Võ Hồng
(5/05/1921 - 31/03/2013)
Hưởng thọ 92 tuổi
Bút hiệu khác: Ngân Sơn, Võ An Thạch, Võ Tri Thủy
Nhà văn
Tiểu sử
Võ Hồng sinh ngày 2-12-1922 (khai sinh ghi 5-5-1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Con một gia đình điền chủ, sớm mồ côi mẹ.
Học trường làng, trường phủ Tuy An và trường tỉnh Sông Cầu rồi trường Collège Qui Nhơn.
Năm 1940, ông đậu bằng thành-chung, ra Hà Nội học tú tài. Năm 1943, Hà Nội bị đồng minh oanh tạc, ông bỏ về quê nhà.
Năm 1945, ông lên Ðà Lạt giữ chức bí thư tòa Tổng Ðốc bốn tỉnh cực Nam Trung Việt thời nội các Trần Trọng Kim, sau đó ông trở lại Tuy Hòa dạy học. Ông làm hiệu trưởng một trường trung học thời kháng chiến.
Năm 1954, ông vào định cư hẳn ở Nha Trang và dạy học tại các trường trung học Lê Quý Ðôn và Bồ Ðề.
Ðầu thập niên 1970, ông được cử làm hội viên Hội đồng Văn hóa giáo dục. Ông lập gia đình với một giáo sư Anh văn và âm nhạc nhưng bà mất sớm; từ 1957, ông "gà trống" nuôi ba con lúc mẹ mất mới 9, 6 và 3 tuổi.
Võ Hồng khởi viết truyện ngắn từ năm 1939 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) với bút hiệu Ngân Sơn. Sau này viết báo ở trong Nam ông dùng tên thật làm bút hiệu.
(theo Nguyễn Vy Khanh)
Tác phẩm
0
Hoài cố nhân
(Ban Mai, 1959)
1
1
Lá Vẫn Xanh
(Thời Mới, 1962)
2
Vết hằn năm tháng
(Lá Bối, 1965)
3
3
Khoảng Mát
(An Tiêm, 1966)
4
Con Suối Mùa Xuân
(Lá Bối, 1966)
5
Hoa Bươm Bướm
(Lá Bối, 1966)
6
Người về đầu non
(Văn, 1968)
7
Bên Kia Ðường
(Mặt Trời, 1968)
8
Những giọt đắng
(Lá Bối, 1969)
9
Tình yêu đất
10
Áo em cài hoa trắng
(Lá Bối, 1969)
11
Nhánh Rong Phiêu Bạc
(Lá Bối, 1970)
12
Như cánh chim bay
Lá Bối, 1971)
13
Trầm Mặc Cây Rừng
(Lá Bối, 1971)
14
Thiên đường ở trên cao
(1987)
15
Thời gian mây bay
(1996)
16
Hồn nhiên tuổi ngọc
(1983)
17
Một bông hồng cho cha
18
Lời sám hối của cha
19
Một ngày cho mẹ
20
Nghĩ về mẹ
21
Ngôi sao khiêm tốn
Giới thiệu một tác phẩm:
Hoài cố nhân
Một ngày đầu tháng chín năm 1942, tôi nhận được bức điện tín: “12 tháng 9 tới ga Hà Nội stop. Tìm giùm chỗ trọ stop Hoàng Gia Lý”.
Tôi cầm bức điện tín, lòng rộn ràng vì bất ngờ. Hoàng Gia Lý là bạn tôi. Vào dịp hè tôi về quê ở Ngân Sơn, Lý ghé lại nhà thăm và ngỏ ý sang niên khoá mới theo tôi ra Hà Nội học. Ba năm nay anh học ở Huế. Tôi tưởng rằng đó chỉ là một dự tính nông nổi. Người ta ai cũng có thể dự tính nhiều điều, dự tính cả những điều mà họ biết trước hơn ai là không bao giờ thực hiện được.
Tôi học chung lớp với Lý khi tôi bắt đầu học lớp Ba trường Phủ. Tôi bồi hồi ngồi nhớ lại cái cảm giác lo sợ rộn ràng khi đặt bước chân đầu tiên vào trường Phủ. Từ nhỏ tôi phải học ở trường xã, một cái trường bằng ngói ở mỏm đầu núi. Muốn lên đến trường phải trèo một cái dốc dựng đứng. Người chọn địa điểm này để cất trường ý chừng đã quan niệm rằng trường giáo phải ở một nơi thật thanh tịnh cách biệt hẳn với sự sinh hoạt của mọi người xung quanh. Đây là lần đầu tiên mà làng tôi - nói rằng cả vùng tôi thì mới đứng, có được một cái trường Nhà nước. Trước đó, người ta học chữ Nho. Trong khi chúng tôi cắp sách đến trường học vần B ba cái trứng, L quả lê, T quay tơ... vân vân... thì trong xóm vẫn còn nhiều đứa nhỏ như tôi và lớn hơn ôm sách chữ Nho và mang cả nghiên cả mực đến học các thầy đồ. Hình như bất chấp cả bánh xe tiến hoá, bất chấp cả sự thế đã đổi thay, thầy đồ vẫn sang sảng giảng Tam tự Kinh, vẫn dùng roi mây, vẫn bắt quỳ vỏ mít và vẫn bắt học trò tưới vườn chuối cho thầy, đun nước pha trà hầu thầy. Thầy giáo trường Nhà nước thì như vẫn còn mang nặng tàn tích của thời kỳ Khổng Mạnh xưa mà chưa hoàn toàn biến đổi. Thầy là cái dấu nối giữa hai thời đại, thầy mặc áo dài và mang guốc. Vì quen mắt với những bàn chân bẩn nên được nhìn hai bàn chân sạch của thầy, sạch đến thấy được cả gân xanh và móng chân trắng nằm gọn trên đôi guốc mộc nép giữa quai guốc da, chúng tôi có cảm tưởng rằng đó là biểu hiện đầu tiên của văn minh. Lâu lâu, vào dịp Tết, thầy đi đôi giày vải trắng thì chúng tôi mừng như chính mình được ăn diện sang trọng. Khi ông Thanh tra tới thì thầy đội thêm cái khăn xếp đen. Trông thầy thật quả là sang trọng nhất vùng. Lúc tiễn chân ông Thanh tra xuống khỏi cái dốc ngược, lúc nghe tiếng xe ôtô của ông Thanh tra rồ máy, lúc thấy thầy và ông cai trường hổn hển leo lên hết bực chót của cái dốc, mặt đỏ kè, mồ hôi ướt vã đầy mặt và thấm qua áo, chúng tôi thấy thương thầy hết sức. Sau này chúng tôi được biết rằng thầy và ông cai trường sở dĩ mệt như vậy không phải là vì leo lên leo xuống cái dốc mà vì phải đẩy xe cho ông Thanh tra. Cái xe ôtô chết tôi phải quay mới nổ và thường thì quay mà không nổ.
Ông cai trường có nhiệm vụ quay. Ông Thanh tra ngồi cầm lái. Quay mươi vòng không nổ thì ông cai bỏ tay quay rồi cùng thầy giáo ra sau đẩy.
Thật tội nghiệp cho cái thời xa xôi mà lũ nhỏ chúng tôi mới bắt đầu tiếp xúc với cơ khí. Nhiều đứa mỗi lần nghe còi xe vang lên ở đầu cầu là rủ nhau vội vã chạy xuống dốc trường. Khi xe chạy vụt qua, các anh nhảy xổ ra giữa đường, hút lấy hít để đám bụi mù sặc mùi ét-xăng, rồi kháo nhau: Thơm quá! Thơm quá!
Sở dĩ có hiện tượng đó là vì học trò của trường đa số là lũ trẻ góp nhặt ở năm, bảy làng lân cận. Nhiều anh từ nhỏ đến giờ cha mẹ bắt chuyên môn chăn bò, anh đến trường đem theo sự u mê (danh từ thầy giáo dùng để mắng chúng tôi) và sự bướng bỉnh. Nhưng rất phong phú về trò chơi: u mọi, lên đồng, nhảy lò cò, đánh mạng, đánh đáo. Có nhiều chị chuyên môn đi hái củi đến nỗi tóc cháy vàng hoe. Đi học, họ làm như đi củi, mang theo muối vò chung với lá é để giờ ra chạy vào bụi bờ bứt lá giang chấm muối ngồi ăn. Một số khác quen với ruộng rẫy nên mỗi khi người ta dỡ khoai, đào sắn thì họ chạy tới cả đoàn để mót, để xin. Những củ khoai lang sống nhỏ bằng ngón tay út được nhai giòn tan và nuốt ngon lành. Chúng tôi ngây thơ hơn cứ nhìn rồi bắt chước lần lần. Ngây thơ thật, vì tuy là lớp Đồng ấu song bạn của chúng tôi có nhiều anh có đến 20 và lực lưỡng thì y như nhà nông thực thụ. Đến giờ ra chơi, họ vật tay suýt làm gãy cả chân bàn. Chúng tôi thành kính nhìn những bắp thịt nổi cuồn cuộn ở cánh tay, ở cổ, nhìn màu đỏ hừng hực ở mặt, ở vành tai và ở tròng mặt. Sự quê mùa còn đọc được ở quần áo nữa. Quần thì vừa ngắn vừa chật. Áo cũng vậy. Quần áo toàn bằng vải to thế mà mẹ mua cũng không đủ nên thường may ghép đến hai màu. Nhiều khi áo xanh mà hai túi trắng. Có lúc cả áo trắng mà một tay áo lại màu xanh. Đi học thì cột một mo cơm, kèm đùm mắm.
Đọc Truyện Võ Hông
VÕ HỒNG – MỘT PHẦN VĂN HÓA CŨ CỦA VIỆT NAM ĐÃ RA ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI
Tác giả: Nguyễn Vy Khanh
1- Võ Hồng, nhà giáo
Tác giả
Võ Hồng sinh ngày 2-12-1922 (khai sinh ghi 5-5-1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Con một gia đình điền chủ, sớm mồ côi mẹ. Học trường làng, trường phủ Tuy An và trường tỉnh Sông Cầu rồi trường Collège Qui Nhơn. Năm 1940, ông đậu bằng thành-chung, ra Hà Nội học tú tài. Năm 1943, Hà Nội bị đồng minh oanh tạc, ông bỏ về quê nhà. Năm 1945, ông lên Ðà Lạt giữ chức bí thư tòa Tổng Ðốc bốn tỉnh cực Nam Trung Việt thời nội các Trần Trọng Kim, sau đó ông trở lại Tuy Hòa dạy học. Ông làm hiệu trưởng một trường trung học thời kháng chiến. Năm 1954, ông vào định cư hẳn ở Nha Trang và dạy học tại các trường trung học Lê Quý Ðôn và Bồ Ðề. Ðầu thập niên 1970, ông được cử làm hội viên Hội đồng Văn hóa giáo dục. Ông lập gia đình với một giáo sư Anh văn và âm nhạc nhưng bà mất sớm; từ 1957, ông "gà trống" nuôi ba con lúc mẹ mất mới 9, 6 và 3 tuổi. Võ Hồng khởi viết truyện ngắn từ năm 1939 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) với bút hiệu Ngân Sơn. Sau này viết báo ở trong Nam ông dùng tên thật làm bút hiệu.
Tác phẩm đã xuất bản gồm các tiểu thuyết : Hoài Cố Nhân (Ban Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Ðầu Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những Giọt Ðắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối, 1971). Các tập truyện ngắn : Lá Vẫn Xanh (Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát (An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia Ðường (Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối, 1971).
Và 3 tập truyện đơn : Áo Em Cài Hoa Trắng (Lá Bối, 1969. 30 tr.), Trận Ðòn Hòa Giải (Lá Bối, 1970. 31 tr.), Xuất Hành Năm Mới (Lá Bối, 1971. 28 tr.)
Tác-phẩm
Võ Hồng là một nhà văn tinh tế nhưng nhân hậu và mực thước, thận trọng : ông đúng là một nhà giáo viết văn. Ông viết rất đều đặn và kỹ lưỡng như sự kiên nhẫn cần có của nghề giáo. Văn ông giản dị, tươi mát nhưng không kém thơ mộng khi cần đến. Trong một phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh trên tạp chí Văn năm 1972 (1), Võ Hồng đã cho biết hoàn cảnh góa vợ phải gần con nuôi con đã giúp ông viết đều và nhiều. Từ khi con đi học xa và có đứa đi du học, ông thú nhận viết khó hơn vì ông vẫn thích thăm bạn bè, ngao du thắng cảnh và quan sát sinh hoạt. Ðó là lý do ông đã khởi viết Tiếng Ca Lặng Lẽ để tiếp bộ Hoa Bươm Bướm và Như Cánh Chim Bay mà đến nay hình như vẫn chưa xuất bản.
Nếp xưa ngày cũ
Toàn bộ sự nghiệp của Võ Hồng như một dâng hiến cho quê hương Phú Yên của ông. Nếu Võ Phiến khởi nghiệp văn học và nổi danh với quê hương Bình Ðịnh thì Võ Hồng là Phú Yên. Trong các truyện dài hay truyện ngắn của ông, người đọc vẫn thấy rõ miền quê Ngân Sơn, Phú Yên trải qua nhiều thời phế hưng, mà các nhân vật cũng là những con người quê mùa hay thuần hậu của vùng trời đó. Ông tự cho sứ mạng viết lại quá khứ cho người trẻ: "Lịch sử là một dây xích dài gồm nhiều mắt xích nhỏ. Cái mắt xích Dĩ Vãng đó chưa hề được nói tới thì tôi phải ra công mô tả lại. Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ lần lần bị xóa đi, thay thế bằng nếp sống mới. (...) Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp để thiết tha gắn bó với quê hương hơn" (1).
Người Về Ðầu Non kể chuyện quê hương thời thơ ấu, thời học trò và người Bác trong thực tế là cha nuôi. Từ thời thuộc Pháp qua những biến cố kháng chiến, tổng động viên, thuế nông nghiệp. Ðời sống dân giả mộc mạc, trong cách đặt tên, khai sinh theo "ngày tháng An-Nam". Cảnh đi coi gặt lúa vào ngày mùa. Hình ảnh học đường ngày xưa. Bao trùm là những tiếc nuối và đau thương về người thân. "Có những buổi chiều cô đơn vắng lặng, tôi thả hồn về từng chặng dĩ vãng, thấy lại Bác trong những khung cảnh sinh hoạt quen thuộc, từ gần gũi đến xa xôi, từ lần gặp Bác cuối cùng trí nhớ đi ngược thời gian về đến hình ảnh Bác cầm tay tôi dắt đi trên những con đường âm u cây lá trong vườn, ra cái bến nhỏ để cùng nhìn xuống dòng sông !" (tr. 136). Lúc tác giả thành người, lập gia đình, có con và có thể đền ơn là lúc chiến tranh vụt tới và người Bác vĩnh viễn ra đi. Tiễn đưa Bác đến nơi an nghỉ. "Tâm hồn tôi thấy trống vắng mỏi mệt, tôi nhắm mắt lại để trông về con đường quá khứ của mình. Có thể tin rằng Bác tôi đã mất rồi không? Ðã giã từ tôi vĩnh viễn, bây giờ đã nằm dưới lòng đất, suốt đời tôi không còn gặp mặt?" (tr. 119).
Hoài Cố Nhân là chuyện Lý, bạn tác giả. Anh và Xuân yêu nhau, nhưng hai gia đình đã khiến hai tâm hồn phải xa cách nhau. Khi họ được phép thành hôn thì sau ngắn ngủi bốn năm hạnh phúc, Lý lại sớm từ giã cõi đời: anh là nạn nhân của thời đại. Tác giả có rất nhiều cảm tình đối với Lý. "Mỗi lần đến thăm anh, tôi thản nhiên đi qua khoảng đất này. Vì không lưu ý, tôi chỉ mang máng nhớ nơi đây có lá xanh có cây phượng cao hoa đỏ, có vài con trâu gặm cỏ mơ màng...". Bạn ra đi, vợ con bạn ở lại cô đơn và đau khổ, nhất là họ vừa trải qua nhiều thử thách của tình yêu. Chị Xuân đau khổ hơn cả thời hai người yêu nhau mà phải đớn đau xa nhau, cái khổ hôm nay của chị trĩu nặng vì giờ chỉ còn có chị phải gánh lấy. "Nỗi khổ khi có người chung chịu, ta không thấy nặng nữa". Ðến thăm cháu là để sống lại ngày xưa. "Cháu Thảo trắng mũm mĩm, giống ba ở cái miệng, giống má ở đôi mắt. (...) Tôi hay bế cháu vào lòng, siết cháu thật chặt. Mỗi lần làm như thế, tôi có cảm tưởng như ngày nào siết chặt tay ba cháu".
Trong tập Vết Hằn Năm Tháng, truyện Lạnh Tuổi Thơ (VHNT) vẽ cảnh "gà trống nuôi con", nói lên cái tình cảm tự nhiên tìm về dĩ vãng và thích sống với kỷ niệm, ôm ấp như không muốn buông. Người đọc như nghe được tiếng thở dài của người cha dù đã làm hết bổn phận vẫn không bù đắp trọn vẹn cho các con những khoảng trống tầm thường như hớp nước uống, như miếng ăn mà với người mẹ là những tự nhiên đến. Người thầy nhìn học trò viết "lưu bút ngày xanh" mà xót xa thời đã mất và cô đơn trước cuộc đời. Trong Vết Hằn Năm Tháng, kỷ niệm chồng chất, hiện rồi biến, có muốn ấp ủ cũng không còn có lý do. Kỷ niệm như những phù du của cuộc đời. Truyện có khuynh hướng tùy bút này như những tâm sự của chính tác giả.
Còn những cảnh không còn thấy nơi thị tứ như cảnh trồng cây cúc vạn thọ quanh sân nhà trong Lá Vẫn Xanh. Thời xưa người ta trồng hoa ăn Tết chứ không ai ra chợ mua hoa ăn Tết. Mứt thì bán theo quả mứt thay vì mứt trong gói trong hộp. Pháo đốt thì chỉ có pháo tre ! Rồi những cảnh phụ nữ bưng rổ đi chợ trước khi biết đến giỏ xách bằng nhựa. Những tiếng cối xay và chày giã gạo! Những buổi lễ cúng trường ngày Tết (Lễ Cúng Trường, BKÐ) dễ gợi nơi lòng người tiếc nuối những cảnh cửa Khổng sân Trình! Những gói thuốc tễ, vv. Toàn là những qua mất, những xa lạ với người thị tứ hoặc thời mới!
Chuyện kháng-chiến và chiến tranh
Chiến tranh đã in sâu ở nhiều trang tác phẩm Võ Hồng. "Chiến tranh tràn lan mỗi ngày một rộng, làng tôi thành bãi chiến trường. Ðồng bào tản cư, bỏ nhà bỏ cửa, ruộng vườn để cỏ mọc hoang. Bác gái lần mò vào được với chúng tôi, mừng gặp con cháu nhưng mắt vẫn hướng về ngôi nhà cũ và về ngôi mộ bơ vơ ở lại một mình..." (Người Về Ðầu Non, tr. 135). Người chết cũng không yên. "Cụ mất vào lúc chiến dịch mở, đường xe kẹt không vô Tuy Hòa mua sắm được. Hôm hạ huyệt tình hình lại găng, thanh niên dân vệ tập trung về trụ sở Xã hết. Ði đưa đám mà sợ máy bay họ bắn lầm..." (tr. 125). Người Bác thân yêu của tác giả đã ra đi thời chiến tranh, mà người bạn Lý cũng ra đi khi chiến tranh tràn đến. Người vợ bên xác chồng và đứa con dại mang chiếc khăn tang ngơ ngác đôi mắt ngây thơ giữa hương trầm mộ chí. Cái thương tâm không to lớn nhưng đã quá lớn dù chỉ với hai mẹ góa con côi. Cái thương tâm mà tác giả đã thấy và sống và sẽ còn ở hoài với ông.
Hoa Bươm Bướm - truyện dài 18 chương, khởi từ thời Pháp thuộc, thời Nhật chiếm, đến thời kháng chiến. Võ Hồng muốn qua bộ truyện này vẽ lại một giai đoạn hào hùng và những nếp sống đã qua đi. Cẩm Quỳ, Luân, Thức, Mai Trang nói chung là những người trẻ hăng say nhập cuộc trong mọi hoàn cảnh, riêng Luân nhiều lần tỏ ra lừng khừng, thiếu niềm tin. Thức bỏ học Hà Nội về quê vì bom của đồng minh Mỹ; anh yêu Quỳ nhưng nhút nhát. Luân yêu hết Cẩm Quỳ đến Mai Trang trong cảnh điêu tàn và tản cư. Uống rượu mừng đình chiến, chưa kịp vui thì chiến tranh với Nhật Pháp lại đến. Vào cuối truyện, Mai Trang cao cả để Luân đi với Quỳ, lo từng chút cho chàng mà chàng thì "khờ khạo như mọi người đàn ông" (tr. 206VN). Nàng sẽ đốt từng tấm hình, từng kỷ niệm, đốt dĩ vãng và trả nhà, nơi vừa qua những ngày hạnh phúc; trả cho chủ nhà để đi Djiring!
Như Cánh Chim Bay là tiểu thuyết tiếp nối Hoa Bươm Bướm thời kháng chiến 1946-1954. "Khi nghe lệnh kháng chiến trở lại, thành phố Tuy Hòa náo loạn lên. Quân Pháp đóng ở Ðèo Cả có thể bất thần tấn công ra. Ðại bác nổ ầm. (...) Chỉ thị chạy tới tấp chạy từ tỉnh về huyện, về xã, thôi thúc việc kiểm điểm Dân quân, tập luyện Dân quân. Ðã tan rã hy vọng hòa bình bằng thương thuyết..." (tr. 85-86VN). Với những Ủy ban kháng chiến, những chương trình chống nạn mù chữ, chính phủ Nam kỳ tự trị. Những người làm "cách mạng" do hoàn cảnh đưa đẩy, tay ngang hay do địa phương đề bạt, kể cả "người cũ". Họ sẽ tuỳ nghi giải quyết chuyện thời thế mới. Những người xưa nay chỉ biết cày sâu cuốc bẫm "viết chữ chưa thẳng hàng", chân chất, vụng về, lại tình nguyện tham gia làm giáo viên để giải quyết nạn mù chữ lớn rộng ở vùng quê. Những hăng say trước ý nghĩa mới của cuộc đời của Luân, Quỳ,... thêm Phượng, Thúc,... Luân đã hăng say công tác hơn, tỏ ra chịu đựng hơn. Anh sẽ lấy Quỳ. Còn Tịch và Thúc theo trường kỳ kháng chiến, một ngày kia sẽ như những cánh chim sẽ bay về nhìn lại tổ cũ cành xưa.
Qua hai tập của bộ trường thiên tiểu thuyết về thời kháng chiến ở một vùng Phú Yên, Võ Hồng đã không vượt được không gian nhỏ bé của địa phương để có một cái nhìn rộng và toàn diện về cuộc chiến đó, khiến người đọc cùng thời với tác giả hoặc trẻ hơn không đủ thỏa mãn. Bức tranh xã hội đã lấn át hình ảnh cuộc chiến oai hùng chống thực dân. Chính tác giả đã hơn một lần thú nhận không sống nhiều kinh nghiệm chiến trường và cũng không có thì giờ thu thập tài liệu.
Tập tiểu thuyết Nhánh Rong Phiêu Bạt kể chuyện Thúy, em bé gái nạn nhân chiến tranh, cả gia đình bị bom chết hết, phải bỏ làng Xuân Phước lên tỉnh làm đầy tớ cho bà Ðức Lợi, rồi đi Diên Khánh ở đợ làm việc tráng bánh, nuôi heo, đi Phan Rang giữ em, bị đánh đập, phải theo thầy bói Huyền Linh, bị bắt vì không có tên trong sổ gia đình, bán trứng vịt lộn và cuối cùng bán bóng cao su xanh đỏ thì may mắn gặp lại một nữ dược sĩ quen bố mẹ ngày xưa nhận làm con nuôi cho đi học trở lại. Nhánh rong thời chiến đã may mắn có lại mái ấm gia đình, đời có "hậu", đúng như tin tưởng bình dân "ở hiền gặp lành" !
