Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Anh Việt Thu (1939 -1975)

 







Anh Việt Thu
Tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang
(1939 - 1975)







Anh Việt Thu (tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang, 1939-1975) là nhạc sĩ nổi tiếng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Hai vì sao lạc, Tám điệp khúc, Người ngoài phố.


Cuộc đời

Anh Việt Thu sinh năm 1939 tại Campuchia, đến năm 1940 thì mới được làm giấy khai sinh tại làng An Hữu, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Tên "Kim Sang" là tên của vị sư thầy tại ngôi chùa Campuchia mà cha mẹ ông đến cầu tự. Trên bia mộ của Anh Việt Thu có ghi pháp danh của ông là Minh Hạnh. Ông là anh cả, dưới còn có ba người em là Phi Long, Phi Hùng và em út Việt Thu, thế nên mới sinh ra bút danh "Anh Việt Thu" với nghĩa là "Anh của Việt Thu". Theo nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh, là người anh trong gia đình nên khi chứng kiến cảnh hai người em trai ly tán người miền Nam kẻ miền Bắc mà nhạc sĩ Anh Việt Thu sáng tác ra ca khúc nổi tiếng "Hai vì sao lạc".

Anh Việt Thu sáng tác rất sớm. Từ năm 1956, ông đã có một số tác phẩm đầu tay như "Giòng An Giang", "Đẹp Bạc Liêu",... Từ đó cho đến lúc qua đời, ông đã sáng tác khoảng hơn hai trăm bài hát.

Bạn bè nhận xét rằng Anh Việt Thu là người ít nói, hiền lành, sống nhiệt thành và có tính nghệ sĩ. Lúc ông dạy nhạc ở Tây Ninh, tuy lương bổng rất khá nhưng do tính nghệ sĩ nên vẫn thường túng thiếu, có lúc đã phải bán cả radio để trả tiền thuê nhà.

Anh Việt Thu qua đời ngày 15 tháng 3 năm 1975 (nhằm ngày 3 tháng 2 năm Ất Mão) tại Y viện Quảng Đông, Sài Gòn do bệnh hoại thận. Ông được đưa về quê án táng tại nơi mà ngày nay thuộc xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.



Sự nghiệp âm nhạc

Niên khoá 1958-1959, Anh Việt Thu là trưởng đoàn văn nghệ Tổng hội Sinh viên Quốc gia.

Năm 1963, ông đã làm luận án về âm nhạc học tại nhạc viện Tōkyō (Nhật Bản) và sau đó đỗ tốt nghiệp hạng ưu tại Trường Âm nhạc Quốc gia Sài Gòn khóa đầu tiên.

Năm 1964, ông về Tây Ninh dạy nhạc cho Trường Nam Trung học Tây Ninh (nay là Trường Trung học cơ sở Trần Hưng Đạo).

Từ năm 1965 đến năm 1966, ông thành lập đoàn Du ca Phù Sa gồm ông, Anh Việt Thanh, Hà Phương, Phạm Minh Cảnh, hát từ Cần Thơ ra đến Huế.

Năm 1966, ông là huấn luyện viên các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động do Bộ Thanh Niên tổ chức tại Sài Gòn, cùng với Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Đức Quang, Phương Oanh, Nguyễn Thanh, Ngô Mạnh Thu,.. Khóa sinh do Ty Thanh Niên ở các tỉnh tuyển chọn và đưa về dự. Đây tiền thân của Phong trào Du ca Việt Nam.

Trong các năm 1966 - 1968, ông được Đài Vô tuyến Việt Nam mời về làm chương trình Phù Sa và Tuần báo văn nghệ truyền thanh. Sang năm 1971, ông có riêng chương trình Giờ âm nhạc Anh Việt Thu trên Đài Vô tuyến Truyền hình Việt Nam (VNCH)

Giai đoạn 1972 - 1973, Anh Việt Thu hợp tác với hãng Đĩa hát Việt Nam thực hiện một số băng nhạc cổ vũ tín hiệu hoà bình từ Hiệp định Paris (1973).

