Phạm Văn Hạng
(1942 Đà Nẵng - .............)
Điêu khắc gia
Rác rưởi kết bè che mặt nước
Đất thấm buồn đau thương núi sông
Bão giông dẫu biết tan thành sóng
Trắng cả đầu xanh, bạc cả lòng.
Đất thấm buồn đau thương núi sông
Bão giông dẫu biết tan thành sóng
Trắng cả đầu xanh, bạc cả lòng.
Phạm Văn Hạng, điêu khắc và thơ
Phạm Văn Hạng sinh năm 1942 (Nhâm Ngọ), tại làng Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Xuân này, như ông bà tính, ông 75 tuổi.
Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng. Ảnh: ĐẶNG NỞ
Lịch sử mỹ thuật đương đại Việt Nam không thể thiếu khuôn mặt Phạm Văn Hạng. Gần nửa thế kỷ lao động nghệ thuật, kể từ Chứng tích (Sài Gòn, 1970), một tác phẩm nổi loạn, mang từ chiến trường Quảng Trị đến Đất lành (Đá), Cầu Rồng (thép), Đà Nẵng - 2013, ông đã cắm những đỉnh cao về nghệ thuật tạo hình.
Lĩnh vực này, “nó giới thiệu cho ta cuộc sống của con người dưới diện mạo trực tiếp của nó, hoặc như có người nói, “dưới hình thức của chính bản thân cuộc sống” (V.Kô-gi-nốp, Các loại hình nghệ thuật, NXB Văn hóa-Nghệ thuật, 1963, trang 93).
Với Phạm Văn Hạng, bằng các thể khối từ đá, gỗ, kim loại..., nhiều hình tượng điêu khắc có kích thước khổng lồ như Mẹ dũng sĩ, Đà Nẵng, 1985, cao 15 mét, Nhà đày Lao Bảo, 2000, cao 12 mét, Đài tưởng niệm Bên dòng sông Thạch Hãn, cao 12 mét, Đấng yêu thương, 1988, gò đồng, cao 24,2 mét, Đài tưởng niệm huyện Đại Lộc, 1994, cao 26 mét, Đài tưởng niệm thành phố Huế, 1990, cao 25 mét,… đã ra đời, sừng sững giữa đất trời nước Việt.
Ông còn tạo ra vườn tượng Đà Nẵng, vườn tượng Đà Lạt, nơi đây khắc ghi những chân dung đáng kính, như: học giả Đào Duy Anh, nhạc sĩ Văn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Thanh Tịnh, nhà thơ Lưu Trọng Lư, giáo sư Nguyễn Khắc Viện, giáo sư Trần Quốc Vượng, nhà thơ Phùng Quán, họa sĩ Nguyễn Gia Trí, nhà văn Sơn Nam, nghệ sĩ Kim Cương, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nhà thơ Bùi Giáng, v.v…
Nói như nhà văn Nguyễn Quang Lập, “Tôi thấy toàn thân rung lên khi đứng giữa vườn tượng Phạm Văn Hạng”. Mỗi bức tượng, ông gửi gắm vào đó một nhân cách, một tâm nguyện, một chỗ đứng văn hóa và lịch sử. Qua những nhân vật này, Phạm Văn Hạng khát khao hướng về chân, thiện, mỹ.
Những công trình điêu khắc của ông được giới phê bình mỹ thuật đánh giá cao. Thái Bá Vân viết: “Có những người phải lao động cật lực, hết lương tâm nghề nghiệp, chấp nhận tất cả mọi thiệt thòi, chỉ cốt trở thành người hữu ích và chân chính. Đó là một Phạm Văn Hạng” (Xem Cảm về Phạm Văn Hạng, NXB Văn học, Hà Nội, 2014, trang 180).
Điêu khắc là một hình thức quan trọng của nghệ thuật công cộng, còn thơ ca là loại hình thuộc nghệ thuật ngôn ngữ, khác biệt về tính chất cảm thụ. Hiểu điều này, song Phạm Văn Hạng vẫn không rời được thơ ca, một tiếng nói nghiêng về những trăn trở, thao thức, độc thoại. Ông vẫn đau đáu những câu thơ về đời.
Tháng 9-2007, Phạm Văn Hạng cho ra mắt một tập thơ bằng đồng, kích thước 50 x 65, nặng đến 250kg. Đây là tác phẩm thơ đầu tay, có tựa đề “Ba mươi năm tập tễnh làm thơ”, gồm 29 bài, được gò nổi với 4 thứ tiếng Việt - Anh - Pháp - Hoa, đạt ba kỷ lục: tập thơ nặng ký nhất, tập thơ có số bản ít nhất và tập thơ duy nhất được khắc gò trên đồng. Chỉ độc bản. Các bài thơ đều ngắn, không có tiêu đề, giống như haiku của Nhật Bản.
Bài dài nhất 28 chữ, bài ngắn nhất chỉ có 5 chữ. Ngắn nhưng lại đầy ma lực về ý, hàm súc, thâm trầm, gợi trường liên tưởng rộng. Độ vang cao. Phóng chiếu ra nhiều chiều kích, nhiều năng lượng. Thơ ít chữ kiểu này giống như các bài kệ của các thiền sư nổi tiếng phương Đông. Tác phẩm này đã được triển lãm tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Có người ngỏ ý muốn mua, song, ông không bán, sẽ giữ và trao lại cho mai sau.