Trong các truyện ngắn khác chiến tranh cũng luôn có mặt: "chiến tranh dai dẳng tạo điều kiện cho con người bình đẳng với nhau trong niềm đau khổ. Gia đình nào cũng có những lỗ thủng lớn: hoặc là người chồng, người cha, hay người con ra đi không về. Những người đàn bà bơ vơ trong cuộc tranh đấu cam go với cuộc đời. Chiến tranh lan rộng, đời sống đắt đỏ, đi lại khó khăn, an ninh không bảo đảm... đó, những chặng cam go khúc khuỷu trên đoạn đường còn lại phải đi" (Hai Người Ðàn Ông, CSMX, tr. 30 VN). Bà Năm Xự trong Những Giọt Ðắng tiêu biểu cho nạn nhân cuộc chiến tranh dai dẳng trước 1975. Chuyến Về Tuy Hòa (TMCR) đưa tác giả đến với những vết tích của những trận đánh, những cuộc đời góa bụa và cái không khí chiến tranh thường trực ở ngay thị xã.
Viết về chiến tranh, Võ Hồng đã nói lên tiếng nói phẫn nộ của một người công dân bình thường, bất lực trước chiến tranh và thảm cảnh. Là nhà giáo, gần gũi tuổi trẻ, ông còn phẫn nộ hơn nữa khi không có thể làm được gì để chận đứng những tham vọng sai lầm của con người, những tàn hại văn hóa hậu quả của cuộc chiến tranh dai dẵng đó ! Qua tác phẩm, Võ Hồng thường đã vẽ lại sự tình và nói lên phần nổi của tâm hồn các nhân vật, nhưng rất hiếm thấy Võ Hồng lộ rõ những suy nghĩ ray rứt về số phận con người hay tâm hồn sâu thẳm của con người. Người đọc Võ Hồng sẽ man mác buồn nhưng chắc sẽ không nổi loạn hay đi làm cách mạng!
Về bộ truyện Hoa Bươm Bướm, chủ đề là chiến tranh nhưng tác giả lại muốn nói lên "lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc": "Cuộc kháng chiến đã đẩy chàng (Luân) phiêu lưu từ miền tùng bách sương mù đến vùng cát vàng biển mặn, qua đô thị đổ nát, ghé lại những cánh đồng thơm ngát hoa cau, những vùng núi non hiểm trở. Không phải chỉ đi nhiều mà có được tình yêu nước đậm đà. Phải đi, phải ở, phải chia những ngọt bùi cay đắng, những hiểm nguy và hy vọng với miền đất , với đồng bào nơi mình hiện diện. Không phải thờ ơ đóng vai bàng quan, nhìn cảnh với đôi mắt nhà du lịch mà người ta có thể tận tình thương yêu đất nước. Mà phải được ràng buộc với nó bằng những xót thương, gian khổ" (NCCB, tr. 266-267). Dù đề cao tinh thần quốc gia dân tộc, cuốn Như Cánh Chim Bay vẫn đã bị kiểm duyệt miền Nam "ngâm lại" một thời gian không cho xuất bản, chỉ vì nói đến cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến cho đến nay vẫn cần có một nhận chân lịch sử khách quan, nhất là cho thế hệ trưởng thành sau hai cuộc chiến.
Tình yêu đất
Toàn bộ tác phẩm của Võ Hồng tỏa thoát một tình yêu quê hương đất đai ruộng vườn nồng nàn. Lão Túc trong Tình Yêu Ðất (VHNT) tha thiết với đất ruộng, nghèo xác xơ quanh năm làm thuê làm mướn và mơ được làm chủ một mảnh đất do chính lão khai phá. Khi có thì một tai nạn trên mảnh đất đó sẽ kết thúc cuộc đời lão. Khi hấp hối, lão đã phải gắng mấp máy trối trăn muốn con mình nối nghiệp cha ông: "Miếng đất gò đình... thằng...".
Người Bác trong Người Về Ðầu Non dù chiến tranh và phải sống xa con cháu cũng không thể bỏ quê nhà mà lên chốn thành thị. "Làm sao mà bỏ cho được ngôi nhà tự mình ra công xây cất, khu vườn tự mình trông coi trồng trọt, những miếng ruộng tự mình mua mãi lần hồi. Tâm hồn của mình, quá khứ của mình in vết trên từng viên đá viên gạch, trên từng bụi chuối bờ tre. Con chim áp muỗi màu lông xanh xám đó, mỗi buổi chạng vạng tối đứng trên đầu nhà thả từng tràng tiếng hát, mình nghe từ hồi năm mười tuổi cho đến nay hơn bảy mươi tuổi trên đầu, quen thuộc với mình quá nỡ nào sống xa nó được ?..." (tr. 117).
Cuộc sống làng quê được Võ Hồng nhiều lần tả đến. Truyện cô Ba Hường góa chồng gốc Hoa trong Dấu Chân Sa Mạc là chuyện dài của cả một làng quê với đủ hị nộ ái ố và đủ mọi nhân vật tiêu biểu cho một xã hội Việt Nam trước thập niên 1950. Như tiếng ê a đọc văn tự mua bán ruộng ; "phu thê đồng công tạo mãi điền nhất khoảnh, tọa lạc tại Bạc má sứ, Hòa mai thôn... Ðông cận tiểu lộ, tây cận Nguyễn văn Phú điền, Nam cận..." (tr. 140VN). Như cô Ba Hường, nạn nhân của tính toán và giàu có, mới ngày nào đẹp mơn mởn nay đã "năng đau yếu" và chuẩn bị về với ông bà; trước sau tả hữu không còn ai, cơ ngơi to lớn trở thành sa mạc!
Trong Gió Cuốn, Nhàn sau khi đã chán chường đời sống ở thành thị làm mất phẩm chất làm người, cô về thôn quê ở với mẹ với hạnh phúc đơn sơ tìm lại. "... tôi dậy với tiếng chim sẻ ở mái hiên. Lá chuối đong đưa chào tôi ở khung cửa sổ. Tôi theo mẹ tôi ra vườn. Mẹ tôi cầm dao yếm cắt những tàu lá chuối khô. Bà đi giữa bóng râm. Hoa cau thơm, hoa bưởi tụ hợp về những đàn ong bướm bay lượn vòng. Lá môn, lá khoai sọ soi bóng trên mặt nước những con mương nhỏ..." (tr. 296 XT).
Nhân vật của Võ Hồng yêu đất đai ruộng vườn vì ông quan niệm quê hương đất nước có được như ngày nay là nhờ những người đó. Ông nói: "Quê hương được nuôi dưỡng, được bồi đắp, được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm của đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu phải nhờ lớp thị dân sung sướng ở thành phố" (1).
Tình yêu
Tình yêu trong tác phẩm Võ Hồng nói chung là những chuyện tình kín đáo, mãnh liệt, nồng cháy nhưng trong khuôn khổ đời thường và lý trí. Ðơn giản như mối tình của anh chàng Long trong Người Thứ Ba (VHNT). Tụ, tán, giận hờn, nồng cháy và chia ly. Tình yêu đã khiến con người dù có bản năng thú vật vẫn giữ được nhân tính.
Trong Hoài Cố Nhân là chuyện tình không đơn thuần của Vân-Nhã-Diệp. Chuyện tình cao thượng, bền lâu và đẹp, Diệp sống bên vợ nhưng nghĩ đến tình nhân, yếu đuối nhưng không tội lỗi. Diệp và Vân gặp nhau buổi ban sơ nhưng cả hai giữ mối tình câm, rồi đường ai nấy đi nhưng lại nhớ đến nhau tìm đến nhau khi đâu đã vô đó. Diệp ta lại để quên lá thư của Vân để vợ lục áo giặt tìm thấy. "Ðọc xong, anh đốt những thư em đi... Nhớ nhé ! và nhất thiết từ giờ em không gởi thư cho anh nữa. Em không gặp anh nữa đâu. Ghét em đi. Yêu chị cho rõ nhiều. Yêu bao nhiêu cũng chưa đủ. Ghét em đi. Ðừng nói chuyện gì về em với chị. Anh nhớ nhé? Chị tốt lắm, tốt lắm... Nhưng làm đàn bà em hiểu...". Chị tốt cho nên anh cứ mơ tưởng suốt đời! Chuyện tình nghĩa vợ chồng thắm thiết nhưng có người vẫn chưa dứt khoát với quá khứ, vẫn nuôi mối tình đầu da diết lãng mạn dù chỉ là tình câm. Chuyện yếu đuối trong khuôn mẫu, yếu đuối lẽ thường và khuôn mẫu văn hóa của xã hội Việt Nam.
Thêm một mối tình dễ dàng tay ba : "Có pha thêm một chút đắng, vị ngọt của tình yêu mới làm cho người ta đam mê như khi đam mê hương vị của cà-phê. Từ hôm nay hai người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ dàng tầm thường, anh thấy người nhẹ nhõm một cách chán ngắt, khi không còn phải vận dụng trí óc để đối phó. Trước mắt anh không còn một đối thủ xứng đáng để cho anh phải gắng sức mà chỉ còn phảng phất một cái bóng, một cái bóng không mất, không bao giờ mất" (Người Thứ Ba, VHNT, tr. 73?).
Tranh chấp tình yêu còn thấy trong tiểu thuyết Hoa Bươm Bướm, giữa Cẩn, Quỳ và Thức. Quỳ được theo đuổi vì nàng vừa đẹp vừa có học thức. Cuộc tình dài theo công cuộc chiến đấu chống Pháp. Tình của các cô các thầy giáo dĩ nhiên được Võ Hồng khai thác. Tình thầy Phúc với cô Liên. "Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót... có lẽ đẹp hơn, bền bĩ hơn những mối tình có kết quả" (Mùa Hoa Soan, CSMX, tr. 86VN).
Trầm Mặc Cây Rừng đưa tác giả về thời kháng chiến với những gặp gỡ những đứa học trò cũ nay đã trưởng thành trong số có Thịnh với "khuôn mặt dịu dàng thùy mị", "người con gái của thôn Diêu viên quê mùa mà giờ đây mỗi lần âm thầm nghĩ đến là tâm hồn tôi chợt thấy man mác nhớ và buồn, như một bầu trời đang nắng rỡ ràng bỗng có một áng mây trôi qua thành bóng rám âm u" (tr. 109VN). Tình yêu sẽ đến với người thầy, nhất là khi cô bạo bệnh qua đời. Ông sẽ tìm và sẽ gặp lại Thịnh nhưng oái ăm thay, Thịnh đã vừa lấy chồng, lấy Nhẫn, cũng là học trò cũ của ông chỉ với lý do "Bởi vì em không có hi vọng... Em nghèo". Người thầy sẽ trở nên ghét sự giàu sang của chính mình. "Tôi muốn đổi hết tất cả để lấy một căn nhà tranh sơ sài có bức tường đất trét màu vàng, có vuông sân nơi đó mọc một cây xoài quí, có người yêu dịu dàng là Thịnh, dòng suối mát của tôi, niềm an ủi của tôi, bàn tay Thiên thần nơi tôi gục vầng trán nhầu nát ưu tư" (tr. 125VN). Tình yêu mãnh liệt nhưng công thức lễ giáo, phản ứng lại nhẹ nhàng; đáng thương thay ! Ðây là một trong nhiều truyện khiến người đọc phải nghĩ đến tâm sự của chính tác giả.
Tình yêu sẽ bớt đơn sơ. Trong Con Suối Mùa Xuân, "tôi" với Mỹ Khuê: "Tôi nuôi tình yêu không phải chỉ bằng đôi mắt nhìn và bằng vòng tay ôm. Tôi còn yêu bằng những sự tinh nghịch dí dỏm (...). Tâm hồn tôi không chịu được sự bằng phẳng. Tôi sợ những con đường dài tráng nhựa chạy thẳng tắp, rộng rãi và có nhiều bóng mát ở trên đầu... Tôi yêu sự đột ngột, bất ngờ ..." (tr. 91VN). Tình chị có thể thành duyên em nhưng anh đàn ông vẫn cứ mơ tưởng "chị"!
Và tình yêu cũng sẽ có lúc phức tạp như cuộc đời trong cuộc chiến. Trong Hai Người Ðàn Ông, chàng và nàng đến rồi xa nhau trong lén lút, của hai người thiếu hay không thể có dự phóng tương lai. Trong Bên Kia Ðường, Võ Hồng lần đầu phân tích tình yêu dưới cái nhìn thể chất và vật chất. Huy không lấy được Quỳnh vì những thua kém đó, ít ra là trong ý nghĩ của anh. Truyện tả đời sống mới của thập niên 1960: tâm trạng người phụ nữ lên tiếng muốn một đời theo ý, ăn chơi sành sõi chẳng hạn, muốn có ý kiến khi lấy chồng, tính toán so sánh với bạn đồng sàng. "Hôn nhân đời nay đi mau với tốc lực siêu thanh của phản lực cơ, khi nghe tiếng nổ thì máy bay đã vượt xa mình rồi". Nếu chậm quá, đành với tình muộn, như Năm Nhiều, ngoài 40 vẫn cô ky nhưng ghen và yêu khỏi chê.
Xã hội miền Nam
Thực trạng xã hội những năm chiến tranh: trật tự xã hội đảo ngược, người dân bỏ thôn quê lên thành thị, giàu nghèo trở nên tương đối. Và thể diện. Và sở Mỹ. Trong Khoảng Mát, Bân làm nghề thu tiền rác, khủng hoảng vì chức nghiệp trong một xã hội đa đoan. Gặp lại Huệ, người yêu cũ nay lấy Mỹ. "Huệ lấy chồng Hoa Kỳ! Thật khó ai ngờ được cũng như khó ai ngờ rằng hôm nay tôi là nhân viên đi thu tiền rác. Con của một ông Thông-phán, cháu nội của một ông Lãnh-binh...". Mặc cảm khiến Bân bảo con ghi nghề bố là tư chức, còn với Huệ, Bân lẩm cẩm: "Anh làm ... lăng nhăng. Chả ra chi. Mình chạy tản cư đến chỗ lạ, may có việc làm ăn là quý rồi". Huệ còn tính theo chồng về Mỹ, chê quê nhà "hẹp hòi như cái đáy lò, như cái vũng nước". Nhưng Huệ thiếu tình yêu, anh chàng Bân sẽ vượt luân lý để than thở hứa hẹn : "Huệ ơi! Chúng ta hôm nay không còn ngây thơ nữa. Thân em giang hồ và thân anh đọa đày. Nên anh tin chắc chắn là lần sau anh sẽ hôn em đàng hoàng hơn. Không còn để mũi vào má em rồi hít như người ta hôn trẻ con nữa đâu ?". Gái giang hồ mà hay nhắc "chữ nghĩa" khiến trí thức xót xa chột dạ.
Gió Cuốn vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam thời chiến. Một xã hội bị đồng tiền Mỹ hủy hoại mọi giá trị văn hóa. Thang giá trị được sửa đổi cập nhật hóa theo tiền bạc. Vật giá càng leo thang thì đạo đức, lòng người càng đi xuống. Một xã hội chiến tranh khiến những người vì sinh kế và sự sống còn của gia đình đã phải khổ tâm cam nhục. Nhàn, Huệ, những người làm sở Mỹ. Thuyên, chồng Nhàn, một loại trí thức tiểu tư sản, sau khi vợ ra đi đã chạy theo vũ nữ Kiều Nga để kiếm tiền. Chàng căm thù cái nghèo do đó tìm đủ cách để thoát khỏi cảnh đen tối, Nhàn trở thành phương tiện cho chàng. Trác là người yêu Nhàn, tưởng nàng dễ chinh phục vì đang bỏ chồng, nhưng không ngờ Nhàn đã căm thù đàn ông chỉ muốn lao mình vào vực thẳm, Trác buồn lái xe nhanh bị tai nạn trở nên mất trí. Thuyên bị du đãng đâm chết, tư cách hèn hạ cũng chết theo. Nhàn vào nghĩa địa Mạc Ðĩnh Chi Sài Gòn thăm mộ. "Bao nhiêu suy tính mưu toan, bao nhiêu tàn nhẫn rốt cuộc đều trở về im lặng... Cầu mong anh siêu thăng về một miền phúc đức. Trong cuộc tái sinh, hãy chọn một xã hội bình ổn hơn..." (tr. 282). Vì chiến tranh mà thân phận con người chịu đủ đày đọa. Anh hùng hay thần tượng. Nhàn về lại thôn quê sinh sống, một đóa hoa sen gần bùn (sở Mỹ) mà chẳng hôi tanh mùi đô la. "Chúng tôi, Thuyên và tôi (Nhàn) là nạn nhân của một xã hội thiếu thần tượng chói sáng" (tr. 289). Nhàn về với mẹ: "Thành phố làm con ghê sợ. Con muốn sống đơn giản bằng gạo giã, bằng rau, bằng cá đồng, bằng tương... Thành phố thúc đẩy con người đua đòi và con người biến thành những hình giấy chạy quanh ngọn đèn cù..." (tr. 294). Trác tâm hồn vị tha, nay có tiền đi giúp những kẻ khốn đốn; anh trở thành một loại người lý tưởng về tình cảm và đạo đức. Truyện kết thúc trong hy vọng mới của một cuộc đời mới, qua hình ảnh bé Thu Hà. Gió Cuốn có giá trị của một tiểu thuyết luận đề phong tục.
Tác giả ví von hoa "những chậu hoa thược dược chậu cúc vào độ mồng mười hay Rằm tháng Giêng. Héo rủ xuống. Ðen điu, bẩn thỉu" với những người vội sống: "lũ thược dược, hoàng cúc đã cảm thấu cái thân phận đọa đày xơ xác cuối cùng của chúng nên được tươi đẹp nhởn nhơ ngày nào thì chúng cứ tận hưởng Hạnh phúc ngày đó? (...) những người đàn bà sống cuộc đời của những thân thược dược. Họ ở khắp các nẻo phố phường, ở những con đường có mang tên danh nhân và những con đường mới chỉ mang chữ số (...) Măng tô hai da, mặt đỏ mặt vàng. Mini Jupe màu tối. Khóe mắt vẽ xếch. Lông mày Audrey. Môi bóng mướt Polly Pink. Ðùi trắng. Mười một giờ rưỡi khuya xe Honda trả về. (...) Bởi vì trên mặt thùng rác không phải chỉ có những thân thược dược. Mà có cả gốc cải và vỏ khoai, tàu dừa và rựa cùn, dao gãy, máy ra dô hỏng. Có những tờ báo và những cuốn sách cũ nát nữa. Sự phân biệt bản chất dừng lại ở chỗ nào?" (tr. 274-276).
Chiến tranh dai dẳng khiến con người đâm ra hoang mang, sợ chết nhưng lại tò mò chuyện tận thế. Lá Vẫn Xanh là một chứng minh giản dị khởi từ tin đồn tận thế. Và trong Con Suối Mùa Xuân (CSMX), tác giả ghi lại những dâu biển và hoạt cảnh của thời tranh đấu Phật giáo và biến động miền Trung. Mỹ Khuê và "tôi" yêu nhau từ những kỷ niệm tranh đấu bên nhau. Tuổi trẻ hăng say và sẽ nhận chịu những hụt hẫng và ảo tưởng.
Thế giới học đường
Là nhà giáo do đó tác giả viết nhiều về đời sống học đường và chuyện các thầy các cô. Những tình nghĩa thầy trò đậm đà hiếm hoi trong một xã hội đề cao tiền bạc, chức tước. Những phút giây hạnh phúc của nghiệp "gõ đầu trẻ". Tình học trò như Tộc trong truyện Niềm Tin Chưa Mất (LVX) đã khiến người thầy quý mến sau khi đã vội xét thường tình : "Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân các của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời ...". Lúc học với thầy, Tộc hay bị thầy để ý phạt và la mắng, nhưng anh không bao giờ oán trách thầy mà trái lại, anh hay giúp thầy từ những việc như hái cau, vét giếng, ... Cả sau này khi đã rời bỏ quê hương đi xa và lập gia đình vẫn để ý giúp và thăm hỏi thầy. Thủy chung và thành thật đã hun đúc Tộc thành người tốt cho xã hội. "Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu Thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật, chứ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa...".
Lễ Cúng Trường trong Bên Kia Ðường kể lại những cảnh sinh hoạt học đường ngày xa xưa: ngày hăm sáu tháng Chạp là lễ cúng trường, rồi đến Tết thầy. Và anh học trò tên Tộc, ngây ngô và tiêu biểu cho thời nông thôn tiếp xúc với nền học mới với chữ quốc ngữ và Pháp.
Trong Người Về Ðầu Non, tác giả hồi tưởng thời niên thiếu học trường sơ ấu, cảnh học ôn Toán chuẩn bị đi thi. "Ngày nào cũng hai bài toán đố. Nộp bài lên mà thấy thầy bệt cho hai gạch rồi vẽ một vòng tròn là cứ lặng lẽ lên nằm sấp ở chân bảng đen đợi. Khi đứa chót đã nộp bài rồi thì khoảng trống đã đầy những thân học trò nằm dài. Ðứa làm đúng hai bài phải chạy lên núi bẻ roi..." (tr. 33). Rồi đến cảnh lên tỉnh lỵ thi. "Một cậu học trò mười một tuổi ở từ nhà quê ra, nhút nhát rụt rè, tay cầm thẻ căn cước đi vào phòng này đến phòng khác để qua hết kỳ thi vấn đáp, chịu sự tra trấn của các giám khảo bệ vệ uy nghi, thật là một cực hình cho tinh thần của nó. Cái không khí nghiêm khắc lạnh lùng đó như đe dọa nó, ngôi trường trở thành một thứ tu viện thiêng liêng đóng kín cửa không muốn cho nó bước vào. Bao nhiêu những kiến thức nhồi thuộc lòng trong óc cứ lẫn lộn quay cuồng, ông Mai-hắc-đế và Bố Cái đại vương kề với sự bài tiết và phát huyết quản hồi huyết quản, nghề ruộng muối ở Lệ-uyên Tuyết diêm nghề trồng thuốc lá ở Sơn hòa chập chờn hư ảo bên cạnh bài "đọc thêm" địa lý âm điệu du dương "Sông cầu là bà già lão luyện, Tuy hòa là thiếu nữ xuân xanh, Sông-cầu là chốn thừa lương, Tuy hòa là nơi buôn bán..." (tr. 37).
Vết Hằn Năm Tháng là tập truyện gồm nhiều chuyện học đường. Truyện mở đầu, Những Bí Mật Của Anh Ðỗ Cúc, là thế giới học trò tinh nghịch. Những lá thư tình lâm ly và thất bại trong tình trường cắt nghĩa cuộc sống và lối dạy học của Ðỗ Cúc. Ðến truyện Vết Hằn Năm Tháng kể chuyện chấm thi. Người đẹp Thu Hà của phòng thi sẽ làm đẹp hơn những ngày phải vật lộn với số ký danh và những tên học trò xa lạ nơi chấm thi.
Những Nỗi Khổ Vụn Vặt trong tập Bên Kia Ðường là chuyện hậu trường chấm thi. Những gửi gắm, xin điểm, những lựa chọn trung tâm, những chủ khảo, những liên hệ trong nghề.
Mùa Hoa Soan (CSMX) chuyện vui buồn dạy học của Liên, một cô giáo tự cho yếu đuối trước học trò không hiền ngoan và yếu đuối cả với tình yêu của đồng nghiệp. Những cô giáo ra đời sớm bối rối trước học trò, thiếu "oai" trong khi trách nhiệm lớn. Khi lý tưởng quá hoặc thu hút bởi nghề nghiệp, các cô giáo sẽ thiếu thời giờ và tinh tế để đón nhận tình yêu. Trễ tràng và cô đơn. "Có những buổi tối nàng ngồi một mình ở bãi biển. Nền trời đen sẫm, chi chít sao (...) Dù không ai để ý đến, dù không ai biết cho, sóng biển vẫn cứ nhịp nhàng làm cái công việc của mình, không vội vàng mà cũng không trễ nải. Bắt đầu từ bao giờ và sẽ ngừng lại lúc nào? (...) Như những đợt sóng kế tiếp nhau mải miết chạy vào bờ, nàng và các bạn của nàng cũng kế tiếp nhau mà dạy dỗ, uốn nắn, lớp học sinh này dạy xong thì trao qua tay người bạn khác tiếp theo không nản, không mỏi, không ngừng" (tr. 87VN).