Về cuối đời, ông làm việc tại Phòng Văn nghệ Đài phát thanh quân lực Việt Nam Cộng hòa

chung với nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và Phạm Minh Cảnh


.
Hình chụp năm 1968, lúc xuất bản tuyển tập 8 tình khúc Anh Việt Thu.Lời cuối


Viết về Tuyển tập 8 tình khúc Anh Việt Thu - Mùa xuân đó có em (1968):
“ Trong giây phút chờ đợi ấn hành, tác giả xin dành lại sự quyết định sau cùng, có thể bán hoặc cho không từng bài hay xoá bỏ tất cả những bài hát trong tuyển tập này và xin xem như không có tác giả trong cái xô bồ của làng nhạc ở đây nữa. Trân trọng xin giới thưởng ngoạn nghệ thuật đón nghe và đón xem nhưng đừng đợi chờ. Lời cuối cùng là lời chân thành cảm tạ và có thể là lời tạ từ bởi chăng, sự an nghỉ là linh dược của người điên. Để từ đó, tác giả yêu Phạm Công Thiện và thương Nguyễn Đức Sơn vô cùng.... ”

— Anh Việt Thu
Lời trần tình

Mùa xuân đó có em
“ ...Là bài tình ca mang bóng dáng những khuôn mặt người yêu và bạn bè. Là những bài hát đã viết trong suốt quãng đời tuổi trẻ xem như những đoá hoa cỏ dại rải rác bên đường... ”
— Anh Việt Thu




Tác phẩm
Danh sách ca khúc

Những ca khúc in đậm là những ca khúc viết trong khoảng thời gian 1956 - 1958.

Anh còn gì cho em
(1966)

Bài ca dao đầu lòng

Bài thơ mái lá
(Anh Việt Thu - Anh Thế Quế)

Bảy màu vang
(1966, thơ Trường Anh)

Buồn thu nhỏ
(1962)

Cho tình yêu chúng mình
(1970)

Có tiếng ai cười
(với Lâm Mộng Giang)

Cuốn theo chiều gió
(1966)

Chân dung
(1966)

Dấu chân chim

Đa tạ
(1966)

Đàn tím
(thơ Tạ Tỵ)

Đẹp Bạc Liêu
(Anh Việt Thu - Anh Thế Quế)

Đêm xuống thấp

Đi về phía mặt trời

Đường chân trời
(1970)

Đường chúng ta đi

Đường này anh về đâu

Đường về miền Nam

Gánh lúa ban chiều

Gió về miền xuôi
(1967, thơ Thiên Hà)

Giòng An Giang

Hai vì sao lạc
(1966)

Lời phủ dụ từ tâm

Lời ru tiếng nhớ
(hay Cho tôi sống lại một ngày, 1968)

Máu chảy về tim
(1971)

Mình nhớ nhau không
(1970)

Một mai mai một
(1966)

Một mình thôi
(lời Thanh Tâm)

Một sớm lên đường

Mùa vui mới

Mùa xuân đó có em
(1969)

Mùa xuân hát cho em 
Thơ: Cao Tiêu)

Mưa Cẩm Giang
(thơ Trường Anh)

Mưa đêm nay
(1966, thơ Trường Anh)

Ngày lên cao
(1966)

Ngược dòng Cửu Long

Người bạn tình xưa
(1971)

Người ngoài phố
(1970)

Nhắn bạn tình xa
(1971)

Nhặt lá bàng
(với Anh Thế Quế)

Nhớ nhau hoài
(thơ Thiên Hà)

Nhớ vịnh Hà Tiên
(với Kim Mã)

Như giọt xuân rơi

Nhịp cầu ai bắc ngang sông

Những niềm thương mến

Nụ xanh rêu
(1972, thơ Hoàng Anh Tuấn)

Nửa mảnh trăng quê

Quyết chiến thắng

Phố trắng
(1969)

Sẽ có một ngày

Sóng bạc đầu
(1968)

Tám điệp khúc
(1965)

Tạ ơn người

Tôi ru tôi

Tuổi thôi nôi

Từ đó
(1968)

Từ giây phút này
(1970)

Thuyền xuôi Kiên Giang

Tiếp nối

Trên đầu súng
(1972)

Trong cuộc tình sầu
(lời Phạm Lê Phan)

