵn trong lòng mình.

- Trong số các tập thơ của mình, ông thích nhất tập nào?

- Về Kinh Bắc. Tôi từng nói với các nhà phê bình là muốn nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, chỉ cần mỗi tập thơ đấy thôi cũng đủ. Còn những thứ khác, có cũng tốt còn không thì cũng không sao. Tất cả đặc điểm, tính chất và linh hồn thơ Hoàng Cầm nằm cả trong Về Kinh Bắc.

- Ông nghĩ thế nào về thơ trẻ ngày nay?

- Thú thật là bây giờ tôi ít đọc hơn. Phần vì ốm đau, phải nằm một chỗ nên ít có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với báo chí; phần vì tôi cũng tránh đọc. Bởi tôi không đọc thơ một cách dửng dưng mà phải suy nghĩ nhiều nên rất mệt.
Khi làm thơ về tình yêu, tôi không ngại bất cứ điều gì cả, kể cả việc đề cập đến tính dục. Còn hiện tượng nhà thơ, nhà văn trẻ viết về sex dung tục như hiện nay thì đó là những người không mang tâm hồn thi sĩ thực sự, có thể chỉ vì họ muốn nổi tiếng bằng cách tạo nên một điều gì khác lạ. Nhiều khi gặp những câu thơ hay những câu văn "gợn", tôi thường bỏ đi mà không đọc tiếp nữa.

- Ông có ấn tượng như thế nào với những nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Văn Cao...?

- Thực ra, khi tôi mới vào nghề văn, những người như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư... đã rất nổi tiếng. Tôi cũng thích làm bạn với họ lắm nhưng không dám vì thấy mình còn quá non nớt. Nói chung đối với những tác giả này, lúc bấy giờ tôi rất phục nhưng chỉ dám "kính nhi viễn chi".
Văn Cao là bạn thân của tôi, nhưng thơ tôi và thơ ông khác nhau nhiều lắm. Tôi chú trọng đến nhạc điệu, trong khi Văn Cao không cần đến âm điệu, không cần đến vần. Thơ ông giàu ý tưởng, tư tưởng. Văn Cao là người thâm trầm, ít nói nhưng có rất nhiều tâm nguyện sâu xa.

Một bài thơ mới của Hoàng Cầm

Xanh xanh lại mùa ảo vọng
Óng thơm dài mái tóc em
Lênh đênh lại dềnh biển sóng
Bốn phương mây trắng nỗi niềm

Hễ nói đến quên lại nhớ
Nhớ nhiều sao chỉ về đêm
Giấc ngủ còn gì để thức
Toàn thân bụi đỏ thoa mềm

Ai vừa cười nụ bên thềm
Vườn cũ bông hồng rạng sáng
Vội vàng chi sập bóng đêm
Mắt cô láng giềng lai láng

Vâng thì em lại lấy chồng
Thế cũng vui đời đôi chút
Dẫu đến nơi nào heo hút
Mai đừng trở lại phòng không

Ta biết mai này mây trắng
Thường bâng khuâng cõi chiều hoang
Ni cô bỏ chùa Long Khám
Về xin đi lại đoạn đường

Vậy thì đi hết đoạn trường
Mới hiểu đâu là hạnh phúc
Thế gian những gì không thực
Thường vây hãm nẻo tâm linh

Tôi biết em đi hy vọng
Giữa rừng tìm một lá xanh.

(Mồng 2 Tết)



Hà Linh thực hiện 














Hoàng Cầm: 'Tôi vẫn là chàng thi sĩ đa tình'  Tác giả của "Lá diêu bông", "Cây tam cúc", "Bên kia sông Đuống" đã ở tuổi xưa nay hiếm. Một trận ốm khiến ông già yếu hơn, đôi chân không còn đứng vững nhưng ở nhà thơ vẫn toát lên phong thái của một chàng hoàng tử lãng du.



      
Thi sĩ Hoàng Cầm khi còn trẻ. 

 
- Với sức khỏe như hiện nay, liệu ông có thai nghén một dự định sáng tác nào?

- Cách đây khoảng 6 tháng, trước khi ngã, tôi đã định cầm bút sáng tác một tập thơ. Vẫn là suy tư hoài niệm về những gì mình đã sống. Mọi tư liệu cũng như xúc cảm đã được chuẩn bị nhưng cái họa đến không lường được. Sau một thời gian dài, trí nhớ và sức khỏe được hồi phục dần dần, hiện nay tôi lại bắt tay vào viết.

- Trở lại một chút với thơ văn Hoàng Cầm, trong số rất nhiều tác phẩm, ông nghĩ tác phẩm nào ghi dấu ấn Hoàng Cầm rõ nét nhất?

- Khác với Xuân Diệu, Huy Cận xuất hiện trên văn đàn bằng các tác phẩm thi ca. Tên tuổi Hoàng Cầm lại được nhiều người yêu mến từ thể loại kịch thơ. Ngày ấy được xem vở kịch ngắn ở Nhà hát lớn chỉ trong hai mươi phút, tôi đã muốn viết một cái gì đó. Rồi lần lượt các vở kịch thơ Bóng giai nhân, Hận Nam Quan và sau này là vở Kiều Loan ra đời, gây tiếng vang đối với thời đó.

- Kịch thơ là một thể loại khó, tại sao khi còn trẻ, ông đã chọn thử sức với thể loại này?

- Tôi mê kịch thơ như một cái gì rất tự nhiên, mới mẻ. Được xem diễn viên đẹp, ngâm nga những ca khúc của mình, tôi cảm giác như những câu thơ được thổi vào một hồn cốt. Cái khó nhất của kịch thơ chính là tìm sự dung hòa giữa hai thể loại này. Nếu như kịch là câu chuyện có tính vấn đề, có diễn biến dồn dập thì thơ lại là cái gì rất mênh mang dàn trải. Tôi muốn mình phải vượt qua sự ngăn cách đó, và cho đến nay vở kịch Kiều Loan đã phần nào làm tôi ưng ý. Tôi cũng nhớ nó nhất vì sự ra đời của nó và hành trình đến với công chúng thật gian nan. Khi đoàn được phép biểu diễn ở Nhà hát Lớn 5 đêm, ngay sáng hôm đó công diễn được đón nhận rất hào hứng. Vé của hai hôm sau bán sạch nhưng trong thời điểm nhạy cảm, chính phủ đô hộ luôn gây sức ép và vở kịch thơ không tiếp tục được công chiếu theo kế hoạch. Sau này, chúng tôi đã đi diễn ở quê và nơi nào cũng rất thành công, được nhân dân đón nhận.

- Và người đóng nhân vật Kiều Loan cũng chính là vợ của thi sĩ, nàng Tuyết Khanh ngày ấy hiện giờ ra sao?

- Tuyết Khanh quê ở Hải Phòng, khi tìm diễn viên chính cho vở kịch này tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Và khi gặp Tuyết Khanh, thì ngay lập tức tôi bị chinh phục bởi vẻ đẹp và giọng nói ngọt ngào. Một thời gian sau, chúng tôi kết hôn, nhưng sống cùng nhau chỉ trong hơn một năm, từ năm 1947 đến năm 1948 và có với nhau một cô con gái. Sau này, do chiến tranh thất lạc khi đất nước giải phóng, tôi về Hà Nội, bà ấy lại vào Sài Gòn. Rồi Tuyết Khanh sang Mỹ, mang theo cả cô con gái của chúng tôi. Cách đây vài năm, cháu lại diễn vở Kiều Loan.

- Đọc thơ Hoàng Cầm, người ta tặng ông danh hiệu thi sĩ đa tình, ông nghĩ sao?

- Người ta gọi tôi là đa tình có lẽ vì biết phần nào những câu chuyện tình yêu hơn tuổi của tôi. Nhưng nếu không có cái đa tình ấy thì cũng sẽ không có những Cây tam cúc hay Lá diêu bông, không có thơ Hoàng Cầm. Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ. Mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu lứa đôi. Bản chất của anh thi sĩ đã vốn sẵn máu phong tình, cho đến bây giờ tôi vẫn thế. Tôi còn dành cái tình đậm sâu cho một vùng quê sinh ra mình.

- Nếu trong phong trào thơ mới, trước ông các thi sĩ thường chịu ảnh hưởng của thơ Pháp với các trào lưu khác nhau thì sự ảnh hưởng đó có ý nghĩa như thế nào với tác phẩm của ông?

- Thế hệ các nhà thơ già như chúng tôi nói tiếng Pháp từ khi biết đọc, coi văn hóa Pháp là một nguồn mạch thứ hai nuôi dưỡng cảm hứng thơ ca. Đó là sự ảnh hưởng của cả một trào lưu chứ không riêng một tác giả nào. Khi mười sáu, mười bảy tuổi, tôi rất mê các nhà thơ lãng mạn như La Martine, Affrè de Musset. Khi đã trưởng thành hơn một chút, tôi thường chịu ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng, siêu thực như Baudelaire, Verlaine. Nhưng cái ghi dấu ấn đậm nhất trong thơ tôi là đặc trưng của văn hóa vùng miền. Một vùng quê kinh bắc với dòng sông Đuống và những cô gái quan họ.

- Người ta thấy trong thơ Hoàng Cầm có một vùng tâm linh vừa rất mờ, vừa rất thực, khi viết những dòng thơ "nghe như có ai đọc bên tai" đó, sự chi phối của lý trí như thế nào?

- Trước khi cầm bút, bao giờ tôi cũng có sự suy tư trăn trở về tình yêu, hạnh phúc. Vùng miền tâm linh đó không phải là cái gì xa vời mà chính là những kỷ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc, thân thương với mình trong suốt những năm ấu thơ và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực. Cái dòng sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ" đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên tám, chín tuổi. Và khi tôi xa Kinh Bắc, chứng kiến những hình ảnh người phụ nữ trăn trở nghĩ suy về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng của con sông ấy cũng là dáng vẻ của sự suy tư, trăn trở cho số phận dân tộc mình. Rồi khi viết diêu bông, tôi nào có định nghĩa được nó là cái gì. Chỉ có điều trong cảm giác của tôi "diêu bông" chính là cái mình cần tìm. Sau này tôi đi tìm cách giải nghĩa lại hai chữ diêu bông thì thấy diêu là nhẹ nhàng, phiêu diêu, không có thực như ma, còn bông lại là sự cụ thể khiến người ta nghĩ ngay đến sự yên ấm.

- Là một trong số ít những nhà thơ của thế hệ trước còn tồn tại, ông nghĩ gì về những sáng tác của các nhà thơ trẻ hiện nay?

- Các nhà thơ trẻ hiện nay đang cố bươn mình lên, bứt phá. Họ muốn phá vỡ cái cũ bởi thơ hiện nay rất ít khi đi theo thể loại lục bát, tứ tuyệt. Họ đang tìm tòi hình thức mới để thể hiện con người và cuộc sống họ đang sống. Như Vi Thùy Linh, dám thẳng thắn đưa những quan điểm sống của mình vào thơ, đó là những tiếng thơ rất táo bạo. Nhưng để gọi tên thành một thi sĩ thì hơi khó. Nếu ở thời của chúng tôi, chỉ trong 12 năm, trên văn đàn nở rộ những tên tuổi, cây đa, cây đề như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Phạm Huy Thông, rồi Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử thì ngày nay, để người đọc nhớ đến và thuộc tên nhà thơ vẫn còn rất khó.

- Theo ông, nguyên nhân không có một gương mặt nào nổi trội trong làng thơ trẻ hiện nay là do đâu?

- Ở thời tôi, khi Xuân Diệu chưa xuất hiện, Thế Lữ đã thành danh. Khi Xuân Diệu gửi bài đến báo của Thế Lữ, ngay lập tức, ông đã nhận ra một tài năng thơ ca. Nhưng ông muốn cho tài năng ấy thật chín. Bài nào Xuân Diệu gửi đến, ông cũng viết nhận xét rất kỹ nhưng không cho đăng báo. Suốt một quá trình dài như thế, thơ Xuân Diệu gửi báo phải đến gần 100 bài, khi đó Thế Lữ mới để tài năng thơ ca này xuất hiện. Và khi ấy, Xuân Diệu không cần phải khẳng định mình nhiều, khán giả đón nhận ông. Nói như thế để thấy, các báo và nhà xuất bản được coi là bà đỡ cho nhà thơ. Nếu bị ghẻ lạnh, nhà thơ sẽ không có cách nào đến được với độc giả. Mà bây giờ, người muốn in thơ phải tự bỏ tiền túi ra in nói gì đến chuyện được dìu dắt như thời của chúng tôi.


Thu Hà thực hiện












CUỘC TRÒ CHUYỆN DUY NHẤT VỚI 2 NHÀ THƠ NHÂN VĂN GIAI PHẨM 

 
Đọc "Đèn cù" của Trần Đĩnh, thấy nhắc nhiều về vụ Nhân văn Giai phẩm. Mình nhớ lại cuộc phỏng vấn đầu tiên, cũng là cuối cùng với 2 nhà thơ may mắn còn sống để tháng 3-2007 được nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT, là 2 cựu trào: Lê Đạt và Hoàng Cầm. (4 nhà thơ Nhân văn giai phẩm một nhóm riêng, do Chủ tịch nước ký, gồm: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Trần Dần).
Cụ Lê Đạt bảo: Chắc gì bài đã đăng? Mình tự tin vì đây là bài sếp chỉ định nên nói như đinh đóng cột với cụ là đăng chứ.
Tối mưa rét, mò đến gặp cụ Hoàng Cầm trên phố Lý Quốc Sư. Lão nhà thơ đã ở tuổi 80, lại bị ngã gãy chân nên nằm tít trên tầng 5 của gia đình. Tội nghiệp lắm. Không còn bóng dáng một nhà thơ đa tình và đẹp giai thuở nào ... Thế mà cụ bảo: Vẫn muốn cưới vợ ... He he he ...
Hôm sau, bài vở đâu vào đấy, tưởng chỉ còn lên khuôn. Ai dè, lại nhận lệnh không được "khơi lại nỗi đau trong quá khứ".Thế là đành gác bài lại làm kỷ niệm. Chỉ có báo mạng nước ngoài được "độc quyền" khai thác.
50 năm các nhà thơ gánh chịu, giờ mới được mở mặt, mà không cho người ta được kể lại chuyện xưa, vì chỉ sợ người ta gợi lại bất công trong cuộc đời họ. Nhưng trái tim họ nhân văn lắm chứ!
Sau vài ngày, gặp cụ Lê Đạt ở Ngày thơ VN tại Văn Miếu, cụ cười: đã bảo là không đăng đâu mà! (Đúng là "không nghe người già vỡ làm ba mảnh")
Post lại bài viết lên, như một nén nhang tạ lỗi với 2 nhà thơ mà "chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau":


Nhà thơ Hoàng Cầm: THA THỨ LÀ CÁI LÕI CỦA CUỘC SỐNG

PV: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, việc ông và các nhà văn Lê Đạt, Phùng Quán và Trần Dần được nhận Giải thưởng Nhà nước đang được coi như một sự kiện văn nghệ. Ông tiếp nhận điều này như thế nào ạ?

Nhà thơ Hoàng Cầm (NT HC): Vui chứ, vì những giá trị của rmình vẫn được thừa nhận. Nhưng giá như việc này được làm từ hồi đất nước mới thống nhất thì tốt hơn. Bây giờ mới làm là chậm, nhưng chậm còn hơn không. Giải thưởng không làm tôi ngạc nhiên, vì điều gì đến sẽ đến, bởi chúng tôi không hề chống Đảng. Nhưng chúng tôi cũng nhận ra là mình nóng vội trong mong muốn đổi thay về quản lý văn hóa, mà không quan tâm đến bối cảnh khi đó. Lẽ ra, phải đặt mục tiêu thống nhất đất nước và sự an nguy của dân tộc lên trên.

Nhưng chúng tôi phải chịu hậu quả từ sai lầm của một thời, khi người quản lý chưa đủ bình tĩnh để xử lý, lại để vụ việc kéo dài mấy chục năm. Tôi đồng ý với nhà văn Đỗ Chu là, Giải thưởng này như một lời xin lỗi của những người làm văn nghệ với anh em chúng tôi, vì chúng tôi từng bị cô lập và chịu bao khó khăn. Giải thưởng đến, vui và thấy nhẹ lòng, song cũng thương cho Trần Dần và Phùng Quán vì họ đã mất khi nhiều điều buồn và suy nghĩ chưa được giải tỏa, nay không biết mình được xem xét lại. May tôi thọ, nên được nhận Giải thưởng khi đã ở tuổi 86.

PV: Báo chí nước ngoài đã quan tâm tới việc các cây bút từng bị coi là có vấn đề được nhận Giải thưởng lớn, với nhiều lăng kính khác nhau. Là người trong cuộc, xin ông cho biết ý kiến về điều này?

NT HC: Tôi biết mình biết người, hơn nữa, từ khi cầm bút tôi luôn tâm niệm: luôn yêu và thương con người, dẹp bỏ mọi thù oán, vì người cầm bút mà tâm không sáng thì văn cũng bỏ đi. Những nhà văn lớn bao giờ cũng có cái tâm lớn.

Sự tha thứ là cái lõi của cuộc sống. Không biết khoan dung, chỉ luôn nghĩ đến mình để oán trách người khác thì đâu phải là văn nghệ sĩ. Người cầm bút phải quan tâm đến cái lớn là quê hương và đồng bào.

Văn nghệ sĩ chúng tôi khách quan trong nhận xét và đánh giá sự việc. Những gì đã xảy ra ngày ấy chỉ là sự ấu trĩ của thời đại. Mà sự ấu trĩ là rất khó tránh, không chỉ ở Việt Nam mà cả nhiều nước trên thế giới.

PV: Sau bao thăng trầm, những năm tháng cuối đời ông tiếp tục là người nổi tiếng với hàng loạt tác phẩm được nhắc tới. Giờ đây trong ông có còn giữ được niềm tin và hạnh phúc với cuộc đời?

NT HC: Không có niềm tin, sao tôi được như bây giờ? Thời gian gần đây đất nước đã tiến lên rất nhiều về mọi mặt. Tôi cũng thấy mình hạnh phúc, từ khi có sự đổi mới về văn nghệ. Nhưng lại thấy lo khi có sự thái quá của nhiều người viết trẻ trước sự đổi mới này. Không ít người háo danh, chỉ muốn được nổi tiếng mà không chăm lo dùi mài về sáng tác để có các tác phẩm chất lượng. Tôi không đồng ý với quan điểm “được đằng chân, lân đằng đầu” của một số cây bút, vì như thế là văn nghệ sĩ không tôn trọng mình.

PV: Xin cám ơn những trao đổi của nhà thơ và chúc ông dồi dào sức khỏe, để sớm xuất bản cuốn hồi ký đời mình như dự định!


Nhà thơ Lê Đạt: 
CON NGƯỜI TA BAO GIỜ CŨNG NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC

Hồ hởi. Lạc quan. Cả giọng nói và tiếng cười của nhà thơ Lê Đạt vẫn vang âm, khỏe khoắn, như bất chấp thời gian đã ngả trên mái tóc sương 79 mùa xuân. Cuộc trò chuyện bên chậu mai tứ quý luôn đầy ắp tiếng cười sảng khoái của ông.

PV: Thưa nhà thơ Lê Đạt! Ông nghĩgì khi các tác phẩm của mình đã được trao Giải thưởng Nhà nước – một vinh dự không phải người cầm bút nào cũng có?

NT LĐ: Có thể hơi muộn, nhưng sự muộn màng này lại có cái hay riêng, khi ít người được nhận giải thưởng “hoa hậu” khi đã ở tuổi “mẫu hậu”. Vì thế, nếu nói không vui là nói dối. Vui nhất là với vợ con, vì giờ đây đã đỡ được gánh nặng tinh thần cho họ. Suốt cuộc đời, tôi nợ vợ con rất nhiều. Được trao Giải thưởng, tôi thấy nhẹ nhõm và không còn mặc cảm trước họ. Những ngày qua, mọi người đến thăm và gọi điện chúc mừng cũng nhiều. Sự nghĩ lại của con người bao giờ cũng đáng hoan nghênh, nhất là người có quyền quyết định những vấn đề lớn.