Ngoài các chủ đề nói trên, Nha Trang, nơi Võ Hồng sinh sống, đã có lúc đậm nét có lúc bàng bạc trong nhiều tác phẩm của ông. Nhiều truyện ngắn trong tập Con Suối Mùa Xuân lấy khung cảnh Nha Trang. Các truyện khác về học đường và tình yêu cũng thường xảy ra ở đó. Những con đường tình nhân Yersin, Ðộc Lập hay bãi biển vắng đêm về, sóng biển nhịp nhàng, những hòn đảo thấp thoáng ngoài xa. Những hiệu sách với những cô gái hiền bên quầy thu tiền, những buổi ci-nê êm đềm, những con người ngoài phố không vội bước,...
*
Văn Võ Hồng dí dỏm, nhẹ nhàng. Tranh thủ tình yêu nhẹ nhàng, thua cũng không sôi nổi, dù trong lòng chàng trai kế toán thua trận tình với lính Hải quân. "Thôi, mất Mỹ Khuê rồi. Hải quân chiến thắng mình rồi". Gặp lại người yêu, thì cũng chỉ tiếc nuối thụ động: "Da trắng ngà môi hồng nhạt. Chết chửa! Khi thoát ra ngoài vòng tay của tôi, sao Mỹ Khuê lại đẹp thế? Sao lại quí thế? Ðôi mắt đen mở to như lúc nào cũng chỉ nhìn thấy việc thiện. Ðôi cánh tay trắng muốt mà tôi đã có lần cầm lên và Mỹ Khuê khoe :
- Tay em béo đấy anh nhỉ? Và anh xem - nàng bẻ ngược mấy ngón tay ra đằng sau - ngón tay của em, lúc đi học đánh chuyền, chả đứa bạn nào ăn qua nổi
Tôi lợi dụng (...), cầm bàn tay đó, đặt lên môi hôn. Rồi nói:
- Bàn tay này sẽ thôi chơi đánh chuyền để mà lo săn sóc cho chồng, cho con.
Nàng rút tay, tát yêu vào má tôi. Than ôi! Ðó là lần khôn ngoan đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi. Hôm nay thì tôi chỉ đứng đàng xa mà nhìn nàng, lẫn lộn giữa đám đông..." (Con Suối Mùa Xuân, tr. 97VN). Xa là đúng, cái anh chàng "chậm chạp và nhiều khi vô ích", mẫu "người đàn ông có lương tâm" (tr. 106).
Cái ghen cũng lạ : "Mỹ Khuê bao giờ cũng bắt tôi đợi năm phút trước khi nàng từ phòng riêng bước ra... Mùi nước hoa thơm ngọt khiến trông nàng ngon như một cái bánh. Ðó là ý nghĩ cộc cằn mà tôi đã lỡ có. Giờ này thì chắc chắn là Phan đang ngồi vào cái ghế của tôi và Mỹ Khuê lại cứ ngon như một cái bánh..." (CSMX, tr. 101).
Còn cái ghen tự ái vì giàu nghèo nơi làng quê mãnh liệt hơn. Trong Dấu Chân Sa Mạc (CSMX), ông Học Mười góa vợ với cô Ba Hường góa, giàu và "khôn nẻ vỏ", kín đáo để ý nhau, nhưng khi ông tình cờ nghe người đàn bà đó cười nói về ông khi có người chê ông nghèo, thì ông quyết liệt đến độ hấp tấp tái giá với một cô gái hai mươi.
Võ Hồng có những nhận xét tâm lý sâu sắc. Chiến tranh lấy mất những người trai, các cô gái phải "tranh giành nhau cả những người đàn ông xấu trai (...) Ở đô thị, đàn bà nối đuôi đi vào hiệu uốn tóc, sửa da mặt, tẩy vết tàn nhang. Phải tranh giành những người đàn ông còn sót lại" (Tháng Năm Sương Mù, CSMX, tr. 21 VN). Trai 31 chưa vợ cũng bắt đầu lo, phải xem tử vi, rồi tự kỷ ám thị nhìn trước ngó sau đều thấy có người mê mình, như thầy giáo Phong trong Trả Thù (CSMX). Ảo tưởng, vì vấn đề là chính anh, con người không dứt khoát. Không dứt khoát nên mới áy náy, nhận tiền thối dư chần chừ không muốn trả lại vì người chủ bẩn chật, cuối cùng đem cho người nghèo tàn tật.
Võ Hồng có những nhận xét thâm trầm, ý nhị. Kể chuyện cô Ba Hường trong Dấu Chân Sa Mạc (CSMX), tác giả đã xót thương cô vì "cái cuộc đời cô đơn lạnh lẽo đó mang nhiều mâu thuẫn: cực khổ bởi vì giàu, dại khờ bởi vì quá khôn ngoan, bị bỏ quên bởi được mến chuộng. Ngoại trừ dùng Số Mệnh để mà giải thích và an phận còn thì, nếu dùng lý trí để mà suy xét cân nhắc thì tôi chắc nhiều người cũng sẽ như tôi xót thương mãi cho thân phận người đàn bà đó không biết nên xử sự như thế nào cho phải trong cái xã hội quá nhiều ác tâm, lường gạt" (tr. 144VN)
Khi viết về những ngày thơ ấu, giọng văn Võ Hồng tha thiết, chân chất với những chi tiết tầm thường của đời sống hơn Duyên Anh, Nguyên Hồng. Trong Người Về Ðầu Non, khi viết về những bài học vỡ lòng, tác giả đã cho thấy những mâu thuẫn giữa sách và đời: "Con ve cũng vậy, tôi chỉ biết con ve chó chứ chưa thấy con ve sầu. Nhưng có hề chi? Tôi cứ đọc và trong óc tự làm một bài dịch : NGHE con Nghê là con kỳ lân... A quả Na là trái mãng cầu... I cây Si là cây đa... Ơ quả Mơ là trái gì tròn tròn..." (tr. 22).
Mặt khác văn chương của Võ Hồng có đặc điểm đã sử dụng tiếng nói của người miền quê ông trong đối thoại và cả trong cách hành văn và dùng chữ của ông. Tình yêu quê hương, "lòng yêu những vật tầm thường nhất", khiến ông có một thái độ độc lập văn hóa, đề cao góc quê hương nhỏ bé của ông, bên cạnh những Hà Nội, Sài Gòn và Huế đầy dẫy trong văn chương. Muốn thưởng thức Võ Hồng, người đọc phải hiểu tấm lòng của ông đối với quê nhà.
*
Võ Hồng đã chứng tỏ sống nhiều, sống ở một miền Trung thân thương nhiều hệ lụy của chiến tranh, của con người nồng nhiệt và dễ căm thù khi phải đối đầu với những tranh chấp ý thức hệ. Một miền Trung đời sống khó khăn nhưng phong phú tình nghĩa và ý nghĩa cuộc đời. Nếu con người Trung của Võ Phiến cương quyết và dứt khoát ở ý thức thế nào thì con người Trung của Võ Hồng tha thiết với nhau chừng ấy. Và nếu Võ Phiến nặng về phân tích tâm lý một cách ý thức, tách bạch thì phân tích con người của Võ Hồng nhẹ nhàng, thâm trầm, như một nhà giáo giương cặp mắt nhân hậu nhìn đám học trò sôi nổi mà tự nhủ cuộc đời và con người đâu đơn giản có thế. Thời gian và chín chắn tư duy sẽ trả lời hết đấy thôi ! Ðã vậy, Võ Hồng luôn tin "ở hiền gặp lành" và "bỉ cực thái lai"! Ông triết lý về cuộc đời : "Cuộc đời thường hay kết thúc đen tối bi thảm như vậy. Những ngôi nhà đổi chủ, những cửa hiệu xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và lớp người nhỏ phân tán ra khắp nẻo. Con người nhẫn nại trong ý thức cam chịu, cuộc sống bắt rễ mong manh như lớp vảy trên da thạch sùng..." (NVÐN, tr. 70).Võ Hồng thành công về truyện ngắn hơn là tiểu thuyết dài và ông được người đọc biết nhiều từ sau 1963 khi sách ông được nhà xuất bản Lá Bối và các cơ sở Phật giáo phổ biến. Không thấy Võ Hồng có mặt trong các tuyển tập truyện ngắn "hay" hoặc "tiêu biểu"của 21 năm văn học miền Nam, dù đây không phải là tiêu chuẩn. Nói chung, sự chân thành đã làm nên nghệ thuật văn chương Võ Hồng. Riêng các truyện dài của ông có giá trị tài liệu về phong tục, về nếp sống, về nhân tình ở vào một thời điểm. Ông muốn là một nhân chứng với sứ mạng giáo dục truyền kinh nghiệm cho những thế hệ đến sau. Có những truyện mới đọc người ta nghĩ ông có ý phỉ báng hay răn đe, nhưng đọc lại sẽ thấy tác giả chỉ muốn tỏ lộ lòng từ bi, thương hại ngay cả với những nhân vật không đáng thương hại. Tác phẩm của ông được các sách giáo khoa giảng văn trích dẫn từ 1963 và truyện Áo Em Cài Hoa Trắng viết cho thiếu nhi thường được chọn làm đề tài thuyết trình tại các trường học.
Sau 1975, vì hoàn cảnh chung, ông viết ít, nhưng đã có những bài tùy bút và truyện ngắn được người đọc thời hậu chiến tranh và "đổi mới" yêu thích. Những tâm tình thuần thành và nhân hậu của một người cả đời đã sống cho văn hóa giáo dục, cho quê hương và những con người chưa nhiễm "văn minh" của cuối thế kỷ XX. Các tùy bút trong Một Bông Hồng Cho Cha (Paris: An Tiêm, 1995) hoặc đã đăng báo như Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim, cho thấy một Võ Hồng lạc lõng ở thời đại hôm nay, một Võ Hồng thương người và nhớ cảnh xưa đời cũ, thương nhớ trong bất lực, nhưng đã can đảm nói lên. Trong Lời Sám Hối Của Cha, phải thấm nhuần văn hóa đông phương lắm mới có thể làm người cha mà can đảm ân hận và tự trách mình trước con cái. Ngoài ra ông đã cho xuất bản các tuyển tập Trong Vùng Rêu Im Lặng (Nha Trang: Văn Học Nghệ Thuật Nha Trang, 1988) và Truyện Ngắn Chọn Lọc (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1994).
Trước thềm thiên kỷ mới, có thể nói tác phẩm của Võ Hồng là một phần văn hóa Việt Nam cũ đã ra đi không bao giờ trở lại !
Chú-thích:
* Các trích dẫn tác phẩm theo bản in lần đầu; khi dẫn sách tái bản ở hải ngoại, chúng tôi ghi kèm VN, Văn Nghệ hoặc XT, Xuân Thu.
"Nhà văn Võ Hồng", Nguyễn Nam Anh phỏng vấn. Văn (SG), 209, 1-9-1972, tr. 1-8.
Phỏng vấn Nguyễn Nam Anh. Bđd, tr. 8. 21-3-1997
(Nguyễn Vy-Khanh. Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX : Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại.. Chương 18. Glendale CA: Ðại Nam, 2004).
2- Nghĩ và viết về Võ Hồng trong mất mát
Nguyễn Vy Khanh
Sau biến cố 30-4-1975, ở trong nước, sách báo miền Nam tự-do bị tịch thu và tiêu hủy, gần như toàn bộ các tác-giả bị cấm; ngoài nước thì các nhà xuất-bản như Sống Mới, Đại Nam, Xuân Thu đã in lại bằng cách chụp lại các ấn-bản có được hoặc chụp lại từ các thư viện Hoa-Kỳ như thư viện đại học Cornell ở Ithaca, NY và Library of Congress ở Washington D.C. Các sách in lại này rất kém về kỹ-thuật lẫn nghệ-thuật và được bày bán trước hết ở các tiệm tạp-hóa bên cạnh các tờ báo rất đơn sơ lần lượt xuất hiện mà tiếng Việt phải đánh dấu bằng tay và cạnh những chai nước mắm, gói phở khô mà phẩm chất cũng rất kém - cùng tình trạng với món ăn tinh thần nói trên. Đa số tác-phẩm của Võ Hồng đến với người đọc hải-ngoại ngay sau 1975 đều qua con đường đó! Từ những năm 1986, tác-phẩm Võ Hồng được tái bản, đánh máy, lên trang lại và hình-thức đẹp hơn với các nhà xuất-bản Văn-Nghệ (CA), An Tiêm (Paris).
Ngay sau khi ra đến ngước ngoài tị-nạn, chúng tôi đã vội viết những gì mình biết hoặc còn ghi nhớ, như về họ tên người Việt, về các thư-viện thời lịch triều, về tranh sơn mài, v.v. Vì nghề nghiệp thủ thư, tôi có nhiều cơ hội thăm các thư viện ở Bắc Mỹ nhất là ở Canada và tôi đã nhìn thấy một phần lý do miền Nam đã thua trận chiến-tranh 1957-1975: sách của cộng-sản Bắc Việt đầy dẫy ở các thư viện đại học và thư viện quốc-gia trong khi sách "quốc-gia" tìm mỏi mắt không có (ngoài vài pamphlet tổng quan của các tòa đại sứ), nghĩa là gần như chỉ có sách của Mỹ, Pháp và cộng-sản Hà-nội. Trong các đại học ngay sau 1975 chúng tôi chứng kiến sách Hà-nội, được viết hoặc dịch ra tiếng Pháp và Anh, bày bán cho sinh viên với giá rẻ mạt, 1, 2 dollars (Femme vietnamienne, Vietnamese Studies, Anthologie de la littérature vietnamienne, Hòn Đất roman, v.v.). "Súng đạn" tuyên truyền đã thêm thế mạnh cho họ, dù bá-đạo! Rồi sau nhiều năm sinh hoạt cộng đồng, hội-nhập, tôi đã nghĩ đến phải làm gì cho nền văn-học tự-do của miền Nam; mất nước thì một cá thể khó chuyển bại thành thắng, nhưng mất nền văn-học đó thì mỗi cá nhân cũng có thể đóng góp phần của mình và nếu không phục-hồi được thì ít ra cũng để lại dấu vết, tài-liệu cho các thế hệ sau. Thế là sau nhiều thập niên đọc, đã đến lúc phải bắt đầu viết, viết về những gì đã quan sát và hiểu biết, đó là lý do chúng tôi thật sự viết về văn-học sử từ năm 1995, bài đầu tiên là bài Miền Nam Khai Phóng gây được một số phản ứng vì trong đó lộ rõ ý muốn phục hồi và đem lại công bằng cho một mảng văn-học bị bỏ quên. Kế đó là những tác-giả mà chúng tôi đã sẵn nhận-xét, quan điểm, sau nhiều năm làm độc giả và mon men nghiên cứu văn-học, cũng như đã tìm lại được các tác-phẩm, như Võ Hồng, Duyên Anh, Bình Nguyên Lộc, v.v.
Như nhiều độc-giả khác, truyện Võ Hồng đã đến với tôi từ những giờ kim-văn ở trung-học, rồi với thời-gian, Võ Hồng đã trở thành một tác-giả được tôi trân quý. Tìm hiểu lý do thì lần dò dễ trở nên rối rắm (như những buổi đến nhà xuất-bản Lá Bối ở chung cư Vạn Hạnh để nhận sách Võ Hồng còn thơm mùi mực in!), nhưng những truyện mà tôi còn nhớ mãi đến hôm nay thì rõ ràng có những căn cớ: những mối tình nồng cháy nhưng nhẹ nhàng (người đẹp Thu Hà trong Vết Hằn Năm Tháng, thầy Phúc với cô Liên trong Mùa Hoa Soan, v.v.), những hoàn cảnh éo le nhưng thân thương muốn xảy ra mãi (chuyện thầy giáo Hà bị quá-khứ đuổi bắt khi mới điểm danh đến tên học trò Hà Vi trong truyện cùng tên, rồi chuyện thầy khác với cô học trò cũ tên Thịnh, "người con gái của thôn Diêu viên ... khuôn mặt dịu dàng thùy mị" trong Trầm Mặc Cây Rừng) - đã là những "tham-chiếu" trong quãng đời dài học đường và quãng ngắn làm thầy của chúng tôi. Ngoài vài truyện mà không gian của tác-phẩm là Tuy Hòa, phần còn lại, nhiều chuyện đã xảy ra ở Nha Trang, là vùng đất mà chúng tôi độc giả đã có nhiều liên hệ tình cảm và gia-đình dây dưa từ nhiều năm trước khi rời hẳn vì chiến-tranh từ buổi sáng định mệnh 1 tháng 4 năm 1975 và định cư ở nước ngoài sau đó. Bỏ nhiệm sở dạy học nơi mà tôi cứ tưởng sẽ ổn-cư sau nhiều năm làm người Sài-gòn, cũng là nơi tôi cuối cùng lập gia-đình và cắt đứt những mạng nhện tình cảm của một thời! Nha Trang, nơi Võ Hồng sinh sống, đã có lúc đậm nét có lúc bàng bạc trong nhiều tác phẩm của ông. Nhiều truyện ngắn trong tập Con Suối Mùa Xuân chẳng hạn lấy khung cảnh Nha Trang. Các truyện khác về học đường và tình yêu cũng thường xảy ra ở đó. Người đọc nào từng sinh sống nơi đó đều có thể nhận ra hình bóng trường xưa, đường phố cũ. Võ Hồng đưa tôi, một người đọc xa xứ, trở lại những con đường tình nhân Yersin, Độc Lập hay bãi biển vắng đêm về, sóng biển nhịp nhàng, những hòn đảo thấp thoáng ngoài xa. Những hiệu sách với những cô gái hiền bên quầy thu tiền, những buổi ci-nê êm đềm, những con người ngoài phố không vội bước,... Những cái đã mất, và trong những mất mát ấy - lớn hơn nữa là mất quê-hương, chúng tôi đã nghĩ và viết về Võ Hồng.
Trong bài tổng quan về Võ Hồng, chúng tôi đã đặt tựa đề là "Võ Hồng, nhà giáo" vì ông là một nhà văn tinh tế nhưng nhân hậu và mực thước, thận trọng; ông đúng là một nhà giáo viết văn hoặc nói khác đi, ông viết văn như một nhà giáo. Ông viết rất đều đặn và kỹ lưỡng như sự kiên nhẫn cần có của nghề giáo mà hình-thức và nội-dung được chăm sóc kỹ như những bài văn dạy trong nhà trường. Chúng tôi ghi lại các đề tài lớn đã được Võ Hồng đưa vào tác-phẩm : Nếp xưa ngày cũ, Tình yêu đất, Chuyện kháng-chiến và chiến tranh, Tình yêu, Bức tranh xã-hội miền Nam thời chiến và cuối cùng là Thế giới học đường. Bài viết đã đăng trên một số tạp-chí ở ngoài nước và là chương 18 trong tập biên khảo Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX : Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại do nhà Đại Nam ở California xuất-bản năm 2004.
Võ Hồng viết về nếp xưa ngày cũ vì ông tự cho sứ mạng viết lại quá khứ cho người trẻ: "Lịch sử là một dây xích dài gồm nhiều mắt xích nhỏ. Cái mắt xích Dĩ Vãng đó chưa hề được nói tới thì tôi phải ra công mô tả lại. Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ lần lần bị xóa đi, thay thế bằng nếp sống mới. (...) Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp để thiết tha gắn bó với quê hương hơn" ((Phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, tạp-chí Văn SG, 209, 1-9-1972). Nhân vật của Võ Hồng yêu đất đai ruộng vườn vì ông quan niệm quê hương đất nước có được như ngày nay là nhờ những người đó. Ông nói: "Quê hương được nuôi dưỡng, được bồi đắp, được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm của đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu phải nhờ lớp thị dân sung sướng ở thành phố" (Bđd). Viết về chiến tranh, Võ Hồng đã nói lên tiếng nói phẫn nộ của một người công dân bình thường, bất lực trước chiến tranh và thảm cảnh. Thực trạng xã hội những năm chiến tranh: trật tự xã hội đảo ngược, người dân bỏ thôn quê lên thành thị, giàu nghèo trở nên tương đối. Bức tranh xã hội Việt Nam thời chiến, vì chiến tranh mà thân phận con người chịu đủ đày đọa. Là nhà giáo, gần gũi tuổi trẻ, ông còn phẫn nộ hơn nữa khi không có thể làm được gì để chận đứng những tham vọng sai lầm của con người, những tàn hại văn hóa hậu quả của cuộc chiến tranh dai dẵng đó! Tình yêu trong tác phẩm Võ Hồng nói chung là những chuyện tình kín đáo, mãnh liệt, nồng cháy nhưng trong khuôn khổ đời thường và lý trí. Là nhà giáo do đó tác giả viết nhiều về đời sống học đường và chuyện các thầy các cô. Những tình nghĩa thầy trò đậm đà hiếm hoi trong một xã hội đề cao vật-chất, tiền bạc và chức tước, cùng những phút giây hạnh phúc của nghiệp "gõ đầu trẻ"!
Võ Hồng đã chứng tỏ sống nhiều, sống ở một miền Trung thân thương nhiều hệ lụy của chiến tranh, của con người nồng nhiệt và dễ căm thù khi phải đối đầu với những tranh chấp ý thức hệ. Một miền Trung đời sống khó khăn nhưng phong phú tình nghĩa và ý nghĩa cuộc đời. Nếu con người Trung của Võ Phiến cương quyết và dứt khoát ở ý thức thế nào thì con người Trung của Võ Hồng tha thiết với nhau chừng ấy. Và nếu Võ Phiến nặng về phân tích tâm lý một cách ý thức, tách bạch, thì phân tích con người của Võ Hồng nhẹ nhàng, thâm trầm, như một nhà giáo giương cặp mắt nhân hậu nhìn đám học trò sôi nổi mà tự nhủ cuộc đời và con người đâu đơn giản có thế. Thời gian và chín chắn tư duy sẽ trả lời hết đấy thôi ! Đã vậy, Võ Hồng luôn tin "ở hiền gặp lành" và "bỉ cực thái lai"! Ông triết lý về cuộc đời : "Cuộc đời thường hay kết thúc đen tối bi thảm như vậy. Những ngôi nhà đổi chủ, những cửa hiệu xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và lớp người nhỏ phân tán ra khắp nẻo. Con người nhẫn nại trong ý thức cam chịu, cuộc sống bắt rễ mong manh như lớp vảy trên da thạch sùng..." (Người Về Đầu Non, tr. 70).
Mặt khác, văn chương của Võ Hồng có đặc điểm đã sử dụng tiếng nói của người miền quê ông trong đối thoại và cả trong cách hành văn và dùng chữ của ông. Tình yêu quê hương, "lòng yêu những vật tầm thường nhất", khiến ông có một thái độ độc lập văn hóa, đề cao góc quê hương nhỏ bé của ông, bên cạnh những Hà Nội, Sài Gòn và Huế đầy dẫy trong văn chương. Muốn thưởng thức Võ Hồng, người đọc phải hiểu tấm lòng của ông đối với quê nhà và con người quê mùa, mộc mạc. Nói chung, sự chân thành đã làm nên nghệ thuật văn chương Võ Hồng. Riêng các truyện dài của ông có giá trị tài liệu về lịch-sử, phong tục, về nếp sống, về nhân tình ở vào một thời điểm. Ông muốn là một nhân chứng với sứ mạng giáo dục truyền kinh nghiệm cho những thế hệ đến sau. Có những truyện mới đọc người ta nghĩ ông có ý phỉ báng hay răn đe, nhưng đọc lại sẽ thấy tác giả chỉ muốn tỏ lộ lòng từ bi, thương hại ngay cả với những nhân vật không đáng thương hại. Tác phẩm của ông được các sách giáo khoa giảng văn trích dẫn từ 1963 và các truyện viết cho thiếu nhi như Áo Em Cài Hoa Trắng, Trận Đòn Hòa Giải thường được chọn làm đề tài thuyết trình tại các trường học.