Vang vọng
(lời Tường Linh)

Về Đồng Tháp

Vùng trời sỏi đá
(1966)

Vui về miền quê

Về nguồn

Xa dấu ngựa hồng
(thơ Thiên Hà)


Tác phẩm khác

Liên ca "Đường chúng ta đi", gồm 16 bài hát vùng lên: "Đường chúng ta đi", "Lời trần tình", "Gọi tên", "Về nguồn", "Người vào chiến sử", "Dựng cờ", "Sớm mai hồng", "Những bước chân kiêu hùng", "Với tin yêu", "Trên đường đi tới", "Đi về phía mặt trời", "Anh về", "Vuốt mặt", "Trên đầu súng", "Tạ ơn người", "Bài ca dao đầu lòng", "Gian khổ có nhau". Phát hành năm 1971.

Tập nhạc "Dạ khúc Kim Sang", gồm mười tác phẩm nhạc không lời dành cho dương cầm và vĩ cầm, đoạt giải Schola Cantorum (Roma, Ý) năm 1962.

Trường ca Anh Hùng Ca "Xuân Nguyễn Huệ", đoạt giải Nhất xuân Bính Ngọ 1966 do Cục Vô tuyến truyền thanh tổ chức, gồm các bài: "Sông Gianh", "Vùng lên", "Hận sông Gianh", "Tiếng hát từ lòng đất", "Những cánh đồng biên giới", "Vùng mặt trời".

Lời tựa đầu bản nhạc  Buồn thu nhỏ: "Tác phẩm dự thi nhập học lớp sáng tác niên khóa 1962-1963 tại trường Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn."
Mùa xuân đó có em: "Viết trên đồng dây thép gió Phú Thọ, mùa xuân ngủ muộn năm sáu mươi chín, trời thấp và mây đùn quanh tháp cổ."

Tám điệp khúc: "Bài hát của chàng dành ru khi nàng buồn ngủ."

Vùng trời sỏi đá: "Viết tại nhà Nguyễn Thế Danh, tặng thi sĩ Tô Kiều Ngân hạ vàng sáu mươi sáu."


Ghi chú
^ Có nơi ghi nhầm là "Bảy màu vàng".
^ Bản nhạc gốc ghi là "Giòng", không phải "Dòng".
^ Có nơi viết sai là "Lời ru tiếng nhỏ".
^ Có nơi viết sai là "Như giọt sầu rơi".


Tham khảo
^ a b Pha Lê (8 tháng 10 năm 2019). “Chân dung cuộc tình tái hiện cuộc đời nhạc sĩ Anh Việt Thu”. Báo Dân Sinh. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.



















Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Nhạc Sĩ Anh Việt Thu


Nhạc sĩ Anh Việt Thu tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang, anh xuất thân trong một gia đình trung nông ven nhánh sông Tiền, với ba người em : Huỳnh Phi Long, Huỳnh Thị Kim Phụng, Huỳnh Hữu Việt Thu. Thuở nhỏ anh được đưa ra thành theo học tại trường làng Tân Vĩnh – Vĩnh Long, trường quận Cái Bè, Trường Tỉnh Mỹ Tho và năm 1950 được lên Sài Gòn tiếp tục việc học.


NS Anh Việt Thu và nhà thơ Thiên Hà

Trong những năm học Trung Học tại Sài Gòn, anh được người bạn cùng lớp là Ngô Văn My chỉ cho anh đánh những nốt đầu tiên trên đàn Tây Ban Cầm và từ đó anh tự học lấy. Đến năm 1956, Trường Quốc Gia Âm Nhạc thành lập, anh thi vào và lần lượt học các môn nhạc pháp, nhạc sử, hòa âm, đối âm, tấu âm, sáng tác và dương cầm với các giáo sư Hùng Lân, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Phụng, Ngô Duy Linh, Hải Linh, Nghiêm Phú Phi, Võ Đức Thu …

Về sinh hoạt văn nghệ, anh thường tham gia vào các ban nhạc học sinh, sinh viên và dạy nhạc tại các trường Biên Hòa, Bình Dương, Tây Ninh, … Những bài hát với đề tài quê hương tình tự của anh như Ngược Giòng Cửu Long, Giòng An Giang, Những Niềm Thương Mến, Đường Này Anh Về Đâu … đã được in và phổ biến trong những năm 1956 -1957 và một số các bài tập trong thời gian học, thỉnh thoảng được nhạc sĩ Lê Mộng Bảo – Giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa in ra với tinh thần khích lệ để anh có tiền ăn học.