Tuy nhiên, không nên hiện tượng hóa những điều bình thường của cuộc sống. Việc tôi và các nhà văn Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần được nhận Giải thưởng cũng là điều bình thường của văn học, không nên làm thành vấn đề nóng lên. Có người cứ bịa ra tâm trạng của tôi, chứ bản thân tôi không có thời gian ngoái nhìn quá khứ để oán trách. Con người ta ai cũng có số phận, khi nó đến thì đương đầu. Không nên quá quan trọng cuộc đời, vì khi ta quan trọng cuộc đời tức là ta tự đánh giá mình cao quá đó thôi! Bình thường tâm là đắc đạo!

PV: Ông có bất ngờ khi niềm vui đến?

NT LĐ: Nói bất ngờ không đúng, mà không bất ngờ cũng chưa hẳn. Bởi tôi luôn tin rằng, sẽ có lúc mọi người nhìn nhận lại, vì các tác phẩm vẫn còn đó. Đã là người cầm bút thì phải tin vào tác phẩm của mình. Nếu không thì viết làm gì? Nhiều tác phẩm cũng thăng trầm như đời sống con người chứ đâu phải hễ ra đời là được đón nhận ngay? Nhưng nếu mang hết lòng mình vào trong tác phẩm thì trước sau cũng sẽ được công nhận.

PV: Là người hoạt động văn học lâu năm, lại trải nghiệm thăng trầm, nếu có thể, ông sẽ nhắn gửi đến đồng nghiệp điều gì khi gặp bước khó khăn?

NT LĐ: Con người ta bao giờ cũng nhìn về phía trước và không nên chìm đắm mãi trong hoạn nạn của mình. Đối thủ khó khăn nhất của con người chính là thời gian. Đời thì ngắn nhưng một ngày rất dài. Lúc khó khăn nhất, tôi đọc sách và viết, tránh “nhàn cư vi bất thiện”. Khi đọc sách, tôi được giao lưu với những bậc đại gia của văn hoá nhân loại, làm cho mình sang trọng lên và khi viết, tôi không có thời gian thất vọng hay thù hận. Điều quan trọng là luôn sống bao dung và giữ gìn sự hài hước. Làm một người khác trong số đông là khó, nhưng có lẽ đó cũng là ưu điểm lớn nhất của người luôn sống đúng với mình.

PV: Thưa nhà thơ Lê Đạt! Đã bước vào tuổi 80 nhưng ngày nào ông cũng đều đặn viết. Sẽ còn những sáng tác mới nào ông chuẩn bị ra mắt bạn đọc?

NT LĐ: Mỗi ngày, tôi viết 2-3 tiếng. Tôi chưa bao giờ không sáng tác. Vì thế, cuối năm nay, tôi sẽ xuất bản tập “U70 từ tình”, sau đó hoàn thành cuốn “Đoản ngôn” và tập tiểu luận “Đường chữ”. Ngoài lúc viết, đọc sách, tôi thích nghe nhạc, xem phim Hàn Quốc và đặc biệt thích xem biểu diễn thời trang (cười to).

PV: Xin cám ơn ông về cuộc trao đổi cởi mở và chúc ông có thêm nhiều tác phẩm cho đời! 

 
Thanh Hằng thực hiện














Phạm Duy Và Tôi
Hoàng Cầm



Nhà thơ Hoàng Cầm và nhạc sĩ Phạm Duy, ngày gặp lại
  Ảnh: Nguyễn Đình Toán


Một ngày giữa năm 1947 - Tôi và vợ tôi, Tuyết Khanh, đang còn ngơ ngẩn tiếc những đêm diễn kịch thơ Kiều Loan ở Nhà hát thành phố bị đứt đoạn vì những trò khiêu khích của bọn mũ nồi xanh, lính của tướng Leclerc, hai vợ chồng đã xông lên một vùng rừng núi đang rất xa lạ với mình, nhập luôn vào vệ quốc đoàn chiến khu 12, rồi mày mò, tìm bạn, thành lập ngay một đội văn công đầu tiên của Quân đội, gồm 12 anh chị em, 3 nữ 8 nam với một cậu y tá mang túi thuốc nghèo nàn, cứ khăng khăng xin với ông Lê Quảng Ba, chỉ huy trưởng quân khu, được đi theo đội văn nghệ để trông nom sức khỏe cho mọi người nay đây mai đó, đến với từng trung đội, đại đội vệ quốc quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch nói, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dã học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược. Tóm lại là một tốp nhỏ anh chị em hăng hái và sôi nổi phục vụ một cuộc “trứng chọi với đá” thật kỳ thú trong lịch sử một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục bất cứ một loại giặc xâm lược nào, giặc to đến đâu, sức mình bé đến mấy cũng đánh, mà đã đánh là phải thắng. Hồi đầu kháng chiến ấy, những “tiết mục” rất xoàng xĩnh, thậm chí có khi ngô nghê nữa, mà sao các anh nông dân mặc áo lính còn chưa đọc thông viết thạo lại say sưa thưởng thức đến thế! Nửa đêm nay tiểu đội A đánh phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe giọng ngâm thơ sang sảng...

Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan
Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn.

(Đêm liên hoan, thơ H.C.)

Nhiều khi họ lại “đồng ca” luôn theo đội văn nghệ:

Đường ta ta cứ đi
Nhà ta ta cứ xây
Ruộng ta ta cứ cày
Đợi ngày...

Say sưa, họ còn vỗ tay nhịp theo điệu hát:

Ngày mai ta tiến lên
Diệt tan quân Pháp kia
Cười vui ta hát câu tự do...

(Nhạc tuổi xanh - P.D.)

Vào một buổi chiều cuối thu 1947, trên đường đê sông Máng đi từ đập Takun (tiếng Pháp đặt thay tiếng Việt: tên gọi đập Thác Huống) có 3 người, 1 quàng guitare, 1 đeo accordéon, 1 cầm clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của đội văn nghệ tuyên truyền khu 12. Đó là các anh Phạm Duy, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang tìm về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi đoàn kịch Chiến thắng của các anh giải thể. Tối hôm đó, trong căn nhà ấm cúng ven rừng Yên Thế, trong ánh sáng ngọn đèn măng sông, ông Lê Quảng Ba giới thiệu ba chàng văn nghệ sĩ này với tôi. Ồ, có gì lạ nhau đâu, Phạm Duy đây mà, với giọng nói cố làm ra vẻ trịnh trọng: “Tôi ở trên ban văn nghệ trung ương, nghe tin anh Hoàng Cầm mới lập một đội văn nghệ lưu động, tôi và hai bạn tôi đây nhất quyết về với các bạn khu 12, vì toàn là trẻ trung cả”.

Rồi qua cặp kính trắng rất tài tử, Phạm Duy chớp chớp đôi mắt lẳng lơ nhìn các nữ diễn viên trẻ đẹp của tôi: Tuyết Khanh, Thúy Nga, Kim Oanh, đến nỗi cả ba cùng ngượng nghịu, đưa mắt nhìn nhau, tủm tỉm. Tôi với Phạm Duy quen biết nhau từ sau Cách mạng Tháng Tám. Chỉ biết qua loa về gia cảnh anh, hình như có chuyện éo le gì đó. Mới 15 tuổi anh đã bỏ nhà đi theo những bậc đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Đàm Quang Thiện, học được cách ghi xướng âm và những điều cơ bản về âm nhạc, chẳng bao lâu tài năng bộc lộ, anh chịu khó chắt lọc, sử dụng tinh hoa dân ca miền Bắc. Vốn thông minh, học một biết hai, anh đã có thể đi đàn ở các tiệm nhảy để mưu sinh. Vốn là một cậu con trai có dòng dõi văn hóa nghệ thuật lại sớm đa tình, miệng cười rất có duyên, tán chuyện với những cô gái cũng rất hóm hỉnh, quyến rũ, nên anh chàng bảnh trai này sớm có những chuyện dập dìu yến oanh. Sẵn có một trái tim đa cảm, nhiều cánh vỗ vào bầu trời lãng mạn, vào không khí trữ tình, vào cả gió bão thất thường của những năm thế chiến mà xứ xở Việt Nam không thể không bị cuốn vào cơn lửa khói hỗn độn, anh chưa bao giờ ở lâu một chỗ, tuổi trẻ của anh bềnh bồng gió Bắc mưa Nam, và ánh sáng nhấp nháy của những đô thị náo động cũng cuốn anh vào những xập xình của cuộc sống phồn thực, mà khoái cảm là một phương thuốc hiệu nghiệm để trốn chạy thực tế bão táp phũ phàng. Nghèo, nhưng mang cái máu như của thi sĩ Tản Đà đã tự thú nhận: “Giang hồ mê chơi quên quê hương”, anh chỉ khác Tản Đà ở chỗ tâm hồn không neo vào một bến quê nào nhất định, hồn anh từ 16 tuổi đã phiêu bạt và phiêu diêu với nhiều đam mê. Lắm khi chao đảo, anh không lúc nào muốn buộc mình vào một sợi dây vướng víu, kể cả sợi dây tơ tình đẹp nhất, anh cũng chỉ choàng lên cổ tự ngắm vuốt, tưởng như thích thú lắm, nhưng rồi chỉ mấy ngày bướm đậu rồi bướm lại bay thôi, anh có thể lại bứt đi mà tiếp bước giang hồ nhẹ tênh.


Nhà thơ Hoàng Cầm bên sông Đuống.
Ảnh:Nguyễn Đình Toán

Tôi rất thích khi có bộ ba “xe pháo mã” ấy, một bộ ba mà Phạm Duy là cái xe không lúc nào muốn dừng bánh. Từ cuối năm 1947 ấy các anh đã thành côpanh (bạn chia nhau từng mẩu bánh) của tôi. Ngọc Bích thì vui tính thường viết những bài hát vui, giản dị cho bộ đội dễ thuộc, Ngọc Hiền ít nói hơn nhưng với chiếc kèn clarinette lắm lúc cứ nỉ non thiết tha như mời gọi, anh lại hóm hỉnh, lúc nói chuyện đã pha trò là có duyên hấp dẫn ngay.

Riêng Phạm Duy, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau tôi cần phải nói rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh. Đóng quân ở đâu độ bốn năm ngày là anh đã sốt ruột rồi, lúc nào anh cũng ham cảnh vui, người lạ, những cuộc “kỳ ngộ” trên đường rừng, lối mòn Thái Nguyên, Lạng Sơn. Bắc Giang, Đồng Mỏ, rồi Phố Bình Gia, Văn Mịch, rồi từ sông Thương đến sông Kỳ Cung, từ đèo Nong “nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống” (Quang Dũng) nối đất cụ Đề Thám với xứ sở Cai Kinh, Đèo Đồng Mỏ thấp hơn, nhưng lại tình tứ hơn vì trên đỉnh đèo có mấy quán cà phê, trứng, sữa, bán cả phở bò, cháo gà, mà chủ nhân phần lớn là mấy chị em người thành thị tản cư, áo phin nhuộm nâu, quần lĩnh tía, vẫn còn thướt tha cái “dáng kiều thơm”, chưa quen nỗi truân chuyên trong khói lửa loạn ly.

Tôi thường chiều ý Phạm Duy, vì biết hễ cứ xê dịch luôn có cảnh đẹp lạ mắt, có những cô gái xinh tươi thì thế nào anh cũng bật ra được những giai điệu say mê, trữ tình, mặc dầu đề tài nhiều bài ca nổi tiếng của anh không phải là chuyện tình nam nữ hoặc chuyện xa cách nhớ nhung, thở ngắn than dài như một số ca khúc buồn trước cách mạng. Tôi cứ chuyển quân liên miên, nay đơn vị A, mai sang đơn vị B, nay vừa biểu diễn ở Nhã Nam, mai đã sang Bố Hạ, ngày kia đã tưng bừng tiếng ghi ta thánh thót trong đêm lạnh chân núi Mẫu Sơn, rồi chỉ vài hôm sau, đội của tôi đã hát vang trong bóng núi Chi Lăng, nơi gần 600 năm trước, tên giặc Liễu Thăng chết gục dưới mũi kiếm của đoàn quân do Bình Định Vương Lê Lợi chỉ huy và thiên tài Nguyễn Trãi bày mưu tính kế. Có thể nói chúng tôi đi không biết mỏi. Ngày đi, tối biểu diễn, có khi trên sàn nhà đồng bào Tày, có khi đốt lửa trong hang đá lạnh thấu xương hát cho tiểu đoàn của anh Thế Dũng vừa thắng trận Bông Lau trở về. Thường những đêm như thế đội văn nghệ chúng tôi đặc biệt là Phạm Duy tha hồ mà thưởng thức loại cà phê thượng thặng và hút thuốc lá “Craven A” cao cấp trong hàng đống chiến lợi phẩm mới thu về.

Sáng ra lại xuất quân. Phạm Duy mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm thì sáng tác thì chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua được một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát.

Đường Lạng Sơn âm u (ù u)
Giờ bình minh êm ru (ù u)
Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù
Đường Thất Khê bao la (à a)
Rừng núi ta xông pha (à a)
.......

Thường những lúc như thế, nhân thể tôi cho toàn đội nghỉ, tìm một xóm nhà dân nào đó gần nhất, xin trú quân, thổi cơm ăn, đồng thời bảo mấy tốp ca học thuộc ngay bài hát anh vừa hoàn thành. Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là Phạm Duy đã truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn những cảm xúc, những ý tứ bất chợt lóe lên trong tôi. Sáng tác đến đâu biểu diễn luôn đến đấy, anh chị em lại động viên tôi say sưa với nhiệm vụ của người đội trưởng tháo vát, biết tổ chức đời sống, chỉ đạo phương hướng làm việc đạt hiệu quả cao nhất trong các đơn vị bộ đội đóng rải rác khắp bốn tỉnh và trong các làng bản mà nhân dân tuy chưa hiểu kháng chiến được bao nhiêu, nhưng do những lời ca tiếng hát, nên đã yêu mến và hết lòng ủng hộ bộ đội, nuôi chiến sĩ và làm nghĩa vụ với chiến trường. Chỉ trong vòng chưa đầy 12 tháng, Phạm Duy đã liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần, bộ đội đã thuộc lòng, chúng tôi còn phân công nhau dạy hát cho các đơn vị từ trung đội đến trung đoàn và cả nữ dân quân, dân công tải đạn, cáng thương bệnh binh. Gì chứ về cái công việc này thì Phạm Duy hăng hái, sôi nổi nhiệt tình số một, vì bất cứ ở đâu có nhiều chị em, thể nào Duy cũng thì thầm cho đội trưởng biết: cô kia có đôi mắt đẹp quá, chị này thật lẳng lơ, cô nọ sao lại có nụ cười quyến rũ thế kia, tôi cũng thừa biết cái thú say mê ấy của Duy đã đẩy ngòi bút xúc cảm của anh ghi nhanh nhiều giai điệu nồng nàn uyển chuyển, với lời ca thắm thiết, với bao nét nhạc khí phách hào hùng hay hào hoa phong nhã nữa kia, nên bao giờ tôi cũng đồng tình với Duy về một loại công việc mà Phạm Duy thường nói đùa là “việc sinh sự, sự sinh” ấy. Tôi nhớ mãi một chuyện ở phiên chợ Bó Tuổng, dưới chân đèo Đồng Mỏ, có ba chị em người Nùng thấy Phạm Duy ngồi ở một cái quán nước tay đàn miệng hát. Thế là các cô cứ xán đến, rất bạo dạn, kéo vai áo anh nhạc sĩ đẹp trai này và ân cần, nài nỉ mời anh và cả “đồng chí chỉ huy nữa vớ!” về nhà chúng em chơi đi, gần đây thôi vớ, đàn hát cả đêm nay đi, hay lắm vớ. Pì noọng chúng em thích bộ đội đàn hát lắm đấy mà!

Phạm Duy nháy mắt với tôi như muốn bảo: đội trưởng đồng ý chứ? Chuyến công tác ấy, vợ tôi vì có thai đã được 6 tháng, cấp trên bắt tôi phải để vợ nghỉ an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng, do vậy tôi cũng được rảnh rang hơn, nhưng trước sự mời mọc quá tha thiết, ân cần của ba cô gái người Nùng tôi phân vân do dự, bối rối vô cùng. Ngày hôm ấy chúng tôi còn phải đi gần 20 cây số nữa đến điểm hẹn biểu diễn phục vụ một trung đoàn sẽ có mặt cả ông Lê Quảng Ba, ông Phan Phúc Tường, Chính ủy Quân khu và nhiều cán bộ đang chuẩn bị những trận đánh lớn dọc quốc lộ số 4, một con đường chiến lược huyết mạch của địch nối liền từ Quảng Ninh lên đến Cao Bằng. Ông Quảng Ba đã có liên lạc hẹn trước với tôi rồi. Không thể về nhà ba cô gái kia được. Bây giờ đã gần 9 giờ sáng, chơi chợ một lát rồi phải đi ngay, chiều đến nơi, ăn cơm xong, nghỉ một lát là biểu diễn luôn. Vậy rẽ ngang mà du hí thé nào được. Hồi đó tuy quân phong quân kỷ còn sơ sài, kỷ luật cũng chưa chặt chẽ lắm, nhưng tôi rất lo trách nhiệm của mình, không thể làm lỡ việc của anh Ba, để bộ đội phải chờ đợi văn công. Tôi khăng khăng từ chối. Phạm Duy cứ thuyết phục năm lần bảy lượt, thì thầm những lời đường mật “Bộ đội vẫn ở đây, không ở chơi với gia đình đồng bào Tày Nùng lấy một ngày, với ba cô bé xinh đẹp của xứ Lạng thế này, tao thấy tiếc, tiếc lắm. Đồng ý đi mày, mai anh Ba có phàn nàn gì, mày cứ bảo tao bị sốt rét dọc đường, là được”. Tôi càng bối rối vì trong tôi: trách nhiệm và thích thú cá nhân đã giằng co nhau mãnh liệt, lại phải cái tính cả nể, nên có lẽ mặt mũi tôi lúc đó chắc là trông buồn cười lắm. Rồi cả ba cô tiếp đến chín, mười cô và dễ thường đến một nửa cái chợ Bó Tuổng ấy mỗi lúc một xúm đông quanh chúng tôi và Phạm Duy. Họ cũng đoán tôi là “cấp chỉ huy” gì quan trọng lắm đây, nên các cô gái cứ vây lấy đồng chí chỉ huy à! Về nhà chúng em vớ, vui lắm vớ! Trừ có vợ chồng nhạc sĩ Văn Chung là không có ý kiến gì, còn hầu hết anh chị em trong đội của tôi đều tán đồng với anh chàng “đầu têu” họ Phạm: - Nên đi cho biết anh Cầm ơi! Bộ đội thì quen quá rồi còn đồng bào miền núi, mình đã biết gì lắm đâu! Đồng ý đi, anh đội trưởng! Cuối cùng tôi cũng đành nhượng bộ và quả thật, từ lúc đến nhà ba cô, cuộc vui thật là “đầy tháng” (tuy chỉ có nửa ngày và một đêm) và “trận cười suốt đêm” (Nguyễn Du).

Sáng hôm sau, lúc chia tay với gia đình ấy trông Duy ỉu xìu: dùng dằng mãi không quàng nổi cái dây đàn lên cổ, còn riêng tôi khi xuống cái cầu thang nhà sàn, sóng đôi với cô chị lớn tuổi nhất ra đến đầu ngõ, tôi cảm thấy hồn mình đã bị ai buộc chặt vào cái cột nhà sàn mất rồi, chỉ còn cái xác vật vờ, chệnh choạng mà vào phút cuối cùng chia tay với cô chị (tôi còn nhớ tên là Ché Mai níu chặt cánh tay tôi, đưa vạt áo chàm lên lau nước mắt, tôi thì nghèn nghẹn, không nói được gì, nước mắt cứ ứa ra, nhòe hết núi đá, rừng cây và con đường đá trắng quanh co trước mặt.

Khổ! Cái anh chàng nhạc sĩ họ Phạm này, cũng y hệt mình thôi, cứ đến “chuyện ấy” tưởng được vui hóa ra lại chuốc lấy cái sầu li biệt. Với Duy nó cũng nhẹ thoảng qua thôi, chứ với tôi, cuộc chia tay ấy nặng như núi đá cứ xanh thẫm cái màu chàm quái ác và đằng đẵng mãi đến khi kết thúc công tác phía Lạng Sơn, về xuôi rồi thậm chí đến hôm nay nữa, khi ngồi viết ra mấy trang hồi ức này tôi vẫn không nguôi nỗi nhớ.