*
Sau 1975, vì hoàn cảnh chung, ông viết ít, nhưng đã có những bài tùy bút và truyện ngắn được người đọc thời hậu chiến tranh và "Cởi Trói" văn-nghệ yêu thích. Có lúc ông ký hai bút danh mới là Võ An Thạch và Võ Tri Thủy. Những tâm tình thuần thành và nhân hậu của một người cả đời đã sống cho văn hóa giáo dục, cho quê hương và những con người chưa nhiễm "văn minh" của cuối thế kỷ XX. Các tùy bút trong Một Bông Hồng Cho Cha hoặc đã đăng báo như Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim, v.v. cho thấy một Võ Hồng lạc lõng ở thời đại hôm nay, một Võ Hồng thương người và nhớ cảnh xưa đời cũ, thương nhớ trong bất lực, mất mát, nhưng ông đã vẫn can đảm nói lên. Trong Lời Sám Hối Của Cha, phải thấm nhuần văn hóa đông phương lắm mới có thể làm người cha mà can đảm ân hận và tự trách mình trước con cái. Tập tiểu-thuyết Thiên Đường Ở Trên Cao bản thảo viết từ những năm 1972-1978, nhưng đến 1988 mới được kiểm duyệt trong nước cho xuất-bản.
Một quy-hồi văn-nghệ đã xảy ra trong nước, một trở về với nhân bản và đời sống đa dạng. Từ năm 1987, nhiều tác-giả và tác-phẩm đã được "tái sinh" trong đó có Võ Hồng. Nhiều tuyển tập cùng tựa sách của ông đã được xuất-bản và tái bản, theo thứ tự thời-gian như sau:
Thiên Đường Ở Trên Cao (VH Thông Tin, 1988; NXB Trẻ 2002); Trong Vùng Rêu Im Lặng (Hội Văn Học Nghệ Thuật Nha Trang, 1988; NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2004); Nhánh Rong Phiêu Bạt (VHNT Khánh Hòa, 1989); Vẫy Tay Ngậm Ngùi (Trẻ, 1992); Thương Mái Trường Xưa (Trẻ, 1993); Truyện Ngắn Chọn Lọc (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1994); Một Bông Hồng Cho Cha (Văn-Nghệ TPHCM, 1994, tb 1997; NXB Tổng hợp TPHCM, tb 2004; An Tiêm tb ở Pháp 1995); Vùng Trời Thơ Ấu (Trẻ, 1995); Chúng Tôi Có Mặt (NXB TPHCM, 2001); Tuổi Thơ Êm Đềm (Trẻ, 2001); Thơm Ngát Hương Cau (Trẻ, 2001) và Tuyển Tập Võ Hồng (NXB Văn-nghệ TPHCM & Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2003) là tập qui mô nhất với 1231 trang.
Ngoài ra, Võ Hồng còn là tác-giả tập Trầm Tư do NXB Trẻ in năm 1995 và NXB Văn-nghệ ở hải-ngoại tái-bản năm 2000, gồm những suy tư tản mạn theo dòng thời-gian được sưu tập, ghi lại. Trước và sau 1975, Võ Hồng vẫn có những tập truyện nhỏ cho giới trẻ, sau 1975 có Chia Tay Người Bạn Nhỏ (Trẻ, 1991). Đặc biệt Võ Hồng làm thơ và đã cho xuất-bản hai tập Hồn Nhiên Tuổi Ngọc (Trẻ, 1993) lời lẽ đơn sơ như tựa đề và Thời-Gian Mây Bay (Đồng Nai, 1996) gồm những bài từ nhiều thập niên qua, từ khi ông "mười tám đôi mươi" như nói trong lời Tựa. Một số tác-phẩm của Võ Hồng hậu-1987 đã đến với người đọc và thư viện hải-ngoại qua nhiều ngã. Hy vọng trong khung cảnh tự do văn-hóa ngoài này, sẽ có những nghiên cứu, luận án về Võ Hồng, như đã và đang xảy ra với văn-học miền Nam thời mở đầu, với Trương Vĩnh-Ký, Võ Phiến hay chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam, v.v.
Trong thời chiến-tranh và phân chia đất nước cũng như gần hai thập niên gần đây, tác-phẩm của Võ Hồng lúc nào cũng được trân quý, chứng tỏ chúng thật có giá trị tinh thần và lịch-sử và đã trãi qua được sàng lọc của thời-gian. Ông đã là nhà văn lớn của nửa hậu bán thế-kỷ XX, bề thế văn nghiệp của ông lớn không phải ở những triết lý, học thuyết có thể đề xướng trong các tác-phẩm mà là ở sự già dặn, phong phú và chân thật của tác-giả. Nhưng dù vậy, trước thềm thiên niên kỷ mới, ở một đất nước như Việt Nam đã nhiều truân chuyên, đau khổ, có thể nói tác phẩm của Võ Hồng là một phần văn hóa Việt cũ đã ra đi không bao giờ trở lại! Đây là hiện tượng trong nước in lại tác-phẩm của thời tiền phong văn học chữ quốc ngữ ở trong Nam cũng như các tác giả khác của miền Nam tự-do, họ được in lại, được tìm đọc và nghiên cứu ở các đại học; người quan sát không thể không đặt vấn-đề : phải chăng đây là đi tìm một thời văn học bị bỏ quên, hay trân trọng tìm lại cái phong hóa - những bóng dáng, những tấm gương, đã và đang mất dần? Phải chăng sau một thời liên lục chiến tranh, phân ly, loạn lạc, sai lầm, con người sống sót và hậu-sinh của họ muốn vớt vát lại phần nào những đạo lý, văn hóa đã bị rẻ rúng?
Montréal, 8-2005
NGUYỄN VY KHANH
Nguồn: Văn học miền Nam 1954-1975, quyển hạ, Toronto Nguyễn Publishing, 2016, trang 1442-1457
Tham khảo thêm về tác giả Võ Hông
GIAI PHẨM VĂN
Phỏng Vấn Võ Hồng
G.P. VĂN: Ông Võ Hồng, ông viết văn tính đến nay đã lâu năm, chắc là ông có những kỷ niệm vui buồn dính dáng đến nghiệp văn chương của ông. Tôi nghĩ rằng độc giả của Văn cũng tò mò muốn biết những kỷ niệm đó.
V. H. : Kỷ niệm bao giờ cũng có tính cách riêng tư, mà đem chuyện riêng tư của mình ra nói tôi e sẽ bị coi là một người không khiêm tốn.
G.P. V. : Nhưng nhà văn sáng tác cho quần chúng, vì quần chúng mà làm việc thì trong quá trình sáng tác đó những nỗi vui buồn của nhà văn quần chúng cũng muốn chia sẻ. Vả chăng trong số những độc giả của ông có nhiều người cũng đang nuôi cái mộng sáng tác như ông. Tôi nghĩ rằng kỷ niệm mà ông nói sẽ có thể giúp ích cho họ.
V. H.: Nếu vậy thì tôi nói. Thứ nhất là những kỷ niệm khó chịu. Xin đừng tưởng rằng nhà văn chỉ có những kỷ niệm êm đềm. Cái bực mình lớn nhất là độc giả hay đoán xem nhân vật trong truyện là ai, ở ngoài đời. Nhất là những nhân vật nữ. Trong một số truyện của tôi, tôi cho sự việc xảy ra ở thành phố Tuy Hòa, thành phố Nha Trang. Thế là bà con Tuy Hòa, Nha Trang hay đoán xem chẳng hạn nhân vật Thanh Phương là ai, nhân vật Sử Tuyết Quân là ai, ở đường nào, xấu đẹp ra sao, hiện sống như thế nào. Không những đoán, họ còn cả quyết nữa. Và sau khi cả quyết, họ đem nhân vật đó ra phê bình, phê bình sự liên hệ giữa tác giả và nhân vật. Sự suy diễn càng lúc càng đi xa, sự tưởng tượng càng lúc càng thêu dệt rối rắm trong khi tác giả chẳng hay biết gì hết. Nhưng nếu sự suy diễn và sự tưởng tượng chỉ âm thầm thì thôi, tha hồ. Đằng này kết quả nhiều khi lại đập vào tác giả. Thế mới tội. Tôi ví dụ một trường hợp sau đây. Tôi có quen thân một gia đình, quen đến độ coi như bà con. Bỗng trong một thời gian tôi thấy sự giao thiệp giữa chúng tôi có vẻ lơ là, ngượng ngập. Tôi tìm hỏi lý do. Sau nhiều lần che giấu, cuối cùng họ cho tôi biết rằng họ giận tôi vì có một kẻ kia nói rằng tôi đã đem công chuyện của họ viết trong một truyện nào đó. Hỏi truyện nào, thì họ nói không biết. Tôi minh xác rằng tôi chưa hề có ý đó và chân thành yêu cầu họ hỏi rõ người kia xem tôi đã viết trong truyện nào. Họ hứa sẽ hỏi, sẽ trả lời, bởi người kia cũng có hứa là sẽ cho biết. Hai tháng, rồi sáu tháng, rồi một năm qua. Cuối cùng mới vỡ lẽ ra rằng tên kia là một thứ Tartuffe lem nhem.
Để tránh những trường hợp tương tự, trong một số truyện tác giả hay ghi thêm “đây là một truyện hoàn toàn tưởng tượng. Vậy nếu ngẫu nhiên có sự trùng hợp về danh xưng, địa danh ở ngoài đời, đó là ngoài ý muốn của tác giả” vân vân.
GP.V.: Nhưng nếu phải ghi chú kỹ càng như vậy thì gần như truyện nào cũng cần một cái mũ đó.
V.H.: Có một trường hợp này nữa. Trong truyện dài Gió Cuốn tôi cho nhân vật Thuyên xuất thân từ trường Quốc gia Hành chánh. Anh ta thật là nạn nhân của thời đại, thời đại tham nhũng, thời đại áp-phe khi quân đội Mỹ hiện diện hơn nửa triệu ở Miền Nam, khi cuộc chiến đang giữa thời thịnh đạt. Thuyên mê tiền, Thuyên xúi vợ vào làm sở Mỹ, Thuyên bỏ vợ để theo Me Mỹ, Thuyên chửi vợ vì vợ không đem về quà Mỹ... Thật ra thì ở ngoài đời còn có lắm kẻ mang danh trí thức mà còn tệ hơn Thuyên nhiều. Họ còn nịnh bợ lòn cúi trắng trợn hơn, họ còn độc ác tàn nhẫn hơn, họ còn vô liêm sỉ đến độ dâng vợ hiến con. Vậy thì Thuyên cũng chỉ là một thứ “thường thường bậc trung” mà thôi. Ấy vậy mà có một hôm tôi được nghe một người quen của tôi bảo nhỏ “Anh X... phó Quận trưởng quận Y... một hôm có than thở với tôi rằng ông V.H. có giận gì bọn tôi mà xây dựng nhân vật Thuyên tệ quá”. Tôi phải nhờ người bạn xin lỗi ông X rằng tôi không có giận ai hết, - hoặc nếu có giận thì phải giận rất nhiều người. Những người xấu. Phàm nhân vật tiểu thuyết thì có người tốt người xấu, có ông nhà binh tốt và ông nhà binh xấu, có ông công chức nhã nhặn và ông công chức vô lễ, có người thợ thật thà và người thợ lưu manh. Vậy nếu trong một truyện nào đó mà người tác giả mô tả một quân nhân hống hách hiếp đáp đồng bào thì chẳng lẽ lại kết luận thô sơ rằng ông ta nhục mạ cả tập thể giới cầm súng hay sao? Trong một vài truyện của tôi, tôi có mô tả ông giáo sư thủ đoạn, ông chánh chủ khảo lừng khừng cầu an, như vậy chẳng lẽ giới giáo chức than thở rằng tôi đã nhục mạ nghề dạy học? Và nếu hễ nhà văn mượn nhân vật ở nơi giới nào thì giới đó than phiền, nhân vật xấu ở ngành nào thì ngành đó phản đối, như vậy thì đến một lúc nào đó nhà văn chỉ còn có thể viết về con gà con vịt, và cái bàn cái ghế, về cây cối, về sông núi. Bởi đó là những nhân vật chót hết không hề biết lên tiếng, không biết làm kiến nghị, không biết nghệ thuật xuống đường.
G.P.V.: Tôi tưởng tình thế không đến nỗi bi đát như vậy.
V.H. : Vâng. Phàm đã nói thì phải nói cho cạn lẽ đó thôi, chớ tôi biết chính người than phiền cũng đã cảm thông với tác giả ngay khi nói điều than phiền, và trước khi nghe lời phân trần. Nhưng có trường hợp này thì tệ hơn. Tôi có một người cháu họ gọi tôi bằng chú. Nó có cảm tình với một thiếu nữ kia và hình như cả hai đang đi đến hôn nhân. Một hôm nó đến thăm tôi như thường lệ và như thường lệ, sau khi hỏi thăm sức khỏe của Ba Má nó, hỏi thăm công việc làm ăn, tôi hỏi đến chuyện đôi bạn. Nó nói “Bên nhà gái không chịu nữa”. Tôi hỏi vì sao vậy? Nó nói: “Vì trong một cuốn truyện của chú mới xuất bản tháng trước có một nhân vật mà Ba cô ta nghĩ rằng chú đã mô tả giống y như ổng. Ổng giận, không gả con cho cháu nữa”. Thật là rối rắm. Tôi nói rằng tôi không hề biết ông là ai, và sự trùng hợp ngẫu nhiên này rõ ràng là một loại “tai nạn nghề nghiệp”. “Nếu cháu có lòng thương cô bạn của cháu và đau khổ thật sự về việc từ hôn này thì chú sẽ tới giải thích cho ông ta rõ”, tôi nói tiếp nhưng nó trả lời rằng nó đã giải thích rồi mà ông ta khăng khăng không nghe và bây giờ tới phiên nó cũng khăng khăng không muốn giải thích tiếp.
G.P. V. : Tôi thích chữ tai nạn nghề nghiệp của ông.
V. H. : Dầu vậy mà tai nạn nghề nghiệp lắm khi cũng làm tôi giật mình. Số là trong quyển truyện dài Gió Cuốn, - lại quyển Gió Cuốn nữa - tôi có để cho nhân vật Trác chiếm ngụ một cái vi-la đồ sộ ở góc đường Bạch Đằng - Trần nguyên Hãn. Thực tế thì khi viết tôi chỉ tưởng tượng ra một khu phố mới lập để cái vi-la của Trác có đủ diện tích đất mà trồng nhiều hoa, có lối đi rải đá cuội trắng. Có thể để Trác làm piscine và pergola nếu cần. Tôi chọn khu Xóm Mới vì nơi đây mỗi lô đất rộng tới năm trăm mét vuông. Hơn nữa hiện nhà tôi cũng ở khu Xóm Mới và nếu các nhân vật cần lái xe di chuyển trong các chương sau thì tôi sẽ khỏi phải lúng túng mở bản đồ ra dò đường. Để cho tiện hơn nữa, tôi chọn con đường Bạch Đằng và con đường Trần Nguyên Hãn là hai con đường gần nhà tôi nhất. Tôi tưởng thế là yên chuyện ai ngờ truyện in dần từng kỳ trên Bách Khoa ngót một năm trời, truyện in thành sách do Lá Bối xuất bản, bán hết đã hơn ba bốn năm trời, thế rồi bỗng có một hôm, trong một buổi hòa nhạc, tôi được giới thiệu với một người. Người này nói chuyện về những cuốn truyện của tôi, nhắc đến quyển Gió Cuốn rồi chợt trong một lúc bất ngờ, người đó nói: “Tôi đọc ông kỹ lắm. Tôi yêu nhân vật Trác. Cái vi-la của Trác tôi cũng có đến để coi cho biết nữa. Thật là một cái vi-la đẹp”. Tôi giật mình. Chỗ đó có vi-la thật sao?... Tôi định khi về nhà sẽ đi tới ngay tại chỗ coi cho rõ cái vi-la đó nó như thế nào, nhưng rồi bận công kia việc nọ tôi quên mất. Có hồi nào chợt nhớ lại thì lại lý luận “Thôi, chuyện đã qua rồi, có muốn cũng không sửa lại được”. Sau đó ba bốn tháng, một hôm nhân nói chuyện với một người bạn, tôi kể lại câu chuyện trên. Tức thì người bạn tôi trố mắt: “Tôi tưởng anh có ý tả cái vi-la đó chớ. Tôi tưởng anh biết rõ cái vi-la đó chớ”. Tôi lại giật mình lần nữa. Nếu đó là một địa điểm buôn lậu, là chỗ hành nghề bất hợp pháp thì thật là tai vạ tày đình. Ai sẽ chứng minh dùm sự vô tư của mình? Ai sẽ hiểu giùm rằng mình chỉ là kẻ “đi dưới đất mà mơ tưởng chuyện trên trời”?
G. P. V. : Nhưng rồi mọi việc đều yên ổn?
V. H.: Không có gì xảy ra hết. Sách in ra, cho dù là loại best-seller thì cũng chỉ có một số ít người đọc thôi. Và người đọc thường cũng ít có ai tò mò kỹ như hai người bạn vừa nói. Nhưng từ đó rút kinh nghiệm, tôi ít dám phiêu lưu trong việc chọn tên đường và gắn số nhà. Nếu gặp trường hợp phải chọn một tên đường ngộ nghĩnh, chẳng hạn đường Vạn Kiếp, thì phải gắn một số nhà thật lớn. Ví dụ số 802, số 957. Chẳng sợ chạm phải ai hết. Vì mọi con đường ở đây đều ngắn, con số già nhất không lên nổi tới ba trăm. Và khi cần chọn một chỗ cư ngụ cho một nhân vật quá tồi tệ, quá xấu thì tôi dẫn ngay nhân vật đó về ngụ tại đường Hồng Bàng. Như vậy là yên. Vì Hồng Bàng là con đường của tôi đang ở, khỏi còn ai chê trách gì nữa. Bà Đức Lợi, nhân vật tàn ác hết chỗ nói trong truyện dài Nhánh Rong Phiêu Bạt, tôi cho ở tại đường Hồng Bàng. Nhà bà có cây trứng cá đứng ở trước sân. Hàng rào có cổng gạch, dựng bằng những tấm lam đúc xi-măng và quét vôi. Đúng y như nhà của tôi. Như vậy để độc giả khỏi thắc mắc là tôi muốn ám chỉ ai. Mình lãnh cái xấu để độc giả họ nhận cái tốt.
G. P. V. : Nhưng từ nãy giờ ông chỉ nói đến những kỷ niệm khó chịu. Chẳng lẽ nhà văn chỉ được sống với những kỷ niệm khó chịu thôi sao? Nếu thế thì bao nhiêu độc giả sắp-sửa-trở-thành-nhà-văn của ông sẽ nản lòng hết còn gì?
V. H.: Hẳn nhiên là tôi sẽ nói đến những kỷ niệm dễ chịu. Trước hết là một chuyện có vẻ hơi khôi hài. Hình như hồi đó là năm 1965 thì phải, tôi đang thuê thợ xây nhà. Nhằm lúc thiên hạ đua nhau xây cất, vật liệu kiến trúc khan hiếm, xi-măng thiếu, sắt thiếu, thậm chí đến gỗ dầu cũng phải tranh giành nhau mà mua ở các vựa gỗ. Trải qua được các giai đoạn đúc móng, đúc trụ, xây tường, lắp cửa đã mệt bở hơi tai, giờ đến giai đoạn mua gạch hoa để lót nền, nhưng đến hiệu gạch nào cũng thấy trống trơn, hỏi hiệu nào cũng không nhận com-măng của mình đặt. Con tôi rảo xe đi khắp cả thành phố mà cứ đành về không. Cuối cùng nó nài nỉ một hiệu kia và may quá người ta nhận giao hàng cho nó trong năm ngày. Hỏi làm sao mà con vận động tài tình vậy thì nó cười: “Chẳng là bà ta hỏi sao con còn nhỏ mà lại đi mua vật liệu xây cất nhà, chớ cha mẹ đâu sao không đi mua. Con nói hoàn cảnh của gia đình mình. Bà ta hỏi nà tới, con lỡ miệng nói thêm. Khi được biết Ba là nhà văn, bà ta nói bà ta có đọc truyện của Ba và bà ta thuận bán cho hai ngàn tấm gạch”. Cha con chúng tôi cười một bữa no nê về sự thành công bất ngờ này của nghiệp văn chương. Dù sao đó cũng là một sự thành công cụ thể dầu không rực rỡ lắm.
G. P. V. : Chuyện của ông có thể được xếp vào giai thoại văn chương và tôi chắc ai ở trường hợp ông cũng cảm động.
V. H. : Tôi cũng chắc vậy. Từ các độc giả, thỉnh thoảng tôi nhận được những món quà bất ngờ, thường nhất là hoa vào dịp Tết. Có khi là một cành mai, một cành đào, một cành anh đào, có khi là một giò lan, một giò mận, một cái áo len. Độc giả nam phái có trò chơi này cũng hay. Một độc giả tửu đồ lái xe từ Qui Nhơn vào, mang theo gỏi cá đã bào chế sẵn, mang theo cả bánh tráng rau, ớt, khế, dưa leo. Cả hai chai nước chấm và hai chai rượu. Ông ta vào nhà, tự giới thiệu rồi ra xe lễ mễ bưng các món nhậu vào. Nhằm hôm đó tôi có ba người bạn thân đang ngồi nói chuyện. Vậy là chúng tôi họp lại tất cả năm người, chiếu cố tận tình cho đến giọt rượu chót.
Một ông độc giả Dược sĩ ở Ban Mê Thuột xuống thăm, đem theo khô nai và một túi ni-lông có đựng một thứ nước chi trong vắt. Ông gọi chị ở của tôi mang lên một cái dĩa sành. Ông đổ chất nước đó vào dĩa, bật diêm đốt lên để nướng khô nai. Chừng đó tôi mới biết là rượu cồn. Tôi chợt nhớ đến ông Vương Hồng Sển năm xưa có rao trên báo rằng tới ngày đó tháng đó là sinh nhật thứ 70 của ông, bằng hữu nào có muốn đến mừng sinh nhật thì xin đem theo món nhậu, chớ ông muốn thết bạn mà không có đủ phương tiện. Nhưng tôi sẽ không dám nói dài dòng ở mục này, bởi nói về mình thì nên nói cái dở hơn là nói cái hay, cái dở dễ tin còn cái hay thì người ta có thể nghi ngờ. Có một kỷ niệm dễ thương này mà tôi chắc nhiều nhà văn khác cũng có gặp như tôi nhưng tôi được có cái may là tôi được thông báo trong khi một số các nhà văn khác không được thông báo. Câu chuyện xảy ra như thế này:
Có một buổi xế nọ, năm kia, có một người đàn ông và một người đàn bà đến gõ cửa nhà tôi. Người đàn ông tuổi cỡ 36 – 37 và người đàn bà tuổi trạc 27 – 28. Người đàn ông cầm ô đen, mặc com-lê nỉ màu tối. Cả hai tự giới thiệu là ở Đà Lạt xuống. Sau một tuần trà nước, câu chuyện trở nên thân mật và người đàn ông trình bày rằng hai người là một cặp vợ chồng mới cưới nhau. Họ xuống Nha Trang hưởng tuần trăng mật và họ tìm đến thăm tôi bởi tôi là Ông Mai đã tác thành cho họ. Ông thử tưởng tượng tôi đã ngạc nhiên đến mức nào, tôi đã làm mai cho họ hồi nào đâu, khi cả hai tôi đều chưa biết mặt. Người đàn ông mỉm cười, dịu dàng tâm sự. Thì ra ông ta làm chủ một tiệm chụp ảnh ở Đà Lạt. Sáu tháng trước, cô nàng ngồi trước mặt tôi đã đến hiệu ông ta chụp một ảnh bán thân. Chụp xong, hẹn ngày tới lấy hình. Đến ngày hẹn, cô tới. Cô bước qua khẽ, đứng ở của hồi nào mà ông ta không hề hay biết bởi ông đang mê mải đọc sách. Khi ông ta chợt ngửng lên thấy cô, ông vội vàng ra tiếp, vừa xin lỗi. Ông ta hỏi cô đến hồi vào. Cô nói đến đã gần mười phút mà thấy ông mê mải đọc sách nên cô không dám quấy rầy. Có hỏi ông đang đọc sách gì vậy. Ông ta lật bìa sách cho cô coi và cô nói cô cũng đã đọc cuốn đó. Hai người nói chuyện xoay quanh nội dung cuốn sách, kỹ thuật hành văn, và từ đó họ trao đổi những quan niệm và nghệ thuật, những quan niệm về nhân sinh. Sau đó, họ hẹn gặp nhau nhiều lần, họ tìm hiểu nhau hơn, họ có cảm tình với nhau và họ cưới nhau. Cưới xong, họ quyết định xuống Nha Trang, tìm gặp tôi để cảm tạ bởi vì tôi là tác giả cuốn sách mà ông ta đã đọc khi cô nàng bắt gặp. Đó là cuốn Khoảng Mát do nhà An Tiêm xuất bản. Họ đã đem tôi ra làm đầu đề thảo luận, đem tôi ra mổ xẻ, để đến cuối cùng họ quen nhau, hiểu nhau.