Gần tám năm vùi mài học tập và nghiêng cứu tìm một hướng đi trong sáng tác, bằng tiếng hát tự lòng đất và lòng người – đất Việt và người Việt. Sự hiện diện và đóng góp của anh trong làng âm nhạc Việt Nam không nhỏ. Những tác phẩm chính Anh Việt Thu đã viết : 
Dạ Khúc Kim Sang, 
10 bài nhạc không lời cho vĩ cầm và dương cầm 
(Giải Cantorum Schola – La Mã 1962); 
20 Ca Khúc Anh Việt Thu phổ biến trong những năm 1964 – 1968.
 Xuân Nguyễn Huệ (trường ca – Giải Nhất Xuân Bính Ngọ do Cục Vô Tuyến truyền thanh Quốc Gia tổ chức tại Sài Gòn 1966), 
Đường Chúng Ta Đi (liên ca) …

và trên 200 ca khúc phổ thông. Đáng kể là một số tự tình khúc : 
8 Điệp Khúc
Chân Dung
Đa Tạ, Một Mai Mai Một
Vùng Trời Sỏi Đá
Anh Còn Gì Cho Em
Hai Vì Sao Lạc
Tiếp Nối
Gọi Tên
Người Ngoài Phố
Trên Đầu Súng … 

cũng như một số ca khúc phổ từ thơ Trường Anh : Mưa Đêm Nay, Bảy Màu Vang; Thơ Thiên Hà như : Nhớ Nhau Hoài, Gió Về Miền Xuôi, Xa Dấu Ngựa Hồng … sống mãi với thời gian.

Là một nhạc sĩ tài hoa, Anh Việt Thu được lọt vào ‘mắt xanh’ của cô nữ sinh Gia Long – Nguyễn Nữ Hiệp. Vượt qua những sóng gió ngăn cấm của gia đình, cuối cùng hai người chính thức thành hôn vào một ngày xuân 1965.


Đám cưới Nhạc Sĩ Anh Việt Thu.
Từ trái sang : NS Hà Phương, NS Phạm Minh Cảnh, …, Nguyễn Việt Hiền, Tài tử Trần Quang


Do căn bệnh hiểm nghèo, sau 103 ngày vật lộn với thần chết qua các bệnh viện Grall, Tổng Y Viện Cộng Hòa, Y Viện Quảng Đông. Người nhạc sĩ tài hoa ấy đã trút hơi thở cuối cùng hồi 2 giờ 40 phút ngày 15-03-1975 nhầm ngày mùng 3 tháng 2 năm Ất Mão. Ba mươi bảy tuổi đời. Nhạc sĩ Anh Việt Thu đã tạo được một sự nghiệp âm nhạc khá đồ sộ được công chúng mến mộ tiếc thương.

Thiên Hà


















Trường Quốc Gia Âm Nhạc

Lúc mới thành lập, Trường Quốc Gia Âm Nhạc ở đường Phạm Đăng Hưng Đakao. Năm 1958, khi tôi vào học, Trường đã dời về 112 đường Nguyễn Du. Nhạc sinh gia tăng hằng năm và cần một Hội Trường có sân khấu để nhạc sinh thực tập, thi cuối năm, thi ra trường hay các nhạc sĩ ngoại quốc đến trình diễn, nên cần một địa điểm rộng lớn hơn. Lúc bấy giờ, nhà trường có 2 ban nhạc:

1) Ban nhạc Plectre, thành phần nhạc khí gồn có: Mandoline, Mandole (lớn và tiếng trầm hơn Mandoline), Guitare và Contrebasse. Ban nhạc này do giáo sư dạy Mandoline là Trần Anh Tuấn điều khiển.