Quả vậy, tôi rời cái bàn của Ché Mai, nặng lòng bao nhiêu thì khi ra đến mặt đường tỉnh từ Đồng Mỏ lên Phố Bình Gia, Phạm Duy lại phơi phới bấy nhiêu. Anh ta vẫn nhẹ tễnh cái hồn say sông núi, cỏ cây xứ Lạng. Rồi mấy anh trong đoàn lại vừa đi vừa hát, nhiều khi làm thơ kiểu “nối điêu” nhưng bắt buộc một câu bảy chữ phải cùng một âm cốt, ví dụ: Đường đá đưa đoàn đi đến đâu để quên cái đoạn đường đá lởm chởm đang nhức gan bàn chân. Văn Chung xướng ra câu đầu tiên: Đường đá đưa đoàn đoàn đi đến đâu. Một lát Phạm Duy nối: “Xa xưa xam xám xuống sương sầu”. Tôi quên mấy câu do Trúc Lâm, Ngọc Hiền, Ngọc Bích làm tiếp theo, riêng tôi là người làm thơ thì lại chẳng bật ra được chữ nào vì đang lo việc về chậm nơi tập kết, và cứ nao nao nhớ Ché Mai. Mới biết về chuyện ân tình nam nữ thì Phạm Duy khá nhẹ nhõm, anh ta như gió thoảng qua trên hoa lá, lẳng lơ tình tứ đấy mà quên ngay đấy, rồi ngọn gió ấy lại thổi tạt con bướm non sang chòm hoa lá khác. Có lẽ do cái bản chất tênh tênh ấy, mà càng lưu diễn qua nhiều nơi mới lạ, thì anh lại càng sáng tác được nhiều chăng? Mà không biết có phải cũng vì thế mà phần lớn ca khúc anh viết ở Việt Bắc 1947-1948 đều như thiếu một khoảng gì (không cần sáng lắm) để chạm chìm vào lòng người những nét suy tư sâu sắc? Bài nào anh viết ra đều nhẹ nhõm, dễ thuộc, cũng có thể nhớ lâu, nhưng nhớ lâu chưa chắc cùng một vần với nhớ sâu. Ở những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Nhưng quả thật Phạm Duy là người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng khác cùng thời.

Đến khi cuộc sống kháng chiến đi vào chiều sâu thì anh đã không còn ở bên tôi nữa. Như con chim ưa tìm xứ lạ, anh đã bay đi và để lại trong tôi một cái gì giống như tiếng sáo vi vu, giàn giụa tình nghĩa xóm quê xa với những nẻo đường cũng đã quá xa, tưởng chừng khó còn khi gặp lại.

Mười ba tháng tròn bên nhau, ăn cùng một rổ khoai sắn, chia nhau từng cái bắp ngô nướng bếp nhà sàn, từng đọt măng mai măng nứa, đắp chung nhau cái chăn trấn thủ mỏng dính, hụt hẫng như ca dao của Lê Kim “Đắp dọc thì hở hai bên, đắp ngang thì lạnh như tiền cái chân...” rồi cùng chia nhau cả những dây tơ tình vắt thoáng qua lướt nhẹ hai vai, rồi đến cả mấy bài hát sáng tác ngay bên cạnh tôi, anh cũng cho phép anh đội trưởng điếc đặc âm nhạc này được hoan hỉ nhập vào một tốp ca do anh bố trí người đàn người hát, ngược lại mấy bài thơ “dài dòng văn tự” của tôi (Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống, Tâm sự Đêm giao thừa, Tiếng hát sông Lô) anh cũng xin cho tôi được “đồng ngâm”. Tôi đã chia đoạn mỗi bài thơ ấy như để đối xướng và giao cho anh những phần có thể ngâm nhiều hơn đọc. Anh thích ngâm thơ và cũng đã thành một “cây ngâm thơ” không phải hạng xoàng. Vậy thì tôi đã giúp gì được anh? Có lần trong chuyến đi công tác dọc tả ngạn sông Cầu, đi đường, một bên là Phạm Duy, một bên là vợ tôi, không biết từ đâu và do cảm hứng gì, thật bất ngờ tôi đột nhiên cất cao giọng “hát” trọn vẹn một bài thơ của Lưu Trọng Lư mà tôi rất thích.

...Ai có nghe tiếng hát chị đò đưa
mà không nhớ thương người quả phụ...
Nằm ấp bóng trăng thưa...

Tôi hát thật (hoàn toàn không phải “ngâm” như vốn là “nghề” tay trái của tôi, mà cũng là “cao tay nghề” “nhà nghề” lắm lắm, nghề ngâm thơ)

Dẫu chỉ là ngón sở đoản của tôi, Phạm Duy cũng rất thích rồi... ngược đời thật... Phạm Duy lại “học hát” ở một anh bạn “mít xoài” âm nhạc. Đầu tiên, chỉ là những trò chơi cho quên vất vả dọc đường, nhưng dần dà lại ngấm sâu vào cả tôi và anh. Tôi biết Phạm Duy say mê dân ca, anh luôn luôn lắng nghe và tìm hiểu để thụ nhập những lời ca điệu hát của biết bao trai gái quê Bắc Ninh, Bắc Giang, cả những anh chị người Tày, Nùng mà trong 13 tháng ấy anh luôn luôn được tiếp cận. Bởi thế nên hơi thở của dân ca xứ Bắc đã trở thành sinh khí trong các ca khúc Phạm Duy hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Chỉ cần một phẩm chất ấy trong các sáng tác của anh thời đó là đủ cho tên tuổi anh thành thân thiết với bộ đội và nhân dân từ trung du đến biên cương phía Bắc. Từ khi chia tay với anh lần cuối vào khoảng sau tết âm lịch năm 1951, tuy xa cách, tôi vẫn nhận được nhiều tin về sáng tác của anh. Vào công tác ở khu Bốn dưới trướng thiếu tướng “Mạnh Thường Quân” Nguyễn Sơn, một ông “nhà binh” lại đam mê văn nghệ, Phạm Duy đã viết những ca khúc đặc sắc: Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh, Bên ni bên tê... chứa chan sắc thái miền Trung, Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông...dài... Chúng tôi nghe thấy rõ tiếng sóng bờ biển Quảng Bình, tiếng xao xuyến những đợt mưa ngàn, mưa núi Quảng Trị, thấy cả một bầu trời xanh, rất xanh màu “hai châu Ô, Lý vuông nghìn dặm" (Tản Đà) từ thuở Chiêm Thành, đã tưởng mất hút qua thời gian lặng lẽ và lạnh lùng. Phong vị dân ca quan họ đã theo anh vào nhiều ca khúc, đặc biệt là bài Khúc hát hành quân xa thì giai điệu, âm sắc và tiết tấu nào có khác gì với bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi đã bất chợt hát trên đường hành quân bên bờ sông Cầu năm ấy?

Ai có nghe khúc hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Chờ con lúc canh khuya
Người con đã ra đi...vì nước...
(P.D)

Quan họ, dân ca miền Bắc, hò và dân ca miền Trung thấm vào người anh như nước tưới thấm nhuần cây cam cây bưởi, và anh đã trả lại cho đời những hoa ngát trái lành trên nền âm nhạc Việt Nam, với già nửa thế kỷ những khúc ca đến nay còn bịn rịn vương vấn lòng người.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, biết tin anh Phạm Duy đã ở xa, xa đất nước, xa quê, xa bạn, thú thật lắm khi nhớ anh, tôi cứ tiếc... càng tiếc và nhớ khi thấy hai đứa bạn trẻ ngày xưa, bây giờ tóc đã cùng ngả màu sương tuyết. Gần nửa thế kỷ cách biệt giữa hai tấm lòng tri âm, tri kỷ, không kể còn bao nhiêu cái éo le, truân chuyên của số phận mỗi người, hôm nay tôi cứ ước ao có một ngày nào chăng hai đứa ôm ngang lưng nhau đi bên “hồ trả Gươm” mặt hồ xanh “màu cốm đậm”, Phạm Duy và tôi tha thẩn cái tuổi ngoài bảy mươi, tóc trắng bay nhịp với lá bàng rụng tím bên hồ, đi mà sống lại, nhớ lại một thời ngắn ngủi bên nhau, sóng nước gợn lăn tăn hình như đang se sẽ gợi một khúc hát nào của anh xa xưa. Có thể có ngày ấy không hỡi những Tình cờ và Hữu ý, hỡi những Hữu hạn và Vô hạn trên thế gian này?


Hà Nội, tháng 12.1993

HOÀNG CẦM 











NHỮNG NGƯỜI CÓ DUYÊN NỢ VỚI “VỀ KINH BẮC”

Hoàng Cầm kể (HH ghi)


1/ Cô “Cần Thơ”:
Cần Thơ là ai? Tôi quan hệ thế nào với cô?
Nguyên tôi có người bạn ở trong Sài Gòn là anh Nguyễn Bùi Chấn, anh ruột cô Nguyễn Thị Bắc là hoa khôi tỉnh Bắc Giang – tôi định nhờ cô Bắc diễn vở kịch Kiều Loan rút cuộc là không thành mà thành một người tình của tôi. Nguyễn Bùi Chấn là bạn học cũ của tôi suốt từ năm đồng ấu cho đến năm lớp nhất ở tỉnh Bắc Giang. Năm 1979, anh có viết thư cho tôi đại ý là: Ở bên Pháp có một nữ bác sĩ còn ít tuổi hâm mộ thơ của anh, tên cô ấy là Bùi Thị Cần Thơ, vậy thì nhận được thư này anh làm ơn cho tôi biết ngay là anh có vui lòng quan hệ với một người như thế không? Cô ấy cũng nói anh thích có cái quà gì hoặc anh thích bất cứ cái gì, cô ấy sẽ gửi tặng anh. Vốn tính tôi khi thấy có một độc giả yêu thích thơ mình như thế, nhất lại là nữ, thì tôi sốt sắng ngay.
Thế là tôi viết thư cho ông Nguyễn Bùi Chấn là tôi sẵn sàng quan hệ với độc giả ở xa; còn về quà, thì hiện nay ở Hà Nội việc mua kháng sinh và những cái thuốc tốt của nước ngoài thật là khó khăn, vậy nếu cô ấy là bác sĩ thì tôi muốn cô ấy tặng tôi một ít thuốc nhưng thuốc chính là kháng sinh, tóm lại là tất cả các loại kháng sinh về bệnh đường ruột, đường hô hấp, đường tiết niệu v.v. để cho gia đình dùng. Độ hai tháng thì tôi nhận được giấy báo của bưu điện Hà Nội ra nhận gói hàng ở phố Lê Thạch. Họ đưa cho tôi một tờ giấy để khai, khai cả tên người gửi, tôi để trống chỗ ấy. Khi đưa tờ giấy khai thì cô ở bưu điện có vẻ hống hách lắm, bảo “Bác không đề tên người gửi vào đây thì chúng tôi biết thế nào mà phát”. Tôi cũng đâm cáu, tôi nói hơi to: “Xin nói với chị rằng tôi là Hoàng Cầm, một người làm thơ rất nhiều độc giả ở khắp nơi trên thế giới này, người ta có thể biết tôi, thế thì người nào đó gửi quà cho tôi, tôi chịu, không biết tên được, chị chỉ việc tìm người gửi cho tôi thôi chứ bây giờ chị hạch tôi như thế thì thôi tôi chả cần phải lĩnh đâu tôi đi về đây”. Lúc bấy giờ có lẽ cô bưu điện thấy như thế là quá đáng, cô bảo “Không, không cháu nói thế thôi, bác đứng lại để cháu tìm”. Xong rồi cô tìm ra gói hàng đó thì cô đọc tên người gửi và hướng dẫn tôi ghi vào bản khai: người gửi là Bùi Thị Cần Thơ ở thành phố Troie bên Pháp. Tôi lĩnh được một cái gói hàng vuông vắn bằng cáctông đúng 1kg, mở ra toàn là thuốc, đúng như lời tôi yêu cầu trong thư gửi anh Nguyễn Bùi Chấn, các thứ thuốc kháng sinh, trong nam gọi là trụ sinh, toàn thứ thuốc tốt cả, bên cạnh đó là một lô thuốc bổ cực kỳ đắt tiền ví dụ H500,… Thuốc bổ thì tôi không muốn dùng mặc dù tiêm vào thì cũng tốt thôi, nhưng mà trong hoàn cảnh gia đình tôi không có đủ tiền sinh hoạt hằng ngày, mà khi lĩnh thuốc ngay ở bưu điện đã có những anh đi buôn thuốc theo về tận nhà xin mua. Gói hàng đó có 1kg thôi và không có cái thư nào gài vào đấy cả, nhưng cô Cần Thơ viết ở phía trong cái bìa. Cô viết khéo lắm, cứ thỉnh thoảng viết về thuốc thì cô gài cái ý ngoài, đại ý là: bên này em là bác sĩ một ngày chỉ làm việc ở bệnh viện nửa ngày thôi, còn nửa ngày nghỉ, em đọc thơ anh rất nhiều, nhưng mà em rất mong có những bài thơ mới của anh về quê hương đất nước, thơ chưa in cũng được, anh gởi cho em ít bài vì bên này cần những cái đó lắm.
Tôi có ông bạn hay nói đùa làm ở bệnh viện Việt Đức, ông bảo: tên bà là Cần Thơ tức là bà đang cần cái thơ của anh. Lại còn họ Bùi? Bùi Thị Cần Thơ! Tôi nghĩ ngay chưa chắc đó là tên thật nhưng cô ấy lấy họ Bùi chắc cũng là một cách đối phó với chính quyền hay gây những khó khăn trong quan hệ xã hội, lấy họ Bùi để người ta có thể nghĩ là em gái hay họ hàng gì với ông Bùi Hoàng Cầm. Sau đó độ 1, 2 ngày thôi thì tôi viết được ngay một bài thơ, lâu rồi tôi quên mất đầu đề, những câu đầu như thế này “Một áng hương em gói lỏng xuân, Từ đâu bỡ ngỡ cánh thiên thần”. Bài thơ cũng dài tất cả 8, 9 đoạn mỗi đoạn 4 câu. Tôi gửi thư ngay theo địa chỉ đề ở trong hộp quà, ở cách Paris về phía Đông Nam khoảng 100 km. Thế là từ đấy trở đi quan hệ với cô Cần Thơ này càng ngày càng xiết chặt và tôi luôn luôn gửi thư, cứ độ một tháng có một cái thư, gửi cái nào thì tôi đều nhận được một bưu thiếp thôi chứ không phải là thư, cô ấy trả lời bằng bưu thiếp để cho tôi dễ nhận – cô ấy biết nếu gửi thư thì có thể là thư đề địa chỉ Hoàng Cầm sẽ bị kiểm duyệt. Cách đến 3 năm sau thì có lần cô gửi một cái thư tay qua một người bạn đem đến tận nơi, cùng với 100 đô biếu tôi. Thư ấy rất dài, cô kể tỉ mỉ việc cô ấy làm, cô ấy mới nói ra là cô có khuynh hướng theo Phật. Có một lần cô ấy đi xuống phía Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh trẻ em, cô đến đấy và gặp trên lưng chừng một quả đồi có một ngôi chùa người ta tụng kinh, làm lễ Phật, người ta ngồi thiền, và cô ấy thấy rất cảm động và say mê, cho nên cô ấy có khuynh hướng không làm bác sĩ nữa mà đi hẳn vào con đường tu hành.
Trong đời tôi chưa hề có độc giả nào giúp đỡ tôi đều đặn đến như thế, suốt từ năm 1979 đến nay, lúc tôi bị bắt thì bên ấy cô cũng biết tin ngay và cô gửi cho bà Yến 100 đô, đó là người đầu tiên gửi tặng tiền tôi khi tôi ở trong tù, và từ năm tôi ở tù và sau khi ra tù thì cứ mỗi một năm thế nào cô cũng gửi cho tôi đến hai lần quà và tiền, càng về sau thì tiền gửi dễ dàng hơn; trước kia gởi bằng quà, bằng thuốc, lúc đầu chỉ 1kg sau dần dần cô gửi tới 5kg.
Qua những cái thư cô viết cho tôi, đầy nhân hậu, và cũng đầy triết lý, dần dần tôi mới hiểu Bùi Thị Cần Thơ là tên giả trong nhiều tên giả lắm, tên thực của cô là Cao Ngọc Thu. Làm việc thiện từ khi 16, 17 tuổi, hoạt động ở Sài Gòn, cô Ngọc Thu học ở đại học Vạn Hạnh, sau làm đệ tử của một vị tu sĩ nổi tiếng thế giới là Thích Nhất Hạnh. Thầy Thích Nhất Hạnh chỉ vì những hoạt động xã hội và từ thiện đã bị chính phủ Diệm trục xuất. Cô Ngọc Thu sang Pháp theo sư phụ và từ đấy không về nước nữa. Từ năm 1985 cô đã cắt tóc đi tu và bỏ làm bệnh viện nhà nước Pháp nhưng vẫn đem cái hiểu biết y học đi chữa bệnh cho người Việt Nam ở miền Nam nước Pháp. Thầy Thích Nhất Hạnh lập ra một làng Việt Nam, đầu tiên gọi là Village des Roses nhưng gần đây thì gọi là Village des Pruniers vì trồng nhiều cây mận, tức là làng Mai, tập trung các đệ tử tu thiền theo pháp môn của mình. Từ ngày thống nhất đất nước đến bây giờ, cô Cao Ngọc Thu (đến nay thì tôi biết pháp danh của cô là Chân Không) có viết cho tôi một cái thư hơi cay đắng: “Hiện nay em đang ở Mã Lai, đi theo thầy để giảng đạo ở đấy, em biết rằng bây giờ em chỉ còn cách tổ quốc 200 km mà vẫn xa xôi, tưởng như không bao giờ quay lại tổ quốc được”. Có lần trong thư cô ấy kể cho tôi câu chuyện cô đi quyên tiền khắp thế giới để cứu các em nhỏ là nạn nhân của chiến tranh hoặc là tàn tật, mồ côi, bố mẹ chết trong chiến tranh, hoặc là gia đình tan tác. Có một nghịch lý là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu cho rằng thầy Nhất Hạnh và cô ấy đi theo cộng sản, còn ở ngoài Bắc thì lại cho họ là tay sai của C.I.A, thế thì buồn cười lắm. Trong thực tế tôi thấy là thầy Thích Nhất Hạnh viết nhiều sách, toàn sách về đạo, triết học, dân tộc, các cách tu luyện, làm thế nào để con người yêu thương lẫn nhau, làm thế nào để tâm hồn con người luôn luôn trong sáng v.v… toàn là những việc tốt cả. Còn cô Ngọc Thu-Chân Không thì tôi thấy là một người độc giả yêu tác giả đến mức như thế suốt từ 1979 đến nay gần 20 năm trời luôn luôn ủng hộ tiền nong, với những bức thư đầy tình nghĩa và luôn luôn nói đến tâm hồn con người làm thế nào cho cao quí, chính đó là nguồn cảm hứng của tôi, thì đó là người tôi phải biết ơn suốt đời.