G. P. V. : Câu chuyện ông vừa kể, nếu không ghi làm giai thoại văn chương thì có thể chép vào cuốn Tình Sử của thời này. Đúng như ông đã nhận xét, nhiều tác giả đã đóng vai ông Mai cho hai kẻ yêu nhau, chỉ tiếc là họ không biết. May mắn là ông đã gặp hai người có tâm hồn nghệ sĩ.
V. H. : Thật đúng là một cặp vợ chồng nghệ sĩ. Chớ bình thường, trong những trường hợp tương tự, người tác giả chỉ là cái cớ, chỉ đóng vai hờ một cách mờ nhạt. Khi họ yêu nhau thật kỹ rồi thì đá hết mọi tác phẩm, dẹp hết mọi tác giả.
G. P. V. : Chắc ông còn gặp nhiều chuyện thú vị bất ngờ khác. Lý do là vì ông viết văn ký tên thật chớ không lấy bút hiệu. Khi đi đến đâu, ông chìa thẻ căn cước ra, người ta đọc thấy tên ông là người ta có thể bắt chuyện với ông.
V. H. : Nếu xét về điểm đó thì tôi thấy ký tên thật nhiều khi có lợi hơn ký bút hiệu. Có điều tôi ít có dịp tiếp xúc với các cơ quan, ít đi đây đi đó nên tôi ít được gặp những chuyện thú vị bất ngờ như ông nói. Cũng có thể là họ đọc tên tôi, biết tôi là tác giả nhưng thường thì họ làm như không để ý, không hề biết. Đó là thái độ tự vệ, tự kiêu, rất đỗi thông thường. Thỉnh thoảng cũng gặp có người cởi mở tự nhiên. Như mấy cô Air VN ở trạm Phạm Ngũ Lão. Có một lần tôi y theo giờ ghi trong vé, đến trạm lúc 6 giờ rưỡi. Cô phụ trách cầm lấy vé, dò lên bản manifeste rồi bảo tôi chịu khó đợi hai giờ nữa vì chuyến bay hoãn lại hai giờ. San hai giờ, tôi trở lại. Khi tôi trình vé lần nữa để đổi vé lên tàu thì cô phụ trách hỏi tôi có phải đúng là nhà văn V.H. không. Tôi bảo dạ đúng. Cô liền chỉ năm, sáu cô cùng ngồi kề bên vừa nói: Đây là những độc giả vẫn ái mộ văn ông. Tôi cám ơn rồi xách hành lý lên xe ca.
Những trường hợp độc giả ngỏ lời khen một cách trực tiếp và tự nhiên như vậy rất hiếm. Thường thì họ dè dặt, mà họ dè dặt cũng phải. Họ sợ mình được khen lại hếch cái mặt lên, dương dương tự đắc rồi sau đó ba hoa cái miệng. Chính bởi tâm lý đó mà đồng bào mình thường hào phóng trong sự chê và bủn xỉn lời khen.
G. P. V. : Có nên coi đó là một thái độ đúng không?
V. H. : Tôi nghĩ không nên. Bởi tôi cho rằng một nhà văn mà nổi danh thì đã có gì gọi là sướng quá đâu? Nó vẫn sống nghèo, nó vẫn chạy tiền mua gạo, chạy tiền trả tiền nhà, trả tiền ông bác sĩ và tiệm thuốc Tây. Nó vẫn âu lo, chật vật lúng túng như mọi người làm nghề khác, có thể còn tệ hơn bởi nó ít thực tế hơn, nhiều mơ mộng lý tưởng hơn. Cứ hỏi những cô thiếu nữ mà xem. Họ có thể yêu một nhà văn, một nhà thơ nhưng khi lấy chồng thì họ chọn ông chủ tiệm giày.
G. P. V. : Ông vừa viết văn vừa làm giáo sư. Một số lớn các nhà văn khác cũng vậy, khi cần làm thêm một nghề để sống họ cũng hay chọn nghề dạy học. Vậy ông có thấy hai nghề đó phù hợp với nhau hay chống đối nhau?
V. H. : Chống đối nhau. Nhà văn cần đi đây đi đó, cần sống nhiều cuộc đời mới có chất liệu phong phú mà mô tả cuộc đời. Vậy mà nghề dạy học đòi hỏi sự hiện diện đều đặn ở một địa phương nhỏ theo một thời dụng biểu cứng. Có lẽ nghề làm vườn thích hợp với nghề viết văn hơn. Ra cuốc đất chậm nửa giờ thì cũng không vì thế mà cỏ giết chết hết lúa, bỏ phân chậm một ngày thì cũng không vì thế mà hoa tàn trái rụi. Chớ dạy học thì phải đúng giờ giấc. Đang viết có hứng cũng phải bỏ bút xuống đi dạy cái đã. Thêm nữa, nghề dạy học gò bó con người về mặt tư tưởng. Không nhiều thì ít, khó có thể viết phóng túng khi mình còn cầm viên phấn đứng trước bảng đen. Trường hợp Nabokov thật là hi hữu. Nếu ở Việt Nam thì đã có không biết bao nhiêu đoàn thể giáo chức, đoàn thể phụ huynh học sinh, đoàn thể bảo vệ luân lý lên tiếng đả kích, mạt sát ông.
G. P. V. : Như vậy là không có sự phù hợp nào giữa công việc dạy học và công việc viết văn?
V. H.: Thật ra thì hai nghề đó chẳng phù hợp gì với nhau hết. Đã làm giáo sư rồi thì e rằng chỉ nên mở tiệm sách để bán bút chì Gilbert và vở Cogido cho học trò. Đã làm nghề viết văn rồi thì đừng nên làm nghề nào khác nữa. Tuy nhiên, trong cái thế tương đối, một người làm văn mà đi dạy học thì cũng biết tìm những cái thú vị nho nhỏ. Cách đây mấy năm tôi có dạy Việt văn ở một lớp Trung học. Tôi cho học sinh phê bình trên giấy nội dung và hình thức một bài giảng văn trích của Võ Phiến. Sau khi thu bài, chấm bài, tôi chợt có ý kiến là chọn năm sáu bài có những nhận xét ngộ nghĩnh, tôi bỏ vào phong bì và gởi tặng ông Võ Phiến.
G. P. V. : Phải chăng điều đó có nghĩa là học sinh thích được học với một giáo sư kiêm nhà văn?
V. H. : Cái đó thì tôi không rõ lắm. Có thể như lời ông nói, học sinh họ thích những món lạ, chẳng hạn giáo sư kiêm nhạc sĩ, giáo sư kiêm ca sĩ, giáo sư kiêm võ sĩ. Chớ riêng tôi thì trong suốt bao nhiêu năm đi dạy, tôi không dám nhận dạy môn Việt văn. Ông nghe có vẻ mâu thuẫn không? Là nhà văn, chúng tôi yêu tiếng Việt hơn ai hết, phụng sự cho tiếng Việt hơn ai hết. Nhưng khi dạy tiếng Việt cho học sinh thì thật là nản. Đến nỗi có lần tôi đã nửa đùa nửa thật mà nói với một lớp nữ sinh “Đối với tiếng Việt, các cô là những bà mẹ chồng. Các cô hành hạ nó, dày xéo nó, vùi dập phũ phàng nó. Câu văn viết sao cũng được, bất chấp văn phạm, bất kể chính tả. Trong khi với tiếng Anh tiếng Pháp, các cô chíu chít nâng niu, sai một giới từ nhỏ, thiếu một chữ S, chữ R các cô xuýt xoa đấm đầu bứt tai như vừa phạm tội trọng”. Thật vậy, sự coi thường tiếng Việt ở bậc Trung học đã đến độ trầm trọng. Ông sẽ làm được gì, nếu ông nhận dạy một lớp nào đó, lớp Mười chẳng hạn, lớp Mười một chẳng hạn, chỉ trong một niên khóa? Giáo chức ở bậc Tiểu học chỉ cần dạy cho học sinh giỏi Toán, giáo chức ở Trung học chỉ cần dạy cho học sinh giỏi Lý Hóa, Toán, Sinh ngữ. Đó là những môn tương đối dễ dạy vì có luật lệ nguyên tắc rõ ràng đúng sai phân minh nên học sinh sợ, phải lo học. Sang đến tiếng Việt thì học sinh coi thường đã đành mà giáo sư thì cũng mỗi thầy một cách, mỗi cô một cách, thậm chí ở đôi trường người ta còn dành môn Việt văn để chia vào phút chót cho những giáo sư nào không đủ khả năng dạy các môn khác. Ông tưởng tượng xem, ông sẽ bồi đắp những chỗ khiếm khuyết như thế nào? bằng cách nào? và đó là mới nói đến văn phạm, phần căn bản đặt được câu cho đúng. Đến phần kỹ thuật mô tả, kỹ thuật thuật sự v.v... bao gồm nhiều phương pháp, mỗi phương pháp bao gồm nhiều bài tập ứng dụng. Học sinh sẽ la trời bảo sao Việt văn gì mà rắc rối vậy? Cái gì lại làm bài tập, làm quá Anh văn vậy ? Cái gì lại có Luật 1, luật Hấp dẫn (Loi d'intérêt), luật 2, luật Hữu ích (Loi d’utilité), luật 3, luật hợp lý (Loi de vraisemblance)... làm quá học Vật lý vậy? Cuối cùng học sinh chối bỏ ông thầy. Họ tưởng viết văn hay là cứ ngồi xuống ghế, - nếu được nằm thì càng tốt - vò cái đầu cho rối bù lên, mồi điếu thuốc Bastos xanh, nốc một ngụm cà-phê đen, tra cặp gương trắng vào rồi viết lung tung bất kể trời đất, chấm câu lung tung theo một cái yên-sĩ-phi-lý-thuần chập chờn nào đó.
G.P. V. : Ông có “bi thảm hóa” vấn đề quá không?
V.H. : Thì cũng có một chút, một chút thôi. Buồn cười nhất là năm xưa khi đứa con đầu của tôi còn nhỏ, nó đi học, thầy ra bài luận bảo tả con chó. Tôi bày cho nó cách nhận xét màu sắc, nhận xét hình dáng, nhận xét cử chỉ. Sang đến phần kết luận, phần cảm tưởng, tôi bảo nó cứ nói thật những cảm tưởng của nó đối với con chó. Nó tin lời tôi, biên đại khái rằng nó không ưa con Lu, - tên con chó - vì mỗi lần cầm cái bánh kem mà lơ đễnh là con Lu nhảy lên đớp cái bánh rồi chạy tuốt. Đến bữa ông thầy chấm bài, ổng gạch thê thảm cái kết luận. Và ổng sửa bên cạnh: “Tôi yêu con chó Lu của tôi lắm và tôi săn sóc nó chu đáo, tắm gội và bắt bọ cho nó, vân vân. Vân vân”. Con tôi đem bài luận ra bắt đền. Tôi đành đền cho nó một cái... bánh kem.
G. P. V. : Ông có nhận xét gì về câu chuyện đó?
V. H.: Tôi nhận thấy rằng một số người dạy học còn ít nhiều câu nệ. Thích đường mòn lối cũ. Hễ tả con vật nuôi trong nhà thì phải “yêu nó lắm... vì nó giúp ích…”, tả mùa Thu thì phải ‘sương giăng gió lạnh”. Với họ, phàm đã là lá thì phải xanh, mái ngói thì phải đỏ, vườn hoa thì phải đủ màu. Họ không lưu ý tạo hoàn cảnh cho học sinh phân biệt rằng tuy nói màu xanh nhưng có màu xanh đậm, xanh lợt, xanh pha trứng sáo, xanh ve chai, xanh da trời, xanh nước biển, xanh pha đen, xanh pha tím... vân vân. Một hôm nhân học sinh đọc bài giảng văn mô tả một nhân vật đang đói, tôi cho họ bổ túc thêm chi tiết bằng cách nhớ lại những hiện tượng về cái đói mà họ có kinh nghiệm và tôi thấy rằng họ mô tả còn kỹ hơn bài giảng văn; đói chảy nước miếng, đói cồn cào trong ruột, đói mờ con mắt, đói quặn thắt ngang hông, đói lả mồ hôi, đói run ngón tay.
G P. V. : Hình như từ nãy đến giờ khi đề cập đến nghề giáo sư ông chỉ nhắc đến những cảm nghĩ không được thoải mái. Ông có thiên kiến không? Tôi tưởng rằng một nhà văn khi dạy học cũng có những kỷ niệm thú vị như khi ngoài đời nhà văn mua được gạch hoa và làm Mai cho ông chủ tiệm chụp hình?
V.H: Cũng có chớ nhưng mà không có gì đặc biệt nên không nói chi. À, có một năm xưa, ngẫu nhiên tôi có dạy một giờ Công dân giáo dục ở một lớp Đệ Ngũ. Giờ trước lớp này học Việt văn với một cô giáo và bất ngờ mà bài giảng văn lại là bài trích văn của tôi. Khi tôi vào lớp, đang hỏi bài cũ thì có tiếng học sinh cãi nhau. Tôi kêu ba người học sinh phạm lỗi đứng dậy để hỏi nguyên do thì một đứa thưa rằng nó nói tác giả bài giảng văn vừa rồi là tôi, nhưng hai đứa kia không chịu tin, cãi lại. Hai đứa kia nói rằng chắc là trùng tên chớ tác giả gì lại còn sống. Tôi nghe mà không nín cười được. Đối với các em học sinh cỡ mười ba mười bốn tuổi, hễ phàm tác giả những bài giảng văn có in trong sách là phải chết hết cả rồi.
G. P. V. : Cám ơn ông đã cho độc giả của Văn nghe những mẩu chuyện thật lý thú. Để kết thúc, tôi xin đặt một câu hỏi chót, có hơi lạc đề một chút. Đó là khi bước vào cổng tôi để ý thấy trên sân ông có trồng những bụi trúc. Hình như mới trồng, vì lần trước tới thăm ông tôi không thấy. Có phải rằng sự trồng những bụi trúc có liên quan đến một sự chuyển hướng trong tâm hồn ông? Người ta vẫn thường quan niệm rằng cây Trúc là tượng trưng cho một tinh thần cao khiết?
V. H.: Thực tế khá đơn giản ông ạ! Những bụi trúc này là do mấy ni cô đem từ Phật học viện Hải Đức, vượt qua sườn núi đem xuống cho tôi. Trước đây có một hôm tôi đứng nhìn bụi trúc ở Phật học viện, tôi có khen cái dáng đẹp thanh tao của nó và mấy ni cô có nhã ý sớt phần cái Đẹp đó đem xuống núi tặng tôi. Người xưa vẫn ca tụng cây trúc là “Tiết trực tâm hư”, tượng trưng cho tâm hồn của người quân tử. Tôi tự thấy không đủ cái Đức để làm bạn tinh thần của Trúc, mà chỉ làm bạn được với cái dáng đẹp thanh thoát của Trúc mà thôi. Ông xem, hoa Hồng hoa Thược dược hương sắc rực rỡ đậm đà nhưng mau tàn mau phai mà sự chăm bón thì đòi hỏi nhiều công phu. Lá trúc lăn tăn, cành trúc manh mảnh... chỉ cần vài gáo nước mỗi ngày mà luôn luôn có màu xanh mát mắt, có dáng gầy thanh tao, tôi ở trong hoàn cảnh đơn chiếc nên phải mượn Trúc làm bạn là do lẽ đó.
G. P. V. : Thay mặt bạn đọc của Văn xin thành thật cảm ơn ông.
(Giai phẩm Văn, chủ đề Võ Hồng, 1974)
ngôi trường quê
VÕ-HỒNG
Hôm nay trở lại thăm trường cũ
Trong tháng năm qua đổi khác rồi:
Mái đỏ, tường vôi, sân lát gạch,
Đôi hàng dương-liễu chạy song đôi.
*
Mười mấy năm mà như mới đây,
Lũ chim thơ dại đã xa bầy.
Ai còn? Ai mất? Ai thương tiếc?
Ai nhớ qua thăm lại chốn này?
Nhớ độ bỏ trường, hè nắng gắt
Dãy bàng trước cổng lá xanh tươi.
Hoàng oanh mấy chiếc, dăm đôi bướm
Mây trắng tung bay, gió ngập trời.
Bây giờ cảnh cũ không còn nữa
Mà khách năm xưa cũng ngại ngùng.
Bỡ ngỡ chim nhìn, im tiếng hót
Liễu gầy cũng đứng ngẩn ngơ trông.
*
Ôi những trường quê mái rạ vàng
Có buồn khi thấy nắng hè sang?
Bao con chim nhỏ bay tan tác
Quên cả cành xưa, cả nẻo đàng.
V.H.
(Bách Khoa số 101 ngày 15-3-1961)
Nhạc: Trường Cũ Tình Xưa, nhạc sĩ Duy Khánh, tiếng hát Băng Châu, băng nhạc Trường Sơn 8 (trước 1975)
https://youtu.be/olNbNeQDLmk?si=hZr1x32ndMP44x8k
Võ Hồng
Trong vùng rêu im lặng
– Con cứ can đảm vục đầu xuống nước thì cặp chân sẽ tự nhiên nổi.
- Nhưng mà nước vô mũi.
- Đừng thở.
- Nước vô mắt.
- Nhắm mắt lại.
- Nhắm mắt thì biết đâu mà bơi?
- Hãy cứ làm sao cho thân mình nổi đã. Bơi? Bơi đi đâu mà cần phải thấy đường? Này, coi chừng. Ba đè đầu con xuống đây.
- Khoan đã! Khoan đã! Để con chuẩn bị đã.
– Nhắm mắt nín thở chớ có chi đâu mà chuẩn bị?
- Rồi.
Tôi đè đầu Ngọc xuống. Đôi chân đôi tay Ngọc đập loạn xạ và cái đầu cứ chực ẩy bàn tay tôi lên. Cuối cùng đôi chân chìm, một tiếng ú ớ làm nước nổi bong bóng từng loạt. Ngọc đứng thẳng dậy, ho hen sặc sụa:
- Ba làm con sặc nước. Dạy bơi cái kiểu gì…
Tôi cười lên một tràng dài:
- Con chưa biết bơi mà đã phê bình kiểu dạy bơi của ba.
- Nhưng dạy mà làm con gần tắt hơi luôn.
- Tại con đập tay chân loạn quá nên mau mệt. Hãy đập từ từ.
– Làm uống luôn mấy ngụm nước.
– Trước khi biết bơi người nào cũng phải uống rất nhiều ngụm nước. Cộng tất cả lại được chừng nửa lít.
- Ba còn nói đùa.
- Nói thiệt đó.
– Con không tập nữa...
- Thì sẽ không bao giờ biết bơi.
- Nhưng thà không biết bơi. Chớ... Uở! Cái gì ? Uở... Uở...
Một cái mũ cao su đỏ từ dưới nước trồi lên gần chúng tôi, Một khuôn mặt ướt sũng nước. Một bộ áo tắm màu đỏ. Một thân hình trắng trẻo. Một nụ cười:
- Chào ông.
Tôi lúng túng:
- Cô.
– Tôi xin lỗi đã tới quấy rầy ông. Tôi thấy ông tập bơi cho cháu, vội lặn lại coi. Ông để tôi tập giùm cho. Đàn ông thường thiếu kiên nhẫn. Cháu bé mấy tuổi? Năm tuổi phải không?
– Cô nói gần đúng. Bốn tuổi chín tháng.
– Cháu tên gì?
- Tên Ngọc.
- Còn tôi, – nàng trỏ ngón tay cái vào ngực, - tôi tên Yến.
Yến hiện đến trong đời tôi bất ngờ như vậy đó. Không cần ai giới thiệu, không bị run rủi bởi một hoàn cảnh ngẫu nhiên nào. Nàng tạo ra hoàn cảnh.
Yến mau làm quen với Ngọc. Đúng là nàng có những nét thanh tú và những cử chỉ dịu dàng. Nàng bế Ngọc cho nằm sấp xuống nước, và nằm trong vòng tay của nàng Ngọc không đập loạn chân tay như khi được tôi tập bơi cho. Ngọc cười vui, nói chuyện bi bô. Nàng không ra lệnh bắt gục cái đầu xuống nước, - như tôi, – mà bằng một bàn tay nhẹ nhàng nàng giữ cho cái đầu không được ngẩng lên cao. Nàng tập cho đôi chân đập nhịp nhàng. Nàng tập né mặt ngang lên để thở vô rồi ụp mặt xuống lại. Giọng nói êm ái và cử chỉ ân cần khiến tôi đứng cạnh đóng vai kẻ bàng quan mà cũng thấy được êm đềm lây.
Tập chơi một lát, nàng bảo Ngọc:
- Thôi cháu mệt rồi. Lên bờ.
Nhưng Ngọc lắc đầu:
- Con chưa mệt.
– Dẫu chưa mệt cũng phải lên bờ nghỉ. Nghỉ một lát rồi tập nữa.
Ngọc ngoan ngoãn nghe theo nàng. Hai người cầm tay nhau nhảy tung tăng để tránh những đợt sóng và tôi lững thững đi sau như một người lạ.
Ngồi lên bãi cát, tôi hỏi:
- Cô không phải là người ở đây?
- Vâng. Tôi ở Sài-gòn.
- Cô ra đây đã nhiều lần?
Nàng nheo một con mắt :
- Hình như ba, bốn lần. Lần thứ nhất cách đây hơi lâu. Lần chót cách đây một năm.
– Cũng vào mùa Hè như thế này?
- Lần nào cũng vào mùa Hè. Ông có thể nghĩ rằng bãi biển của ông hấp dẫn du khách vào giữa mùa Đông?
- Tôi chưa kịp nghĩ rằng cô là du khách nên mới hỏi vậy. Vả lại đôi khi người ta cũng bất chợt muốn đến thăm một bãi biển quen thuộc vào giữa mùa Đông xem dung mạo nó ra thế nào. Như muốn nhìn khuôn mặt người yêu của mình khi nàng ngủ.
Tôi vừa nói vừa vùa cát đắp lên bàn chân mình, đôi mắt theo dõi những hột cát xô nhau chảy ở những khe ngón chân.
*
– Ít khi lắm. Mấy năm trước, khi còn đi dạy học thì trên nguyên tắc mỗi năm tôi được rảnh ba tháng Hè, nhưng thời gian đó bị cắt vụn bởi những cuộc thi cử. Hết thi vào đệ Thất đến thi Trung học rồi thi Tú tài. Vừa xong khóa Một lại tiếp đến khóa Hai. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm còn có thêm công tác Ấp chiến lược. Thời này thì còn sót lại công tác ở phòng phiếu nếu nhằm phải năm có bầu cử.
– Đi chấm thi là những dịp du lịch ngắn.
- Đúng như vậy nếu tiền phụ cấp đủ bù trừ những chi phí và nếu tình thế yên ổn. Những năm biểu tình sôi động ở Huế, ở Đà-nẵng, có điều động binh lực thì khó lòng mà tưởng tượng rằng đi chấm thi đồng nghĩa với đi du lịch.
– Lúc đó thì ông phải nghĩ rằng ông đang làm nhân chứng lịch sử.