Tôi xin nói rõ thêm vì có thể một số người chưa nghe qua chữ” Plectre” bao giờ. Tiếng Pháp gọi Plectre, tiếng Ý là Plectrum, tiếng thông dụng chúng ta thường dùng ở Việt Nam là Médiator, miếng phím dùng để gảy đàn, vì thế, ban nhạc toàn Mandiline và Guitare gọi là Plectre Orchestra.

2) Ban nhạc Giao hưởng do Giáo sư violon Đỗ Thế Phiệt điều khiển. Nhạc khí gồm toàn bộ thuộc họ Violon như:

1. Violon (Violin-tiếng Anh)
2. Violon Alto (Viola - tiếng Anh)
3. Violoncelle (Cello-tiếng Anh)
4. Contrebasse (String Bass- tiếng Anh)

Nhạc khí ở mục số 1 và 2, nhạc sinh rất đông. Số 3, Cello chỉ có 2 người: Đoàn Châu Nhi, anh của Đoàn Thanh Vân con tài tử Đoàn Châu Mậu, sau này là vợ của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên và một người nữa là Lương Vinh do một người Hoa tên Phùng Hán Cao phụ trách. Sau này có thêm một giáo sư người Đức qua dạy một thời gian, thêm được một nhạc sinh nữa là Cao Thanh Tùng. Sau 75 khi qua Mỹ, anh đàn cho Trung Tâm ASIA lúc đầu. Có lẽ Trầm Tử Thiêng giới thiệu vì trước 1975, cả hai làm ở Trung Tâm Học Liệu Sàigòn. Riêng nhạc khí Contrebasse chưa có nhạc sinh nào.

Các phòng trà Sàigòn lúc bấy giờ đều dùng Contrebasse cho ban nhạc vì Guitare Basse chưa có, nhưng họ chỉ biết dùng ngón tay móc dây. Còn dùng cung để chơi với dàn nhạc Giao Hưởng lúc đó chỉ có 2 người là Đoàn Minh và ông Nghiêm, chủ tiệm Photo La- Mi ở Chợ Quán. Họ chỉ tham dự trong những buổi tập dượt của dàn nhạc Giao hưởng Sàigòn để trình diễn chứ ở trường nhạc, họ không tham dự và họ cũng không có bằng cấp về nhạc khi này. Phần đông những người xử dụng Contrebasse ở phòng trà trước kia ở Sàigon, chỉ cần biết vị trí các nốt trên cần đàn là có thể đàn chung với ban nhạc khiêu vũ chứ không thể điêu luyện như Những ban nhạc Jazz được vì họ học căn bản trường lớp. Còn khi đàn với dàn nhạc Giao Hưởng dung cung, phải học kỹ từng vị thế bấm và khi kéo đàn, cung phải lên xuống thế nào đều giống nhau. Vì thế, trong dàn nhạc Giao Hưởng, ta thấy tất cả các cây cung đều kéo hay đẩy cùng một lúc vì đã thành một thói quen đã được ghi trong các bài tập khi học đàn.

Gặp gỡ Anh Việt Thu

Lúc bấy giờ, tại trường Quốc Gia Âm Nhạc có một giáo sư người Pháp qua sống ở Việt Nam, mở tiệm bán nhạc khí, có vợ người Hoa. Tên ông là Barthélemy, khi nhập Việt tịch, lấy tên Việt là Trần Lệ Mỹ và không biết nói một tiếng Việt nào. Mục đích chính của ông là muốn ở Việt Nam để thí nghiệm trồng loại giống như tre để làm dăm kèn (Tiếng Anh gọi là Reed) cho Clarinet và Saxophone. Ông có 3 bằng tốt nghiệp tại Trường Nhạc Toulouse bên Pháp gồm: sáo Tây, kèn Trombone và Contrebasse. Ông đang dạy môn sáo Tây cho Trường Quốc Gia Âm Nhạc và các ban nhạc trên Đài phát thanh Sàigòn.

Vì nhu cầu, trường mở cuộc thi tuyển nhạc sinh Contrebasse khóa đầu tiên. Kết quả có 5 người:

- Tambicanou-Jules, người Việt lai Ấn, học sinh Taberd, trưởng ban nhạc Rock’ in Star, cùng thời phong trào nhạc trẻ với Trường Kỳ. Sau 1975, qua Pháp lập Trung tâm băng nhạc Phượng Nga và tôi là 2 người còn đang đi học.