2/ Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng:
Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Mạnh Hùng là năm 1979, do anh Dương Tường đưa đến nhà. Anh là tiến sĩ kinh tế dạy đại học Montreal, Canada, anh lấy vợ người Canada con ông thứ trưởng một bộ gì đó (tôi quên rồi). Anh là con người rất yêu nước, trong suốt cuộc chiến tranh anh theo dõi tin tức của Việt Nam, nhất là anh em văn nghệ sĩ mà anh yêu mến. Khi giải phóng miền Nam thì anh có đặt vấn đề về hẳn Việt Nam để phục vụ nhân dân Việt Nam. Việc không thành vì người vợ không chịu, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến hai người ly hôn. Năm 1978 anh về nước lần đầu, trong thời gian đó anh quan sát, nghiên cứu tình hình kinh tế và viết ra mấy đề án cải tiến đưa cho ông Phạm Văn Đồng xem, ông Phạm văn Đồng quí đến mức ra lệnh cho cấp dưới từ nay trở đi anh Nguyễn Mạnh Hùng từ Canada về không cần phải xin giấy nhập cảnh nữa. Thế là anh thường xuyên đi đi về về.
Ngay lần gặp đầu tiên, anh khoe đã thuộc một số bài thơ cũ của tôi như là bài ‘Bên kia sông Đuống’, vài bài trong tập “Tiếng hát quan họ” đã in từ trước. Từ đấy anh hay đến tôi. Lúc anh sắp đi thì anh có đưa nhà thơ Nguyễn Duy đến thăm tôi, anh đem đến tặng tôi chai rượu Johnnie Walker và một áo sơ mi còn ở trong túi nilon rất đẹp. Ba anh em cùng uống rượu và nói chuyện thơ. Nguyễn Duy bảo “Ôi giời ơi! Kinh Bắc của anh thì chữ nghĩa nó ma quái lắm”. Nguyễn Mạnh Hùng thì bảo “Em thích nhất là bài gì có câu ‘Lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa’, câu thơ nó vang động trong em, vang động cả một tình cảm quê hương”.
Gặp nhau nhiều lần, tôi thấy anh Nguyễn Mạnh Hùng quả là một người bạn đồng cảm đáng tin cậy. Nên tôi nhờ anh mang hộ một băng cassette sang Pháp cho cô Cần Thơ. Tôi có ngâm vào đấy độ 9, 10 bài thơ, trong đó có bài ‘Bên kia sông Đuống’ mà chính cô Cần Thơ đã có văn bản rồi, nhưng đặc biệt có những bài mà cô chưa có, một số bài trong tập “Về Kinh Bắc” ví dụ ‘Lá Diêu Bông’, ‘Quả vườn ổi’, ‘Về với ta’… Cái băng cả hai mặt 90 phút, tôi thu cái băng đó ở nhà hoạ sĩ Hoàng Lập Ngôn, hôm đó có mấy người bạn đến nghe và xem tôi thu, có cậu Ngô Đăng Tuất làm ở nghe nhìn trung ương, cậu ấy đánh guitar rất giỏi rất hay, cậu đệm cho tôi 90 phút, tôi đã sang lại một băng để ở nhà còn một băng gửi Nguyễn Mạnh Hùng mang đi. Nguyễn Mạnh Hùng nhận lời, lần ấy là năm 1981. Đến đầu năm 1982 Hùng lại về, lần này ở lâu trong nước độ 3, 4 tháng. Trong thời gian ấy anh yêu một cô làm việc ở điện ảnh, có tổ chức cưới ngay ở nhà hàng Phú Gia, nhưng anh xin lỗi không mời tôi vì trong đám cưới đó có nhiều quan khách lắm. Sau đó thì Nguyễn Mạnh Hùng có mời tôi với vợ tôi đến một cửa hàng ăn bình thường ở phố Chả cá.
Lần này Nguyễn Mạnh Hùng xin tôi tuyển chọn cho anh một số tác phẩm của tôi, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Đặng Đình Hưng. Đến khi tôi cho anh xem tập “Về Kinh Bắc” thì anh mê quá, nhất định xin tôi toàn bộ tập thơ đó. Lúc bấy giờ chưa có photocopy, chỉ có đánh máy mà đánh máy vừa lâu vừa tốn tiền, thế nên tôi ngồi tôi chép ra cho anh. Anh mang vào Sài Gòn để chuẩn bị trở về Canada thì tôi bị bắt. 
Dương Tường nghe tin Hoàng Cầm bị bắt một cái là lập tức bảo Nguyễn Mạnh Hùng “Tất cả cái gì của Hoàng Cầm thì giao lại cho Dương Tường”, thế là Dương Tường gửi anh Cao Xuân Hạo tập “Về Kinh Bắc”, anh giữ kín và thỏa thuận với anh Cao Xuân Hạo cũng giữ kín không nói cho ai biết là anh Nguyễn Mạnh Hùng có gửi tập “Về Kinh Bắc” ở đây. Quả nhiên anh Nguyễn Mạnh Hùng ra sân bay Tân Sơn Nhất về Canada thì bị khám kỹ lắm, sau này anh có kể chuyện là họ bắt cởi hết quần áo ra, chỉ mặc cái quần đùi để cho họ khám xem có tài liệu gì của Hoàng Cầm trong người không. Từ đấy anh hầu như không được phép về Việt Nam nữa, mãi đến năm 1987 tức là 5 năm sau anh mới được về, lúc ấy thì tôi đã được phục hồi.
3/ Hoàng Hưng:
Cũng năm 1982, Hoàng Hưng, một nhà thơ trẻ từ Sài Gòn ra, đến thăm tôi và bảo: “Em ra Hà Nội chỉ độ một tuần nữa thì em về Sài Gòn, vậy anh làm thế nào anh chép cho em toàn bộ tập “Về Kinh Bắc”. Ở trong ấy em có sinh hoạt với nhóm anh em trẻ làm thơ, họ muốn có tập “Về Kinh Bắc” của anh để nghiên cứu bởi vì cứ nghe đồn hoặc là thuộc vài câu vài bài thích lắm mà tam sao thất bản cả, anh chịu khó chép giúp em”. (Trước kia tôi đã chép cho Hoàng Hưng ba bài: ‘Tam cúc’, ‘Diêu bông’, ‘Vườn ổi’). Tôi còn chần chừ thì ông Minh Đức Trần Thiếu Bảo đến bảo là “Hoàng Hưng bảo nó xin anh tập Về Kinh Bắc thì anh cho nó đi! Tôi có bảo cậu ấy bồi dưỡng cho anh, giờ anh nghỉ bán rượu để chép thì anh làm gì có tiền mà chi tiêu”. Ông Minh Đức mua giúp Hoàng Hưng 200 tờ giấy trắng đẹp lắm, mỗi một hôm bán rượu đến độ rỗi rãi vắng khách thì tôi mới ngồi chép, thường thường về đêm, khoảng 10h30 tôi lại chép độ 1 tiếng đồng hồ trước khi đi ngủ. Thành ra độ 10 ngày tôi mới chép xong. Khi tôi giao cho Hoàng Hưng tập “Về Kinh Bắc” tại nhà ông Trần Thiếu Bảo – lúc ấy nhà ông cũng mới mở quán ăn uống – thì Hoàng Hưng lại sẵn có một bìa do anh Văn Cao trình bày và bốn tranh phụ bản của Bùi Xuân Phái, có ba cái tôi thích lắm bởi vì anh Bùi Xuân Phái đã đọc “Về Kinh Bắc” rồi và anh đã từng vẽ phụ bản cho tôi chép một tập mà tôi cho cà phê Lâm. Chính cái bản cho cà phê Lâm có một hôm tôi đã mượn về, vì có mấy anh bạn uống rượu cứ đòi xem, họ uống suốt từ 9h sáng cho đến chiều, ngồi uống rồi đọc tập “Về Kinh Bắc”. Đến chiều hôm ấy tôi không tìm thấy lại tập thơ nữa. Tập ấy là tập tôi chép rất đẹp, cũng có bốn phụ bản của Bùi Xuân Phái cũng rất đẹp, anh vẽ những cảnh hội Kinh Bắc, hai cô con gái quan họ, một chân dung của tôi, thành ra anh Lâm giữ như là của gia bảo…
Mấy ngày sau khi giao bản chép tay “Về Kinh Bắc” cho Hoàng Hưng thì tôi bị bắt (ngày 20/8/1982). Đêm đầu tiên vào Hoả Lò, tôi mới được mấy người tù cũ cho biết ngày 18/8 Hoàng Hưng cũng bị bắt vào đây, ở đúng buồng này. Hôm sau có lúc tôi thoáng thấy anh đi cung ngang qua sân nhà giam… Sau tôi được biết Hoàng Hưng bị giam tù 39 tháng vì tập “Về Kinh Bắc” và những bài thơ anh ta làm từ trước, chép trong sổ tay để ở nhà. Mãi sau Đổi mới, tôi mới gặp lại anh ở Sài Gòn.
4/ Những người toan tính xuất bản Về Kinh Bắc:
Sau ngày “Đổi mới”, tôi và anh em Nhân Văn-Giai Phẩm đã được phục hồi, nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầu tiên sốt sắng xuất bản “Về Kinh Bắc”. Xuân Quỳnh làm thơ rất hay, tôi coi cô như con gái, cô rất thân với con gái tôi là Hoàng Yến. Xuân Quỳnh đã đọc tập thơ này từ lâu rồi khoảng năm 1974, 1975 gì đó, tôi cho cô mượn đến một tháng trời, cả hai vợ chồng Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh đều rất thích. Xuân Quỳnh đến tận nhà tôi bảo là “Chú à, cháu là biên tập ở nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, chú để cháu in tập Về Kinh Bắc”. Lúc bấy giờ tôi giữ ý, tôi bảo đừng lấy tên “Về Kinh Bắc”, người ta vẫn còn săn nó ghê lắm, người ta còn thành kiến ghê lắm, tên tập thơ “Về Kinh Bắc” quá nổi nên công an người ta không thích, nếu cô có in thì in thêm bài “Bên kia sông Đuống”, lấy tên tập thơ là “Bên kia sông Đuống” thì được. Cô Xuân Quỳnh bảo “Thôi được rồi chú cứ để mặc cháu, miễn chú đồng ý là được rồi, cháu đấu tranh thế nào để tập thơ nó phải ra đời không thể giữ kín mãi được, phải để cho độc giả người ta đọc”. Thế rồi cô ấy biên tập xong, cô làm bản nhận định đưa cho giám đốc là anh Vũ Tú Nam, anh Vũ Tú Nam cũng đã ký vào rồi và chuẩn bị in rồi thì đùng một cái có bốn ông công an đến nhà xuất bản Tác Phẩm Mới yêu cầu không được in tập thơ này. Đã xảy ra một cuộc cãi lộn rất lớn giữa Xuân Quỳnh và anh Vũ Tú Nam, sau này Xuân Quỳnh có thuật lại cho tôi biết. Vũ Tú Nam nói với Xuân Quỳnh rằng “Ở trên (ý nói lãnh đạo, nói chung bao giờ cũng dùng chữ “ở trên”) người ta không đồng ý tôi in cái tập này đâu thì thôi Xuân Quỳnh xoá nó đi không in nữa”, thì Xuân Quỳnh bảo “Các anh buồn cười nhỉ, chính anh đã ký vào bản nhận định của tôi rồi, ký vào rồi là đồng ý đi in rồi, tại sao bây giờ anh lại rút ra, sao anh hèn đến như thế, anh cũng làm thơ anh cũng viết văn, anh xem cái tập thơ này nó xấu ở chỗ nào? nó làm hại dân tộc làm hại tổ quốc ở chỗ nào, anh đã đồng ý rồi bây giờ anh thấy công an đến anh sợ anh lại đòi hủy đi, thế là thế nào tôi không hiểu, tôi không hiểu được thái độ của anh… Thôi được rồi, anh không in tôi in, bởi vì anh đã ký vào đây rồi, tôi vẫn còn giữ cái bản ấy đây, tôi đem in, nếu nhà xuất bản không bỏ vốn tôi sẽ tìm cách bỏ vốn tôi in”. Vũ Tú Nam sợ quá nói gần như van như lạy: “Thôi, Xuân Quỳnh nghĩ đến anh một tí, anh là phụ trách, giám đốc thì tất nhiên về mặt chính trị, về mặt pháp luật thì phải chịu trách nhiệm”, thế thì Xuân Quỳnh bảo “Tôi chỉ có thể nhân nhượng cho anh là vẫn in mà đổi tên, không lấy “Về Kinh Bắc” nữa mà có thể lấy “Bên kia sông Đuống” bởi vì “Bên kia sông Đuống” là bài thơ tốt trong kháng chiến chống Pháp ai cũng biết rồi, nhưng ở bên trong thì vẫn in đầy đủ các bài của tập “Về Kinh Bắc”. Tôi chỉ nhân nhượng anh về điều đó thôi còn nếu không thì tôi vẫn cứ đem in đây này”. Tôi nghe câu chuyện đó thì tôi bảo “Thôi Xuân Quỳnh à, Xuân Quỳnh cũng nên thôi và nếu có in thì nên chọn một nửa thôi, một nửa số bài trong “Về Kinh Bắc” là những bài nổi tiếng, đổi tên đi và thêm vào đấy một số bài mới hoặc thêm những bài trong kháng chiến chống Pháp ví dụ bài ‘Giữ lấy tuổi trẻ’, bài ‘Đêm liên hoan’ hay là bài ‘Tâm sự đêm giao thừa’ hay bài ‘Bên kia sông Đuống’, đấy là những bài đã được khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, lẫn lộn vào đấy như thế cho nó nhẹ bớt Về Kinh Bắc đi”. Xuân Quỳnh cự lại tôi “Khổ quá chú bị ở tù rồi bây giờ chú đâm ra nhát quá, cháu cứ in thì đã làm gì, chả làm sao cả, bây giờ ai đem ra tranh luận tập thơ này xem nó xấu ở chỗ nào thì cháu có thể đảm bảo với chú cháu sẽ đánh bại mọi ý kiến nào đả phá nó”.
Còn dằng dai như thế thì ở trong Huế, anh Nguyễn Trọng Tạo cùng với anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, lúc bấy giờ anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế còn anh Trọng Tạo là biên tập của Nhà xuất bản Thuận Hóa của Huế, hai anh có ý định in tập “Về Kinh Bắc” nhưng cũng vui lòng lấy tên là “Bên kia sông Đuống” hoặc “Thơ Hoàng Cầm” thế thôi. Các anh chuẩn bị đến mức là xong ở nhà in rồi, chuẩn bị giấy má, tiền công in và anh Trọng Tạo định in một vạn rưỡi cuốn vào năm 1988. Nhưng một hôm tôi đang ngồi giặt ở máy nước trước cửa trông thông thống ra ngoài đường thì thấy ca sĩ Ngọc Bảo vẫy vẫy tôi một cách rất vội vã, anh vẫy tôi ra chứ anh không vào. Tôi chạy ra xem anh bảo cái gì, thì anh ghé vào tai tôi nói thầm “Này cậu in tập thơ gì ở Huế phải không? Cậu đánh điện cho nó bảo thôi đi chớ nếu không tay Nhạ (phòng an ninh chính trị Sở Công an Hà Nội) nó bắt cậu lại ngay lập tức, bởi cậu có cái lệnh tạm tha thôi lúc nào nó bắt lại cậu cũng được, ở tù thì khổ lắm, tôi thương cậu tôi biết chuyện đó tôi mách cậu đấy, nên bảo nó hoãn đi, đừng in vội thì cậu thoát nếu không thì nó ra cái lệnh bắt nữa thì khổ cậu lắm”. Thế là tôi đâm sợ, đâm hoảng thật vì ở tù thì chả có ai thích cả, muốn quyết tâm gì, muốn khí phách gì chăng nữa chứ ở tù thì cũng khổ lắm, tôi thì vốn nhát cái chuyện đó, lúc nào người ta bắt tôi chả được, tôi là con giun con dế họ dẫm mãi cũng chết, tôi chưa muốn chết, chả tội gì mà đâm đầu vào đấy làm gì, nó có giá trị thì để 50 năm nữa in vẫn cứ được. Tôi nghĩ như thế nên tôi đánh điện vào cho anh Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu cầu hoãn không thời hạn việc ấn hành tập thơ của tôi, dưới bức điện ký tên Hoàng Cầm. Sau này anh Trọng Tạo mới kể lại chuyện với tôi là “Nhận được cái điện ấy thì anh Hoàng Phủ Ngọc Tường đang phân vân, Trọng Tạo bảo ‘Tôi đã chuẩn bị đầy đủ rồi cả tranh bìa rồi, việc in, giấy má, hợp đồng là xong hết cả rồi, chỉ có việc đánh máy và đưa đi in thôi, còn có cái gì nữa đâu, cứ in bừa đi, cái ông Hoàng Cầm hay nhát lắm, chắc có ai dọa ông ấy sợ”. Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thì chín chắn hơn, anh bảo “Không, giá ai đánh điện thì tôi cứ làm nhưng đây chính anh Hoàng Cầm đánh điện, anh ký tên hẳn hoi ở dưới, nếu tôi làm nhỡ ra anh ấy có bị làm sao thì có phải tôi đẩy anh ấy vào chỗ chết không”.
Rồi đến Nhà Xuất bản Văn học cũng lại thế. Lúc bấy giờ còn anh Lý Hải Châu làm giám đốc, anh Lý Hải Châu cũng định in ít bài “Về Kinh Bắc” độ 5, 3 bài thôi còn thì in những bài thơ cũ của tôi hoặc những bài thơ mới làm, cuối cùng anh Lý Hải Châu cũng bị công an đến yêu cầu, anh Lý Hải Châu cũng tranh luận với họ một lúc, nhưng sau đó anh Lý Hải Châu bảo với tôi rằng “Trong lúc an ninh người ta đang làm căng thẳng thì tôi không nên đẩy thêm căng thẳng làm gì, mà đẩy thêm thì chỉ khổ cho anh thôi. Thế thì thôi anh cứ hoãn cũng được, lúc nào tình hình khá lên, dân chủ mở ra một chút nữa, đổi mới này nó khá lên một chút nữa ta in thì chả làm sao cả, tác phẩm hay thì lúc nào in cũng được”.
Người thứ tư muốn in “Về Kinh Bắc” là anh Sinh trưởng ban biên tập Nhà xuất bản Phụ nữ, anh muốn in những bài nổi tiếng như bài ‘Diêu Bông’, ‘Tam Cúc’ trong một tập thơ của tôi nhưng chỉ đề là ‘Thơ Hoàng Cầm’ thôi, thế là lập tức công an đến, rồi ông Quang Phòng Tổng cục phó Anh ninh viết cái thư cho anh Sinh “Anh Hoàng Cầm có thể in tất cả những bài thơ mới của anh nhất là những bài thơ tình anh mới viết, riêng tập “Về Kinh Bắc” thì còn phải chờ một thời gian nữa, yêu cầu nhà xuất bản Phụ nữ không in bất cứ một bài nào trong tập Về Kinh Bắc cả”.
Đang trong tình cảnh chán nản như thế, thì một hôm tôi mang một tập thơ toàn những bài thơ tình, cả thơ cũ lẫn thơ mới làm, đến anh Quang Huy tức là Nhà xuất bản Văn hóa, tôi đề ở ngoài là “Mưa Thuận Thành”, tôi cũng không yêu cầu gì với anh Quang Huy là in hay không in, tôi chỉ nói “Tôi có một tập thơ toàn những thơ tình mới cả đây tôi đưa anh đọc”. Quang Huy mới bảo “Ôi giời ơi! Thơ tình của anh để tôi xuất bản, tôi sẵn sàng xuất bản ngay anh không cần bỏ vốn ra, thơ của anh tôi bán được”. Thế là anh Quang Huy tự nhận lấy việc in tập thơ “Mưa Thuận Thành” không có một bài nào trong tập “Về Kinh Bắc” cả. Nhưng rồi anh Quang Huy lại bảo “Nếu in “Mưa Thuận Thành” thì anh phải cho mấy bài đã nổi tiếng đã đăng báo rồi như ‘Diêu Bông’, ‘Tam Cúc’, ‘Về với ta’, ‘Tắm đêm’… có độ 7, 8 bài anh đã in báo, có bài đã đăng hai lần rồi, chẳng có dư luận xấu nào đối với anh cả, anh nên cho thêm vào để tập thơ có giá trị, nếu chỉ có “Mưa Thuận Thành” không thì chưa chắc người ta đã thích mua đâu”. Tôi bảo “Ôi giời tập “Về Kinh Bắc” thì công an người ta đã ra chỉ thị tuyệt đối không có nhà xuất bản nào được in dù là một bài ở trong tập ‘Về Kinh Bắc’”. Quang Huy bảo “Thôi được rồi anh cứ mặc tôi, nếu cần đấu tranh thì tôi đấu tranh, anh đừng phải quan tâm gì cả anh cứ thay cho tôi 8 bài, 8 bài nào mà anh thấy kém nhất trong tập “Mưa Thuận Thành” anh thay bằng những bài “Về Kinh Bắc” đã đăng báo rồi, tôi dựa vào chuyện đã đăng báo rồi tôi sẽ đấu tranh được”. Quả nhiên là khi bản thảo tập “Mưa Thuận Thành” đã đến tay anh Quang Huy thì lại có 4, 5 cán bộ công an trên tổng cục xuống yêu cầu nhà xuất bản cho mượn cái bản thảo rồi cho xem những bản đã đánh máy vi tính, thế thì anh Quang Huy nói lại rất mềm dẻo nhưng cũng rất cứng, anh bảo “Thưa các đồng chí cái này nó đã vào kế hoạch xuất bản của tôi rồi, đã vào kế hoạch thì tôi không thể thay quyển khác vào đây, nếu các đồng chí mượn thì tôi cũng vui lòng đưa các đồng chí xem, chỉ có một điều là những bài chúng tôi chọn của anh Hoàng Cầm ở đây có một số bài hình như có trong tập “Về Kinh Bắc” đấy, nhưng toàn là những bài đã đăng báo từ ngày đổi mới đến giờ, có bài đã đăng 2, 3 lần, chúng tôi thấy cũng không có vấn đề, độc giả vẫn hoan nghênh, cũng không có ý kiến nào phản đối những bài thơ đó cả, vậy thì các đồng chí nên xem xét để chúng tôi in cho nó nhanh cho nó kịp, các đồng chí mượn thì xin các đồng chí trả đúng thời hạn”.
Không biết bên công an nghĩ thế nào, nhưng rồi cuối cùng tập “Mưa Thuận Thành” cũng ra trót lọt, ra được 8 bài trong “Về Kinh Bắc” toàn là bài hay. Tập “Mưa Thuận Thành” tôi không biết bên trong anh Quang Huy in bao nhiêu nhưng đề bên ngoài 1000 bản, có 15 ngày thì bán hết.
Vậy là từ sau ngày tôi bị kỷ luật, nói cách khác, tính từ quyển cuối cùng in ở Nhà xuất bản Văn Học năm 1956 cho đến năm 1989 tức là sau 33 năm tôi mới trở lại việc ấn hành một tập thơ. Dư luận quanh tập “Mưa Thuận Thành” đang sôi nổi thì lại có việc nhạc sĩ Trần Tiến dựa theo ý thơ ‘Lá Diêu Bông’ sáng tác ra bài ‘Sao em nỡ vội lấy chồng’. Bài hát của Trần Tiến rất là nổi, đó là bài hát dung dị dễ thuộc, dễ nhớ, mang nhiều tính chất dân giã, thành ra cả năm 1990, 1991, rồi cả năm 1992, 1993 nữa, thậm chí tôi nghe cả xẩm ngoài đường, xẩm chợ Hôm, chợ Hàng Bè hát bài ấy.
Đến năm 1994 thì Nhà xuất bản Văn Học của anh Lữ Huy Nguyên được một anh cán bộ an ninh trên Trung ương xuống nói rằng “thôi bắt đầu từ bây giờ tập thơ “Về Kinh Bắc” được mở ra rồi, tức là cái chỉ thị cấm in đã hủy bỏ”. Thế là khoảng tháng 7 tháng 8 năm 1994, “Về Kinh Bắc” chính thức ra mắt tại NXB Văn Học.