Tập Thi, NXB Hội Nhà văn, 2007, có 29 bài. Bìa là hình tác giả, râu tóc rậm, đôi mắt nhìn xa xăm, như thẳm sâu vào cõi người. Tập thơ tràn ngập nỗi niềm. Hãy nghe tác giả nói: Gạn từng tỉ năm/ ánh sáng/ Chưa/ thẩm/ thấu/ Một giọt thầm. Bản dịch tiếng Pháp của Nguyễn Ngọc Tuấn thật hay: Des milliards d’annees-lumiere n’absorbent/ une seule goutte de silence. So sánh giữa “tỷ năm ánh sáng” và “một giọt thầm” nhằm kéo người đọc về phía sau, phía của giọt lệ thầm, phía của giọt nước mắt lặng im, phía của “lệ đá xanh” (Thanh Tâm Tuyền).
Có bài thơ ngắn, 10 chữ: Đất Trời/ không giấu mặt/ Đời/ Người/ Mãi/ Thực/ Hư chứa nhiều suy nghĩ. Đất, Trời là thiên nhiên, là cỏ cây, mây trời, sông núi quanh ta, tất cả bày ra đấy. Không giấu giếm bản ngã nhưng luôn che chở cho con người. Thiên nhiên là người mẹ hiền của nhân loại. Nhưng, con người, thực thể sâu thẳm đó, một “cõi nhân gian bé tí” (Nguyễn Khải) nhưng lại vời vợi, khôn cùng. Mọi bi kịch của con người cũng bắt đầu từ đây. Nằm trong suy nghĩ đó, Hữu Thỉnh có bài thơ, tên là Hỏi, nhưng lại không có câu trả lời.
Phạm Văn Hạng có nhiều bài thơ đầy chất thế sự. Có bài mượn gỗ, đá, sắt, đồng để nhân cách hóa cho một tiếng nói, tiếng nói của nhân văn khi bị tước đoạt, đẩy vào tù ngục, giam cầm: Những bức tượng/ trong vườn òa ra khóc/ Khi nhân văn/ bị sỉ nhục giam cầm/ Đá/ Gỗ/ Sắt/ Đồng/ Không thể lặng câm. Kiểu nói của ông là kiểu nói của Phùng Quán, “dùng dao viết văn lên đá” (Lời mẹ dặn).
Một bài thơ khác, sau các câu thơ là trĩu nặng những tình đời, những cay uất về nhiều tấn tuồng ảo hóa của thế gian: Buôn vua bán chúa/ thời xưa cũ/ Tướng sĩ đồng hành/ lũ vong thân/ Hành pháp/ trong tay phường mãi lực/ Gỗ/ Đá/ buồn/ Chao đảo nhân văn. Tác giả nói “thời xưa cũ” nhưng trường liên tưởng cứ trượt về phía trước, cho chúng ta nghĩ là hôm nay, của hiện tại này.
Có bài thơ như vẽ chân dung tác giả, với 10 chữ ngắn gọn: Tóc/ trở thành/ mây/ trắng/ Uống giọt sương Ưu/ Sầu. Suốt một đời, ngang dọc bắc nam, làm nhiều nghề, lao tâm lao lực để sống, sống đúng nghĩa con người, Phạm Văn Hạng luôn ưu tư và sầu đời.
Lại có bài thơ bàn về ánh sáng, một biểu tượng liên quan đến chân lý, một nội hàm biểu trưng rất phong phú của phương Đông và qua đó Phạm Văn Hạng lập phép đối lập: Ánh sáng/ nhỏ nhoi/ Soi/ Tìm/ Trí lực/ Ánh sáng lụn tàn/ Tan/ Nát/ Sinh linh. Bao nhiêu sinh linh của thế gian này đã phải chịu cảnh “lụn tàn”, “tan nát” khi “ánh sáng thần thánh” hay “ánh sáng tinh thần” bị bóng đêm xéo dày, quật đổ.
Hay như “Những con rối/ được sống/ Nhờ bàn tay/ nghĩ suy/ Những con rối chỉ huy/ Chỉ còn đầy/ nước mắt. Ông gửi vào hình tượng con rối những day dứt về đời. Bao nhiêu con rối trên sân khấu trần gian này, khi: Luật rừng/ không cần/ hiền nhân/ Giáo luật/ khóa chặt/ uyên bác/ Quyền lực/ run sợ/ tư duy. Ở đời này, bày ra không ít “những con rối chỉ huy”, những con rối gây nên bao thảm cảnh, bao nước mắt.
Phạm Văn Hạng là một Don Quichotte của Việt Nam, không phải chém vào cối xay gió, mà nhiều câu thơ, vần thơ như vết cứa, cứa vào da thịt, đau đớn khôn cùng. Cách đây hơn 10 năm, nhìn thế sự, ông viết:
Rác rưởi kết bè che mặt nước
Đất thấm buồn đau thương núi sông
Bão giông dẫu biết tan thành sóng
Trắng cả đầu xanh, bạc cả lòng.
Câu thơ phảng phất tâm sự Tản Đà: Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc (Tiễn ông công lên trời - Ngày nay số 99, 1938).