- Huỳnh Xương Mậu, dạy nhạc tại trường Trung Học Phước Đức Cho Lớn.

- Dương Quang Đức, trong ban nhạc Thời Đại của Dương Quang Định, đang phụ trách phòng trà Đại Nam.

- Mai Văn Truyền, y tá Bệnh viện Chợ Rẫy.

Các nhạc sinh khác có đàn riêng tập dượt. Riêng tôi không có nên ghi tên mượn đàn và phòng học của trường. Trong phòng tập của tôi, có một đàn Harmonium nhưng ít khi xử dụng, nên một nhạc sinh học Hòa âm được phân phối xử dụng đàn này để tập nghe hợp âm. Khi gặp nhau, anh cho biết tên là anh Huỳnh Hữu Kim Sang, còn khi viết nhạc, anh lấy tên là Anh Việt Thu. Sau một thời gian, hai đứa thân nhau, anh rủ tôi về ở chung tại số 41 đường Da Bà Bầu, cạnh bên nhà của Trường Kỳ số 39. Lúc bấy giờ, Anh Việt Thu đang dạy nhạc tại Trung Học Trịnh Hoài Đức tỉnh Bình Dương. Tuy bận rộn nhưng cũng nhận thêm chương trình Tổng Hội Sinh Viên phát thanh hằng tuần trên Đài Phát Thanh Sàigòn. Thành phần nồng cốt gồm: Anh Việt Thu lo phần soạn Hòa Âm. Nhạc khí gồm Huỳnh văn Hóa, Cao Thanh Tùng, tôi và một số anh em khác được tăng cường tùy theo nhu cầu. Ca sĩ thì có thể thay đổi tùy chương trình. Năm 1960, Tổng Hội Sinh viên tổ chức trại Hè Hội Thảo tại Đà Lạt, chúng tôi phụ trách phần văn nghệ và tổ chức hai buổi phát thanh tại Đài Phát Thanh Đà Lạt.

Nhạc sĩ Anh Việt Thu học khóa đầu tiên về Hòa Âm của Trường Quốc Gia Âm Nhạc qua các thầy dạy là: Hải Linh, người viết bản nhạc nổi tiếng cho đến nay vẫn được dùng mỗi dịp Giáng Sinh về, đó là bản Đêm Đông mà hầu như ai cũng nghe qua với câu đầu là “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”. Sau đó là linh mục Ngô Duy Linh thay thế. Khi Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế được thành lập, Linh Mục Ngô Duy Linh được đề cử ra làm Giám Đốc. Người thay thế sau cùng là giáo sư Nghiêm Phú Phi.

Khi nói đến Nhạc sĩ Anh Việt Thu, mọi người đều cho rằng anh là người đỗ Thủ Khoa lớp Hoà Âm. Trong một chương trình Văn Nghệ hằng tuần của Người Việt TV, người điều khiển chương trình là Phương Nam, ca sĩ Quỳnh Giao, người học cùng thời với Anh Việt Thu cũng cho rằng Anh Việt Thu là người Thủ Khoa, nhưng chính Anh Việt Thu nói với tôi, anh đỗ hạng Nhì. Thủ Khoa là Nguyễn Văn A. Không biết anh hoạt động âm nhạc ở đâu nhưng sau khi tốt nghiệp, không nghe ai nhắc đến tên anh nữa. Riêng những người chuyên về Hòa Âm phụ trách các ca đoàn hay phong trào ca nhạc lúc bấy giờ như Ngô Mạnh Thu, Viết Chung, Phạm Minh Cảnh tôi đều biết vì họ thường đến gặp Anh Việt Thu.

Sau khi rời trường Quốc Gia Âm Nhạc, mỗi đứa có hướng đi một nơi. Tôi đi dạy học rồi bị động viên nên vào ngành Quân nhạc, còn Anh Việt Thu dường như đi dạy ở Tây Ninh nên ít gặp nhau. Sau đó có lệnh gọi nhập ngũ nên tình nguyện vào Tâm Lý Chiến, phòng văn nghệ chuyên sáng tác với cấp bậc bình nhì mặc dù anh có bằng Tú Tài. Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm anh tại Cục Tâm Lý Chiến ngay đầu cầu Thị Nghè, đối diện cổng sau Vườn Bách Thảo.