5/ Nguyễn Doãn Nhạ:
Sau này về tôi mới biết chuyện tôi bị bắt chắc chắn là do Tố Hữu, Tố Hữu có công an riêng của ông, chính là công an Hà Nội, để mà săn sóc những người Nhân Văn Giai Phẩm. Người bắt tôi là là trưởng phòng an ninh chính trị của Sở Công an Hà Nội, tên là Nguyễn Doãn Nhạ.
Tôi mới gặp ông Nhạ có một lần vào năm 1974, chưa giải phóng. Lúc ấy tôi đang uống bia ở Hồ Tây thì có một anh trẻ tuổi, độ 18, đến bảo “Chú ơi, chú về nhà đi, chú về đi rồi cháu sẽ đến gặp chú”, cậu ta nói rất nhỏ… Tôi đoán là có chuyện gì rồi, nhưng chả việc gì phải trốn tránh. Buổi chiều cậu ta đến, nhưng không dám vào nhà mà kêu tôi ra cửa. Cậu ta có vẻ rất e dè, nói thì thào: “9h sáng mai chú đến sở công an ở đường Trần Hưng Đạo, chú đến đấy sẽ có người đón chú vào”.
9h sáng hôm sau tôi đến cổng Sở Công an thì có người đón, đưa tôi vào cái buồng nho nhỏ có bàn có ghế. Ngồi mấy phút thì một anh cán bộ chừng 40 tuổi mặt xam xám, mắt hầu như không có lòng đen, người gầy quắt, mặt thì choắt, cười thì miệng cười rất rộng răng thì rất trắng nhe ra làm cho tôi thấy hơi rùng mình. Tôi có cảm giác gặp một bộ mặt của tử thần, mà cái cảm giác đó rất rõ. Anh ta nói với tôi thế này: “Ít lâu nay anh có truyền bá những bài thơ anh làm, ảnh hưởng rất nặng đến tư tưởng của thanh niên thủ đô. Cấp trên của chúng tôi rất lấy làm không hài lòng về việc đó, tôi cho gọi anh đến đây để yêu cầu anh từ sau Nhân Văn anh có làm những bài thơ gì, chép cho ai, đọc cho ai nghe, tặng biếu những ai thì anh phải thu hồi về hết và từ nay trở đi tuyệt đối anh không chép bất cứ một câu nào, bài nào cho bất cứ ai, nếu anh không chấp hành thì anh phạm vào kỷ luật nặng đấy, để đến lần thứ hai tôi phải nhắc anh như thế này thì chúng tôi nhắc ở trong tù trong nhà giam chứ không phải nhắc ở đây. Bây giờ anh viết kiểm điểm, từ sau Nhân Văn cho đến bây giờ anh sáng tác những cái gì? và những sáng tác ấy mang tư tưởng gì? Cái đó chúng tôi đã biết cả, những bài thơ của anh nó lan truyền trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh, khá nhiều đấy, truyền miệng truyền tay nhau toàn những bài thơ mang một nội dung không lành mạnh, nội dung mang tính chất chống phá chủ nghĩa xã hội”. Tôi nói: “Tôi có sáng tác một số bài thơ nhưng đấy là những bài thơ về quê hương cũ, đó là tình cảm riêng của tôi không có gì là chống phá cách mạng cả, thơ thì có thể hiểu theo nghĩa này cũng được, hiểu sang nghĩa khác cũng được, chứ tôi không có ý gì sau Nhân Văn, tôi không có ý gì chống lại đường lối hoặc chính sách của Đảng”. Anh ta bảo: “Đó là anh nói thế thôi, chứ rõ ràng nếu những bài thơ tốt cho chế độ thì có thể đăng báo được chứ làm sao mà không đăng được? Dù kỷ luật của anh thế nào đi chăng nữa, nhưng anh thử gửi những bài thơ tốt đối với chế độ này thì tôi tin là các báo đăng ngay, đây không có báo nào đăng gì cả, vậy thì tại sao anh làm cái chuyện lưu truyền trong thanh niên… Cơ quan tôi nhận rất nhiều báo cáo về những bài thơ ấy ở trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, cán bộ văn nghệ văn hóa, thế thì tại sao? Có phải là anh truyền bá đi không, mà truyền bá như thế là truyền bá những tư tưởng chống đối, anh có nhận như thế là sai không?”. Tôi trả lời: “Tôi có chép cho một số người, một số bạn, chép một số bài chứ không nhiều, cái đó có, những bài thơ không có chống đối gì hết, còn ai nghĩ là chống đối tôi không thể nào biết được. Bây giờ bảo tôi thu hồi thì tôi thu hồi thế nào đây, nếu như người ta đã thuộc rồi thì tôi làm thế nào mà thu hồi lại được, vì thơ là một cái gì nếu hợp với người ta thì nó có cánh nó bay đi nó đậu lại trong bụng dạ người ta thì tôi làm thế nào mà thu hồi?” – “Có bài nào anh chép cho người ta, cho anh X, anh Y nào đó thì anh biết để đòi lại chứ, cái đó có thể thu hồi được, còn bài nào người ta thuộc rồi thì tất nhiên không thể lấy lại được, đấy có phải là cái tội của anh không? Tại sao những bài thơ người ta thuộc một cách bí mật, người ta lan truyền nhau một cách lén lút? Đó phải là những bài thơ chống đối cách mạng, hợp với bọn thanh niên bất mãn, bọn sẵn sàng chống đối chế độ, hợp với bọn ấy cho nên chúng nó thuộc”. Thế là anh cán bộ bắt tôi viết kiểm điểm. Tôi viết hai trang, tôi viết sự thật, cũng có chép tay cho một số người 5, 3 bài thơ trong tập “Về Kinh Bắc” của tôi, tôi hứa từ nay không chép cho ai nữa, không truyền bá đi nữa. Sau đó thì tôi về.
Về sau tôi có hỏi một anh ở công an nhưng có tình thân gia đình tức là anh Bảo Hùng, em chồng bà Tuyết Khanh, anh Bảo Hùng nói đó là anh Nhạ, trưởng phòng an ninh chính trị. Bấy giờ tôi mới biết tên anh là anh Nhạ, chứ chưa biết họ, cho đến năm 1982 khi nghe đọc lệnh bắt và khám nhà ký tên là Nguyễn Doãn Nhạ trưởng phòng an ninh chính trị Sở công an Hà Nội…
Sau khi giao tập thơ cho Hoàng Hưng thì tôi về, tôi chả nghĩ ngợi gì cả. Mấy ngày sau, tức ngày 20 tháng 8, buổi sáng lúc ấy gần 9h vợ tôi đi chợ rồi, cũng chưa có khách đến uống rượu, tôi vẫn nằm trên gác bắt đầu giở bàn đèn ra; mới hút độ hai điếu tôi thoáng thấy bóng một anh áo vàng tức là công an đi qua cửa sổ thì tôi vội vàng đi xuống, thì hóa ra anh cán bộ ở đồn, quen biết, anh ta có vẻ thân mật nói là chỉ vào thăm bác thế thôi, tôi cũng mời nước, mời thuốc lá, xong thì anh ta lại đi. Tôi tưởng xong rồi chẳng có chuyện gì lại lên gác, lại định châm đèn lên để hút thì lập tức thấy bóng áo vàng thêm mấy người nữa mặc civil. Tôi bắt đầu biết là có chuyện rồi, tôi lại tắt đèn đi xuống. Vừa xuống thì gặp 3 người công an đến, một anh tên là Phú còn hai anh kia đi theo có súng ống đầy đủ, có cả mặt công an hộ tịch ở đấy, có mặt cả đại biểu khu phố. Anh tên là Phú đọc lệnh, đại ý là căn cứ vào cái này, căn cứ vào cái khác, điều nọ điều kia của bộ luật gì đấy thì: điều thứ nhất, bắt tên Bùi Đăng Việt (tôi định cải chính ngay là không phải Bùi Đăng Việt mà tôi là Bùi Tằng Việt, nhưng mà thôi kệ muốn là cái gì thì nó cũng đến bắt tôi rồi, có cải chính cũng thế) vì tội sáng tác, tàng trữ, lưu hành những tài liệu có tính chất đồi trụy và phản động; điều thứ hai là khám xét nhà cửa cẩn thận để thu lại những bằng chứng của những tài liệu mang tính chất phản động và đồi trụy đó – nghĩa là vừa khám nhà, tịch thu tài liệu và bắt. Cái lệnh nội dung là thế, đến khi vào trong tù thì tôi thực sự hoang mang không biết bắt vì lý do gì là chính chứ còn lý do kia là áp đặt thế thôi, làm gì có tài liệu gì gọi là phản động, đồi trụy. Họ không dám nói là thơ, họ nói là tài liệu thôi, trong lệnh bắt không nói là sáng tác thơ. Lúc bấy giờ tôi chẳng cãi, hơi đâu mà cãi, đằng nào cũng thế rồi, tôi cứ im lặng đi theo họ khám suốt từ 9h cho đến 2h chiều. Rồi tôi sực nhớ bốn hôm trước anh Trần Dần đến chơi, có thuật lại ông Tố Hữu mới họp tuyên huấn nói rằng cái bọn Nhân Văn là chúng tôi tuồn tài liệu ra nước ngoài, để xuất bản hoặc là bán, vậy thì tôi bị bắt chắc là vì đã gởi thơ cho Nguyễn Mạnh Hùng, cho cô Cần Thơ.
Giữa chừng vợ tôi về, bà ấy cứ tưởng rằng bắt về đồn, tức là đồn 14 Lý Quốc Sư như mấy lần trước bắt tôi ra để cảnh cáo về việc bán rượu lậu, vợ tôi lại ngây thơ như thế cơ! Khi thấy họ đem hết giấy tờ của tôi đi, vợ tôi có xin lại những bức thư hồi mới quen nhau tôi có gửi cho bà ấy, khoảng 10 bức, có cả thơ nữa, không có liên quan đến “tài liệu” gì hết, nhưng họ bảo không được, những cái gì đã là chữ viết của anh Hoàng Cầm thì chúng tôi có lệnh đều phải tịch thu hết. Họ tịch thu cả những thư của con Loan gửi cho tôi từ Sài Gòn, cả những thư của bà Cần Thơ ở bên Pháp gửi về, họ tịch thu hết những gì gọi là chữ dù chỉ một chữ mà tôi viết lằng nhằng gì đấy ở trên một miếng bìa hoặc một tờ giấy gói thuốc lá thì đều thu bằng hết.
Cũng nói rõ thêm về việc bán rượu lậu của tôi. Dạo ấy cũng nhờ bán rượu gia đình tôi có thêm miếng cá miếng thịt còn trước kia thì khổ lắm. Nguyên do một hôm con gái tôi Bùi Hoàng Yến với chồng nó là Quang Thái, hai vợ chồng về chơi thấy mâm cơm chỉ vẻn vẹn một bát nước mắm và một bát dưa chua thế thôi, nó ngồi nó phát khóc vì thương tôi quá. Nó bảo làm thế nào để bố kiếm sống thêm chớ bố già rồi mà sống thế này thì khổ quá, để con nghĩ xem, hay là bố bán cafe đi hay bán cái gì ở trong nhà chớ ra ngoài đường chả có chỗ ngồi, bán cái gì để bạn bè bố đến ủng hộ. Chính vì lẽ đó mà tôi mở quán rượu, chính con gái tôi cho tôi được 50 đồng, tôi để ra 10 đồng mua chén, đóng thêm mấy cái ghế, còn 40 đồng thì mua đúng 5 lít rượu quê, mua được 5 lít rượu quê là con rể tôi phải đèo xe máy tôi về Lạc Đạo mua. Lúc 2, 3 tháng đầu bán lác đác phát chán, ôi giời ơi! Bán như thế một ngày không lãi nổi một đồng bạc thì chán lắm, nhưng tôi không biết làm cái gì thì cứ để đấy, dần dần cũng đông khách, từ năm 1980 trở đi thì đông khách lắm, nhất là vào những dịp như Noel hay là chiều thứ 7, chủ nhật hoặc là những ngày nghỉ lễ thì có thể nói là đông đến mức không có chỗ ngồi, khách ngồi cả lên giường nằm, ra cả ngoài sân đem rượu ra đấy uống. Thành ra vì chuyện bán rượu mà hơi rầy rà đối với chính quyền. Chính quyền không cho bán rượu, cái chính vì tôi là Hoàng Cầm, người đã có lỗi trong thời kỳ “Nhân Văn Giai Phẩm”, mà bây giờ bán rượu tức là để tụ tập vào rồi sinh ra cái chuyện tuyên truyền lăng nhăng chăng. Người ta ngại chuyện đó cho nên luôn luôn độ tuần lễ hay mươi hôm là phải gọi tôi lên đồn một lần để yêu cầu đình chỉ ngay việc bán rượu. Cứ lên đấy thì tôi viết kiểm điểm rồi giấy cam đoan như thế, nhưng về rồi thì vẫn cứ bán, vì nếu ngừng một ngày bán rượu là không có tiền.
Khám xong, làm biên bản xong thì độ hơn 2h chiều, sau khi làm biên bản thì đọc lại, trong khi tịch thu tài liệu thì không có đụng chạm gì tài sản của gia đình ví dụ như quần áo, tiền hay bất cứ tài sản gì vật chất nào đấy. Bà Yến phải chứng thực điều đó, sau đó thì ra xe, đến lúc bấy giờ ôtô mới đến, ôtô bịt kín của công an đi bắt người, tôi và hai cái hòm tài liệu có niêm phong đưa về Hỏa Lò. Trong hai cái hòm ấy có nhiều bản thảo thơ, kịch thơ của tôi chưa xuất bản. Đó là tài sản duy nhất của tôi. Sau khi Đổi mới, nhiều lần tôi đề nghị công an Hà Nội trả lại, họ cũng đồng ý nhưng cứ lần lữa mãi không trả. Đó là một điều tiếc hận nhất trong đời làm thơ của tôi. Cho đến gần đây, Sở Công an Hà Nội đối với tôi rất tốt, ngay cả những người phụ trách cũng muốn tìm và trả lại tôi, nhưng rốt cuộc họ không tìm ra! Tôi cho rằng theo lệnh của ai đó họ đã đốt đi từ lâu rồi, vì đó là những sáng tác hay của tôi không được phép lưu lại ở đời này, chắc là họ ra lệnh đốt rồi, nếu thực sự là tài liệu cần thiết cho luật với án thì họ phải giữ lại chứ?
Buổi chiều ngày 20 tôi vào Hỏa Lò, tôi chỉ mong được giam vào đâu để có thể ngã xuống nằm, có thể là sàn gạch hay sàn xi măng cũng được. Nhưng họ bắt tôi ngồi vào cái bàn và có một anh công an đưa từng cái thư từng bài thơ một, bắt tôi ký vào, kể từ cái phong bì, nếu cả quyển thì phải ký vào bìa và ký vào ruột, liên miên như thế suốt từ khoảng 2h30 cho đến 5h chiều. Trong hai tiếng rưỡi cứ ký liên miên đến nỗi mắt tôi nhíp lại vừa mệt vừa buồn ngủ, đưa cái gì là tôi ký vào thôi chẳng biết có phải của tôi hay không nữa, lúc đầu còn biết bài thơ này của tôi hay cái thư này của con Loan nhưng về sau hoa mắt cả lên, mệt lắm rồi, đã không có được một điếu nào từ sáng rồi, lại đi ỉa chảy vài lần rồi mà chưa được ăn uống gì. Trước khi lên ôtô về Hỏa Lò thì bà vợ tôi vội vàng ra phố mua nắm xôi với mấy miếng chả gì đó, tôi đâu kịp ăn chỉ gói vào giấy báo, đến 5h chiều thì nó khô cứng cả rồi và tôi cũng chẳng nhớ ở đâu mà ăn. Đến 6h thì anh Phú đưa tôi đến cái hành lang, ở đó có một cái bàn mà không có ghế, anh bảo “Ông có mệt thì nằm trên cái bàn này nghỉ tạm một tí rồi thu xếp buồng đưa ông vào”. Anh Phú còn trêu tôi “Ôi giời ông nghe có vẻ thơ hay lắm nhỉ, thì đọc một bài đi nhỉ, cái bài gì mà tôi thấy nhiều người truyền lắm, Diêu bông diêu biếc gì đấy”. Chẳng nhẽ anh công an bắt tôi anh bảo đọc mà tôi không đọc, thế là tôi cũng cố gượng đọc bài “Lá Diêu Bông”. Anh cười cười bảo “Ôi giời thơ thế này nó hay thế nào tôi chả biết nhưng chả hiểu gì”…
Sáng hôm sau thì ông Nhạ xuống, xuống cái phòng của ông trung tá trưởng phòng an ninh điều tra xét hỏi, ông này cũng tham gia vào việc hỏi cung, nhưng là phụ, còn ông Nhạ là chính. Mở đầu ông Nhạ bảo “Hoàng Cầm đấy à, tôi là Nguyễn Doãn Nhạ, đây là anh Nguyễn Trọng Cường trưởng phòng điều tra xét hỏi”. Ông ta ngồi hai tay chắp vào để trên đầu gối, chân ghếch lên ghế, có vẻ thoải mái. Ông nói “Anh Cầm, thiệt bất đắc dĩ, thật khó cho tôi, vạn bất đắc dĩ – ông nhấn mạnh – vạn bất đắc dĩ mới gọi anh đến đây, bởi vì chắc anh nhớ gần 10 năm rồi tôi đã nhắc anh không được truyền bá thơ thẩn của anh vì nó mang nhiều tư tưởng xấu lắm, thế mà anh vẫn cứ làm, anh gởi rất nhiều nơi trên thế giới, gởi sang Canada, Mỹ, Pháp, tư tưởng anh sau Nhân Văn quá nặng nề như thế”.
Tôi vẫn giữ bình tĩnh “Tất nhiên tôi có tội hay lỗi gì đó mà anh bắt, chứ không có lỗi gì thì làm gì mà bận tâm”.
Ông Nhạ nói tiếp “Tôi hôm nay không phải hỏi cung anh đâu, tôi không có trách nhiệm hỏi cung nhưng mà nói cho anh biết, anh quá tệ, nhà nước với Đảng đối với anh như thế là rất tốt rồi, đáng lẽ cho anh đi cải tạo từ lâu rồi, nhưng đã khoan hồng vì các anh là văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp cũng có những đóng góp như là bài thơ “Đêm liên hoan” hay “Bên kia sông Đuống” tôi cũng có thuộc cơ mà. Về sau hòa bình thì các anh dần dần quá tệ, làm thơ văn làm báo làm chí chống phá, cho nên tôi nói là bất đắc dĩ tôi phải giam giữ anh, giam giữ anh thì cốt là để thế này, cốt để anh thực sự nhìn thấy tội lỗi của anh, thực sự nhìn thấy sai lầm của anh đi, và từ nay trở đi già rồi còn sống ngày nào thì phải sống cho nó tử tế. Đảng đã khoan hồng như thế không bắt đi cải tạo, các anh tương đối là tự do, đến bây giờ là bao nhiêu năm rồi, từ năm 1955 cho đến nay là hơn 20 năm trời rồi mà anh chứng nào vẫn tật ấy thì thực sự lạ thật, anh không biết nghĩ à?” Ông nói một tràng rất dài như thế, tôi cứ ngồi nghe thôi. “Hôm nay tôi chưa phải hỏi cung, tôi cũng là người yêu văn thơ, đấy, nhưng người ta làm thơ dễ hiểu, nói cái gì là ra cái ấy ngay “Xe không kính không phải vì không có kính, vì đạn vì bom nó phá đi rồi” thì cái đó nó rõ ràng như thế, anh thì mập mà mập mờ, với tư tưởng chống Đảng nó cứ ẩn náu vào đây mãi, thì báo cho anh biết lần này là lần cuối cùng đấy, anh cố mà thay đổi hẳn đi cái tư tưởng của anh chớ không thì không có cách gì cứu vãn được nữa, bây giờ anh phải tự cứu lấy anh thôi”. Ông thuyết một hồi thì lại tôi một điếu thuốc, cái dạo ấy còn thuốc Trường Sơn, thứ thuốc hạng bét, rồi ông lại mỉa “Hút đi! Đây là Trường Sơn anh nhé chớ không có 3 số 3 siếc gì đâu, tôi không quen 3 số thuốc ngoại sang trọng”…
[Cũng chính ông Nhạ này đã vui mừng vì “thành công” trong việc ép Hoàng Cầm nhận tội chống Đảng chống chế độ qua mấy bài thơ “Về Kinh Bắc”, bố trí để nhà thơ đọc bản kiểm điểm thu băng cassette và hứa sẽ thả cho về trước Tết như HC đã kể trong lời tâm sự với bạn đọc Talawas mà Văn Việt đã đăng – VV]










