Tử Phác
(31/12/1923 - 1982)
Hưởng thọ 59 tuổi
tức Nguyễn Anh Chấn
tên thật là Nguyễn Văn Kim
nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ.
Là tác giả hai ca khúc "Tiếng Hát Quay Tơ", "Tiếng hát Lênh Đênh" nổi tiếng những năm 1948-49 mà nhiều người biết đến. Ngoài ra còn có bài "Vui Lá Reo" viết năm 1952 cũng theo style của "Tiếng hát lênh đênh" và bài sau cùng ông viết là "Giải Phóng Tây Bắc" viết năm 1953 khi còn ở quân đội.
Tử Phác còn là một trong những nhân vật trụ cột
của nhóm Nhân văn-Giai phẩm.
“Tôi biết đi đâu biết về đâu
Tuy không reo ác lại hái sầu
Đất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu.
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi.
Tôi hỏi bình minh tôi hỏi mây
Hỏi sóng biển hỏi trời giông bão
Hỏi tình yêu hay hỏi niềm đau
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi."
Tử Phác, 12-1979
Tiếng Hát Quay Tơ
Chiều không hương, buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông tím ngắt, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm
Vun vút bóng câu, khắp trời bát ngát khói hương
Thì thào lá biếc có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng, heo may hòa đàn
Ngập ngừng xe quay, rung rinh in bóng dáng người
Người chiến sĩ ầm gió rít mưa bay
Dấn mình trong khói súng
Chiến trường áo mong manh
Căm thù nuôi ấm thân
Quyết lấy máu pha tươi sắc cờ
Chàng ra đi giữ miếng vườn này, giữ mái tranh này
Em về xa vắng, thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá siết, em run ngỡ tiếng, ngỡ tiếng
bước ai về
Quay quay, thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay, se áo rét dâng chàng
Rộn ràng tơ lướt tới người chiến sỹ yêu
Quay quay, thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay, chăn ấm cuốn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mối giây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Ơn lòng trai cứu nước
Gửi cùng áo ấm muôn vàn nhớ thương
Tử Phác sinh năm 1923, nhà ở phố Hàng Giấy, khu chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Thời niên thiếu ông thường viết nhạc cùng Lương Ngọc Châu (cháu của Lương Văn Can trong Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ ông là Trương Tần Phác, hậu duệ của anh hùng Trương Công Định. Bút danh Tử Phác có nghĩa là con của bà Phác.
Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp làm kháng chiến chống Pháp. Tử Phác được kết nạp vào Đảng Cộng sản và phụ trách tờ báo Thủ đô của khu II.
Năm 1949, vào Ban Chấp hành Chi hội Văn nghệ Liên khu III
Năm 1950, Tử Phác giữ chức Trưởng phòng Văn Nghệ thuộc Tổng cục Chính trị
Năm 1952, ông làm Tổng Phụ trách Văn Công Quân đội
Từ năm 1957-1958 Tử Phác là Thư ký Tòa Soạn của báo Nhân văn Giai phẩm.
Năm năm 1959-1960 khi vụ Nhân văn Giai phẩm xảy ra ông bị đưa đi cải tạo tại Hòa Bình.
Sau khi cải tạo về Tử Phác không tìm được một việc làm nào. "Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương cầm, cái hương án... "
Năm 1982, Tử Phác mất trong cảnh cô đơn, nghèo đói, đau đớn vì bệnh ung thư.
