Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989)













Đoàn Phú Tứ
 (1910 - 1989)
 Hưởng thọ 79 tuổi
Kịch tác gia, nhà thơ, dịch giả












Ánh trăng

Mải miết đường đời đã bấy lâu,
Biếng nhìn trăng cũ muốn quên sầu;
Đêm nay bỗng thấy bên song ngõ
Một ánh xanh mờ thoáng tự đâu,
Leo lét gợi khêu tình quá vãng,
Lòng thơ bao xiết nỗi thương đau;
Vung chăn toan rũ màn đen tối,
Mắt lệ đờ trong vành ngọc cao.

ĐPT





Đoàn Phú Tứ là một nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh: Ngộ Không, Tam Tinh, Tuấn Đô,... 


 
Tiểu sử



Ông sinh ngày 10 tháng 9 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán ông ở làng Tử Nê, xã Tân Lãng huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh.
Lúc trẻ, ông học ở trường Bưởi (nay là trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội) và trường Albert Sarraut (nay là trường Trung học Phổ thông Trần Phú - Hoàn Kiếm).
Năm 1925, ông bắt đầu viết văn khi còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những bài từ khúc đăng Đông Pháp thời báo [1].

Năm 1932, ông thi đỗ Tú tài ban Triết học. Sau đó, ông theo học Đại học Luật, nhưng chỉ đến năm thứ hai thì bỏ học đi làm báo. Ông viết cho các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội báo...

Khoảng năm 1935, ông bắt đầu viết kịch. Và trong khoảng thời gian 10 năm sau đó, ông đã viết và cho in nhiều kịch. Ngoài ra, ông còn là người tổ chức kịch đoàn (ban kịch Tinh hoa), làm đạo diễn và thủ vai trong nhiều vở [2].

Năm 1937, ông làm Chủ nhiệm tờ Tinh hoa.

Năm 1939, ông cùng với các văn nghệ sĩ cùng chí hướng sáng tạo, gồm các nhà văn, nhà thơ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc; họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập. Đến tháng 6 năm 1942, thì họ xuất bản được một tập sách có cùng tên là Xuân Thu nhã tập (do Xuân Thu thư lâu xuất bản), gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lý và tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm [3].

Năm 1941, Đoàn Phú Tứ và bài thơ "Màu thời gian" của ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông hoạt động văn nghệ ở Thanh Hóa rồi Việt Bắc. Ông có chân trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ, trong Ban chấp hành Đoàn Sân khấu Việt Nam và Hội Văn hóa Việt Nam.

Năm 1946, ông được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa I, nhưng sau đó đã đào nhiệm từ năm 1951[4].

Theo tài liệu, thì trong lúc làm đại biểu Quốc hội, ông đã viết thư gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh để tố cáo Đại tá Trần Dụ Châu[5]. Sau đó, Hồ Chủ tịch đã ra lệnh điều tra làm rõ vụ việc, và Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao tuyên án tử hình năm 1950 vì tội tham nhũng.

Năm 1951-1954, ông dạy Đại học Văn khoa và một vài trường tư thục ở Hà Nội.

Sau khi hòa bình lập lại (1954), khoảng 20 năm cuối đời, ông tiếp tục viết và dịch (ký bút danh Tuấn Đô) được nhiều tác phẩm có giá trị. Năm 1984, ông nhận Giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày 20 tháng 9 năm 1989, Đoàn Phú Tứ mất trong cảnh nghèo tại Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Nghe theo lời trăn trối của bạn, nhà văn Phùng Quán đã 'bạo gan' đến Văn phòng Quốc hội để xin tiền mai táng, và được chấp thuận...Nhưng sau này trong cuốn "Ba phút sự thật" của Phùng Quán, ông đã viết khi Đoàn Phú Tứ mất, vì tình cảm ông dành cho Đoàn Phú Tứ, vì sự trân trọng của ông đối với người thi sĩ và vì ông cảm thấy buồn rầu vì gia cảnh "vô phương giúp đỡ" của nhà thơ nên đã đánh bạo viết một bức thư "chuyển lời" Đoàn Phú Tứ rằng: "...Nếu mình nằm xuống thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia đình mình, và chuyển lời mình đến với ông: Nếu Quốc hội còn nhớ tình cũ nghĩa xưa, thì xin một cỗ áo quan và một chút tiền để mai táng". Nhưng thực ra bức thư mà mọi người nghĩ là chuyển lời trăn trối của Đoàn Phú Tứ, bức thư mà Phùng Quán đã phải "đắn đo, cẩn trọng, chép đi chép lại nhiều lần, cân nhắc từng chữ một" lại là "ý tưởng" của Phùng Quán. Vì vậy nên ông đã viết trong phần cuối "Chút nghĩa cũ càng" (nằm trong Ba phút sự thật) rằng: "Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ vì nội dung điều nói dối của tôi không phù hợp với tính cách con người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê Quang Đạo mà tôi hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, và với độc giả." [6].

