Sau hiệp định Ba Lê, anh cho biết rất bận rộn vì mỗi cuộc hành quân hay trận nào lớn, đều có lệnh phải sáng tác một bài để hát trên Đài Phát Thanh hay Truyền Hình khi trận đánh kết thúc. Vì quá cấp bách, không biết bài sáng tác của mình có hay hay không nên thường để những tên lạ, không dám để tên thật. Anh cho tôi hay là đang tuyển lựa những ca khúc quân hành hay để cho vào tuyển tập “Đường chúng ta đi” do Cục Tâm Lý Chiến thực hiện.
Một hôm tôi hay tin anh được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hòa vì thận quá yếu, phải dùng máy lọc thường xuyên. Tôi định đến thăm nhưng chưa đi thì được tin anh đã chết và quan tài để tại Tang Nghi Quán của Bệnh viện Quảng Đông cho bạn bè đến viếng.

Tôi có thành lập một toán nhạc nhỏ chơi những ca khúc được nhiều người biết đến của anh vào tối Chủ Nhật vì sáng Thứ Hai, linh cữu của anh sẽ đưa về An Hữu, quận Cái Bè an táng. Hôm đó, tôi thấy có mặt Nhật Trường Trần Thiện Thanh, một số anh em ở Cục Tâm Lý Chiến và Đài phát thanh Quân Đội đến dự. Riêng tôi sáng Thứ Hai hằng tuần phải chào cờ tại Bộ Tổng Tham Mưu nên không thể tiễn đưa anh được. Tôi không nhớ chính xác, có thể Anh Việt Thu chết khoảng gần 2 tháng trước 30-4-75. Anh chết để lại vợ và 3 con, cha mẹ còn đầy đủ. Cha anh là ông Huỳnh Hữu Hương, một người em gái mà tôi chỉ nghe nói nhưng chưa gặp mặt, và em trai Út bị sốt tê liệt là Huỳnh Hữu Việt Thu. Đó cũng là bút hiệu của anh, có nghĩa đơn giản là: Anh của Huỳnh Hữu Việt Thu, rút gọn lại là Nhạc sĩ Anh Việt Thu.

Nói về ca khúc “Hai vì sao lạc”




Trước tôi, Anh Việt Thu có ở chung với một người bạn là thi sĩ Anh Phương. Khi gặp tôi anh có hỏi tôi biết người đó không vì cùng tỉnh Sóc Trăng với tôi và con ông Hội Đồng Vị. Tôi nói chẳng những cùng tỉnh mà cùng làng và cùng xã với tôi nữa. Vườn cam quít của ông già anh ta và vườn của ông già tôi giáp ranh nhau. Thuở nhỏ, các chị tôi và chị anh ta cùng học trường tỉnh và ở nội trú tại trường cuối tuần mới về nhà. Anh ta và tôi học chung sơ cấp trường làng, khi lớn lên mỗi người học một nơi nên cũng ít gặp. Trong giấy tờ anh ta tên Phương, nhưng ở nhà gia đình đông con, anh là con út và thứ 13 nên thường gọi là Mười Ba chứ không gọi tên. Vì thế nên khi Anh Việt Thu nói thi sĩ Anh Phương tôi không biết là ai.

Còn anh Hân, một giáo viên Tiểu học, tuy lớn tuổi hơn chúng tôi khá nhiều nhưng vẫn còn độc thân. Lúc bấy giờ là Hiệu trưởng trường tiểu học Nguyễn Tri Phương, ông rất mê Nhạc sĩ Anh Việt Thu, có lẽ đã quen biết từ lâu, coi nhau như anh em, gần như ông đáp ứng tất cả những gì mà Nhạc sĩ Anh Việt Thu cần. Anh ăn ở chung với chúng tôi. Sau này anh có nhà riêng và bảo chúng tôi về ở chung ở đường Nguyễn Kim. Đến giờ cơm, chúng tôi mới trở về nhà cũ ăn cơm do mẹ Anh Việt Thu nấu, vì cha mẹ và đứa em Anh Việt Thu đã dọn lên Sàigòn. Anh Hân luôn theo sát chúng tôi ở mọi nơi. Các buổi văn nghệ hay thu thanh, ông đều theo lo mọi chuyện lặt vặt như đi mua bản nhạc hay làm thủ tục giấy tờ vào Đài phát thanh, phiếu lãnh tiền thù lao cho mỗi chương trình hay liên lạc với nguời này người nọ khi cần vì anh có xe gắn máy.