Nhà thơ Hoàng Hưng, tù tội chỉ bởi một tập thơ




Hoàng Cầm, Tân tượng trưng
Hoàng Hưng
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/hoang-hung-hoang-cam-tan-tuong-trung.html







Với thời Gian, Hoàng Cầm
http://www.diendan.org/cac-so-dac-biet/voi-thoi-gian-hoang-cam 















THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU: HOÀNG CẦM, NHÀ THƠ PHẢI SỐNG RẤT THƠ CUỘC ĐỜI MÌNH
Người thực hiện: Nguyễn Đức Tùng

 
LGT: Đầu tháng 4 năm 2007, chúng tôi hẹn nhau dành một ngày ở Hà Nội để đến thăm nhà thơ Hoàng Cầm. Chúng tôi gồm có Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Hoàng Trần Cương, Du Tử Lê, Vân Đình Hùng, Nguyễn Đình Toán, Nguyễn Đức Tùng và các bạn hữu khác. Ngõ nhà ông ở phía sau một chiếc cổng vòm bằng gạch, rêu phong. Phía trước cổng bên kia đường là một quán phở ngon khá nổi tiếng của Hà Nội. Trước đó, anh Du Tử Lê rủ tôi và mọi người vào quán phở ăn sáng, xong mới vào nhà ông. Anh nói riêng với tôi: đến thăm Hoàng Cầm cần thong thả để anh ấy chuẩn bị, vì anh ấy là người rất elegant.
Sau khi được báo tin là nhà thơ đã sẵn sàng, chúng tôi băng qua đường, đi sâu vào con hẻm nhỏ lát nửa gạch nửa xi măng. Nhà hẹp, có nhiều tầng. Đi lên một cầu thang dài, đến căn gác cao, là chỗ ở của nhà thơ. Hoàng Cầm nửa ngồi nửa nằm trên chiếc giường thấp, lót chiếu hoa đã cũ.
Khi được mời ngồi gần ông, tôi khẽ đặt tay lên chiếu, ấn xuống mặt giường theo thói quen, để xem ông có nằm nệm không. Giường bằng gỗ không có nệm. Tôi thầm ái ngại, vì như thế, một người lớn tuổi nằm lâu có thể bị loét ở các vùng da tiếp xúc như mắt cá, đùi, thắt lưng, khuỷu tay. Nhưng Hoàng Cầm không tỏ vẻ gì là đau đớn hay bệnh hoạn, mặc dù ông di chuyển khó khăn. Mọi người vây quanh, ngồi lan ra cửa và lan can, nên căn phòng nhỏ trở nên ấm áp. Từ đây, nhìn ra bầu trời bao la, tôi có cảm giác như đang ngồi trong một cái tổ chim trên ngọn cây cao. Mặc dù đông người, ai cũng giữ im lặng. Hoàng Cầm tỏ vẻ minh mẫn, nói chuyện rành mạch. Thỉnh thoảng ông dừng lại có lẽ vì mệt thì ít, mà vì xúc cảm thì nhiều hơn; và các khoảng im lặng khi ông hút thuốc lào thường có nhiều ý nghĩa. Một không khí thân mật nhưng thanh cao, gần như cao quý, đã tạo hứng khởi cho rất nhiều câu hỏi của tôi vốn không hề được chuẩn bị trước đó.

Nguyễn Đức Tùng: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, sức khỏe của anh hiện nay thế nào?

Hoàng Cầm: Sau khi bị ngã và phải ngồi xe lăn để di chuyển, sức khỏe mình có phần yếu đi.

Nguyễn Đức Tùng: Trước đây có một thế hệ thanh niên rất yêu mến thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán. Riêng tôi thuở nhỏ, qua các bài viết và hồi ký của Vũ Bằng, Kim Nhật, Xuân Vũ… đã được biết đến thơ anh. Không ngờ có một ngày lại được hân hạnh gặp nhà thơ ở đây.
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Nhiều người như tôi biết và yêu mến quê hương miền Bắc là nhờ những câu thơ như thế.

Hoàng Cầm: Điều đó tôi có biết. Trong miền Nam dưới thời của ông Diệm, thời của ông Thiệu, sinh viên và thanh niên có biết thơ mình, có yêu thích. Điều đó làm tôi thật hạnh phúc. Không có gì làm cho một tác giả xúc động hơn là điều đó. Người ta không biết mình là ai, mà người ta quyến luyến tác phẩm của mình, trân trọng tên tuổi của mình, thì trên đời này có gì vinh dự hơn nữa. Đối với nhà thơ cái đó cực kì quí. Tôi có cái may mắn được hưởng cái cực kì quí đó ở miền Nam trước đây lâu rồi, trong thời kì đất nước còn chia cắt.
Hồi đó chúng ta đều tưởng tình trạng chia cắt như thế sẽ còn lâu dài liên miên bất tận. Ngờ đâu cũng có ngày đất nước thống nhất.
Đành vui như thế, mà cũng đành chịu như thế. Coi như là mệnh giời.
Tôi biết cuộc chiến tranh vừa qua để lại biết bao nhiêu là vết thương đổ vỡ, nhưng với cá nhân tôi, được gặp bạn bè ở miền Nam sau bao nhiêu năm chia cắt, tôi mừng lắm, xúc động lắm. Tôi cũng đọc văn học miền Nam và đem lòng trân quý nó. Tôi tin rằng cả miền Nam và miền Bắc đều phải đọc lẫn nhau nhiều hơn, vì đất nước hòa bình thống nhất rồi, không có lý gì lại không tìm hiểu các vấn đề của dân tộc. Mà thơ là vấn đề lớn của dân tộc.
Nói như thế này thì hơi sáo nhưng mình phải thấy là may mắn được làm người Việt Nam. Vì sao? Vì người Việt Nam mình gần với thơ lắm. So với các dân tộc khác tôi nghĩ là cách cảm cách nghĩ cách sống của người Việt Nam gần với thơ lắm, trội hẳn lên so với các dân tộc khác. Rất nhiều anh em từ phương xa về thăm tôi, từ Mỹ, từ Canada, từ Úc, từ châu Âu, biết mình qua một vài bài thơ mà đem lòng thương mến. Mình sống được và còn làm thơ được là nhờ cái tình tri âm của độc giả.

Nguyễn Đức Tùng: Theo anh, cái tình tri âm của độc giả có vai trò như thế nào đối với văn học?

Hoàng Cầm: Vai trò lớn lắm. Nó ảnh hưởng đến cái đọc, đến thưởng ngoạn nghệ thuật, đến cả sự sáng tạo. Đã đành rằng thơ hay thì lúc nào cũng hay, nhưng ở mỗi thời mỗi nơi thì nó hay mỗi khác. Tình độc giả tạo nên cái nền cho việc thưởng thức.
Ở các nước phương Tây, ngay cả đối với các nhà thơ lớn như Apollinaire, Breton, Eluard... độc giả họ cũng nhiều nhưng hình như họ không khăng khít, không quấn quít như độc giả Việt Nam mình đối với các nhà thơ.
Tôi cứ có cảm giác rằng Việt Nam mình là số một về phương diện này.
Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, bi kịch, người ta mất mát hết niềm tin vào những đức tính của người Việt Nam. Cái đó là lỗi cơ chế ở các chính quyền và các cuộc chiến tranh, nhưng thật
ra người mình có những tính cách về tình cảm hiếm thấy ở các dân tộc khác, mà đặc biệt là sự gần gũi quấn quít nhau, nhường cơm sẻ áo trong khi hoạn nạn, tình cảm bạn bè bà con làng xóm. Thơ là tấm gương của các tính chất ấy. Nhiệm vụ của nhà thơ là nói lên được tiếng nói riêng biệt của dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại.

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều người cũng nói rằng so với các dân tộc khác, người Việt rất yêu thơ, sống nặng về tình cảm, mặc dù không chứng minh được.

Hoàng Cầm: Chứng minh làm sao được. Nhưng cái hồn của dân tộc là có thật. Bất chấp tất cả những đổi thay của lịch sử, sẽ không có gì làm thay đổi tâm hồn ấy được cả. Đó là cái chất quê hương xứ sở.

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều năm về trước, khi rời Việt Nam ra đi, cá nhân tôi không bao giờ nghĩ chuyện trở lại. Hàng triệu người từ miền Nam, từ miền Bắc, người Việt và người gốc Hoa, lũ lượt ra đi, đều nghĩ như thế. Nhưng rồi mười năm, hai mươi năm sau, mặc dù có thể đã có một cuộc sống ổn định ở xứ sở khác về công việc, văn hoá, nhiều người lại cảm thấy nôn nao cái cảm giác muốn về nhà, quy cố hương, hay ít nhất cũng là thăm viếng bạn bè người thân, và làm một chút gì cho Việt Nam. Đó là tâm trạng của đồng bào người Việt ở hải ngoại.

Hoàng Cầm: Anh thấy không, cái hồn của đất nước mình nó cứ quyến luyến, theo đuổi anh hoài.
Những người Việt ở nước ngoài theo chỗ tôi biết, như một số anh em tâm sự, đều có cái cảm giác gắn bó như thế với quê hương mình, dù họ rất khác biệt chính kiến với nhà nước này. Họ nói với tôi rằng, ở nước ngoài, đôi khi đang đi trên đường, hay đang trong một quán ăn giữa đám đông bạn bè, tóc vàng mắt xanh, tự nhiên họ chợt thấy mình bơ vơ lắm.

Nguyễn Trọng Tạo: Cảm giác tha hương.

Hoàng Cầm: Nhiều khi vẫn cứ ở với người thân, cha mẹ anh em, mà vẫn cứ thấy bơ vơ, bởi vì mình không sống trên đất nước mình. Do những sự khác biệt về chính trị và hoàn cảnh lịch sử, bao nhiêu người đã rời bỏ quê hương tạo ra một đời sống mới, nhưng sợi dây quyến thuộc trong mỗi tế bào vẫn còn ràng buộc. Ràng buộc chúng ta lại với nhau, giữa người trong nước và người ở hải ngoại, người Bắc và người Nam, người trước đây đứng ở những chiến tuyến khác nhau.
Những cố gắng chia rẽ dù đến bất cứ đâu thật là đáng trách.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi nhớ một kỷ niệm lúc vừa mới đến Canada, tức là cách đây đã hai mươi mấy năm. Một hôm trong lớp học, cô giáo dạy tiếng Anh bất ngờ treo lên bảng đen một tấm bản đồ Việt Nam rất lớn. Hồi đó, đối với người Việt ở nước ngoài, quá khứ quả thật là xa vĩnh viễn. Nhìn tấm bản đồ trên bảng đen, tối hôm đó ngồi trong lớp học, ngoài trời tuyết Giáng sinh đang xuống mịt mờ, nhớ đến gia đình, bạn bè, quê hương nghèo khó, khốn khổ, tôi đã lặng lẽ chảy một giọt nước mắt trong lòng mình.

Hoàng Cầm: Chuyện anh kể thật cảm động. Tôi thì không bao giờ có dịp ra khỏi đất nước mình dù chỉ là một mét.
Chưa bao giờ. Thế nhưng tại sao tôi lại hiểu được cái cảm giác xa quê hương của anh, thấy bơ vơ. Sở dĩ như thế là vì ngay cả trong những ngày đau khổ nhất, bị hiểu lầm hay bị đàn áp, tôi vẫn có những người thân bên cạnh. Ngay cả những lúc không có người thân bên cạnh, nhìn xuống mặt đất, tôi vẫn thấy là mình đang đứng ở đâu. Cảm giác của sự vững chãi. Những bi kịch trong đời sống riêng của tôi chắc chắn không thể nào chịu đựng nổi, nếu tôi không được giẫm lên mảnh đất của quê hương. Tôi rất quý trọng những người ở xa đất nước mà vẫn còn nghĩ đến tiếng Việt, yêu tiếng Việt, quấn quít với cái hồn Việt Nam, ngay cả khi họ không cần phải làm như thế.
Anh còn trẻ, có cuộc sống ổn định, không ai bắt anh phải đọc tiếng Việt, hiểu thơ Việt, tìm hiểu lịch sử và những oan khuất của người Việt chúng ta, đúng không? Vậy thì tại sao anh vẫn cất công tìm về cội nguồn. Chúng mình không giải thích được, trừ ra là thế này: có một cái gì đó được ký gửi trong máu huyết của chúng ta.
Nhiều năm, nhiều thế hệ, người ta đã quên điều đó đi. Vì vậy mới có các biên giới, các chiến tuyến và các cuộc chiến tranh (nghỉ một lát).

Nguyễn Đức Tùng: Nhiều độc giả thời trước thường biết đến Hoàng Cầm là nhờ một bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc, hình như lấy tựa đề là “Tình Cầm”.
Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Anh viết bài thơ ấy năm 1941, tức là lúc anh hãy còn trẻ lắm, chứ đâu đã già? (cười)

Hoàng Cầm: Đúng là lúc đó tôi chưa già (cũng cười), nhưng có cái tâm trạng mình không còn trẻ nữa. Mà nhiều khi chuyện làm thơ, chúng mình hay có những linh cảm dự báo như thế. Đến nay đọc lại nhiều khi cũng thấy cảm động.

Nguyễn Đức Tùng: Tập thơ Về Kinh Bắc nổi tiếng đã được anh viết như thế nào?

Hoàng Cầm: Tôi viết Về Kinh Bắc năm 1959, khi tôi quyết định rời Hà Nội.

Nguyễn Đức Tùng: Tức là sau vụ án Nhân văn-Giai phẩm?

Hoàng Cầm: Sau. Thời gian đó mình chịu đựng rất nhiều hoạn nạn, khổ cực, thì cũng như nhiều anh em khác. Mình có cái may mắn là có một quê hương để trở về, nó như cái nôi của tâm hồn mình. Cũng là cái nôi thơ.

Nguyễn Đức Tùng:
Con về
Giấu giếm những bàn tay
Nâng vú
So đũa
Lau mắt
Phơi dây áo thềm sân
Chắc chắn là những ngày gian nan của anh.
Tập Về Kinh Bắc có tám phần, mà anh gọi là các nhịp, nhịp một đến nhịp bảy rồi nhịp cuối, và một Vĩ thanh. Anh viết một mạch theo thứ tự như thế, với một kết cấu sắp đặt trước, hay các bài thơ này viết ngẫu hứng và sau đó được sắp xếp lại?

Hoàng Cầm: Viết ngẫu hứng thôi. Nhưng khi mình chọn lọc và sắp xếp thì nó lộ ra cái mạch ngầm của cấu trúc.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi lưu ý rằng Hoàng Cầm mở đầu con đường sáng tạo của mình bằng kịch và chuyện kể bằng thơ. Trong một hồi ký, Vũ Hoàng Chương cũng nhắc đến vở kịch Kiều Loan của anh gây tiếng vang ở Hà Nội thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954. Kịch thơ là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, trong đó ngoài các câu thơ có vần điệu thông thường là các đối thoại và các câu thơ kể chuyện. Hai yếu tố sau có lẽ đã làm cho anh tiến đến thơ tự do và tiến đến văn xuôi dễ dàng hơn những người khác.

Hoàng Cầm: Nghĩ lại thì đúng như thế. Thơ là để đọc, nhưng cũng là để ngâm, và để diễn. Thơ là trữ tình nhưng nó cũng dùng để kể chuyện, tức là tự sự.
Nhớ đến những ngày viết kịch thơ và diễn kịch thơ, mình thấy đó là những ngày hạnh phúc lắm. Ngày nay thơ mỗi ngày một xa sân khấu, nhà thơ mỗi ngày một xa người đọc. Thật là đáng tiếc.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ Hoàng Cầm là thơ trữ tình, nhưng một người đọc kỹ thì sẽ thấy thơ anh cũng là thơ mô tả thiên nhiên. Anh là một người quan sát thiên nhiên rất cẩn thận và chi tiết.
Trong Nhịp Năm của tập Về Kinh Bắc, anh mở đầu bằng ba bài thơ liên tiếp nhau là những bài thơ giàu tính tư tưởng, nhưng trong đó đầy những nét mô tả thiên nhiên chân xác và duyên dáng.
Cây tam cúc
Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Lá diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Quả vườn ổi
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
Tôi để ý rằng các hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm không chỉ là các ẩn dụ thường gặp trong thơ. Chúng còn là những hình ảnh “thật”, tức là các đối tượng trực tiếp của câu thơ, có tác dụng làm nền và làm điều kiện để cảm hứng chính của bài thơ phát triển. Mối quan hệ giữa các hình ảnh thường không phải là một quan hệ nhân quả mà là quan hệ sóng đôi, đồng hiện, liên hợp và tương tác lẫn nhau. Một mối quan hệ bí mật. Chính vì thế mà thơ Hoàng Cầm như trong ba bài trên đây vừa dễ hiểu vừa khó hiểu, cảm nhiều hơn là hiểu.
Anh viết chúng như thế nào?

Hoàng Cầm: Đấy là cái duyên. Khi từ Hà Nội trở về, rũ bụi đường, thì tự nhiên nó đến như thế. Các bài thơ này mình viết rất gần nhau, trong một thời gian ngắn. Sau này sắp xếp lại trong phần thứ năm thì chúng cũng được để gần nhau. Tôi không có ý định nào rõ ràng khi viết chúng, nhưng sau này nghĩ lại thì đó là kết quả của chuỗi dài những suy nghĩ, hồi ức, khổ đau. Tôi muốn tái hiện chúng.