Tác phẩm










1
Những bức thư tình
(gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1937). 
Trong quyển có vở kịch "Hận Ly Tao" được nhà văn Vũ Ngọc Phan khen là "thật tuyệt vời" về mặt nghệ thuật [7]




2
Mơ hoa
(gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1941)



3
Ghen
(kịch dài, đăng báo Tinh hoa, 1937; diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội đêm 13 tháng 3 năm 1947; Nhà xuất bản Nguyễn Du in thành sách, 1942)



4
Ngã ba
(kịch dài, đăng báo Thanh nghị, 1943)



5
Thằng cuội ngồi gốc cây đa
(kịch ngắn đăng báo báo Thông tin, 1944)



6
Trở về
(kịch ngắn, Chính trị cục xuất bản, 1949)



7
Phương pháp viết kịch
(giáo trình, Nhà xuất bản Minh Đức, 1950)



8
Đi tìm chủ từ trong vài đoạn văn "Đoạn trường tân thanh"
(Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản, 1949)




Ngoài ra, ông còn có một ít bài thơ, một ít bài văn xuôi nói về quan niệm sáng tác, và hai bài ký ngắn:





"Hai sườn Tam đảo"
(bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1948)




"Hạ đồn Dóm"
(bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1949)









Dịch thuật 





Với bút danh Tuấn Đô, ông đã dịch một số kịch và tiểu thuyết:
Lão hà tiện (L'Avare ou l'École du mensonge của Molière)






1
Trưởng giả học làm sang 
(Le Bourgeois gentil homme của Molière)




2
Đỏ và đen 
(Le Rouge et le Noir của Stendhal)




3
Tuyển tập kịch Muy-sê 
(Alfred de Musset)




4
Hài kịch

Shakespeare, 
tập I




5
Pantagruel 
(của François Rabelais)






6
Tuyển tập kịch Henrik Ibsen,... 













Thành tựu nghệ thuật

Đoàn Phú Tứ là một trong số ít người đi đầu (về sáng tác cũng như về trình diễn) trong lịch sử kịch nói Việt Nam thời non trẻ.

Về nội dung tư tưởng, có thể chia kịch của ông thành hai xu hướng chính: Tình yêu (tiểu biểu là 2 tập: Những bức thư tình và Mơ hoa) và triết lý (tiểu biểu là 2 tập: Ngã ba, Thằng cuội ngồi gốc cây đa). Tuy nhiên hai xu hướng này không hoàn toàn tách biệt, vì trong kịch tình yêu ít nhiều đều có yếu tố triết lý, và ngược lại... Về phương diện nghệ thuật, nói chung kịch bản của ông có kịch tính cao, nhân vật có bản sắc, bố cục chặt chẽ...Ngoài ra, tuy ít làm thơ, nhưng ông cũng nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam trong phong trào Thơ mới với bài thơ "Màu thời gian" [8]. Với thi pháp đặc sắc, cùng với thi tứ chân thành mà kín đáo, bài thơ đã được nhiều người tán thưởng[9]
Trích thi phẩm: ...

Màu thời gian không xanh 
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh... 
 