Theo anh cho biết giữa Anh Việt Thu và Anh Phương rất thân nhau, khắn khít như hình với bóng. Tôi chưa từng đọc thơ của Anh Phương và cũng không biết Anh Việt Thu có dùng thơ của Anh Phương để phổ nhạc hay lấy ý để viết lời không, nhưng trong tất cả những bài nhạc của Anh Việt Thu không có bài nào ghép tên Anh Phương vào cả.

Một hôm, gia đình Anh Phương bảo anh ta về vì có việc làm ở địa phương. Trong mấy tuần cuối trước khi chia tay, hai người thường dẫn nhau đi chơi, tâm sự rất khuya mới về. Không biết sự tâm đắc và mật thiết giữa hai người như thế nào mà cả hai lại nghĩ rằng: "Hai người có lẽ là hai vì sao trên trời bị lạc xuống trần gian và vô tình gặp lại nhau".

Quận lỵ tôi ở có 3 xã liền nhau: tôi và Anh Phương ở Phú An, kế tiếp là Song Phụng và Nhơn Mỹ. Thời Pháp thuộc, có tỉnh lộ nối liền 3 xã bằng những sầu sắt kiên cố, rất thuận tiện cho việc giao thông. Khi Việt Minh nổi lên, tất cả mọi cây cầu đều bị phá sập nên giao thông chính lúc bấy giờ là đường sông. Người anh thứ 9 của Anh Phương làm xã trưởng xã Nhơn Mỹ đã lâu và có uy tín với quận nên vận đông cho Anh Phương ra ứng cử chức xã trưởng xã Song Phụng kế bên. Các xã lúc bấy giờ tương đối còn yên tĩnh. Nhưng môt hôm, Anh Phương đi công tác bằng ghe máy qua một khúc vắng, ít nhà dân, bị vài tên du kích núp ở bụi rậm bắn sẻ, chết ngay tại chỗ.

Đã từ lâu, khi nói đến Nhạc sĩ Anh Việt Thu và những sang tác của anh đều có nhắc đến ca khúc "Hai vì sao lạc", nhưng chưa có ai nói đến hay hiểu ý nghĩa, nội dung của lời ca nói những gì và cũng không muốn tìm hiểu mà chỉ thích nhạc điệu của bài ca thôi. Năm vừa rồi, trong một chương trình văn nghệ của Đài Truyền Hình SBTN, nhạc sĩ Trần Chí Phúc có nêu lên thắc mắc: trong những bài tình ca, khi viết lời thường dùng từ ANH hay EM. Riêng trong bài “Hai vì sao lạc” của Nhạc sĩ Anh Việt Thu, toàn bản nhạc đều dùng chữ NGƯỜI. Sau đây là trích đoạn lời ca khúc “Hai vì sao lạc”:

"Người về, một mùa thu gió heo may
Về đâu có nhớ chăng những vì sao long lanh
Đưa tiễn người một đêm không trăng
Nói sao nên lời lòng buồn như chiều rơi
Như trong đêm khuya những bước chân qua thềm
Gợi niềm thương nhớ vô vàn.
………
Người là vì sao nhỏ bé
Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh
Người về lòng ta thương nhớ
Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta
Người về người về đâu nhớ ta chăng
Người ơi mỗi lá thu rơi làm ta bâng khuâng
Như áng mây chiều lam trong sương
Bước đi âm thầm lòng buồn như chiều rơi
Nghe chăng thu ơi để lá rơi chi hoài.
Gợi lòng thương nhớ ai nhiều."





Nghe nhạc Anh Việt Thu

























Trở về










MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.