Xét ở một khía cạnh nào đó, Phạm Văn Hạng là một nghệ sĩ, chọn thơ ca như một tôn giáo để gửi gắm những suy tư triết học của mình. Tôn giáo đó, với ông, là nẻo về thiền tịnh, là nơi neo giữ thiên lương của con người, là chỗ cất giấu những suy nghiệm của một đời người.
Đời Phạm Văn Hạng có vinh quang nhưng cũng đầy gió bụi trần ai. Cứ nhìn khuôn mặt Phạm Văn Hạng sẽ thấy, nó như khối đá tạc chưa hoàn chỉnh, còn dang dở phía trước. Thơ ông là gương mặt của ông. Từ khuôn mặt của Phạm Văn Hạng, sẽ hiểu đôi điều về thơ Phạm Văn Hạng.
Phạm Văn Hạng đến với thơ như đi tìm bản ngã của mình, tìm bóng mình trên bức vách của thời gian. Nói như nhà thơ William Wordsworth thơ là “dòng trôi chảy tự nhiên của những cảm xúc mạnh mẽ vô bờ”. Với Phạm Văn Hạng, mạch nguồn điêu khắc, tự trầm tích của nó, được bắt nguồn và nuôi dưỡng từ Thơ, từ tình yêu quê hương, đất nước, từ dằn vặt về thiên chức của người nghệ sĩ, từ cơn bão nội tâm trong chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người.
Đọc nhiều bài thơ, dù rất ngắn của Phạm Văn Hạng, ta sẽ thấy, sau câu thơ là trái tim của người nghệ sĩ. Thơ đi ra từ nền tảng triết lý nhân sinh và vũ trụ của Phạm Văn Hạng. Triết học ấy cho Phạm Văn Hạng những niềm tin để sống và sáng tạo, để ông chống lại cái giả dối trong cuộc đời, trong nghệ thuật, giữ lại lương tri, lương thiện.
Phạm Văn Hạng thường nói, tôi là người lao lực, một thứ lao động chân chính và cật lực. Thơ, với ông, là hành trình đi tìm tự do, đến với tự do, là loại hình “vượt qua mọi quy chiếu” (Nguyễn Trọng Văn). Thơ là thơ và thơ cũng là đời. Trong ý nghĩa đó, thơ là loại hình điêu khắc bằng ngôn ngữ, một kiểu ngôn ngữ đầy chất Phạm Văn Hạng.
HUỲNH VĂN HOA
'Kỹ thuật không cho phép làm đầu rồng ngẩng cao'
Trước ý kiến chê đầu cầu Rồng (Đà Nẵng) thấp, giống "sắp chết đuối", nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng khẳng định: "Muốn đầu rồng ngẩng cao chỉ là cảm quan, kỹ thuật không cho phép, đặc biệt là khả năng chịu tải của vòm thép".
Cầu Rồng bắc qua sông Hàn (Đà Nẵng) đang được thi công các hạng mục cuối để khánh thành vào ngày 29/3, đúng dịp kỷ niệm 38 năm ngày giải phóng thành phố. Công trình được kỳ vọng trở thành kỷ lục Guinnes "Con rồng thép dài nhất thế giới".
Cầu Rồng Đà Nẵng đã thành hình và chuẩn bị khánh thành vào ngày 29/3. Ảnh: Nguyễn Đông.
Tuy nhiên, ngay khi nickname Hiếu Trần đăng tải hai bức ảnh so sánh cầu Rồng trong bản thiết kế với phần đầu ngẩng cao thanh thoát và sau khi hoàn thành với dòng status "Nhìn thiết kế với thực tế mà nản. Nhìn như rồng sắp chết đuối, bao giờ mới bay lên được", ngay lập tức có hàng trăm lượt chia sẻ, bình luận.
Nickname Vo Tố Nga cho rằng phần cổ rồng như mất khúc, không như thế rồng bay trong thiết kế ban đầu. Còn Thanh Long Vu viết: "Con rồng trong thiết kế thì mạnh mẽ và ra dáng, con rồng thực tế thì đúng là như sắp bị chết đuối…".
Nhiều người lại cho rằng từ minh họa tới thiết kế còn một khoảng cách nhất định. Muốn đầu rồng cao lên cỡ đó thì bản thiết kế phải có chứng minh vật lý (gió, bão, chiều cao, sức nặng…) với những con số toán học hỗ trợ.
"Con rồng này phun lửa thật cho người dân xem và đây cũng sẽ là một trong những điểm thu hút du lịch. Vì thế chỉ số độ cao cần đáp ứng chỉ tiêu an toàn khi rồng phun lửa và đảm bảo tầm nhìn chuẩn trong bán kính có hệ số an toàn", nickname Thao Le phân tích.
Mô hình cầu Rồng (ảnh trên, đặt ở phía ngoài công trường) và cầu rồng sau khi hoàn thành (ảnh dưới).
Trao đổi với VnExpress, ông Phạm Trường Sơn, Giám đốc Ban quản lý dự án cầu Rồng, cho biết phương án thiết kế đầu rồng do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Khi trình phương án, mô hình chỉ 1% là rất nhỏ.