Bài thơ này đã được ít nhất là 2 nhạc sĩ phổ nhạc: Nguyễn Xuân Khoát phổ năm 1942, và Phạm Duy phổ năm 1971.







Màu Thời Gian
Thài Hiền





Màu Thời Gian
Thái Thanh






 Màu Thời Gian
Nhạc Nguyễn Tư Triệt
Thơ Đoàn Phú T


 Màu Thời Gian

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát












Thủ bút Đoàn Phú Tứ









Đường phố
Hiện nay, tại phường An Lạc A, Thành phố Hồ Chí Minh và phường Liên Chiểu Thành phố Đà Nẵng có đường phố mang tên Đoàn Phú Tứ 



 
Sách tham khảo
Hoài Thanh-Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Văn học in lại, 1988.
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2). Nhà xuất bản Khoa học xã hội in lại, 1989.
Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển 2). Nhà xuất bản Sống mới, Sài Gòn, 1968.
Văn Tâm, mục từ "Đoàn Phú Tứ" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.

Và các bài viết, nguồn ở mục chú thích.



Chú thích


1-Theo Thi nhân Việt Nam, tr. 113.
 
2-Theo Văn Tâm, tr.432.
 
3-Nguồn: Vũ Thanh, mục từ "Xuân thu nhã tập" trong Từ điển văn học (bộ mới, tr. 2103). Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển 2, tr. 443), thì nhóm có Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh là cây bút nồng cốt, còn ba người kia chỉ là thành viên cộng tác.
 
4-Theo nhà văn Phùng Quán, "Ba phút sự thật" [1].
 
5-Tân Nhân, "Hồ Chủ tịch y án tử hình Trần Dụ Châu" trên Kiểm Sát online [2]. Nội dung bức thư có đoạn: "Gần đây, Đại tá Cục trưởng Cục quân nhu Trần Dụ Châu đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em quân đội, Châu đã dùng quyền lực "ban phát" ăn mặc, nên Châu đã giở trò ăn cắp (công quỹ), cứ mỗi cái màn cấp cho bộ đội Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào, nhiều người biết đấy nhưng không dám ho he"....
 
6-Xem bài viết của Phùng Quán, "Ba phút sự thật", nguồn đã dẫn.
 
7-Nhà văn hiện đại (tập 2), tr. 644.
 
9-Nhận định của Văn Tâm, tr. 433.







Nhớ “nhà văn chống tham nhũng đầu tiên” 

TP - Hội thảo Đoàn Phú Tứ - Màu thời gian vừa được Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức nhân 25 năm ngày mất của ông. Ít người biết Đoàn Phú Tứ còn là nhà văn chống tham nhũng đầu tiên. 

 
Buổi tọa đàm về Đoàn Phú Tứ


Một thơ bảy kịch, sách dịch đầy ngăn

Đoàn Phú Tứ quê Bắc Ninh, sinh ở Hà Nội. Bắt đầu viết văn khi học trường Bưởi. Ông bỏ ngang trường Luật chuyển sang viết báo và viết kịch. Lập kịch đoàn, vừa thủ vai vừa làm đạo diễn. Ông tham gia nhóm Xuân Thu nhã tập cùng nhiều văn nghệ sĩ và được biết đến nhiều khi vào danh sách “tác giả một bài” của Thi nhân Việt Nam.

Nhà văn Vũ Nho trong tham luận sáng 20/9 khẳng định Màu thời gian là trường hợp bất thường trong Thi nhân Việt Nam. Bởi Hoài Thanh, Hoài Chân nhiều lần nhắc tên Đoàn Phú Tứ và bài thơ ở phần tiểu luận Một thời đại trong thi ca.

Bài thơ cũng được bình chú đặc biệt: “Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế”. Mấy câu thơ như Duyên trăm năm đứt đoạn/Tình một thuở còn hương/Hương thời gian thanh thanh/Màu thời gian tím ngắt còn được phổ nhạc tới hai lần bởi nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và Phạm Duy.