- Tôi có nghĩ như cô, cho dù phải khá nhọc nhằn mới có thể nghĩ như vậy được. Những viên đạn bắn vung vãi không biết phân biệt người nhập cuộc với người chứng nhân.
- Họa hoằn lắm mới xảy ra ngộ nhận.
- Cô tưởng vậy, và mọi người cũng tưởng vậy. Lý do là bởi người chết không cất lên được tiếng nói. Vả lại cho dù họ có nói được thì hỏi làm sao mà họ có thể nói cho khắp hết mọi người cùng nghe?
Nàng mỉm cười:
– Trừ phi họ làm Tổng thống.
Câu hỏi xuất phát từ đâu mà lại dẫn đến một ông Tổng thống? Tôi đi ngược lần những câu hỏi và câu trả lời và tôi suýt cười khi tìm gặp câu hỏi đầu tiên của nàng: “Ông có hay vào Sài-gòn không?” Chắc đó chỉ là một câu hỏi lấy lệ. Nàng có thể sẽ mời tôi ghé lại nhà nàng chơi nếu tôi có dịp vào Sài-gòn. Nàng sẽ cho tôi cái địa chỉ. Chúng tôi sẽ nói những chỉ chuyện không cần thiết và câu chuyện sẽ dẫn tới một ông Tổng thống như hôm nay.
Tôi nhìn sang nàng. Nàng ngồi trước mặt tôi, cách tôi không hơn năm tấc. Khuôn mặt đẹp và nét thông minh tỏa ra trong ánh mắt sáng long lanh. Cái mũi, đôi môi, thân mình, đôi cánh tay, đôi chân, màu da... tôi mang một tâm trạng phức tạp khó tả khi không tìm thấy được một khuyết điểm nào trên người nàng. Có thể nói đó là cái tâm trạng sung sướng của sự thất bại.
Một buổi sáng hanh nắng tôi đang loay hoay đun nước trong bếp thì chợt nhìn ra cửa tôi thấy nàng đứng đó. Tôi lên tiếng ngạc nhiên:
- Sao cô biết được nhà tôi?
– Cháu Ngọc mách.
- Cô vào bằng cách nào?
- Cổng khép mà không gài chốt. Tôi đẩy vào.
- À! Chị vú xế nay đưa cháu tôi đi cắt tóc. Đi ra mà không chịu khó mò tay gài chốt cửa.
- Nghĩa là ông đang trách tôi đó.
Tôi lắc đầu vừa mỉm cười:
- Không. Không. Để tôi rửa tay, mời cô lên nhà trên.
Nàng giơ bàn tay ra hiệu:
– Khỏi cần. Ông cứ làm việc tự nhiên đi.
- Không có việc chi hết để mà làm. Đun nước chỉ là một cách tiêu khiển.
- Ông nói dối. Ông đã nói dối tôi một lần rồi, trước đây.
- Lúc nào?
- Ở ngoài bãi biển.
- Tôi đã nói dối như thế nào?
- Thôi, ông bước ra rửa tay đi để tôi vào coi chừng hộ ông. Rồi lát nữa tôi sẽ nói.
Tôi vâng lời bước ra và nàng vào bếp một cách tự nhiên. Tôi lên nhà trên tìm bình trà và đem rửa ly tách. Khi nước sôi, nàng tắt lò, chế nước vào bình, đổ đầy hai bình thủy. Chúng tôi lên ngồi ở phòng khách cạnh hai tách trà lên khói. Tôi lên tiếng trước:
- Cô cho biết tôi đã nói dối như thế nào?
– Khi tôi bảo vợ ông là người tốt, rằng ông được yêu thương nên ông không hiểu tâm trạng của tôi thì ông không hề cải chính.
- Đó là sự thật thì cô bắt tôi cải chính làm sao?
- Đáng lẽ ông nói rằng đó là chuyện ngày xưa, chuyện đã qua.
- Nhưng tôi có hề nói rằng đó là chuyện hôm nay, chuyện hiện tại đâu?
- Ông không nói tức là ông công nhận.
– Nhưng ai nói với cô rằng đó là chuyện đã qua, chuyện ngày xưa?
– Cháu Ngọc.
- Cháu nói lúc nào?
- Ở ngoài bãi biển, khi cháu đi chơi với tôi.
- Cháu nói như thế nào?
- Cháu nói cháu không có Má. Cháu ở với Ba chớ không có Má.
- Như thế thì đâu có chuyện ngày xưa hay bây giờ?
- Những người khác nói với tôi điều đó.
Tôi hơi cau mày bởi những người khác nào đó không bao giờ để cho tôi được yên. Tôi muốn quên đi hết, xóa bỏ đi hết, tạo dựng một nếp sống khác, hoàn toàn khác y như khi tôi lật bỏ nhiều trang của một cuốn sách, bỏ hẳn đi một hay hai chương để tìm đọc một chương mới. Từ ngày vợ tôi và tôi ly dị nhau.
Tiếng nói của Yến cắt đứt dòng tư tưởng tôi.
- Tôi xin lỗi ông vì đã làm ông phiền lòng. Thật ra, tôi không phải là một người thiếu tế nhị và không muốn làm một kẻ kém lịch sự.
Tôi đẩy tách nước lại gần nàng hơn:
- Mời cô xơi nước.
Và mỉm cười:
- Hãy để cho tách nước rửa những ý nghĩ không vui. Nước trà có chất tanin, đặc tính tẩy rửa rất cao. Cũng y như nước biển. Hôm gặp cô lần đầu, tôi nhớ đã đề nghị cùng cô dùng nước biển để gội rửa những nỗi buồn.
Yến cầm tách trà để lên môi.
– Cô có nhận được những tin tức của người bạn trai của cô?
– Sao ông biết?
- Tôi đâu có biết? Tôi đang hỏi cô mà.
Nàng phì cười:
- Tôi có tật nóng nảy vội vàng. Đáng lẽ tôi không học lên tới Đại học là phải, bởi một tật như vậy không phải là một ưu điểm dành cho các ngành nghiên cứu. Đằng này tôi lại cứ học và tôi lại chọn Luật.
– Đôi khi sự nóng nảy làm mồi lửa đốt lên sự Hùng biện.
- Làm mồi lửa cho sự Hùng biện cháy lên thì được, nhưng đốt cho nó cháy tiêu hết thì nguy. Vả lại, đó đâu phải là sự nóng nảy? Sự nóng nảy chẳng đem lại được cái gì tốt hết.
Vị trà ngọt thơm ở đầu lưỡi. Đôi bàn tay của nàng có những ngón trắng thon.
– Lúc nãy mới nghe ông hỏi tôi tưởng là ông đã biết rồi. Quả thật là tôi mới vừa nhận được thư của anh ấy.
- Những tin vui?
- Ông thử đoán xem. Khi tôi phải đi bộ hơn nửa cây số để tìm nhà ông…
Vừa lúc đó có tiếng xe xích lô phanh lách cách ở trước cổng, có tiếng cửa cổng mở và tiếng giày cháu Ngọc sào sạo trên sỏi. Tiếng của cháu sốt ruột gọi tôi:
- Ba ơi! Ba ơi! Con cắt tóc rồi. Ba ơi, cô chủ tiệm cho con gói kẹo sô-cô-la.
Cháu chạy vào phòng khách, bỡ ngỡ nhìn nàng một giây rồi vụt chạy lại ôm lấy cánh tay nàng:
– À cô! Cô mà con tưởng ai. Hôm nay cô mặc áo dài con trông lạ, con tưởng ai.
Nàng đưa tay vuốt ve chiếc đầu tóc mới cắt của Ngọc:
- Sao mấy hôm nay cháu không đi tắm với cô?
- Tại con bận đi học.
- Cháu học được mấy chữ rồi?
- Dạ con... nhiều lắm. Để con lấy sách cho cô coi.
Ngọc vừa nói vừa gỡ bàn tay của nàng, chuẩn bị chạy đi lấy sách nhưng nàng giữ lại.
- Khỏi cần. Cháu chỉ cần đọc cho cô nghe vài chục chữ thôi.
- Dạ.
Kỳ nghỉ Hè ta về quê
Nhà ta ở mé bờ đê
Ở nhà có mẹ cha ta
Cô và bà quí ta quá.
- “Về quê” nghĩa là sao?
Ngọc ngước mắt ngó nàng đăm đăm:
- Nghĩa là..... mình đi về... cái... cái quê đó,
- “Cái quê” là cái gì?
- ... là cái... cái gì... hè?
– Còn “bờ đê”?
- Cô giáo nói đó là bờ ruộng.
– “Mẹ cha” ta?
- ... là Ba đó.
Ngọc giơ ngón tay chỉ ngay vào tôi một cách sung sướng.
– “Ba” mới là “cha”. Còn “mẹ”?
– “Cha mẹ” là Ba. Ba con dạy như vậy mà. Phải không Ba?
Tôi khẽ gật đầu. Yến chầm chậm nhìn sang tôi, đôi mắt đang long lanh ánh vui chợt tắt. Nàng đang hiểu hoàn cảnh của tôi. Một người thông minh như nàng không đòi hỏi những lời giải thích. Nàng biết vì sao tôi phải giảng sai cho con tôi như vậy. Rồi khi lớn lên, tự khắc nó biết.
Ngọc không hiểu gì hết về sự im lặng đột ngột của chúng tôi. Nó lay bàn tay Yến:
- Sao cô không hỏi con nữa?
Giọng nàng rời rạc:
- Thôi, hỏi bấy nhiêu đã đủ.
- Con biết “Cô và bà” là cái gì rồi.
- Vậy thì giỏi lắm. Cô biết vậy nên cô không cần hỏi.
Vừa nói, Yến vừa kéo Ngọc ngồi xuống ghế. Nhưng Ngọc không chịu:
- Con ngồi làm nhăn áo đẹp của cô.
Nàng vẹt áo sang một bên.
- Làm nhăn cái quần cũng đẹp. Thôi cô ra vườn với con, con chỉ cây mận của con cho cô coi.
Nàng đưa mắt nhìn tôi ngầm xin phép. Tôi nói:
– Nó khoe với mọi người khách cây mận của nó. Không khoe thì y như nó không chịu được.
Nàng cầm tay Ngọc đứng dậy vừa bảo tôi:
- Cháu mét với tôi về cây mận đó từ hôm mới gặp. Cháu nói ba cháu trồng khi cháu mới sinh được một tháng. Cháu nói cây mận đó đẹp lắm. Cháu mời tôi hôm nào lại nhà để cháu chỉ cho xem. Cháu nói luôn địa chỉ, không kịp đợi tôi hỏi.
- Chưa thấy ai chủ quan như nó. Cứ khen cây của mình đẹp, trái của mình xinh.
– Cháu còn nói khi trái chín Ba hái bỏ vào túi ni-lông rồi sai chị vú đem biếu cô Trâm, cô Tuyết, cô Hương.
Tôi ngượng khi nghe một người đàn bà nhắc đến tên những người đàn bà khác mà tôi có cảm tình.
Một ngày nào sau đó, chúng tôi lại gặp nhau ở bãi biển. Lúc bấy giờ có một đoàn ngư phủ đang kéo lưới rùng. Nhìn mấy người đàn bà xắn ống quần xắn tay áo ngả người về một bên chỏi chân kéo sợi dây neo to, nàng chạy lại nhập cuộc, ra sức kéo với họ, Tôi thấy vui lây cũng lại bắt tay vào dây kéo luôn. Khi lưới kéo gần tới bờ thì đầu dây bên kia do một đoàn người khác cũng chỏi chân kéo đi gần lại đoàn người của đầu dây bên này. Tôi chạy sang phụ tay ở đầu dây bên kia.
Càng gần tới bờ, mặt lưới càng nổi cao trên mặt nước. Có tiếng vẫy mạnh của tôm cá bị bao vây. Có lần nước chạy ngang dọc, dấu vết tôm cá chạy loạn. Tiếng đàn bà và trẻ con mừng rỡ ồn ào. Nàng pha tiếng cười vui vào với họ.
Còn mươi thước nữa tới bờ. Còn dăm thước nữa. Còn ba thước nữa. Chợt mọi người rán sức một phát cuối cùng, lưới chạy vụt lên bờ, những ngư phủ nhảy trái ra ngoài. Chỉ có tôi và nàng lọt vào giữa lưới. Cùng với bầy cá tôm. Nàng cười to lên, nói với tôi:
- Chúng ta rơi vào lưới rồi! Chúng ta bị rơi vào lưới rồi!
Tôi cũng cười nhưng không thể reo to lên hồn nhiên như vậy.
Chợt nàng nghiêm nét mặt trở lại, bước lại đứng kề vai tôi.
– Tôi biết ông đang nghĩ gì khi ông có nhiều kinh nghiệm sống hơn tôi. Vâng, ở trên đời còn biết bao nhiêu là loại lưới, chúng ta thoát được thứ lưới này thì lại mắc vào thứ lưới khác. Loại lưới thô lỗ này, – nàng chỉ đống lưới nhuộm nâu bỏ nằm trên bãi, — chỉ lừa được lũ động vật thiếu trí khôn, mắt kém nặng tai là lũ tôm cá. Loài người là động vật biết suy nghĩ và biết đam mê thì có lưới danh vọng, lưới tiền tài. Vượt lên một bực cao, nhà tu hành mà quá sốt sắng đến độ khư khư cố chấp thì cũng chỉ là cá tôm của một loại lưới khác.
Tôi nói đùa:
- Chỉ có một loại lưới êm đềm nhất, trong đó nạn nhân được rơi vào từng cặp, từng liên danh nói theo giọng bầu cử thời nay. Ở các loại lưới khác, người ta rơi cô đơn như khi ứng cử đơn danh vào Hạ nghị viện.
Nàng hỏi:
- Ông có sợ loại lưới đó không?
Tôi lắc đầu:
- Không.
Tôi quay sang nàng:
- Còn cô?
- Tôi... tôi thì...
Nàng bỏ lửng câu nói.
Ba hôm sau Yến phải đáp máy bay về Sài-gòn. Ngày nàng đi lại đúng là ngày tôi đáp máy bay đi Đà-nẵng. Hai giờ máy bay Sài-gòn cất cánh, bốn giờ tới lượt máy bay Đà-nẵng. Nàng nói:
– Thôi, ông khỏi cần phải lên phi cảng tiễn đưa. Tôi không muốn những đứa em họ của tôi chú ý đến chúng ta.
Nàng đưa tay cho tôi bắt. Tôi im lặng cầm bàn tay nàng, và giữ lâu trong bàn tay tôi.
- Ngày mai tôi sẽ từ Sài-gòn bay lên Đà-lạt. Dự trại Hè sinh viên mười ngày trên đó. Muốn viết thư cho tôi thì cứ đề: Hải Yến, Trại Hè Sinh viên Đà-lạt là thư tới.
- Còn tôi thì chưa có địa chỉ chắc chắn ở Đà-nẵng. Cô cứ gửi thư theo loại lưu trữ trong khi chờ đợi.
Từ mười một giờ là giờ chúng tôi bắt tay tạm biệt cho tới hai giờ là giờ máy bay cất cánh, tôi đã tính tới nghĩ lui xem có nên bất ngờ ra phi cảng tiễn nàng không. Sự giằng co đó kéo dài khiến tôi lăn qua trở lại trong giường, không thể nào tìm được một giấc nghỉ trưa, kéo dài cho tới lúc tiếng động cơ của chiếc DC3 rền vang từ nẻo phi cảng, lao vút lên không theo một đường vòng. Tôi nhảy ra khỏi giường, chạy ra sân thì vừa kịp lúc nhìn thấy cái hình dáng thon thon của nó, với đường kẻ xanh kéo dài dọc theo thân tàu, với hình cái đầu con rồng chỗi dậy vươn nhìn tới trước. Tôi đoán nàng đang nhìn qua cửa kính tròn, định vị trí tìm xem ngôi nhà của tôi nằm ở nơi nào, lẫn lộn giữa những mái nhà yên phận nép mình dán sát mặt đất.
Bốn giờ tôi xách va li lên phi cơ đi Đà-nẵng. Ra đến Đà-nẵng, ghé xuống khách sạn thì việc phát giác đầu tiên của tôi là tôi quên không đem theo bộ pyjama nào hết. Khăn tắm và dao cạo cũng quên. Xà phòng cạo râu thì bỏ theo đến những hai lọ. Dấu vết cụ thể đầu tiên của bước chân Hải Yến bước vào đời tôi.
Ra Đà-nẵng được bốn ngày, tôi đến Ty Bưu điện hỏi phòng thư lưu trữ. Cô thư ký lục tìm xấp thư rồi lấy riêng ra một cái. Tôi trao thẻ căn cước. Cô cầm thẻ, nhìn hơi lâu.
- Tên tôi hơi giống tên đàn bà, –tôi nói, - nhưng xin cô chớ băn khoăn. Đúng là tên của tôi.
Cô xuýt xoa:
- Không ạ. Tôi không băn khoăn ạ.
- Chắc ít khi đàn ông phải nhận thư lưu trữ.
– Thỉnh thoảng cũng có đấy ạ.
- Đàn bà thường nhận được thư gửi theo loại này. Nhất là những người đàn bà đẹp.
- Gần đúng như ông nói.
Tôi cầm bức thư và thẻ căn cước, cám ơn cô thư ký rồi bước ra. Bức thư đầu tiên của Yến. Trên phong bì màu xanh không ghi tên người gởi. Chữ Đà-nẵng viết bằng kiểu chữ in, chữ Đ thật cao, chữ A thấp hơn, rồi cứ như thế tuần tự các chữ thấp lần cho đến chữ G thì lùn tịt. Tôi không có kiến thức về khoa tự dạng để đoán xem tính tình người viết ra thế nào. Trang thư cũng viết trên giấy xanh, khổ pơ-luya. Một đường xếp dọc theo chiều đứng chia tờ giấy làm hai nửa, chữ viết trên một nửa. Chỉ có mấy hàng:
“Tôi bước xuống thang máy bay, mái tóc cuốn lên thật cao, mắt nhìn lên, thật nghiêm và thật kiêu. Về đến nhà, con Gina chạy ra mừng nhưng không biết nói. Me đang ở trên đường đi ra phi cảng để đón. Chỉ vì ở Qui-nhơn vào có hai chuyến bay, me lầm, tưởng tôi về chuyến sau, sẽ tới chậm nửa giờ.”
Khi tôi xong công việc trở về Qui-nhơn thì đã có một thư của nàng chờ sẵn ở nhà. Cũng màu phong bì và tờ thư xanh giống nhau. Trang thư cũng xếp làm hai nửa. Lần này thì tôi để ý thấy rằng suốt cả bức thư chẳng có chữ nào được viết hoa.
“hoa cúc trắng nở đầy vườn đại học xá nữ sinh viên dalat. tôi buồn hay vui trong những ngày tháng này. tôi thường mang quá nhiều mặc cảm và thường muốn che giấu chúng. người đối thoại ít nhận thấy những mặc cảm đó vì thường bị chi phối bởi không khí chung quanh, bởi giọng nói, nét mặt, nụ cười, người đọc thư thường đứng trước một thể giới tĩnh, những dòng chữ là những xác chết, người đọc thư cô đơn trước những xác chết đó và cố tìm nơi chúng một tình cảm, một thái độ của người viết thư, điều tìm kiếm đó thường là vô ích, người đọc thư chỉ tìm thấy tình cảm, thái độ của chính mình, giá trị của những lá thư chỉ là một lời nhắc nhở đến sự có mặt của một người ở xa.
một người ở xa.”
Tôi chưa kịp tìm hiểu xem ý nàng định nói gì qua những lời xa xôi đó thì ngày hôm sau có một thư khác đến. Chỉ ngắn ngủi sáu hàng:
“nếu phải kể về saigon thì có lẽ tôi bắt đầu như thế này: buổi tối tiếng hát trong hiệu ăn đầu phố vọng lại, buổi sáng lá me rụng đầy trước lề đường, buổi trưa trời nắng xua đuổi giấc ngủ... mùa thi qua, mùa hè đang đi qua.”
Ba ngày sau một lá thư đến tiếp:
“Con cá đã vui chơi trong vùng biển nào, trong vùng rêu im lặng nào. Cá còn nhớ đường nước cũ, có còn nhớ tấm lưới giăng không.”
Bẵng đi mười ngày.
Một cái thư đến.
“đừng nói lời cám ơn, đừng viết: xin cảm ơn đã gửi những bức thư màu xanh, tôi nghe chừng như đó là một lời giã từ, một lời giã từ khi mùa hè sắp hết.
đừng nói lời cám ơn.”
Bẵng luôn một tháng. Một cái thư đến.
“anh ấy” vừa đậu xong, luận án được chấm ưu hạng. “anh ấy” nói ba má đang chọn ngày để đem trầu cau sang, nói thật hay nói giả? tôi chỉ mỉm cười không trả lời.”
Bốn ngày sau một cái thư đến:
“anh ấy” nói thật. anh cúi nhìn xuống đất tay mân mê cạnh bàn, thế là anh ấy nói thật. sao ông không cho tôi biết ý kiến của ông, dường như tôi không còn yêu anh ấy nữa. anh ấy quả quyết rằng đã chọn được ngày tốt rồi, tôi đang lo sợ.”
Sau khi nhận bức thư thứ năm, tôi có việc phải ra Đà-nẵng lại. Một người bạn cũ của tôi, anh Lê Kỷ, Chỉ huy trưởng Công binh lúc bấy giờ đang trông coi sửa chữa cây cầu, mời tôi đến thăm công trường của anh. Chúng tôi đi lại xem xét vừa nói chuyện về cái hiện tượng recul khi đóng chân cầu thì tôi chợt bước hụt chân. Cái gì xảy ra trong khoảnh khắc liền sau đó, tôi không hay biết. Khi ý thức lại được thì tôi thấy tôi đang nằm trong một khoang thuyền đang đậu ở gần chân cầu. Đầu tôi tê buốt và lưng ê ẩm. Có cái gì dâm dấp ẩm nơi tóc, tôi đưa tay lên rờ và nhìn vào lòng bàn tay thì thấy máu. Kỷ và các sĩ quan và binh sĩ của anh hối hả chạy xuống. Thấy tôi mở mắt,Kỷ lật đật hỏi:
- Có sao không?
Tôi gượng mỉm cười:
- Chắc không đến nỗi.
- Bị thương chỗ nào?
Tôi giơ ngón tay chỉ nơi đầu. Theo lệnh của bạn tôi, hai binh sĩ lực lưỡng lại bế xốc tôi, đem lên mặt đường. Tôi được đặt nằm lên băng sau của một chiếc Jeep.
- Tôi thấy rồi, – lời bạn tôi. Vết thương nơi đầu gây ra bởi thanh sắt. Đó là điều quan trọng.
Tôi khẽ gật đầu.
Trời xanh cao vút trên tầng cao, trước mắt tôi. Gió khẽ lay những chùm lá nhỏ của loại cây gì tôi không biết tên. Tôi đang ở vào tình trạng nào đây và đang trở thành tình trạng nào đây? Không thể phiêu lưu vô định như ngọn gió nhẹ kia. Tôi chợt ao ước được như ngọn gió đó. Không có sắc tướng để khỏi bị âu lo ràng buộc vì sắc tướng. Tôi nghĩ đến con tôi. Khi gặp tai nạn, khi chuẩn bị đối phó với tai nạn thì hình ảnh con tôi chiếm trọn tầm suy nghĩ của óc tôi. Tôi thấy khuôn mặt của nó, đôi mắt đen, đôi mày phơn phớt nhạt. Nó đăm đăm nhìn tôi. Bên cạnh nó, lạ chưa, có khuôn mặt của Yến. Cái mũ cao su đỏ và những hạt nước đậu lấm tấm trên da mặt. Bộ áo tắm màu đỏ.
Chợt tôi mất cảm giác ở một nửa người bên trái. Tôi đưa hai tay lên ra dấu hiệu kêu gọi nhưng chỉ một cánh tay mặt tuân theo ý tôi. Tôi muốn nói lên nhưng môi tôi cứng lại. Lá cây và vòm trời xanh đảo lộn xoay và rồi sa sầm tối. Tôi không biết gì nữa sau đó.