"Từ chỗ nhìn mô hình nhỏ để so với mô hình lớn và nói rồng ngẩng cao hay không ngẩng cao là rất khó. Là đơn vị thực hiện, chúng tôi làm sao triển khai được đúng ý tưởng và tôn trọng thiết kế của ông Hạng theo luật bản quyền", ông Sơn nói.
Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thì cho rằng đánh giá đầu rồng cao hay thấp là do góc nhìn, ở gần thấy nó cao, ở xa thấy thấp. Mô hình phóng lên thì đầu rồng có phần cao chứ cầu Rồng hiện nay so với thiết kế không có gì thay đổi.
Ông Hạng giải thích thêm, đầu rồng cao 10 m, dài 15 m, nặng 40 tấn, diện tích chắn gió tới 150 m2 nên khi làm phải tuân thủ theo thiết kế của Công ty tư vấn Louis Berger (Mỹ) và chỉ được thay đổi biểu tượng đầu rồng, chứ không có quyền thay đổi kết cấu, bố cục...
Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng khẳng định đầu rồng được thi công theo đúng thiết kế ban đầu. Ảnh: V.Đ.
"Mong muốn đầu rồng được nâng cao hơn vị trí hiện tại để tỏ rõ sự oai phong chỉ là mang tính cảm quan, chứ kỹ thuật hoàn toàn không cho phép, đặc biệt là khả năng chịu tải của vòm thép. Rồng dài hơn 600 m thì không thể có cái đầu nào phù hợp được hết, nó chỉ là biểu tượng thôi", ông Hạng nói.
Nhà điêu khắc này cho hay đã bỏ ra 200 ngày thiết kế 10 mẫu và cuối cùng thiết kế đầu rồng lấy cảm hứng từ rồng thời Lý, được lãnh đạo thành phố chấp thuận.
Được khởi công từ tháng 7/2009, cầu Rồng dài 666 m, rộng 37,5 m với 6 làn xe, phần lề dành cho người đi bộ mỗi bên rộng 2,5 m. Tổng vốn đầu tư trên 1.700 tỷ đồng.
Theo thiết kế, phần hình dáng của thân rồng bằng thép dài khoảng 560 m, nặng hơn 9.000 tấn; đầu rồng cao 10 m so với mặt cầu, nặng 40 tấn. Mắt rồng được thiết kế hình trái tim gắn với hệ thống đèn chiếu hiện đại. Phần đầu rồng sẽ phun lửa vào ban đêm, phun nước vào ban ngày dịp cuối tuần, lễ hội.
Nguyễn Đông
Phạm Văn Hạng: Cái đau làm chín cái vui
Ông cứ chối đây đẩy rằng ông không phải một nghệ sĩ. “Tôi chỉ là kẻ làm thuê. Kẻ làm thuê chân chính, tận lực” - Phạm Văn Hạng nói. Bản ngã nghệ sĩ là thứ ông Hạng coi không dành cho mình. Nghĩ vậy, nên ông cứ như đau riết róng suốt cuộc đời. Cái đau làm chín cái vui.
1. Phạm Văn Hạng rong ruổi mọi miền đất nước. Một lãng nhân không chịu ngồi yên, không chịu được những bó buộc trong nghệ thuật. Sự chật hẹp của những định kiến xã hội, những đơn đặt hàng, khiến cả ông, lẫn tôi, từng nghĩ rằng, trước khi là một nghệ sĩ, anh là kẻ làm thuê cho xã hội. Ông Hạng chua chát nói: “Số phận của những nhà điêu khắc phải sống chung với quyền lực và giàu có. Đây là nỗi đau của tôi, của họ”. Thế nên Phạm Văn Hạng từ chối nỗi đau bằng cách gói mình trong những chiếc áo rộng thùng thình do tự tay ông thiết kế, may mặc. Mặt khác, ông tìm kiếm tự do trong vô thủy vô chung bằng sự thiên di. Với điêu khắc, người ta chuộng cái tư tưởng ông phô diễn trong ấy, là tôn vinh hòa bình, khao khát tự do. Anh chàng điêu khắc trẻ tuổi của xứ Quảng, Nguyễn Văn Huy, nói với tôi rằng, Phạm Văn Hạng nói mãi không hết chuyện. “Nhưng ông Hạng khơi gợi trong hành trình điêu khắc Việt Nam bằng mạch nguồn thiên di trong hòa bình. Đó là điều quý nhất chúng tôi học hỏi ở ông” - Huy nói.
“Có những nghệ sĩ suốt đời chỉ biết khốn khó đói khát, chỉ biết lưu đày không một phút dừng chân, để họ tìm gặp cái cao đẹp cho con đường nghệ thuật đa mang với nguồn cảm hứng dạt dào. Họ đã nhận và hãnh diện trong cái khốn khó đó, để được thông phần với người nghệ sĩ bất tử trước khi vào mộng…” - Phạm Văn Hạng mở đầu câu chuyện về bản ngã nghệ sĩ, ngay khi người ta bàn rất nhiều về tính nghệ thuật trong các tác phẩm điêu khắc dành cho công chúng độ gần đây. Ông nói, nghệ thuật cũng như ngọc vậy, cần phải tinh. “Nó là của trời cho đấy. Trời không cho thì phải chết, có cố mấy cũng không được. Trời cho mới cảm được cái đẹp, diễn được cái đẹp bằng những phương tiện khác nhau, nhưng phải độc đáo. Và nghệ thuật không phải cần thứ gì cũng to lớn. Nó cần tinh tế” - Phạm Văn Hạng chia sẻ. Ông nói vậy thôi, không diễn giải, không nhận xét về những tác phẩm của đồng nghiệp. Công luận nhiều thập niên đã chứng nhận Phạm Văn Hạng là bậc thầy của điêu khắc. Còn ông thì cứ khiêm tốn cho mình là kẻ làm thuê chân chính, bởi “cái độc sáng không thể dành cho tập thể, không có sáng tạo tập thể. Sáng tạo mà cần phải có hội đồng nghệ thuật thì anh không còn là nghệ sĩ nữa”. Cứ vơ vào mình là kẻ làm thuê, để ông mải miết đi tìm bản ngã nghệ sĩ trong những mảng miếng khác.