Tâm hồn thơ giúp Đoàn Phú Tứ thành công trên kịch trường. Ông thuộc số ít người đi đầu trong lịch sử kịch nói Việt Nam. Nhà thơ Đặng Hiển với tham luận về vở kịch Ngã ba phục tài Đoàn Phú Tứ “kịch không có tình tiết gì ghê gớm ngoại trừ phát súng nổ ở cuối mà nuôi hứng thú cho người ta suốt vở diễn”.


“Sẽ mãi mãi chẳng bao giờ cũ đi lòng kính phục của chúng ta với văn nghiệp của nhà thơ và hơn thế là lòng biết ơn khi Đoàn Phú Tứ đã đem đến cho chúng ta niềm tự hào, kiêu hãnh của những văn nghệ sĩ chân chính đủ sức chống lại và tiêu diệt cái ác. Không bao giờ chịu làm vú em cho một thứ cường quyền nào, bất chấp vinh hoa và danh lợi”.

Trích tham luận Đàm Khánh Phương Kịch của Đoàn Phú Tứ chứa những tranh biện về lẽ sống bên cạnh thủ pháp nửa kín nửa hở khéo léo. Ngôn ngữ ẩn dụ đậm chất thơ và triết lý.

Theo dịch giả Thúy Toàn, sự nghiệp cầm bút của Đoàn Phú Tứ chia thành hai giai đoạn. Ngừng sáng tác từ 1951, đến năm 1964 tái xuất với bút danh dịch giả Tuấn Đô. Ông dịch kịch Molière, Shakespeare, các tiểu thuyết Đỏ và đen, Thiên thần nổi loạn…

Đoàn Phú Tứ dịch chính xác lại nghệ thuật. Ông làm việc khỏe, nghiêm túc dù trong điều kiện sống eo hẹp, túng thiếu để có được lượng tác phẩm đồ sộ sau một phần tư thế kỷ làm công tác dịch thuật. Ông nhận Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam về văn học dịch và một tấm huy chương Chiến sĩ văn hóa do Bộ Văn hóa Thông tin trao tặng năm 1992.

Bút nghèo đâm gục thằng tham nhũng


Đoàn Phú Tứ nghèo, đông con, sống dựa vào khả năng lo toan của vợ. Nghèo cũng là tình trạng chung của văn nghệ sĩ ngày ấy nên ít trông chờ được vào bạn bè. Nỗi buồn nhân lên cả sau ngày ông mất. Nhà văn Phùng Quán từng viết một thiên Chút nghĩa cũ càng về chuyện xông pha trụ sở Quốc hội để xin tiền làm ma cho ông. Hội trường lặng đi khi nghe nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đọc lại những dòng viết ấy.

Nhưng cái nghèo không khiến Đoàn Phú Tứ mất đi phong độ người quân tử. Vui cười hớn hở như được của/Mà “bốt-tờ-phơi” (porte-feuille tiếng Pháp là ví, bóp) vẫn rỗng không tục truyền là cách ông tự bỡn. Cái cứng cỏi của người quân tử được ông nghị Đoàn Phú Tứ (đại biểu Quốc hội - khóa I) thể hiện đầy đủ trong vụ Trần Dụ Châu được nhà thơ Đàm Khánh Phương lật lại một cách chi tiết.

Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, xà xẻo tiền phục vụ mặt trận, sống phè phỡn, xa hoa, đi đâu cũng có vệ sĩ. Tiệc cưới một thuộc cấp, Châu đứng ra tổ chức, đủ sơn hào hải vị, rượu Tây, thuốc lá hảo hạng. Đoàn Phú Tứ mới về từ chiến trường - nơi chiến sĩ đói rét “võ vàng chỉ còn mắt với răng”.

Trần Dụ Châu mời ông tới dự cho sang. Chứng kiến bữa tiệc vô nhân đạo giữa cảnh đói khổ, ông đứng lên đọc hai câu thơ Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay/Được dọn bằng xương máu của chiến sĩ và nhận một cái tát từ vệ sĩ của Trần Dụ Châu. Đêm đó ông viết tâm thư gửi Hồ Chủ tịch. Tòa án binh được lập và Trần Dụ Châu phải chịu án tử hình chấn động thời đó. 











Đoàn Phú Tứ lúc trẻ







Trở về







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.