Khi tôi mở mắt nhìn, vật tôi thấy đầu tiên là bức tường trắng trước mặt. Mùi thuốc cay cay như mùi éther phảng phất. Có cái cảm giác nằng nặng nơi đầu, tôi đưa tay rờ thì biết là những băng vải quấn chằng chịt, Tôi nhắm mắt lại.
Buổi chiều Kỷ vào thăm. Có cháu Ngọc đi bên cạnh. Kỷ giảng cho tôi nghe rằng đây là một phòng của bệnh viện dã chiến Hoa-kỳ. Sau khi tôi ngất đi, anh đã vội vàng đưa xe chở tôi tới đây.
- Bây giờ anh tỉnh lại, — lời Kỷ, —tôi mới biết mừng. Anh ngất đi trong bao lâu, anh có biết không?
Cố nhiên là tôi không biết.
– Mười ngày chẵn. Bác sĩ bảo tôi an tâm nhưng anh nghĩ xem tôi an tâm làm sao được? Tôi vào Qui-nhơn đưa cháu Ngọc và chị vú ra đây. Để lỡ anh có…
Tôi đưa tay cầm bàn tay nhỏ xíu của con tôi đang rụt rè đặt ở dưới mép chăn. Hơi nóng quen thuộc và sự mềm mại của lòng bàn tay, của những ngón tay nhỏ như chuyền cho tôi một sức mạnh phấn khởi. Như nối liền tôi vào cuộc đời. Một niềm cảm xúc rạt rào chạy từ ngực, tràn lên mặt, dâng lên mắt tôi và phút chốc có hai giọt nước mắt thành hình rồi từ từ chảy lăn trên má.
“Con ơi! Ba không thể nào chết được. Ba không thể nào xa con được.” Trong lòng tôi vang lên tiếng gọi nức nở đó,
Tôi nằm ở bệnh viện dã chiến thêm một tuần rồi sau đó bạn tôi dời tôi về nằm ở dưỡng đường bác sĩ Chuẩn. Sau hai tháng, chúng tôi lên máy bay về Qui-nhơn.
Cửa cổng có quàng chiếc dây xích to trông thật là buồn. Chị vú lại tra chìa khóa vào mở khóa, một đầu dây xích tuột ra đập vào mặt cửa tạo nên một tràng tiếng lách cách lạnh lẽo của sắt va chạm vào nhau. Lối đi có nhiều lá rụng.
Mùi ẩm mốc của căn phòng làm tôi bùi ngùi. Tôi đi lại mở mọi cửa sổ. Ánh nắng tràn vào. Sự sống tươi vui ấm áp tràn vào. Tôi đi thay áo trong khi chị vú lo lau dọn bàn ghế. Tôi xịt mấy vòi Airosol rồi ngồi xuống chiếc ghế bành, thưởng thức cái không khí thân yêu cố hữu. Sau đó, tôi đi ra mở hộp thư mắc ở cửa cổng.
Một đống thư, báo, nguyệt san nằm chồng chất lộn xộn gần đầy nghẹt chiếc hộp. Tôi mang vào phòng, bỏ lên bàn rồi ngồi xuống chọn lựa. Bỏ riêng những tờ báo, nguyệt san. Những tờ giấy của Ty Bưu điện báo tin có bưu phẩm đến. Những bức thư có in en tête. Những bức thư có ghi địa chỉ người gởi được viết tay. Những bức thư không ghi tên người gởi. Những thiệp báo tin, khổ dài in trên giấy cứng. Những bức thư phát riêng có dán một mảnh giấy đỏ. Những bức điện tín. Tội nghiệp cho thân phận những bức điện tín, – tôi nghĩ. Sự vội vã bị ngâm chìm trong ngót ba tháng tai nạn của tôi.
Tôi đọc trước những bức điện tín. Ngoài hai bức của hai người bạn báo tin sẽ đến Qui-nhơn và sẽ đến thăm tôi, có một bức của một cơ quan văn hóa mời dự hội nghị và hai bức của Yến. Nhìn lên nhật ấn ghi ngày nhận, con số ghi ngày và giờ phát, tôi đọc bức thứ nhất:
“Ông vào gấp. Có ông tôi sẽ mạnh dạn từ chối. Tôi định bỏ đi Đà-lạt. Ông vào ngay chúng ta sẽ cùng đi Đà-lạt. Trả lời gấp.
Tôi mong.
Hải Yến”
Bức điện thứ hai:
“Sao không trả lời. Hãy vào ngay bằng mọi phương tiện. Chỉ còn ba ngày nữa. Đừng để cho con cá bơ vơ.
Hải Yến”
Những chữ trong một bức thư ngắn Yến viết cho tôi trước đây như đang rơi xuống thành từng giọt nặng trên tim tôi, “... con cá đã vui chơi trong vùng biển nào, trong vùng rêu im lặng nào…"
"Đừng để cho con cá bơ vơ.”
Tôi cầm lên một bức thư mà tôi biết là của Yến. Làm lẫn sao được với chữ Qui-nhơn viết thành dốc thoải?
“Xong rồi. Mọi việc xong hết rồi. Những tiếng kêu tuyệt vọng ông có nghe không? Sao ông không trả lời? Ba má tôi đã nhận lời rồi. Tôi đã gật đầu. Tôi không thể nói lên thành tiếng bởi tôi còn mong manh một chút hi vọng rằng sự gật đầu không phát ra được một từ trường luân lưu còn mãi, không hiện diện để chứng tỏ nó đã có. Một tiếng nói thì không thể xóa bỏ được.
Tôi đọc lại một lượt những thư tôi đã viết và những thư ông trả lời (thư tôi viết cho ông, trước khi gửi đi tôi đều nhờ một con cháu gọi bằng dì sao một bản giữ lại) và tôi hiểu rằng chúng ta đã là nạn nhân của tính kiêu kỳ. Dù là trong những bức thư, tôi cũng không từ bỏ được cái cử chỉ nhìn lên, thật nghiêm và thật kiêu. Ông trả lời lại dịu dàng hơn nhưng lúc nào cũng giữ khoảng cách. Chúng ta đều quá khôn ngoan.
Tôi nói với ông về người yêu của tôi trong khi tôi bắt đầu yêu ông. Vì tự ái, ông vừa làm ra người độ lượng vừa dựng lên những hàng rào phòng thủ. Tôi biết rõ là ông cũng yêu tôi trong khi những hàng rào, những bức tường dựng lên càng ngày càng cao, càng kiên cố. Thật là ngộ nghĩnh và bi đát. Tôi và ông, chúng ta cùng ra sức dựng lên những hàng rào, tự giam mình trong đó gọi là an toàn để rồi đến khi muốn phá vỡ bước ra thì sức mình không phá nổi. Bức thư báo nguy của tôi không đủ làm ông tin. Hai bức điện khẩn thiết của tôi không đủ làm ông vững tâm. Chúng ta trọn vẹn trở thành nạn nhân của chính chúng ta. Tôi không trách ông và xin ông đừng giận tôi. Chúng ta đều là những kẻ có lỗi.
Cầu mong cuộc đời cho chúng ta gặp lại nhau một lần nữa sau khi chúng ta nhận được bài học kinh nghiệm này.
Hải Yến”
Tôi hồi hộp mở những tấm thiếp. Tên con của một người bạn cưới vợ. Tên một cô học trò cũ lấy chồng. Tên một người đi lấy chồng mà tôi quên mất khuôn mặt. Tên một người...
Bắp thịt nơi đôi cánh tay của tôi vụt chùng xuống. Những hàng chữ in rung rinh. Những tên người, những địa chỉ rộn ràng vô ích. Ông và Bà... Ông và Bà... Số... đường... Sài-gòn. Số .. đường... Gia-định. Hân hạnh báo tin lễ đính hôn của con chúng tôi...
Tôi không nhìn sang tên họ của người con trai: Họ và tên và chữ lót nào cũng được. Tôi nhìn sang tên của nàng: Lê thị Hải Yến. Không thể làm lẫn với ai được. Địa chỉ 10 Lê Văn Duyệt Sài-gòn in rõ ràng ở góc trái, tôi có thể nói thuộc lòng giữa giấc chiêm bao.
Tên nàng in bằng mặt chữ tròn trĩnh, nét đậm mảnh uyển chuyển. Màu chữ vàng óng ánh, màu vàng quí phái trang nghiêm. Ngày lễ đính hôn nhằm vào ngày bác sĩ tháo băng cái đầu cho tôi. Dưới chữ Lễ đính hôn một nét gạch bằng bút nguyên tử. Có hình vẽ hai giọt nước mắt cũng bằng bút nguyên tử.
Tôi nên buồn như thế nào? Tôi nên viết thư giải thích sự im lặng của tôi như thế nào trong khi mọi lời nói đều trễ tràng, đều trở nên vô ích. Đúng như nàng nói, chúng tôi là nạn nhân của chính chúng tôi.
“Cầu mong sẽ gặp lại nhau lần thứ hai!” Có bao nhiêu phần trăm hi vọng mong manh? Hiện tại cụ thể là tấm thiệp mang chữ vàng óng ánh trang nghiêm ghi rõ ngày lễ đính hôn không thể lầm lẫn được.
Tôi muốn nói cùng Yến nếu có nàng đứng cạnh:
“Đáng lẽ cô vẽ thêm hai giọt nước mắt nữa. Hai giọt nước mắt của tôi.”
Võ Hồng
(Văn số 177 ngày 1-5-1971)
MỘT BÔNG HỒNG CHO CHA
Tùy bút của VÕ HỒNG
Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ chân, huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán; lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm đầu tiên, cha phải la: “Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó:
À ơi, con gà cục tác lá chanh…
Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người khác nghe họ biết là cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi? Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: “Chà! Bộ định đi về thăm ngoại hả?” Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: “À, con heo ú đây? Ai ra mua!” Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là "nghiêm đường". Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên, cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quít cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ; quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai người cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.
Chứ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi. Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thối. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi biểu lộ yêu thương chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn.
Núi này nhất định là phải lớn lắm và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì được vẽ ra là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.
Người cha trong cuốn "Luân lý giáo khoa thư" dễ thương hơn. Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam chạy ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cảm con thương cha, rộng gấp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, Nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô con gái của bạn ế chồng, Phạm liền ngắt lời hỏi:
– Sao con không cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội mang về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền, không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi hoa, nuôi trái. Thân chia những cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạc lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản, bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.
Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đó, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc đẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững hờ chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: “Được vậy còn đòi gì nữa?... Trời ơi, thì giờ đâu!”
Phải, thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp lo báo hiếu bởi “tử dục dưỡng nhi thân bất đãi”, con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà, một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng chỉ có thể tạm nói: “Cũng còn khá”. Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: “Hôn định thần tỉnh”, ta dịch: “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con ân cần hỏi han mẹ cha mới dám giải bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gửi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần. “Đi đâu đó? Mạnh giỏi?” Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn: nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng, nơ trắng. Mẹ mất, cha còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ, rồi sẽ một ngày:
Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc (*)
nên mỗi người con đều phải vội vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là “cho” chứ không phải “cho vay” để có thể gọi là trả đủ.
(*) Cha mẹ mãn phần (Nhị thập tứ hiếu)
(Tuổi Trẻ Chủ Nhật, tháng 6/1990)
Tranh minh họa của họa sĩ Nguyễn Trung
VÕ-HỒNG
XUẤT-HÀNH NĂM MỚI
Từ ngày vợ chàng mất đi, Giang đã gián-tiếp giải-quyết được một sự thắc-mắc: việc xuất-hành năm mới. Bảo mất tính đến nay đã được bốn mùa Xuân rồi. Và cứ sáng tinh-sương ngày mồng Một đầu năm, Giang lên xe ra nghĩa-trang thăm mộ Bảo. Việc đó đã thành ra một bổn phận có thể gọi là thiêng-liêng, chữ "thiêng-liêng" mà ít khi chàng dùng đến. Dù không phải là một người có óc dị-đoan, - chứng cớ là bàn tay chàng chưa hề bị một ông thầy tướng nào cầm lấy để xem xét, đo và đoán - nhưng chàng vẫn ngài ngại khi xuất-hành trong cái buổi mai trang trọng bắt đầu cả một chuỗi 365 ngày của một năm. Lòng tin của những người xung quanh đã ảnh-hưởng đến chàng khá mạnh, thâm nhiễm vào chàng như một chứng bệnh ngoại-cảm. Sự lo nghĩ vẩn vơ về những điềm, những triệu, những sự rủi may mà trước đây chàng dửng dưng không lưu-tâm, từ ngày Bảo mất đi, đã đến ám ảnh chàng thường xuyên hơn những cơn ác mộng. Bảo mất đi, cái tai họa quá lớn giáng xuống đời chàng, giáng xuống gia-đình chàng khiến tâm hồn chàng xao xuyến mất tin tưởng. Và như một cơ-thể yếu không đủ sức kháng-cự với bệnh, tâm hồn bị lung lạc hoang mang đã dễ dàng lây phải chứng bệnh sợ sệt âu lo kia. Xuất hành đầu năm! Quả thật trước đây chàng không hề băn khoăn nghĩ đến điều đó. Giả thử mà có một lần nào nghĩ đến và tìm một hướng để xuất hành thì chắc chắn cũng không ngoài ý-định tinh-nghịch. Chẳng hạn xuất-hành sang phương Ðông để gặp núi, sang phương Tây để gặp sông, sang phương Nam để gặp giếng và sang phương Bắc thì mắc phải hàng rào. Nhưng nay tâm trí đã phải băn khoăn vì nỗi lo mới đó thì may thay hoàn-cảnh lại tự đưa cách giải-quyết: xuất-hành đi thăm mộ là phải. Ở nơi đất khách quê người này, gia đình nhỏ của chàng chỉ có năm người, thế mà nay Bảo mất đi, Bảo vĩnh-viễn ra nằm một mình lẻ loi ở nơi đầu núi bỏ bốn cha con chàng hiu quạnh trong một căn nhà nhỏ mà mặc dù đã bốn năm qua, vẫn chưa cởi bỏ màu tang tóc. Nhưng tuy hiu quạnh, bốn cha con vẫn hủ hỉ cạnh nhau. Chỉ tội nghiệp cho Bảo. Suốt năm chàng ít có dịp ra thăm mộ. Công việc làm ăn bận rộn, việc nhà rối rắm một mình, chàng không mấy lúc thấy mình thảnh thơi thong thả. Ðến ngày đầu năm mọi việc xếp lại, mọi người yên vui trong gia-đình, vậy đi thăm viếng vợ vào lúc này là một việc rất hợp-lý. Từ xế chiều ngày mồng một trở về sau, chắc chắn là chàng sẽ bị quay cuồng vào nhịp sống của năm mới. Sự quay cuồng bắt đầu bằng những sự viếng thăm xã-giao để được nối theo bằng những ngày đi làm liên-tiếp, những nỗi lo lắng không ngừng.
- Ba phải chở thằng Hào đó, - tiếng con Hằng, con lớn của chàng bảo.
- Ừ, để ba chở.
Thủy, con bé nhất phụng phịu:
- Không, ba chở con. Ðể chị Hằng chở anh Hào.
- Ai chở cũng được, miễn đi tới nơi thì thôi. Ba phải chở anh vì anh nặng hơn con, chị Hằng chở, đạp không nổi.
- Nhưng anh Hào gầy...
Nói xong, Thủy phá ra cười. Hào liếc nhanh Thủy mà đôi mày nhíu lại, vẻ nghiêm trang. Ý nó không vui vì bị phê-bình là gầy, một sự thực mà nó không phản đối nhưng nó không muốn ai nhắc tới. Giang trải khăn ra bàn và đặt bình hoa ở giữa. Những hộp đựng mứt, kẹo bánh... xếp làm bốn hàng. Nửa bàn còn lại bị chiếm bởi những ly tách đủ loại. Chàng vừa xếp đặt vừa đợi ba đứa con sửa soạn ăn mặc. Xếp đặt đâu đó cho đầy đủ là cốt để khi thăm mộ về có khách tới ngay thì chàng cũng đã có đủ quà ở tiện tay để tiếp khách. Này là gói thuốc lá đặt vào đĩa trên có hộp diêm. Còn cái gạt tàn thuốc. Chàng gọi con Bốn, con nhỏ ở, chạy đi rửa cái gạt tàn thuốc đầy ứ những tro và mẩu thuốc lưu lại từ năm cũ. Ở xa-lông cũng phải một lọ hoa nhỏ và thêm một đĩa hạt dưa. Mấy chai rượu đặt ở đầu tủ buffet như thế kia trông cũng được. Nhưng còn... Chàng vừa chợt nhớ vừa chạy vào phòng riêng mở toang mấy hộc bàn tìm cái mở nút chai. Trong khi đó, mấy đứa con lần lượt chạm phải vấn-đề:
- Ba ơi, trời nực thế này mà con Thủy khoác cả áo len vào. Con cởi ra nó không chịu.
Chàng vừa lục lọi ngăn kéo vừa nói lại:
- Kệ nó.
Tiếng Hằng cãi:
- Nhưng một lát nữa nắng lên phải cởi áo len ra rồi bỏ đâu?
- Ừ, thôi cũng được.
Cái lối giải quyết ba phải này, lâu nay, đã là lối giải-quyết quen thuộc của chàng. Thật ra, khó có ai bình tâm để vừa nghĩ, vừa giải-quyết đến ba, bốn việc một lượt, giải-quyết minh bạch, gẫy gọn. Mà nào có ra việc cho cam. Biết thế nào Thủy cũng bất bình vì dự-trù của Thủy bị chị bác đi, trông mong ba bào chữa cho thế mà cuối cùng ba lại "y án" với chị, chàng bước xuống phòng các con để tìm cách vỗ về Thủy. Nhưng tiếng giày chàng vừa đến cửa thì Hào đã nhảy ra:
- Ba chải giùm tóc cho con đi.
Chàng chỉ xuống chân:
- Sao lại mang xăng-đan thế kia? Mang giày vào.
Hào cau mặt:
- Nhưng đâu mất đi một chiếc tất.
- Hỏi con Bốn xem. Bốn ơi, tất của em để đâu?
Con Bốn đang thắt nơ cho Thủy, nghe hỏi đến bít-tất, vội bỏ Thủy chạy lại mở va-li. Trong khi đó, Hằng ra bấm bánh xe đạp rồi la lên:
- Bốn ơi, đêm qua mày lấy xe của tao đi chơi bị gai hay sao mà xẹp cả bánh trước thế này?
Thấy có chàng ở đó, Bốn sợ bị rầy nên vừa nhìn Hằng nháy mắt ra hiệu vừa lí nhí nói:
- Ðâu có. Ðêm qua tôi đâu có đi chơi. Xuống tiệm chị Minh-Châu mua cái dây dừa cột gàu đó chớ.
"Lúc nào cũng Minh-Châu" chàng cười thầm. Con bé ở này có một đặc-tính là mê những cô bán hàng đẹp. Dù họ có bán đắt hơn những bà già xấu xí, nó vẫn nhào vào mua. Chẳng những đến mua mà thôi mà lúc ở nhà, trong mọi câu chuyện nó đều không quên nhắc đến những cô ấy. Chẳng hạn có đứa nào than rằng "năm nay trời mưa to" thì nó bảo "Cô Mỹ-Lộc mới mua cái áo mưa ni-lông màu hoa cà". Hỏi: "Sao mua thịt bò dai thế?" thì nó nói: "Chị Thu-Tâm bán hàng xén cũng la với con rằng sao độ rày người ta chỉ bán toàn những thịt bò dai". Và mỗi lần nói đến tên những cô đẹp mà nó ngưỡng-mộ, giọng nói của nó không còn tự nhiên nữa. Không còn là cái giọng quê mùa của chính nó mà có pha một chút gì nũng nịu của giọng Huế, một chút gì ngọt ngào của giọng Sàigòn, đài các của Hà-nội. Chàng nói:
- Ðồ đạc của em mỗi đứa mỗi ngăn sao còn để lộn xộn để mất công đi tìm?
Và chàng nói tiếp luôn vì lẽ lời dặn vừa rồi không có gì lạ đáng để nó phải suy gẫm và phát biểu ý-kiến trở lại. Ðó là một câu chàng đã nhiều lần lặp lại, cũ và vô hại như một lời cám ơn.
- Dắt giùm cái xe ra cho tao. Tám giờ rồi.
Chàng cung tay nhìn đồng-hồ và ngạc-nhiên thấy rằng mình nói đúng. Tuy vậy, phải đến 8 giờ 10 phút mọi người mới sẵn sàng để lên xe. Chàng soát lại các cửa tủ, bỏ ví cẩn thận vào túi quần, khóa cửa phòng riêng, khóa cửa phòng khách. Nắn lại các túi để biết chắc chắn là không bỏ quên, không bỏ sót, chàng lên xe. Hằng chở Thủy đứng đợi ở cách xa chàng gần 30 thước. Hào ngồi sau lưng chàng. Khi hai xe khởi-hành thì kim dài của chiếc đồng hồ tay đâm ngang giữa con số 4.
Các phố hầu hết đóng cửa, thường chỉ mở hé một cánh để ra vào. Nếu có nhà nào mở rộng cánh thì y như mắt chàng chạm phải một cành mai hoa vàng đứng trong một cái lọ độc-bình sứ. Những cành mai rẻ tiền chỉ lác đác ít hoa và nhiều lá ở chót cành, trông khổ như những cái đầu tóc uốn lâu ngày, chân tóc dài ra suôn đuột, đẩy lui phần uốn éo ra mãi tận chót cùng.
Thường, những cành mai như thế này phải nhờ những cánh thiếp chúc Tết che lấp sự trống trải. Tiếp theo là những hộp mứt, hộp kẹo nằm đầy bàn, những cốc pha lê, tách sứ men bóng lộn. Chủ nhân thì chững chạc, nghiêm trang. Những cái vẻ hấp tấp hàng ngày bị đẩy lui vào bóng tối của đêm ba mươi. Ánh sáng của ngày mồng một như có năng lực mầu nhiệm làm huỡn đãi mọi cử chỉ vội vã, làm chững chạc mọi vẻ người lau nhau.
Xe chàng đi rất chậm, một phần vì phải đợi con, một phần vì những xe khác cứ từ những con đường ngang đâm bổ ra. Chàng đi kèm sát bên con vừa nhắc chừng, vừa ra lệnh:
- Con đi sát vào bờ lề một chút.
- Hễ có ô-tô thì con đạp chậm lại để ba thêm "ga" chạy vọt lên.
- Coi chừng, con Thủy ngồi thẳng. Ðừng ngó nghiêng mà trẹo xe, mất thăng bằng.
Sự cởi mở của chàng mở đường cho con bi bô theo. Thủy nói:
- Con ngồi ở đằng sau mỏi lắm nên con phải trở mình, đó chớ.
- Thế mày tưởng phải đạp như tao là sướng chắc?
Hào đề nghị:
- Thôi, Thủy qua đây ngồi với ba, tao qua ngồi với chị Hằng cho.
Câu nói vô tình mà phù hợp với ý nghĩ của Thủy. Nhưng Thủy vẫn giữ một giọng hờn dỗi:
- Anh Hào ngồi bên ba sướng hơn con.