Tượng đài Mẹ dũng sĩ Thanh Khê, đặt tại TP. Đà Nẵng.
2. Người ta tin và đã ngộ ra ông có đủ bản lĩnh, phong thái của người nghệ sĩ đích danh. Những tác phẩm đặc thù của ông, từ “Suy tưởng” đến “Chạy loạn”, từ “Tình mẹ” đến “Xiềng xích”… tác phẩm nào cũng như đang vươn lên để thách thức với cuộc đời gió bụi, tìm về một hướng giải thoát khác. Khiêm tốn nhưng chất chứa sự kiêu bạch, Phạm Văn Hạng sống và hoạt động nghệ thuật ở các hoàn cảnh trái ngược nhau. Năm 1970, cái tên Phạm Văn Hạng đã làm chấn động giới mỹ thuật Sài Gòn khi ông ôm một “bức tranh” từ vùng bom đạn Quảng Trị vào tham gia một cuộc triển lãm hội họa. Trong bức tranh S.O.S Việt Nam của ông (sau này Trịnh Công Sơn đổi thành Chứng tích) là một mảnh ván dài trên đó có đính những “hiện vật”: vỏ đạn, mảnh bom, những vòng rào kẽm gai, xương sọ và những đoạn ruột người đầy máu me (đã ngâm phoọc-môn)... Năm 2010, ông tham gia một triển lãm tại Nhà văn hóa Việt ở Đức. Ông mang đến nước bạn hình ảnh một Việt Nam 40 năm sau cuộc chiến và sự rung động của nghệ sĩ Việt qua chân dung các danh nhân thế giới: H. Hesse, F. Nietzsche, A. Einstein… Những cử chỉ chạm vào cái ước mơ hòa bình muôn thuở của nhân loại, được Phạm Văn Hạng bày ra cho bạn bè quốc tế nghe xem. Ở triển lãm này, người ta lại nhắc tới một “chứng tích” của chàng trai 23 tuổi khi ấy. Phạm Văn Hạng nói: “Chứng tích là tiếng kêu bi thiết của tâm thức đã gắn chặt suốt đời tôi. Sau những biến cố và dư luận, tác phẩm cũng được trở về với tác giả nhưng do tình trạng bảo quản khó khăn trước thời gian nghiệt ngã tôi đã tự khâm liệm và chôn cất Chứng tích một cách trang trọng, như đối với một người thân yêu trong gia đình mình”.
Chân dung Phạm Văn Hạng (ảnh nhân vật cung cấp).
Những năm sau ngày giải phóng, Phạm Văn Hạng có hơn 10 năm im ắng cùng những tác phẩm của mình. Để ngày trở về quê hương sau đó, ông làm mọi người kính nể vì bức tượng đài “Mẹ dũng sĩ” đặt tại TP.Đà Nẵng. Cũng từ đó, lối suy nghĩ “chúng ta là những người học trò nhỏ trong lịch sử”, khiến ông lúc nào cũng như đang học hỏi, đang cố gắng. “Cố gắng là một người lao động chân chính, cố gắng là một nghệ sĩ”, ông tỏ bày. Sau này, ngay trong những bức tượng chân dung, với các vườn tượng dựng ở Đà Lạt, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh, những dung nhan bạn bè ông ghi chép lại bằng cả tấm lòng, đủ để người xem thu mình ngưỡng vọng. Những sâu lắng của cảm nhận, bản thể, thôi thúc ông làm nên những vườn tượng danh nhân. Là những gương mặt nghệ sĩ Việt Nam mà họ Phạm ngưỡng vọng như Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao, Hoàng Giác… Là những bạn bè làm nên xúc cảm trong mỗi tác phẩm điêu khắc, kể cả thơ, cả họa của Phạm Văn Hạng, như Trịnh Công Sơn, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư… Hay những đau đáu về các nhân vật lịch sử, về vốn văn hóa truyền thống… cũng khiến ông không yên với tuổi già của mình. “Nghệ thuật đến với tôi là một định mệnh. Định mệnh đó đã buộc cả đời phải nghĩ suy trong lao lực. Có khi sắp ngã gục nhưng rồi cố sức vượt qua…”, ông nói. Nên dù có từ khước bao nhiêu danh xưng, bao nhiêu tôn vinh của người đời dành cho “kẻ làm thuê”, thì con người nghệ sĩ của Phạm Văn Hạng vẫn bộc phát ra trong mỗi tác phẩm, mỗi ứng xử của ông.