Nguyễn Đức Tùng: Trong ba bài này, cũng như những bài khác, điều đặc biệt về hình thức là thơ Hoàng Cầm rất tự do.
Anh gần như không theo bất cứ một quy ước nào, nhưng lại hoàn toàn tuân theo các nguyên tắc âm nhạc của chính anh, và của chính bài thơ.
Anh thường ngắt câu thơ ra làm nhiều đoạn, và xuống dòng giữa chừng.
Mẹ đã vuốt mép trầu giục giã Hạ cổng chống rồi
Cánh sẻ chợt bay vù mái bếp
Đó là những cách tân rất lạ trong thơ Việt Nam, vào thời đó, và ngay cả bây giờ. Những người làm thơ hiện nay có thể cách tân nhiều hơn nhưng không thể nào giữ được sự cân bằng nhạc điệu như của anh.

Hoàng Cầm: Như thế là vì mình cho nhạc của thơ là cái sườn của toàn bài. Đúng ra nó là cái hồn. Nó phải tự nhiên như nước chảy mây trôi, không gượng ép, không có ý định trước.
Tôi trở lại với ý của Tùng nói trên về việc mô tả thiên nhiên. Mình cho rằng những người làm thơ cần tránh những điều sau đây:
Hình ảnh trong thơ mơ hồ tổng quát chung chung, không đi vào chi tiết, nên không sống động. Bỏ qua những vẻ đẹp bất ngờ mà chỉ có sự quan sát thường xuyên mới chờ đón được.

Nguyễn Đức Tùng: Tuy nhiên đọc kỹ thơ Hoàng Cầm, thường thấy anh hoặc là chẻ đôi câu thơ bảy chữ, tám chữ, hoặc là trở đi trở lại với nhịp bảy chữ, tám chữ.
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông
Vẫn là nhịp bảy chữ, tám chữ cổ điển.

Hoàng Cầm: Nhưng câu bảy chữ lại đi với câu tám chữ, anh thấy không? Mặc dù thế, nhận xét của anh vừa rồi rất quan trọng. Có thể như thế vì mình không có ý định cách tân chỉ để mà cách tân, tâm hồn mình tự do đến đâu, thì mình viết tự do đến đó. Tuy nhiên, ngay từ đầu trong khi các nhà thơ khác vẫn còn thói quen làm thơ cổ điển thì tôi đã rất sớm nhận ra sự cần thiết phải làm mới thơ Việt Nam. Tôi là một trong những người đầu tiên làm thơ tự do.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ tự do của Hoàng Cầm thường có đặc tính là tận dụng các thể thơ có vần. Anh cũng tìm cách làm rối, làm lệch đi các cấu trúc văn phạm thông thường. Đó là sự phá vỡ về hình thức. Nhưng càng đọc Hoàng Cầm, tôi càng nhận ra một cái gì đó miên man, thu hút rất mạnh, có mặt nhiều nơi. Các qui luật về không - thời gian thông thường bị phá vỡ. Một hệ thống quy luật khác được thay vào.
Ta con bê vàng
Lạc dáng chiều xanh
Đó là một hiện thực khác.

Hoàng Cầm: Nhận xét của Tùng rất đúng và rất mới. Những người sáng tác khi phân tích tác phẩm của mình thì có thể không thấy được như người phê bình thấy. Tuy nhiên tôi cho rằng nếu thơ tôi có những đặc tính như thế một phần là do ảnh hưởng của kịch thơ, do sự chú tâm về cấu trúc và về âm nhạc, và do toàn bộ đời sống riêng của mình. Thơ của tôi mặc dù tự do, nhưng dễ đọc, dễ ngâm. Người đọc cảm được thơ mình là nhờ cái tình nhưng cũng là nhờ nhạc điệu bàng bạc trong thơ.

Nguyễn Đức Tùng: Ngoài thơ tự do, anh cũng làm nhiều những thơ có vần. Ngay trong những bài thơ năm chữ, là thể thơ không được Hoàng Cầm sử dụng nhiều, người đọc tinh ý vẫn nhận ra sự mới mẻ về ý tưởng đôi khi cả ngôn từ, mặc dù nhịp điệu vẫn là nhịp điệu cũ.
Khi em đi xa về
Ao làng trông bé lại Con bướm vàng cầu tre Đã không sang vườn cải
Khi em đi xa về
lũy tre xưa huyền ảo nay tiêu điều xóm quê như sau ngày giông bão
Sao khi ta lớn khôn thấy quê mình hiu hắt cỏ cây thiêng mang hồn xanh xưa về đâu mất
Đây chỉ là sự hoài niệm đơn thuần của một người lớn tuổi tiếc thương tuổi thơ của mình, có tính cách cá nhân, hay đây là câu hỏi đặt ra cho thời đại hôm nay, có tính cộng đồng, về những giá trị văn hóa tinh thần đã mất?

Hoàng Cầm: Bài thơ này tôi làm khoảng năm 1998, nghĩa là cũng mới đây thôi. Tôi nghĩ là cả hai điều anh đề cập đến đều đúng cả, nó là sự xúc động cá nhân nhưng cũng là một cái gì lớn hơn. Xã hội ngày nay và tuổi trẻ sau này mặc dù đầy đủ hơn, sống tiện nghi hơn, lại thiếu thốn một thứ gì. Một thứ gì đã mất hay là đang mất đi, tôi muốn nói lên sự mất mát đau đớn ấy. Nó là các giá trị văn hoá, các tài sản tâm hồn dân tộc.

Nguyễn Đức Tùng: Anh có nhiều bài viết về các nhà văn nhà thơ như Phùng Quán, Vũ Trọng Phụng v.v… Viết về Phùng Cung chẳng hạn, rất thắm thiết:
Từng chữ thép kỳ phùng ngựa chúa Bút trừ tà tung xác văn nô
Mười hai năm đoạ đầy trả nợ Một trang văn hiếm có từ xưa
Thơ Hoàng Cầm ít có những câu rắn rỏi, mang đậm thủ pháp hiện thực, khắc hoạ sâu như những câu thơ tôi vừa đọc. Tình bạn của anh đối với Phùng Cung, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi… như thế nào?

Hoàng Cầm: Phan Khôi và Nguyễn Hữu Đang là lớp trước chúng tôi. Tôi hết sức kính trọng họ. Công lao của họ rất lớn. Phùng Quán là bạn thân. Phùng Cung là một người mà tôi quý mến, và theo tôi là một nhà thơ rất có tài, sống một cuộc đời đầy dũng khí, trải qua nhiều năm khốn khổ nhưng vẫn giữ được tính nhân hậu, tâm hồn trong sạch. Nói chung là khí tiết, thứ hiếm có thời nay.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ mới Việt Nam có một nữ sĩ tài năng, nhưng không được Hoài Thanh đưa vào Thi nhân Việt Nam. Đó là nhà thơ Ngân Giang. Thơ của bà không kém gì thậm chí còn vượt hơn một số nhà thơ nữ khác cùng thời. Nhờ một cuốn tạp chí Văn cũ trước đây, số tưởng niệm Đông Hồ, tôi và bạn bè cùng lứa biết đến những câu sau đây của bà:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch bên trời bóng lẻ soi
Nghe nói là được Đông Hồ ngâm vài phút trước khi ông ngã xuống trên giảng đường đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Hoàng Cầm: Ngân Giang là người bạn lớn tuổi của tôi. Năm 2000, tôi viết về Ngân Giang nhân sinh nhật thứ tám mươi lăm của chị:
Xót một mệnh trời, đau một tri âm Thương một loài hoa, yêu một nguyệt cầm Còn sống cầm tay, một ngày đầm ấm
Còn bi thương ư. Có như bùn lấm Còn hoài vọng ư. Có như Cô Tấm Còn ước mơ gì? Người đi nghìn dặm
Đó là cái tình của nghệ sĩ đối với nhau, hơn thế nữa nhà thơ Ngân Giang đã không được may mắn. Lúc còn sống chị không được công chúng biết đến, thơ của chị không được phép xuất bản. Các thế hệ trẻ bây giờ hình như cũng không biết Ngân Giang là ai. Đó là một điều đáng tiếc.

Nguyễn Đức Tùng: Cũng là điều đáng tiếc cho những người bây giờ không biết đến nữ sĩ. Theo anh có phải là có một sự đứt đoạn, một nếp gãy trong văn hoá Việt Nam và trong thơ nói riêng?

Hoàng Cầm: Do chiến tranh và nhiều xáo trộn của đất nước mấy chục năm qua, dân tộc mình đã chia năm xẻ bảy rất nhiều, không những trong Nam ngoài Bắc mà cả thế hệ trước thế hệ sau.
Tùng thấy không, dân tộc mình chỉ là một mà thôi. Mà đó không phải là sự tuyên truyền và không nên để cho sự tuyên truyền làm hỏng cái nhất điểm tâm hồn đó.

Nguyễn Đức Tùng: Trở lại với Về Kinh Bắc, một trong ba tập thơ quan trọng nhất của anh, bên cạnh tập thơ Mưa Thuận Thành và tập Lá diêu bông.
Tôi thường chú ý đến không gian trong thơ Hoàng Cầm. Đó là một không gian văn học. Thơ anh đầy mùa màng, cảnh sắc thiên nhiên, cây cối, chim chóc, đồ vật. Không phải là người ở một vùng văn minh sông Hồng, thì khó viết được những câu như:
Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng Khế chua vôi bột lòng tay
Tràng pháo ròng thân cau mới bói Tênh tênh chở đá Ba Vì
Tiếc gì nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân
(Đêm Mộc)
Có một cái gì huyền ảo mà rất thật. Trừu tượng mà chi tiết, hiện thực mà siêu nhiên (extra natural). Nhưng mà thơ thời kỳ này cũng có nhiều đau đớn, đắng cay, buồn tủi. Các bài thơ khác sau tập Về Kinh Bắc, nhất là khoảng từ 1975 về sau, mặc dù anh viết vào lúc lớn tuổi, lại có giọng điệu tươi tắn hơn, vui vẻ hơn. Mặc dù vậy về mặt giá trị văn học, tập Về Kinh Bắc nhìn chung hình như vẫn là xuất sắc nhất, đỉnh cao của thơ Hoàng Cầm. Phải chăng quy luật của sáng tạo là bất bình tắc minh, nghĩa là càng đau khổ càng làm thơ hay?

Hoàng Cầm: Có thể đồng ý với anh rằng tập Về Kinh Bắc nổi bật hơn cả, nhưng xét về từng bài thời kỳ sau này và trước đó, cũng có những bài ngang tầm tương tự. Nhưng đúng là khi trong lòng mình buồn bực, nhiều tâm sự thì nó phả ra cái giọng điệu đau buồn uất ức riêng. Nó làm cho thơ trỗi dậy. Thơ là tiếng nói của tâm hồn là vì vậy. Tuy nhiên tôi không cho rằng chỉ khi đau khổ người ta mới làm thơ hay. Vả lại sự đau khổ có hai cách, hoặc là do từ bên ngoài, hoặc là do chính mình. Những người đang yêu nhau cũng có thể làm thơ hay mặc dù không phải khi nào họ cũng đau khổ. (cười)

Nguyễn Đức Tùng: Giọng điệu của Hoàng Cầm cũng có khi trẻ trung, bay bổng, thậm chí bay bướm.
Ly cà phê nửa tỉnh mê
Từng đôi sớm biết đi về có nhau Còn em lãng đãng đi đâu
Anh về so sẫm đũa màu gỗ mun Có khi đau xót lạ lùng.
Anh giải oan, em chẳng hết oan Suối khuya cắt xé tiếng kêu than
Ai đã từng mất người yêu, mất vợ, mất chồng, sẽ tìm thấy họ trong thơ của anh.
Nghệ thuật xếp đặt chữ của anh rất táo bạo. Người ta nói “nửa tỉnh nửa mê”, anh thì nói “nửa tỉnh mê”. Những câu rất lạ như “so sẫm đũa màu gỗ mun” không biết là tự nhiên bật ra hay là công phu tu từ học.
Đặc điểm trong giọng điệu thơ của Hoàng Cầm là giọng văn xuôi, mà vẫn cứ êm ả nhẹ nhàng. Anh giải oan, em chẳng hết oan.
Đây có phải là một chủ trương riêng của anh?

Hoàng Cầm: Tự nhiên bật ra thôi. Tôi cũng có sắp xếp lại, có khi cũng sửa thơ rất nhiều, nhưng hầu hết đều tự nhiên bật ra. Gần như là vô thức. Muốn thế thì phải sống với chữ nghĩa như ăn uống, như khí trời. Lâu rồi nó thành ra của mình, chỉ chờ dịp là bộc lộ. Nếu nói là chuẩn bị thì chuẩn bị mỗi ngày, mỗi phút.

Nguyễn Đức Tùng: Nghĩa là nhà thơ tự biến thành một phương tiện (vehicle) của nữ thần thơ ca?

Hoàng Cầm: Đúng như vậy, nhưng không phải với nghĩa hành xác hay tử vì đạo gì cả, mà là mình hạnh phúc được sống một cuộc đời thơ như thế. Tôi nghĩ nhà thơ nào cũng cần chuẩn bị cho mình một đời sống đầy đủ lãng mạn. Chứ anh sống nông cạn quá, xô bồ quá, chạy theo những thứ hão huyền, hay là tính toán dè dặt quá, tham lam quá, chăm chút lo toan cho cá nhân mình, thì không có thơ hay.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ Hoàng Cầm không có khuynh hướng triết học, hoặc nặng về lý trí, trừu tượng, nhưng đằng sau những câu chữ có tính cảm giác là những ý nghĩa ngấm ngầm sâu xa.
Trong thơ anh có những thông điệp mà người đọc cần rút ra hay không?

Hoàng Cầm: Thơ tôi không có thông điệp. Tôi không hề có ý định diễn đạt một ý tưởng ra thành thơ, tức là có sẵn một cái dàn bài rồi đắp các chữ vào. Các chữ bao giờ cũng bật ra từ tâm linh, có khi đi trước nghĩa của chúng. Nhiều câu tôi không biết tại sao tôi lại viết như thế. Nhưng nếu coi thông điệp là những ý nghĩa của bài thơ, người đọc nhận ra mỗi người một cách khác nhau, thì tất nhiên bài thơ nào cũng có thông điệp cả.

Nguyễn Đức Tùng: Về hình thức và thể thơ, các tập Mưa Thuận Thành và Lá diêu bông viết sau tập Về Kinh Bắc, có rất nhiều bài viết ở dạng thơ cổ điển, và ít có khuynh hướng tự do hơn, nghĩa là người đọc ít tìm thấy ở đó sự cách tân ngôn ngữ. Có một “thi pháp Hoàng Cầm” hay không?

Hoàng Cầm: Mình không định như thế. Nhưng nếu nhận xét của anh đúng thì nó rất thú vị. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều này cả. Có thể vì càng về sau cái nhạc điệu của đời sống tâm hồn nó trở nên êm đềm, khuôn khổ, ít bấn loạn hơn chăng?

Nguyễn Đức Tùng: Tôi có trong tay tập thơ Hoàng Cầm tác phẩm, nhà xuất bản Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, Lại Nguyên Ân biên tập. Đây là một tập sách in đẹp, bìa trang nhã, tập hợp được rất nhiều các bài thơ của anh. Một công trình công phu của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây và của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân rất đáng trân trọng và khen ngợi. Anh còn những tác phẩm nào khác chưa được đưa vào sách hay không?

Hoàng Cầm: Cuốn mà anh có là cuốn về thơ, còn hai cuốn nữa, một là truyện thơ và kịch, hai là văn xuôi. Về thơ thì như thế là tạm đủ, nhưng cũng có những bài chưa có điều kiện đưa vào.

Du Tử Lê: Thưa anh, anh làm thơ từ lúc mấy tuổi?

Hoàng Cầm: Mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi, vừa bắt đầu trưởng thành, là mình nhất định muốn trở thành một nhà thơ. Và quyết định sẽ không thay đổi. Bất cứ gia đình, bạn bè hay thế lực, chế độ nào buộc mình không làm thơ thì mình cũng sẽ không thay đổi. Hoạn nạn hay khổ đau nào cũng sẽ không làm mình thay đổi.

Nguyễn Đức Tùng: Có ai đã từng buộc anh không làm thơ không?

Hoàng Cầm: Ra lệnh trực tiếp như thế thì không.

Nguyễn Đức Tùng: Cái gì làm cho anh có quyết tâm suốt đời làm thơ như thế?

Hoàng Cầm: Tình yêu thôi. Yêu dân tộc mình quá. Và ngôn ngữ Việt Nam quả thật lạ lùng. Giải thích thì rất khó nhưng tiếng Việt thật là tinh vi, đi sâu vào những ngõ ngách tâm hồn.
Mình cảm thấy cái nhu cầu muốn biểu đạt bằng thơ ca. Ai không có cái nhu cầu đó thì khó trở thành nhà thơ.

Nguyễn Đặng Mừng: Tôi hân hạnh được gặp nhà thơ Hoàng Cầm ở Sài Gòn năm 1980 ở nhà văn hoá quận Bình Thạnh. Lúc đó Hoàng Cầm mới từ Hà Nội vào Nam. Đó là những năm đất nước rất đói nghèo, khó khăn. Độc giả yêu mến anh đã đến chật cả hội trường. Không khí cảm động.
Tôi vẫn còn nhớ thuộc lòng bài thơ mà anh ngâm buổi tối hôm đó.
(Ngâm thơ, toàn bài)
Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói con cũng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời
Hoàng Cầm: Tôi rất cảm động có người nhớ thơ tôi như thế, những năm xa xưa trên đất nước nghèo đói. Tôi đã từng viết những câu thơ như thế bằng chính máu thịt của mình trong những ngày dài đau khổ.
Bây giờ đã già, lại không đi đứng được nữa, nên tôi chỉ biết chờ bạn bè từ xa đến thăm chứ tự mình không đi thăm ai được. Tiếc quá.

Một thân hữu văn nghệ: Xin hỏi anh, chân của anh bị như thế nào?

Hoàng Cầm: Hồi đó tôi bị ngã gãy xương đùi. Từ đó không đi được nữa, phải ngồi xe lăn.

Du Tử Lê: Tuổi thơ của anh ra sao?

Hoàng Cầm: Mình biết làm thơ từ lúc còn nhỏ lắm. Có những người may mắn khi lớn lên có một không gian nó sinh ra cái chất thơ.
Từ năm lên năm đến năm mười lăm tuổi tôi lớn lên ở nông thôn. Cái chất quê nó phả ra hồn dân tộc. Tôi nhận được cái đó từ rất sớm. Nhưng nông thôn của tôi không đến nỗi heo hút quá, ở dọc quốc lộ số 1, hàng ngày có những chuyến xe đò chạy qua. Có con đường xe lửa, có chiếc ga xép, buổi chiều khói của tàu phả lên bầu trời như một thứ dấu ấn tuổi thơ. Thời đó của tôi không gian yên ả thanh bình. Bây giờ thì rất khó mà được như thế. Không phải là tôi hoài niệm đâu, mà đúng là thời đó có những điều kiện rất tốt để người ta sống một đời sống đẹp và trưởng thành, lớn lên cùng với thơ.
Tôi nhớ chuyến xe lửa có khi xuống ga chỉ có một người hành khách, tuy vắng vẻ thế nhưng lại không quá sức heo hút, bùn lầy nước đọng như người ta vẫn nghĩ nhầm. Bố tôi là môt nhà nho, làm nghề bốc thuốc. Những lúc rảnh, các cụ thường ngồi với nhau, uống trà, đọc thơ, nên mình cũng chịu ảnh hưởng, vì mình cũng đứng gần đó châm nước hầu trà. Những thứ đó nó nhiễm dần vào tâm hồn mình, đi đâu xa lại nhớ nó. Nó un đúc nên hồn thơ của mình, như thế là từ năm lên năm tuổi. Lớn lên tôi phải đi học xa nhà, chỉ thỉnh thoảng mới được về. Những ngày ở bên bố mẹ thật là những kỷ niệm êm ả.
(Ngồi ngả lưng, lim dim mắt, nghỉ một lát)

Nguyễn Thụy Kha (nói đùa): Tình hình lửa của anh Hoàng Cầm đang yếu đi. Phải cử một em vào ngồi với anh cho ấm.

Hoàng Cầm (với một thiếu nữ vừa bước vào, ngồi xuống bên trái nhà thơ): Em ở làng nào?

Thiếu nữ: Dạ thưa, em ở Đình Bảng.

Nguyễn Đức Tùng: Cô có váy Đình Bảng không? (cười)

Thiếu nữ (thành thật): Có ạ. Nhưng em cất ở nhà.