Vừa lúc ấy có tiếng còi ô-tô thét lên quá gần khiến xe mấy cha con loạng choạng. Hai tay lái lại bám sát vào lề đường. Những cô bé cậu bé cứ mê mải nhìn xuống đôi giày đôi guốc mới của mình mà đi lọt ra giữa đường hồi nào không biết. Nhiều cô cậu khác cứ dán mắt vào quần áo mới của người qua đường mà rốt cuộc đi lộn hàng ngũ phải gọi nhau, chạy tìm nhau, va cả vào xe. Các anh thanh niên, chị thiếu nữ đi từng đoàn, lây cái sức mạnh của sự đoàn kết và say sưa vì ý xuân, men xuân nên đi nghênh ngang một cách có ý thức, bất chấp mọi người. Xe chàng đến cầu xóm Bống gặp đèn đỏ phải dừng lại. Thật rắc rối. Sống mãi ở Nha-trang, quen với sự đi lại tự do, nay gặp phải một ánh đèn đỏ khiến cơn giận vụt đến, mau như sự nhức nhối gây ra do một miếng đồ ăn cứng chạm phải cái răng sâu. Trước kia, hồi còn ở Saigon, đèn xanh đèn đỏ đã hầu thành một điển-lệ khiến mỗi lần đi đến ngã tư là chàng cũng như mọi người phải chuẩn-bị để nhẫn-nại. Thời-gian ở Nhatrang quả đã làm chàng hư nết đi. Mọi năm cứ sáng tinh sương chàng đi thăm mộ thật sớm rồi về thật sớm nên sự đi lại qua cầu tự do. Năm nay vì muốn để cho con đi cùng mà thành phải đi trưa, phải bị ánh đèn xanh đỏ hạn chế tự do. Chàng dừng xe, cúi nhìn xuống đường nhựa để giận. Những chiếc xe du lịch, xe đạp, xe ngựa, xe lôi, xe gắn máy nối đuôi nhau chạy ngược lại chàng. Chàng trả thù, không nhìn vào những chiếc xe du-lịch. Chắc chắn ở trong đó có những bộ mặt hãnh-diện nhìn ra - nhất là những bộ mặt đàn bà - làm bộ ngây thơ, nghiêm trang hay nhí nhảnh, nhưng tất cả đều cốt để người khác nhìn vào mà thèm muốn, mà thán phục, mà say mê. Muốn chọc giận họ hơn, mỗi lần nghe tiếng còi, chàng đưa mắt từ từ nhìn thẳng lên mui xe rồi lơ đãng nhìn ra bể. Ðể họ sung sướng hụt. Những ý nghĩ vẩn vơ này làm rơi cơn giận, khiến chàng hơi vui vui nữa. Chàng quay sang nói chuyện với con:
- Cầu nầy gọi cầu xóm Bống đây. Bống là tên của cái xóm chài lưới kia. Doi đất có nhiều nhà mà các con thấy đó là xóm Cồn. Còn phía nầy là cái đầm. Chợ Nhatrang còn gọi chợ Ðầm là vì vậy.
- Thế còn dãy nhà nào cao ở chót núi kia Ba? Thủy hỏi.
- Ðó là dãy nhà của mấy ông cha dòng Phan-xi-cô.
Hào vội vàng hỏi tranh:
- Người ta leo núi đi đâu mà nhiều thế kia hở Ba?
- Người ta đi Tháp Bà đấy. Lên Tháp Bà để lễ.
- Lễ là cái gì?
- Là thắp hương rồi vái ông thần để xin cho được sức khỏe, mua may bán đắt.
Lời giải-thích tuy có vẻ giản-dị nhưng chắc Hào và Thủy không hiểu nổi. Nhất là nghĩa của chữ "Vái". Hình như ở nhà chưa có lần nào chàng nói tiếng "Vái" ấy mà cũng chưa hề có lần nào chàng làm cái việc vái. Nhưng sở dĩ chúng không hỏi thêm vì có nhiều người đứng ở bên cạnh. Và cũng chính vì lẽ đó chàng cũng thôi không giải-thích nữa. Vừa lúc ấy đèn đổi màu, dãy xe cộ chuyển mình chảy như một dòng sông, bò tới đều đặn như một con cuốn chiếu. Bên kia đầu cầu, một dãy xe cộ và người nối đuôi chờ. Dãy này ngắn hơn: người ta đang bận đi, chưa về. Ðường lên Tháp-Bà ở liền chân cầu. Bên những cái sạp mới dựng bán hương, đèn, những anh thợ ảnh chạy lăng xăng, những chú nhỏ lãnh giữ xe đạp mời khách ồn ào. Ði quá Tháp-Bà, con đường quốc lộ trải nhựa láng và hẹp lại. Những căn nhà lợp lá, vách đất và nền đất vàng nằm dưới những tàng mít lá xanh mướt. Người đi cũng khá tấp nập. Thanh-niên chỉ có sơ-mi trắng. Nếu đeo ca-vát thì hoặc quá ngắn, hoặc quá dài, hoặc úp cong như một cái lá. Thiếu-nữ thì áo thường một màu chớ không hoa hè như ở phía bên kia cầu. Bàn chân đen và to nong vào những đôi guốc quá nhỏ. Những cái áo dài đen đập cũn cỡn trên đầu gối của các ông già. Hình như ở phía bên này có nhiều ông già hơn.
Lúc xe đi gần tới nghĩa địa, tự dưng tâm hồn chàng u tối lại như một áng mây dày che kín bóng mặt trời đang le lói khiến bóng râm sa sầm xuống. Con đường này mới năm nào lần đầu tiên chàng bước đến là lúc đưa vợ chàng ra nằm vĩnh viễn nơi đây. Chàng mường tượng như còn thấy cái xe tang đứng dừng nơi này, thấy đoàn người đi đưa kéo dài như không muốn dứt. Ba đứa con, ba đứa con của chàng...
...Tiếng Hằng hỏi:
- Dựng xe ở ngoài cổng hở Ba?
- Ừ.
Chàng nghe tiếng mình như có hơi lạc đi.
Nghĩa-trang nằm thoai thoải theo triền chân núi. Những ngôi mộ nằm xếp thành hàng ngay ngắn. Kiểu mộ gần giống nhau: một bờ thành đá tráng xi-măng vuông vức, trước tô thành tấm bia. Lòng mộ đắp đất. Thỉnh thoảng mới có một ngôi mộ kiến-trúc phức-tạp hơn, có làm mái che, có đắp hình lân hình phụng, có bàn thờ, có câu đối. Giá đặt nằm thảnh thơi giữa một cảnh-trí riêng biệt thì những ngôi mộ xa-hoa này sẽ có đầy đủ giá-trị mỹ-thuật. Ðặt vào đây không hợp vì mỗi phần đất dành cho người quá-cố không hơn hai thước bề ngang và nhất là bên cạnh đó có những ngôi mộ chỉ đắp sơ sài bằng sỏi. Rải rác có nhiều người xì-xụp trước những ngôi mộ. Từng vòng khói hương bay cuộn trong nắng.
Hào tiến lên nhanh nhất đi về phía mộ má để tỏ ra là mình thạo. Bé Thủy lật đật chạy theo. Sự hăng-hái vui vẻ của con có một cái gì khiến chàng đau xót. Con chàng nhỏ quá chưa biết ý-nghĩa thật của sự chết, chưa cảm thấm thía cái buồn của việc đi thăm mộ. Thủy dừng lại trước một ngôi mộ, cúi xuống đọc tấm bia rồi vẫy tay gọi chàng:
- Ba ơi! Ðây mộ của má đây rồi.
Hằng đi bên chàng, nhẹ nhàng. Lúc đứng trước mộ, chàng im lặng nhìn những phiến đá lạnh. Lúc sống, vợ chồng nào gặp nhau sau chừng một năm cách biệt cũng bắt đầu bằng cái nhìn im-lặng như thế mà biết bao nhiêu đầm ấm hẹn sau. Với chàng hôm nay thì lạnh lùng là thái-độ vĩnh-viễn. Chàng đặt tay vào phiến đá, tưởng tượng như đưa tay cầm bàn tay ấm áp của vợ xưa. Hằng rút trong một cái túi nhỏ cầm tay lấy ra một bó hương và bao diêm đưa cho chàng. Chàng lặng-lẽ cầm lấy châm đốt. Ánh lửa bùng lên, khói hương tỏa ra, bị gió thổi bạt đi, không kịp trắng.
Chàng cúi đầu vừa thổi tắt ngọn lửa, vừa nghĩ thầm: "Em ơi, hôm nay anh đưa con đến mộ thăm em. Ba đứa con em giao lại cho anh đã lớn từng ấy đó". Nghĩ đến đây, chàng dừng lại, lén đưa mắt nhìn sang ba con để chắc chắn độ lớn của ba đứa, như để ghi chặt vào tâm-tư rằng ba đứa con đã lớn như thế. Và chàng nghĩ tiếp: "Một năm qua, anh không năng ghé lại đây thăm em, nhưng chắc em đã tha thứ vì em hiểu tính anh hơn ai hết ở trên đời này. Lòng anh và cử chỉ của anh nhiều khi mâu thuẫn nhau nhất là khi những cử chỉ ấy có tính chất hình-thức, xã-giao. Anh chưa quên em".
Ðó là một sự thật. Cả ngay trong sự suy nghĩ, chàng cũng cân nhắc cẩn thận chữ dùng. Chàng không muốn nghĩ rằng "anh không quên được em". Chữ "không" hời hợt nếu không nỡ nói là giả dối. Khi cúi xuống cắm hương vào bát hương, chàng thấy có nhiều chân hương mới cắm màu đỏ tươi và có cả tàn hương vung vãi. Chắc những người quen đi thăm mộ sớm ghé lại thắp hương dùm. Trong cái thành phố nhỏ này, người ta không lạ nhau mấy. Chàng nhìn vào nét khắc của bia. Màu vàng của nét chữ đôi chỗ bị phai. Thằng Hào lấy ra hai cây nến cắm hai bên lư hương. Chàng châm nến. Ánh lửa hắt hiu ánh lên mặt bốn cha con quây quần trước bia mộ. Mới chín giờ hơn nhưng ánh nắng gắt. Ngọn lửa trong ánh nắng có một vẻ gì vừa thảm-đạm vừa tàn-nhẫn. Chợt Thủy hỏi:
- Bây giờ má ở đâu ba,
- Má ở trên Trời.
Ðó là cách trả lời tiện lợi nhất trong các cách trả lời mà phải một năm góa bụa chàng mới tìm ra.
- Má có ăn Tết không ba?
Hào "xì" ngay:
- Mày cứ nói bậy. Ðã ở trên trời mà còn ăn Tết cái gì?
Rồi như để khinh-bỉ sự dại-dột, sự ngớ ngẩn của em, Hào bĩu môi nhắc lại, vừa dằn mạnh giọng:
- Ba đã nói má ở trên Trời mà còn hỏi có ăn Tết không!
Chàng cầm lấy tay Hào nói:
- Thủy nó bảo vậy là ý nó thương má nó. Chúng ta ăn Tết, nào bánh mứt, nào rượu trà, thế mà thiếu má chung hưởng. Thủy nghĩ đến má không biết má có được ăn Tết ở đâu không.
- Nhưng mà đã ở trên Trời rồi thì đâu còn cần ăn Tết nữa?
- Con lớn con biết thế chứ em còn nhỏ, em đâu biết được? Nhưng mà thôi, các con cúi đầu lạy má đi rồi thưa với má...
Nói tới tiếng "cúi đầu lạy má", khóe mắt chàng đã thấy nóng, nước mắt như sắp chảy ra, do đó tiếng nói nghẹn ngào. Chàng dừng lại không nói tiếp thì Hằng đã hỏi:
- Ý ba muốn con thưa cái gì?
- Thưa cái gì mà con muốn nói cho má nghe đó. Chẳng hạn thưa rằng năm nay con đã học đến lớp mấy rồi, con học khá hay dở. Con cũng có thể nói cho má con nghe trong nhà có chuyện gì xảy ra, ví dụ cây dừa ở bờ giếng đã nứt bẹ trổ bông, con chó Tô bây giờ đâm ra sủa láo và hay cắn lộn với chó hàng xóm nhưng lúc nào cũng thua.. vân vân. Chắc chắn những điều đó má con muốn biết vì chúng đều dính dáng đến những người những vật mà má con yêu mến.
- Nhưng má ở trên Trời chắc má đã thấy hết biết hết.
- Có thể như thế. Nhưng nói thủ thỉ với má là một cách biểu lộ lòng thương yêu. Lúc má còn sống con thường thủ thỉ nói chuyện với má. Dễ thường những điều con nói đều lạ đối với má con sao?
Hằng còn đang ngần ngừ chưa biết trả lời sao thì Thủy hỏi:
- Con thưa với má rằng tháng này con đứng thứ nhì. Chắc má khen con lắm.
- Phải đó.
Hào nói:
- Ðể con mét với má rằng chị Bốn ở nhà coi nhà rủ con Ngâu vào chơi để nó lấy mất cây bút máy của chị Hằng.
- Ừ.
Chàng vừa trả lời vừa đứng dậy.
- Các con có thể nói lầm thầm, hoặc nghĩ thôi mà không cần nói to.
Chàng đứng thẳng người, đưa mắt nhìn một lượt chu vi của nghĩa trang. Những người viếng mộ khá đông, khác với những năm trước chàng đến quá sớm nên thường không gặp một ai ở đây cả. Một người đàn bà chừng 40 tuổi đi giữa một bầy sáu, bảy đứa con từ cổng nghĩa trang bước vào. Chàng biết chắc cái đoàn người ríu rít này sẽ rẽ sang tay trái vì khu tay trái dành cho mộ đàn ông. Nhưng họ đi thẳng lên dốc, dừng lại bàn thờ đặt ở giữa đường chính. Người đàn bà đốt một bó hương lớn, khấn vái một cách thành kính rồi cắm vào cái bát hương to. Bàn thờ này không thấy ghi tên ai nhưng chàng đoán chắc là để dành thờ vị thần Hậu-thổ nào cai quản cuộc đất này. Gia-đình nào muốn vào thăm mộ của thân nhân mình hình như trước hết đều phải qua khấn vái và gián tiếp xin phép ở đó. Chàng tự trách mình mấy năm nay đã vô tình mà hóa ra thất kính. Ai lại cứ xăm xăm đi về phía mộ vợ mình, bất chấp cả hệ thống, cả qui chế. Chàng nghĩ thầm: Người đàn bà bao giờ cũng chu đáo. Chắc thế nào cũng có nhiều anh đàn ông thật thà và hấp tấp như mình quên lễ bàn thờ Hậu-thổ. Một người đàn ông ăn mặc tầm thường cúi lom khom cắm một bó hương trước một ngôi mộ đắp đất sỏi. Người ấy đứng thẳng dậy vái vội vã mấy vái rồi sang một cái mộ khác cách đó mươi thước, móc túi lấy một bó hương, xòe diêm châm, cắm xuống đất rồi lại lật đật vái. Công việc xảy ra không quá năm phút, vội vã, hấp tấp như một đoạn phim cũ bị cắt, nối, hình ảnh nhảy nhót. Theo cái đà gấp gáp đó và với cái túi còn đầy những bó hương đem theo, chàng biết người này còn phải lo trả gấp một mớ nợ thăm viếng đầu năm ở cái nghĩa trang này. Một bà cụ đứng xuýt xoa mãi ở một ngôi mộ. Nhìn xa thấy bó hương cháy đã gần tàn mà bà cụ vẫn đi đi lại lại chẫm rãi quanh ngôi mộ. Chừng năm, bảy cây hoa vạn thọ được trồng ở trước bia và trên lòng mộ. Sự chăm sóc tỉ mỉ và lòng quấn quít của những cặp vợ chồng già làm chàng cảm động. Nó không có giá trị hơn những tấm lòng thay đổi của những người trẻ, vì già rồi thì còn thay đổi với ai? Nhưng mà cảm động. Một đôi vợ chồng dễ thường mới cưới đi lượn từ mộ này sang mộ khác. Họ đọc những tên người quá vãng, có lẽ để tìm một tên bà con. Nhưng trên tay người đàn bà chỉ có cái xắc nhỏ màu đỏ để cầm đi phố và người đàn ông thì một tay thọc vào túi quần, một tay đưa ngang lưng vợ như vì theo thói quen. Dù lây cái không khí trang nghiêm tang tóc nơi đây mà họ đi xa xa nhau một chút nhưng không dấu được sự âu yếm nhau. Giang đi về phía mộ của một người bạn. Những chân hương cũ đã phai màu đứng nghiêng ngã. Cách đây độ bảy tháng, khi đi đưa linh cữu anh bạn đến chôn nơi đây, chàng thương hại thấy người vợ bạn lăn lộn khóc. Phải nhiều người ôm giữ chị lại. Nước mắt vốn rất dễ lây, chẳng những các người đàn bà đi đưa đám đều ràn rụa nước mắt mà cả chàng đứng cạnh đó cũng bùi ngùi muốn khóc. Chừng năm tháng sau, ngẫu nhiên chàng nghe tin người vợ bạn về quê và lấy chồng. Nhiều người bảo rằng người chồng đó là người tình của chị, chị có khi người chồng trước còn sống. Chàng lặng yên nhìn tấm bia mộ hồi tưởng lại vẻ mặt có duyên, dáng dấp thanh nhã của ngời bạn xưa và tâm hồn nghệ sĩ của bạn. Chàng chưa kịp kết luận thì hai đứa con đã chạy lại đứng cạnh. Thủy nói:
- Ba ơi, con nói với má rồi. Nhưng má ở trên Trời thì làm sao má nghe được?
- Dù má ở đâu đi nữa mà khi mình thắp hương vái thì linh hồn má về ngay với mình.
Hào ngửng mặt lên nghe, miệng há ra và lông mày nhíu lại. Nỗi thắc mắc đọc được trên cái vẻ thẫn thờ suy nghĩ. Chàng nói:
- Hồi ba còn nhỏ, đi học lớp Năm ở một trường làng. Có một anh học sinh lớn đi tắm sông bị chết đuối. Gia-đình đem chôn anh ta ở cái trủng, -người ta gọi nghĩa trang của người Tàu là cái trủng - ở gần trường học. Nhiều anh em khi đi học hay ghé lại thăm mộ anh. Một bữa kia anh em tới thăm mộ như thường lệ thì thấy có một bức thư dán trên thành đá ngang hông ngôi mộ. Ðó là một bức thư gới thăm anh Ca (Ca là tên anh bạn bị chết đuối) viết trên một trang giấy học trò, nét gạch xiên xẹo. Bức thư bắt đầu bằng: Thiện đức le (đọc là lơ) 12 tháng 5 năm 1929 và lời lẽ văn hoa theo kiểu thời bấy giờ:
"Nghiên châu bút ngọc, tạm bức thư lan, trước kính thăm quí hữu bình an"... vân vân. Cuối cùng ký tên là Nguyễn Thới. Có cả chữ "nay thơ" nữa.
- Nguyễn Thới là ai vậy Ba?
- Là anh học trò lớp Tư tác giả bức thư đó.
- Thế anh ta viết để làm chi vậy?
- Anh ta tin rằng dán bức thư vào tường mộ thì tối anh Ca sẽ hiện hồn về đọc thư. Nhiều anh em tin theo như vậy. Và người ta còn hẹn nhau sẽ đến xem thư của anh Ca viết trả lời, cũng sẽ dán lên tường mộ, cạnh thư của anh Thới.
- Anh Ca viết hở Ba?
- Ừ. Anh em tin rằng anh Ca sẽ viết trả lời và tự dán cho anh em xem.
- Thế Ba có xem không?
- Không có, vì anh Ca không viết trả lới mà cũng không dán.
Hằng nói:
- Cái ý-kiến đó cũng hay, hở Ba? Một người nhà quê mới học lớp Tư mà có sáng kiến...
Chàng mỉm cười:
- Mới học lớp Tư mà xác to bằng ông xã rồi. Nhưng thôi, đã trưa lắm. Lại lạy má rồi đi về.
Khi trở lại mộ thì hương đã gần tàn. Có gió phe phẩy thổi, ngọn lửa ở đầu hương cháy ngún thật mau. Ba đứa con lần lượt theo thứ tự lớn nhỏ lại đứng chắp tay trước mộ. Chàng thẫn thờ nhìn ngôi mộ vợ rồi lặng lẽ quay đi, bước chầm chậm theo con. Trên đường về, không còn ai muốn nói chuyện nhiều vì trời nắng đã gắt. Tiếng bánh xe lăn bon bon trên đường. Cầu xóm Bống không bị tắt nghẽn lâu nữa. Những bộ com-lê giày da đen còn sót lại trên đường đang vội vã rảo tránh nắng. Các cái cổ thắt ca-vát phải ngọ-ngoạy liên-tiếp. Vượt quá cầu Bống, về đến Công-trường Cộng-hòa, lòng chàng thấy vui vui, coi như đã về đến nhà rồi vậy. Những vẻ mặt quen thuộc tươi cười chào chàng. Áo mới, dép mới, cái đầu tóc chải công phu khiến những khuôn mặt đàn-bà trông như mới lại, gần như lạ đi, chẳng khác những ngôi nhà vừa sơn quét. Những người đàn ông chững chạc và nhu-mì hơn trong những bộ áo quần thường màu tối. Có lẽ những người chàng gặp đi vào giờ này đều ở trên đường về nhà họ. Khi xe dừng trước cổng nhà, con Tô nhảy xồ ra sủa vang lên, bị lóa mắt về bề ngoài chững chạc của bốn người quen. Lúc cởi áo ngoài và cởi giày, cùng với cái thú được thoải mái tay chân, tâm hồn chàng thấy nhẹ nhàng vui vẻ vì cái bổn phận đối với vợ đã trả xong, trả trọn vẹn hơn mọi năm bởi chàng đã chiều con, nhẫn-nại đưa con đi thăm mẹ chúng. Ba đứa con sau khi bỏ mũ, đã lật đật chạy ra nhập bọn chơi với lũ bạn bè. Vừa lúc ấy con Tô lại cất tiếng sủa, đem theo một ông khách đến thăm đầu năm. Ông khách khác tiếp theo ông khách này. Và cứ liên miên như thế, chàng lo tiếp khách, con lo chơi với bạn bè, cái Tết sum-vầy của mọi nhà chịu bất-lực không sum họp cái gia-đình bé nhỏ của chàng. Những bổn-phận riêng tư, những nỗi vui chơi cũng riêng tư, chỉ có vào giờ ăn là cha con quây quần cùng nhau. Nhưng ngày mùng một Tết bạn bè có quyền ngồi nói chuyện la cà bất chấp thời giờ thành ra các con phải tự-ý ăn cơm trước. Vừa tiếp khách vừa bị khách rủ đi thăm nơi này nơi khác, rốt cuộc, bộ quần áo mặc hồi sớm tinh sương phải đến mười giờ tối mới hoàn-toàn cởi ra được. Tìm hỏi con thì Hằng đang nhập bọn với con Bốn, con Nga, con Anh quây quần ở bàn ăn đánh cá ngựa.
- Còn thằng Hào? Chàng cất tiếng hỏi.
- Thưa thầy thằng Hào coi đánh "tôm cua" ở ngoài trụ-sở Phong trào.. Tiếng con Bốn trả lời.
- Còn Thủy?
Bốn cái mặt ngơ ngác nhìn nhau. Hằng nói nhỏ:
- Chết cha! Từ hồi tám giờ đến giờ sao không thấy con Thủy lẩn quẩn ở nhà?
- Hay nó sang bên con Sa?
- Không có đâu - chàng gạt liền. Hôm qua tao đã dặn kỹ, ngày mồng một không được đi sang nhà ai hết, cả nhà của con Sa nữa. Sợ người ta kiêng.
- Thế thì nó ở đâu? - Con Bốn vừa tự hỏi vừa chạy xuống nhà bếp.
Hằng ra đứng ở cửa kêu:
- Thủy ơi.
Không có tiếng trả lời.
Chàng mở cửa phòng nhìn vào rồi quay ra bảo:
- Thôi! Đừng tìm em nữa. Em nó ngủ ở trong phòng ba đây.
Chàng bước lại bàn viết. Thủy ngồi ở ghế mà lưng cúi sấp xuống, nghiêng mặt gác lên mặt bàn, mắt nhắm. Tiếng thở đều đặn. Tay trái đè lên một mảnh giấy còn tay phải cầm lỏng lẻo một cây bút. Chàng cúi xuống trang giấy. Những hàng chữ viết ngả nghiêng, chữ to cạnh chữ nhỏ, khoảng cách không đều và bôi xóa, nét mực nhoè nhoẹt. Tuy vậy, chàng cũng có thể đọc được:
Má ơi,
Con đi thăm mộ má mà không có má, má ở trên trời. Con học lớp năm không có má chải tóc cho con má con nguyệt thắt bím cho nó đẹp lắm. Con đi học trời mưa trợt ướt áo đầm anh hào lấy tờ giấy thấm của con con đòi anh không trả anh đánh con. Má nhớ trả lời cho con rồi dán lên trên mộ.
Võ thị tri thủy
VÕ-HỒNG
(Bách Khoa số 98 Tết Tân Sửu 1961)
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.