Nhà danh họa Van Gogh nói: “Hình như tôi mãi mãi là một khách lữ hành đi đó đây tìm về một định hướng”. Chừng như Phạm Văn Hạng đã chọn nguyên vẹn sự trải nghiệm, sáng tạo của mình trên những bước đường phiêu lưu. Dăm bữa, ông ở Đà Lạt. Nhớ quê, ông về Đà Nẵng, khề khà với bằng hữu chung rượu. Nhớ bạn bè văn nghệ, ông ngược vào Sài Gòn. Nhớ đất trời mênh mông, ông lên Tây Bắc… Ông đi đến đâu, người ta đặt ông làm tượng ở đó. Ông làm hết mình, tận tâm, tận lực, với những tác phẩm đạt đến độ chuẩn mực, không lẫn với bất kỳ ai.
3.Nghĩ thì vậy, nhưng Phạm Văn Hạng cứ khẳng định một hai với người viết, “nếu là một nghệ sĩ thực thụ thì tôi chỉ chọn thơ. Thơ không có ràng buộc. Thơ vươn tới cái tự do bất tận của người nghệ sĩ”. Để ý, sẽ thấy ông Hạng đi đâu cũng mang theo một tập vở học sinh, cứ rảnh giờ nào lại hí hoáy ghi. Ông nói, không thể để cảm xúc của mình rơi tuột, nên “tập tễnh” làm thơ. Dù ông “tập tễnh” đã từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Tháng 9.2007, Phạm Văn Hạng cho ra đời một tập thơ bằng đồng nặng đến 220 kg. Tập thơ “Ba mươi năm tập tễnh làm thơ” gồm 29 bài, được gò nổi với 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hoa. Thơ ngắn và đầy hàm ý. Chỉ độc bản. Những câu thơ kiểu như “Những tấm gương/ luôn vỡ/ Sự/phản chiếu/ không/ mòn”, hay như “Những con rối/ được sống/ Nhờ bàn tay/ nghĩ suy/ Những con rối chỉ huy/ Chỉ còn đầy/nước mắt”, là những ẩn tình sâu xa ông muốn gửi vào gió bụi cuộc đời.
Bây giờ, giữa những chiều không gian, thời gian vô thường, Phạm Văn Hạng vẫn thong dong sáng tạo. Những ý tưởng dở dang, những công trình dở dang, không thực hiện được bằng cách này, con người dị thường như ông lại tìm cách khác. Cái gene tài hoa khác người, vận cả vào Phạm Trần Việt Nam, người con trai của ông. Bây giờ, Nam đang ở Mỹ, với một triển lãm khá đình đám cũng đau đáu câu chuyện chiến tranh, hòa bình. Còn Phạm Văn Hạng, cứ như xưa nay, “tưng tửng”… đi cho hết cõi người. Tạc tượng cho muôn vạn mặt người, liệu có ai dành một nụ cười bằng đồng cho Phạm Văn Hạng trong hàng triệu thế nhân?
SONG ANH
NHÀ ĐIÊU KHẮC PHẠM VĂN HẠNG
VƯỢT QUA LỜI NGUYỀN CỦA CHA
Phiêu lưu mà có mục đích, dứt khoát, quyết đoán mà nhân hậu; anh cúc cung vọng bái đấng sinh thành rồi giắt ngang lưng khát vọng đam mê nghệ thuật bước qua lời nguyền của cha như Kinh Kha bước qua sông Dịch, quyết đi là mang vinh quang trở về. Chính nghị lực đã giúp anh Phạm Văn Hạng sớm thành công ngay ở Dấu tích chiến tranh và sau đó hàng trăm tác phẩm mỹ thuật đương đại ra đời…
Máu giang hồ, chất nghệ sĩ, sở thích "không giống ai" mô tả rõ nét tính cách Phạm Văn Hạng. Anh không thuộc thế hệ các bậc thầy hội hoạ hiện đại xuất thân từ Trường mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội; nhưng 60 năm làm người, hết 40 năm đi qua lời trăng trối của cha, chịu lao lực vì nghệ thuật trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, đói nghèo và thất học để có những tác phẩm điêu khắc đương đại bằng máu, phản ảnh thân phận con người, nói lên tiếng nói của lương tri, tiếng nói của nhân loại luôn khát khao công lý và hoà bình.
Bằng hồi ức, con người hoài niệm và con người chứng nhân ở khúc ngoặt lịch sử trước 1975, anh đã làm cái việc xưa nay chưa ai làm, chưa ai qua được anh trong việc mô tả một cách trung thực những gì do chiến tranh để lại. Đó là việc lượm nhặt, xử lý những mảnh vỡ xương sọ, mảnh vỡ bom đạn, những vòng kẽm gai vô tri, những khoảnh khắc dầu sôi lửa bỏng của Quảnng Trị để tái hiện qua tranh tượng. Những tác phẩm này đặc chế từ "sản phẩm chiến tranh" như là một chất liệu mới, hiếm có, cả về tấm lòng lẫn giá trị lịch sử văn hoá, dù chất liệu thịt xương người vẫn còn là sự cật vấn của thời văn minh, nhân văn, văn hoá… Chính "vật chứng khô khan" mang tên Dấu tích chiến tranh đã làm nên tên tuổi Phạm Văn Hạng ở nhiều cuộc triển lãm khác nhau tại Sài Gòn trước 1975.