Nguyễn Đức Tùng: Sáng ngày mai chúng tôi sẽ đi qua sông Đuống, về Kinh Bắc quê anh để nghe hát quan họ. Ngoài những người ở đây còn có các anh Dương Tường, Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên, và một số người khác. Ai đã đọc tập thơ Về Kinh Bắc của anh, không thể không nhớ đến những câu như:
Tiếng hát quan họ
Và trai gái quê tôi trẻ đẹp vô cùng Làm sao có thể mời anh đi được?

Hoàng Cầm: Không đi được. Tiếc lắm. Giá như các anh về đây trước độ mươi hay mười lăm năm, tôi hãy còn khỏe lắm, chúng mình sẽ cùng nhau đi rong chơi.

Nguyễn Đức Tùng: Anh có mối tình nào với một kiều nữ quan họ không?

Hoàng Cầm (cười): Phải có chứ. Nguyễn Đức Tùng có hút thuốc lào được không?

Nguyễn Đức Tùng: Thưa không. Nhưng sẽ xin được châm lửa cho anh hút (châm lửa, và Hoàng Cầm hút rất lâu. Những người khác xúm lại nhìn anh hút thuốc, có người noi gương anh cũng làm một điếu).

(Sau một lúc)

Những người viết trẻ hôm nay vẫn đọc thơ Hoàng Cầm và yêu mến anh lắm. Anh có lời nào dành cho họ không?

Hoàng Cầm: Bản thân tôi không biết lý luận và cũng không thích lý luận bao giờ. Tôi chỉ có kinh nghiệm về thơ thôi. Mà kinh nghiệm thì khi về già mới có.
Tôi cho rằng người làm thơ phải tạo ra cái khách quan của mình. Mình phải tạo nó ra. Tôi tạo ra quê hương đất nước của tôi.
Có cái hiện thực khách quan ngoài ý muốn của mình, và cũng có cái khách quan do mình tạo ra. Điều này là quan trọng nhất. Cái hiện thực khách quan thứ nhất do xã hội và lịch sử tạo ra, đầy những bất trắc và bất công, mình đồng ý với nó hay phản kháng lại nó, cũng không dễ một ngày hai ngày mà thay đổi được. Thế thì mình phải làm sao?
Nhà thơ phải khôn ngoan để chọn cho mình cái hiện thực thứ hai mà sống. Sống thế nào thì viết thế ấy. Không sống trong thơ thì không sinh đẻ ra thơ.
Hiện thực thứ hai lúc nào mình cũng tạo ra được, vì do mình chọn lấy từ hiện thực thứ nhất. Ví dụ như gia đình, bạn bè, người yêu, chỗ ở, nơi làm việc, học hành, vui chơi. Cái khách quan thứ hai này nó nuôi dưỡng hồn thơ của mình hay nó hủy diệt hồn thơ ấy đi. Có thể nói hơi quá đi một chút rằng chơi với bạn bè văn chương như thế nào thì đẻ ra thơ như thế ấy. Mình muốn thân mật hoà hợp với mọi người như thế nào đấy hay là mình muốn phản bác, châm biếm, đả kích người khác như thế nào đấy cũng là do mình thôi. Các nhà thơ cần tạo ra cái khách quan thứ hai ấy để nuôi dưỡng thơ của mình. Đó là điều mà từ bé tôi đã làm được.
Anh đừng bị lệ thuộc vào cái khách quan thứ nhất mà anh không thay đổi được. Sẵn sàng thay đổi môi trường của mình để sống được như mình mong muốn. Người nào không chơi được thì đừng chơi với họ, chỗ nào không dung mình được thì dời đi chỗ khác, chứ đừng quá cầu xin, đừng quá ép buộc mình. Chỉ có cái tự nhiên là quý.
Lúc còn nhỏ quá thì khách quan là loại thứ nhất, lúc lớn lên rồi tôi tự tạo ra cái thứ hai để cho nó vừa ý mình. Mình muốn sống trong môi trường như thế để mà làm thơ.
Đó là mục đích của đời sống của mình.

Nguyễn Đức Tùng: Kinh nghiệm như trên của anh thật là quý giá. Nhưng khi có môi trường rồi, tức là khi có cái hiện thực thứ hai như ý mình rồi, mà thơ vẫn không sinh ra được là tại sao?

Hoàng Cầm: Tại vì cảm hứng của anh chưa đủ chín. Tài anh chưa đủ chín. Điều thứ nhất mà người ta thường thiếu là điều tôi vừa nói trên đây. Điều thứ hai là thế này: các bạn trẻ làm thơ cần học hỏi rất nhiều, gặp được một bài thơ hay của người khác, đọc được một bài lý luận về thơ, là phải xem đi xem lại, trao đổi lẫn nhau, tranh luận cho ra lẽ vì sao mà thơ người ta hay như thế. Đừng có tự ái, lắng nghe lời khen chê của độc giả. Lắng nghe họ chứ không chắc cái gì cũng đi theo họ. Điều kế đó là: nhớ rằng đừng làm thơ theo một ý định sẵn. Vì làm thơ theo một ý định sẵn thì cũng có thể hay đấy, như trường hợp Chế Lan Viên. Nhưng người ta sẽ quên đi. Ý định của anh nó phải lồng trong cảm xúc, quyện vào nhau, không biết cái nào trước, cái nào sau.

Nguyễn Đức Tùng: Anh cho rằng Chế Lan Viên là người làm thơ theo ý định sẵn?

Hoàng Cầm: Đúng thế. Chế Lan Viên là người có học, lại có tài, vì vậy có những câu thơ rất độc đáo. Nhưng mà sức rung động của những câu thơ Chế Lan Viên thường hạn chế. Yếu, rất yếu, mặc dù mới đọc thì hay lắm. Một thời gian sau đọc lại thì nó không cám dỗ mình nữa, nó hơi giả, không thật, hay ít nhất là không đủ sự thật. Người đọc bị nhà thơ thuyết phục một lần, nhưng lần sau thì không bị thuyết phục nữa.

Nguyễn Thụy Kha: Trong thơ Chế Lan Viên, vì ngôn ngữ trở thành phương tiện của thơ hay vì không có đủ sự thật nên rung động của thơ không lâu dài?

Hoàng Cầm: Không có sự thật, tức là xúc động thật, nên không bền. Mới đọc thì hay, nhưng để lâu, đọc đi đọc lại thì người ta lại thấy chan chán, vì ở trong thơ Chế Lan Viên có nhiều lý trí và lý lẽ.
Mà sở dĩ như thế là vì nhà thơ đã dùng sự thông minh của mình để mà chiếm hữu thơ ca vốn là cái không thể chiếm hữu được. Anh không đàng hoàng với nó là anh mất nó ngay. Nhưng thơ của tôi thì không có lý lẽ gì nhiều, có nhiều câu không có nghĩa gì lắm, nhưng tôi viết thẳng ra từ rung động thật của mình, vì vậy cũng làm cho người đọc rung động theo. Như vậy thơ không phải là ý nghĩa, thơ trước hết là sự rung động. Nó còn đi trước cả ngôn ngữ biểu đạt, rồi trở thành một với nó. Rung động tức là sự thật.
Những người làm thơ trẻ hiện nay cần nhớ rằng những bài thơ đặt nặng trên lý trí, lý lẽ mà không xuất phát từ rung động sâu xa thì có thể tạo nên một lớp độc giả ban đầu nhưng rồi sẽ tàn đi nhanh vì không ai người ta nhớ đến thơ mình. Hãy để cho thơ tự bật ra từ trong huyết quản của mình, từ trong chính cuộc sống và suy nghĩ mỗi ngày. Nó bật ra chứ không phải anh nghĩ ra nó. Đây chỉ là kinh nghiệm của cá nhân tôi, có thể không đúng với người khác.

Nguyễn Đức Tùng: Như thế theo anh trong thơ không cần các ý tưởng ban đầu? Ở phương Tây cũng thường nói đến phương pháp sáng tác có tính tự động, hoàn toàn vô thức.

Hoàng Cầm: Không phải là không cần các ý tưởng. Nhưng các ý tưởng hay cảm xúc cũng như sự quan sát khách quan phải trở thành máu huyết của mình. Anh phải sống với nó mỗi ngày, rồi để nó tự bật ra. Còn nó bật ra lúc nào thì anh không kiểm soát được.

Nguyễn Đức Tùng: Thế hệ của anh nhiều người biết tiếng Pháp. Thơ của Pháp ảnh hưởng đến anh ra sao?

Hoàng Cầm: Thơ Pháp thì tôi đọc nhiều và học nhiều, nhưng ảnh hưởng đến tôi thì ít. Tôi cũng từng say mê Verlaine, Rimbaud, Beaudelaire, Breton… Nhưng thật ra thơ Pháp nó cũng nhiều lý trí lắm.

Nguyễn Đức Tùng: Hình như thơ phương Tây đều thế cả. Đây là điểm yếu của thơ phương Tây hay là điểm mạnh của họ? Biết đâu tính xúc động mà anh vừa đề cập chính là nguyên nhân làm cho thơ Việt Nam bao năm lẩn quẩn trong lũy tre làng, không vượt ra khỏi biên giới của mình. Vì thế mà thơ hay của Việt Nam không dịch ra được.

Hoàng Cầm: Chúng ta cần kiên nhẫn. Mỗi dân tộc có một điểm mạnh riêng. Không phải tôi có ý nói thơ Việt Nam là hay nhất thế giới, nhưng cần bình tĩnh để nhận chân cái đặc sắc của nó.
Chúng ta có nhận ra được cái đặc sắc riêng biệt đó thì mới giải thích cho thế giới được.

Nguyễn Đức Tùng: Thế bây giờ các nhà văn và lý luận phê bình của chúng ta đã nhận ra hay chỉ ra được điều anh nói chưa?

Hoàng Cầm: Chưa.

Nguyễn Đức Tùng: Những nước tương đối nhỏ và không dùng ngôn ngữ Anh hay Pháp, như Ba Lan, Mexico, Ấn Độ, Bồ Đào Nha… lại có những nhà thơ lớn được thế giới công nhận. Được công nhận như thế là vì độc giả khắp nơi yêu mến họ qua các bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp.
Thế sao cái hay của thơ Việt Nam không dịch được mà cái hay của thơ các dân tộc khác lại dịch được?

Hoàng Cầm: Như thế thì mình cần thời gian để thế giới hiểu mình qua các bản dịch công phu. Cũng có thể vì ngôn ngữ Việt Nam thuộc một hệ thống quá sức đặc biệt.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ của các nước như Ba Lan, Ấn Độ, Anh, Mĩ… hình như nặng về các ý tưởng, còn thơ Việt Nam nặng về ngôn ngữ và nhạc điệu. Điều này hạn chế khả năng phiên dịch của thơ Việt Nam.

Hoàng Cầm: Cũng có thể đúng như anh nói. Bây giờ nói về cái tình. Cái tình nó phải uyển chuyển, các sắc thái của nó phải thật mênh mông, thật sâu. Thơ phải đạt được cái sâu và cái mênh mông ấy của chữ tình, phải để cho cái tình nó hồn nhiên, hồn nhiên đấy nhưng không phải là không có trí tuệ. Nhà thơ phải là người sống rất thơ cuộc đời mình và nhà thơ phải biết lao động tình cảm.

Nguyễn Đức Tùng: Thế nào gọi là lao động tình cảm?

Hoàng Cầm: Lao động tình cảm là xây đắp cuộc sống tình cảm của mình, phát triển nó thật sâu, thật mênh mông. Đó là tình cảm đối với cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè. Tình cảm đối với xóm làng, quê hương đất nước, đối với nhân loại. Tình cảm đối với cỏ cây muông thú, với sự sống và cái chết. Bỏ đi hết những cái phiền toái lặt vặt ở đời, bỏ đi những ràng buộc về tiền tài danh vọng, có có không không, được mất hơn thua tầm thường ở đời. Giữ một tấm lòng trân trọng với những gì mà mình tin là tốt đẹp, mặc những kẻ có quyền hơn mình, có thế hơn mình, có tiếng hơn mình nói gì cũng kệ họ. Mình nắm cho chắc những giá trị mà mình tin là có thật và duy nhất.
Đến một lúc nào đó tình cảm chín rồi câu thơ sẽ tự bật ra. Có nhiều câu thơ của tôi khi nhớ lại tôi cũng không biết tôi đã làm thơ thế nào, làm sao để tôi có những câu thơ ấy, thậm chí tôi cũng không biết lúc ấy tôi định viết cái gì. Sở dĩ như thế là vì tôi không bao giờ để cho lý trí lấn át tình cảm trong quá trình sáng tạo.

Du Tử Lê: Hôm nay nhiều bạn bè đến thăm anh, thấy anh còn khỏe và trò chuyện được như thế này đã là niềm vui lớn cho nhiều người, nhất là những người yêu thơ ở khắp nơi.

Hoàng Cầm: Tôi rất vui và xúc động được gặp các anh Du Tử Lê, Nguyễn Đức Tùng,
Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Hoàng Trần Cương… hôm nay đến thăm và trò chuyện về thơ vui vẻ như thế này. Tôi cũng có trao đổi về văn học với nhiều người trong nhiều dịp khác nhau nhưng cuộc trò chuyện hôm nay tôi thấy nó ấm áp quá. Tình cảm quá. Cái tình cảm giữa anh em mình với nhau và tình yêu đối với thơ, hai cái đó nó hoà quyện vào nhau, thật là quyến luyến.

Nguyễn Trọng Tạo: Anh Hoàng Cầm quý lắm mới ngồi nói chuyện lâu như thế.

Hoàng Cầm: Các anh đến chơi, tôi mừng lắm. Nói cả ngày cũng chưa hết chuyện. Tôi còn muốn nói chuyện lâu với anh Nguyễn Đức Tùng, tôi chưa mệt.

Nguyễn Đức Tùng: Đọc thơ anh, thấy rõ cái tình yêu nước mênh mông, không phải chỉ trong những bài thơ có đề tài yêu nước, mà bàng bạc trong tất cả những bài thơ về mẹ.
Quà gửi con chùm nhãn Hưng Yên Đừng gặm hết ngày thơ trẻ
Hay trong những bài thơ tình. Em đi xa quá xa
Mới thấy trời mây hẹp Có phải trong hồn ta Em vẫn ngồi khép nép
Rõ ràng là thơ tình. Thơ giản dị, không phải là những câu hay nhất của Hoàng Cầm, thế mà khi đọc chúng, tôi lại thấy dâng lên một niềm thương cảm đối với quê hương mình.

Hoàng Cầm: Có lẽ vì tôi viết chúng trong bối cảnh quê nhà và nông thôn.

Nguyễn Đức Tùng: Thưa anh, hồi nãy anh có nhắc đến độc giả ở miền Nam trước đây. Thế còn tác giả miền Nam thì sao? Ý tôi muốn nói là anh nghĩ sao về việc đọc lẫn nhau giữa hai miền Nam Bắc.

Hoàng Cầm: Bất cứ một nhà thơ nhà văn nào, miền Bắc hay miền Nam, trong nước hay hải ngoại, đã viết bằng tiếng Việt thì đều là nhà văn Việt Nam, và văn học của họ là văn học Việt Nam. Tôi rất yêu mến và trân trọng tác phẩm của các nhà thơ miền Nam trước đây như Đinh Hùng, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Du Tử Lê… Tôi nghĩ rằng đó là một dòng văn học lớn.
Do hoàn cảnh chiến tranh và chia cách, chúng ta rất khó khăn để đọc lẫn nhau. Nhưng thời kỳ đó đã qua lâu rồi, chiến tranh đã kết thúc hơn ba mươi năm, không lý gì chúng ta lại không có điều kiện để tìm hiểu lẫn nhau nhiều hơn nữa. Chỉ tiếc là tôi đã già rồi, không còn nhiều sức lực nữa, nhưng tôi tin rằng ngày nay những người viết văn trẻ cần phải đọc nhiều về các thời kỳ văn học khác nhau của nước mình để có vốn văn hoá và vốn tâm hồn. Những người đi trước dạy cho chúng ta nhiều thứ lắm.

Nguyễn Đức Tùng: Sau tập Về Kinh Bắc một thời gian rất dài, là tập Mưa Thuận Thành. Có sự khác nhau như thế nào giữa hai tập thơ này?
Nhớ mưa Thuận Thành long lanh mắt ướt
là mưa ái phi
tơ tằm óng chuốt Ngón tay trắng nuột nâng bồng Thiên Thai Mưa chạm ngõ ngoài chùm cau tóc xoã Miệng cười kẽ lá
mưa nhòa gương soi

Hoàng Cầm: Hai tập thơ cách nhau ba mươi năm. Tập trước 1960, tập sau 1991. Về Kinh Bắc là lời khấn nguyện của kẻ sau cơn hoạn nạn trở về cố hương, về với mẹ và tuổi thơ. Mưa Thuận Thành là đời sống của tâm hồn tôi, trải suốt một vùng quê Quan Họ, là tình yêu và những cảm nhận về cuộc đời bình dị, khi u buồn, khi hạnh phúc.

Nguyễn Đức Tùng: Vẻ đẹp trong thơ Hoàng Cầm rất khó giải thích, gần như là một kinh nghiệm vô thức. Hình như anh ít sửa thơ của mình, tức là không coi trọng công việc vật lộn chữ nghĩa và bản thảo? Khác với nhà thơ Lê Đạt chẳng hạn?
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi 
đôi cá đòng đong
Tôi để ý rằng trong những bài thơ hay nhất của Hoàng Cầm, đều có kỹ thuật đồng hiện về thời gian. Cả quá khứ, hiện tại và tương lai đều có thể cùng xuất hiện.
Chính điểm mấu chốt này làm cho thơ Hoàng Cầm có tính thiêng liêng, huyền bí, vốn không phải là tính chất đặc trưng của thơ Việt Nam.

Hoàng Cầm: Anh nói vô thức là rất đúng, đó là bản chất sáng tạo, và vô thức còn cho phép tôi đến được nhiều nơi cùng một lúc. Nhưng việc sửa chữa, thì mỗi khi viết xong tôi đều coi lại rất kỹ. Các hình ảnh nó linh hiện như thế nào thì tôi không thể biết, nhưng khi đã có chúng trong tay thì ta có thể kiểm soát được phần nào. Tôi ít sửa thơ thật nhưng tôi rất cẩn trọng khi chọn chữ, chọn xong rồi thì khó mà sửa được. Như thế cũng là một cách làm việc trên bản thảo nhưng là bản thảo không lời.

Nguyễn Đức Tùng: So với những người cùng thời như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, thì anh có vẻ ít có ý định cách tân ngôn ngữ thơ hơn cả.

Hoàng Cầm: Cũng có thể như thế. Tôi không có một lý thuyết nào về sự cách tân ngôn ngữ cả, nhưng tôi không chống lại điều ấy, trái lại tôi rất chú ý đến nó. Các câu thơ của tôi nếu không mới thì tôi thường bỏ đi. Vào khoảng năm 1958-1959, trong thời gian viết tập Về Kinh Bắc, tôi nhận ra rằng thơ Việt Nam không đổi mới là đã đi đến đường cùng, vì thơ mới sau Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu… không thể phát triển thêm được nữa.
Ngoài một số anh em làm thơ thân thiết, như Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Dương Tường, những suy nghĩ như thế tôi không có dịp nào để chia xẻ với nhiều độc giả trong ba mươi năm.

Nguyễn Đức Tùng: Xin cám ơn nhà thơ Hoàng Cầm. Buổi gặp gỡ hôm nay chắc chắn sẽ để lại trong lòng những người có mặt một kỷ niệm không phai mờ. Chúc anh giữ được lâu dài sức khỏe và sự minh mẫn.

Mọi người đứng lên xung quanh. Một người thanh niên giúp một công việc đặc biệt cũng vừa bước vào. Hoàng Cầm hút thêm một điếu thuốc, thở khói, trầm ngâm. Anh chào mọi người và cầm tay tôi thật chặt, một hồi mới buông ra.

(thực hiện tháng 04.2007 - cùng duyệt lại văn bản với nhà thơ Hoàng Cầm trên điện thoại, với sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong các tháng 10, 11 và 12.2007)

(trong Thơ Đến Từ Đâu)
(ảnh Nguyễn Đình Toán)













Kim Lân & Hoàng Cầm











Hoàng Cầm và Nguyễn Duy











Hoàng Câm & Phạm Duy











(Con gái Hoàng Cầm) Kiều Loan & Phạm Duy



















Hoàng Cầm & Phạm Duy









T Ì N H C Ầ M


Một ca khúc của hai danh tài Hoàng Cầm - Phạm Duy :













Trở về











MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.