Tổng kết nghệ thuật Việt Nam thế kỷ XX, GSTS mỹ thuật Nguyễn Quỳnh, Đại học Towson University MD Hoa Kỳ nhận định về tác phẩm của Phạm Văn Hạng: " … lối làm tác phẩm táo bạo này không thua gì các nghệ sĩ Hoa Kỳ trong thập niên 50-60. Đây không phải là trường hợp của Pop-Art, nhưng hiển nhiên là cách làm mới. Cảm hứng của ông ngẫu nhiên giúp chúng ta thấy rõ tinh thần thời đại."
Sau 1975, hội hoạ Việt Nam đã có thay đổi lớn về tư tưởng. Phạm Văn Hạng một lần nữa khẳng định tài năng của mình, liên tục vào Nam ra Bắc suốt 30 năm, tạc hàng trăm pho tượng, tượng đài, biểu tượng mang phong cách hiện thực XHCN. Một trong những tác phẩm điêu khắc mà anh dành hết tâm huyết là tượng đài Mẹ dũng sĩ (MDS) Quảng Nam-Đà Nẵng, ngay cửa ngõ thành phố Đà Nẵng, cũng là quê hương anh.
Bên thềm năm mới 2007, chúng tôi đã gặp anh Phạm Văn Hạng để nghe anh tâm sự về cuộc đời nghệ sĩ điêu khắc của mình.
* Tượng đài MDS, tác phẩm nghệ thuật đầu tiên tại Việt Nam được khắc hoạ từ vỏ đạn đồng, lập nên biểu tượng Mẹ QN-ĐN anh hùng là tác phẩm anh dồn hết tâm huyết để thực hiện nhưng dường như vẫn còn một chút gì đó khiến anh chưa vừa lòng?
- Công trình tượng đài MDS khởi công theo phác thảo định sẵn trong điều kiện quê nhà mới giải phóng, mọi phương tiện hỗ trợ đều hạn chế, thời gian thi công cập rập, phải hoàn công đúng dịp chào mừng 20 năm giải phóng QN-ĐN. Khắc phục những việc này tưởng đơn giản lại vô cùng khó khăn, phải mất hơn một năm tận lực thao tác thủ công- cắt, trui, gò, hàn… 10.000 vỏ đạn đồng 105 ly để lắp ghép tượng MDS cao 15m trên một hệ thống xi măng cốt thép vững chãi là một nỗ lực vượt bậc. Tác phẩm được đánh giá cao ở thời điểm khánh thành, và 20 năm sau được giới thiệu trong Một thế kỷ mỹ thuật Việt Nam. Dù tác phẩm trở thành biểu tượng anh hùng của QN-ĐN nhưng tôi vẫn canh cánh một nỗi niềm- tác phẩm vẫn chưa được hoàn chỉnh về mặt thẩm mỹ. Tôi tự thấy có lỗi với quê nhà và đã viết thư gửi Sở Xây dựng TP. Đà Nẵng cho phép tôi được mời một số nhà điêu khắc địa phương (chứ không phải tôi) chỉnh sửa lại, nhưng tôi rất buồn là không nhận được hồi âm.
* Có người cho rằng, còn quá nhiều yếu kém và bất cập trong điêu khắc ngoài trời khiến người xem có cảm giác Việt Nam còn quá ít điêu khắc gia thực sự có tài và rất nghèo đề tài. Ý kiến anh thế nào?
- Khi nền tảng văn học nghệ thuật theo hướng xã hội cjủ nghĩa được xác lập thì các đề tài phục vụ chính trị, là công trình của nhà nước, còn người hoạ sĩ là người của xã hội, thể hiện tác phẩm theo ý tưởng đã định sẵn. Đánh giá tác giả tác phẩm theo kiểu như vậy là vội vàng, thiếu cân nhắc. Bất cứ nhà điêu khắc, kiến trúc sư qui hoạch nào cũng lấy lương tâm và tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên môn làm đầu; chỉ tiếc là do điều kiện thế nào đấy mà họ chưa phát huy được hết khả năng của mình. Ở cuộc triển lãm mừng 25 năm thành lập Hội Mỹ thuật TP. HCM, tôi ngạc nhiên lẫn vui mừng là có khá nhiều tác giả, tác phẩm tốt. Nếu tạo điều kiện cho họ thể hiện tài năng trong một sân chơi như ý, chắc chắn họ sẽ có nhiều cống hiến, phục vụ cái đẹp mang tính thẩm mỹ cao.
* Gần đây, một số công trình điêu khắc ngoài trời gây tai tiếng, ảnh hưởng đến uy tín của ngành mỹ thuật vì sự cố lún sụn. Là người từng trải, anh phân tích sự cố này thế nào?
- Tôi nghĩ đổ lỗi cho đơn vị hay cá nhân trực tiếp thi công là tội cho họ. Bản thân nhà điêu khắc, kiến trúc sư ai cũng muốn thể hiện hết mình để tồn tại. Thông thường, cái gì làm nhanh, làm để kịp bàn giao đúng hẹn thì khó đạt yêu cầu. Thẩm định, đánh giá tác phẩm nghệ thuật là việc của xã hội và thời gian, còn "vạch lá tìm sâu" thì chưa biết ai đúng ai sai, điều ta nói chắc gì chính xác, đôi khi sự cố chỉ là khách quan. Tôi mong những công trình sắp tới phải có kế hoạch lâu dài từ chủ đích, nội dung, vật liệu, giá trị công trình... sao cho tác phẩm mỹ thuật đảm bảo điều kiện cần và đủ để "sống" với thời gian.
* Với công trình MDS, vườn tượng Đà Lạt, biểu tượng bác sĩ Alecxandre Émile Yersin, nhà vườn lạ lẫm tại Đà Nẵng, làng hoa Gò Vấp, TP.HCM… tác phẩm điêu khắc nào anh tâm đắc nhất?
- Tôi có hàng trăm tác phẩm mỹ thuật được Một thế kỷ mỹ thuật Việt Nam giới thiệu, trong đó có tượng đài Nhà đày Lao Bảo- mang tính huyền sử của một dân tộc bị đoạ đày trong xiềng xích ngoại bang. Tượng đài phỏng theo tứ thơ của nhà thơ Tố Hữu trong bài Nhà đày Lao Bảo. Nhưng tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa của đời tôi là tác phẩm Người chứng được khắc hoạ trên 100 tấm đá granit tại Nhà Văn hoá truyền thống Công giáo Việt Nam- chủng viện Thánh Giuse số 6 Tôn Đức Thắng Q.1, TP. HCM.
* Không gian mỹ thuật và tượng đài trên cả nước thì khá nhiều, địa phương nào cũng có nhưng chưa tạo ấn tượng lớn của một địa chỉ văn hoá nghệ thuật. Anh ôm ấp nhiều ý tưởng mới, đó là gì vậy?
Mới đây tôi đọc được bài báo: Nước Việt Nam lớn hay nhỏ? Tôi cũng thường cật vấn: tại sao công trình điêu khắc ngoài trời ở Việt Nam cái nào cũng nhỏ? Chúng ta đang thừa hưởng nhiều công trình văn hoá cổ được Unessco công nhận là di tích văn hoá lịch sử có nguồn gốc của người Trung Hoa, Nhật, Chămpa, Pháp và các vua chúa triều Nguyễn mà chưa có công trình tầm cỡ thời đại, trong khi tầm vóc lịch sử của nước ta quá lớn. Tôi đang tất bật nhiều công trình, nhưng nếu có chút quyền phép và được ưu tiên, tôi sẽ dựng tượng đài cho các vĩ nhân Việt Nam, trong đó có tượng đài nhà văn hoá, nhà chính trị lỗi lạc Nguyễn Trãi trên đỉnh Côn Sơn- quê hương ông theo gợi ý của giáo sư Đào Duy Anh. Tôi luôn trông đợi vào những công trình văn hoá nghệ thuật cấp quốc gia như thế để khỏi hổ thẹn với tương lai. Xét cho cùng chỉ có văn hoá và nghệ thuật là linh hồn bất tử của dân tộc.
* Chịu lao lực để tồn sinh là tiêu chí của anh cũng là bài học của người trẻ. Họ muốn được học tập kinh nghiệm và nhận ở anh một lời khuyên.
Nên công bằng nhìn nhận, lớp trẻ ngày nay tài năng và xuất sắc hơn thế hệ chúng tôi nhiều. Họ thành công ở nhiều lĩnh vực và lập được nhiều dấu ấn cá nhân. Từng trải nghiệm đau thương, cơ cực, tôi học cách sống ở mọi người, mọi lúc và ở bậc thầy vĩ đại thiên nhiên. Tôi ngủ vừa đủ và suy gẫm nhiều; từng đêm lắng nghe tiếng gà gáy, tiếng mõ chùa, tiếng thanh la báo tử… và tự vượt qua mọi rào chắn, tự mở khoá ý tưởng, tự dấn thân vì lý tưởng sống đẹp, sống có ích cho xã hội. Không phải ai cũng trở thành vĩ nhân. Đó là quá trình học tập, lao lực và đam mê, yêu nghề. Người trẻ không để thiếu tự tin, đừng quá nhạy cảm với bất công (thời nào mà chả có) mà nản lòng khi gặp khó khăn. Nên xem đó là bài học quí, cần vấp ngã một đôi lần để tự khẳng định mình. Bạn trẻ không nên nói nhiều mà làm ít, đó là một thứ "bệnh" rất khó chịu.
* Ngoài điêu khắc, anh còn làm thơ. Anh đã hoàn thành tập thơ gồm 29 bài, khắc trên những tấm đồng, nặng 220kg, viết trong vòng 10 năm và đang cho in trên giấy cứng khổ 25x25cm. Có phải đây cũng là tinh huyết của đời anh?
- Đúng vậy. Người ta làm thơ sao dễ quá, tôi bạc tóc mới có một tác phẩm thơ. Đứa con tinh thần này trước hết tôi dành tặng tôi- một đời lao lực, lao tâm vì nghệ thuật và chỉ dừng lại ở đó, không viết nữa./-
NGUYỄN TAM PHÙ SA
TRANH PHẠM VĂN HẠNG
Phan Nguyên & Phạm Văn Hạng
Studio PN 2013
Studio PN 2013
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.