Tiếng Hát Lênh Đênh
Nhạc và lời: Tử Phác & Lương Ngọc Châu
Nghe ầm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm kiếp lá úa rơi đầy
Chiều lắng xuống bao kiếp cô liêu, đìu hiu bến vắng, trong lòng muôn dòng nước trôi
Nhà ai thấp thoáng lửa hồng
Người đi có nhớ đường về, miền giang khô héo đìu hiu
Nghe ầm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm kiếp lá úa rơi đầy
Hiu hiu theo chiều gió dâng lời thầm ước
Anh nghe chăng lá vàng rụng lay lắt rót nhớ thương
Lời 1:
Anh nghe chăng bao tiếng đời, bao tiếng lòng
Ngàn muôn xa cách bừng lên phố phường
Hoa rung rinh chập chờn gió lướt bâng khuâng
Cho mềm cánh bướm phân vân
Lời 2:
Anh nghe chăng bao tiếng đời, bao tiếng lòng
Hòa muôn tiếng dế nỉ non mấy lời
Đêm không trăng, ai làm ngây ngất sương mây ?
Ai buồn tiếng hát lênh đênh
Tử Phác
(1923-1982)
(1923-1982)
Tử Phác chỉ để lại hai ca khúc: Tiếng Hát Quay Tơ và Tiếng Hát Lênh Ðênh sáng tác chung với Lương Ngọc Châu.
Nghe nói, Tử Phác mê nhạc từ khi còn nhỏ.
Nhưng thân phụ cấm không cho đàn hát vì sợ trở ngại cho công việc học hành của con.
Tử Phác phải năn nỉ mẹ mua dấu cho môt chiếc vĩ cầm, gửi bên nhà Lương Ngọc Châu, có dịp thì lén ghé qua tập dượt.
Sau ngày 30 Tháng Tư 75, ở miền Nam người ta mới được biết thêm một số tin tức và hay rằng, Tử Phác còn là một nhà thơ, thực tế, ông còn làm nhiều thơ hơn viết nhạc.
Ðiều ấy cũng giải thích vì sao các ca khúc của ông, bài nào lời ca cũng rất hay.
Nghe âm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm chiếc lá úa rơi đầy
Ðược biết, ông từng giữ những chức vụ cao cấp trong quân đôi miền Bắc và trong guồng máy cai trị của Ðảng. Sau vì có liên hệ với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, ông bị tước cả quân hàm, cắt lương bổng, đưa đi cải tạo.
Ðược tha khỏi các trại cải tạo, ông không biết làm sao sống vì không xin được việc làm và đã phải trải qua những ngày đắng cay, điêu đứng.
Bế cháu trong lòng đã có lúc ông viết những câu thơ buồn bã thế này :
Chiếc mặt nạ treo cao rạp hát
Nửa cười nửa khóc tấn trò đời
Cũng giống mặt tôi nửa người nửa ngợm
Tôi quay đi khỏi tủi mắt cháu tôi
Thẹn thùng ý tứ với nhà thơ
Tầm Dương canh khuya người kỹ nữ
“Tay ôm đàn che nửa mặt hoa”
Tôi giữ cháu tôi trên đùi tôi nhún nhẩy
Quay đầu đi dấu nửa mặt mo
Trong nhiều năm gia đình sống trông chờ vào sự trợ giúp của các thân nhân bên nội, từ Pháp gửi về.
Thiếu thốn bù đắp bằng cách bán dần các vật dụng trong nhà. Chiếc dương cầm cũ kỹ là vật bán sau cùng.
Tôi biết đi đâu biết về đâu
Ðất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Ðâu đất lành dung lũ chúng tôi
Cuối cùng Tử Phác chọn quyết định giải quyết hoàn cảnh bức bách của mình bằng cách cho vợ con vượt biên.
Ông ở lại Hà Nội cùng với môt người con lớn, đã lập gia đình.
Nỗi lo sợ khi “ném vợ con vào chỗ chết để đi tìm đường sống” Tử Phác đã ghi lại trong một bài thơ khác:
Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Tìm em nơi nao trên biển đông
Thuyền con như lá rớt giữa dòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
..........................................
Ðất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết thiết hải âu
.....
Ai xa quê hương mà nghe náo nức
Ai biệt chồng con vui sướng reo mừng
Ai đã chắc biệt ly là khổ
Ai cầm bằng đến được bờ vui
Vui ly biệt mà buồn thân phận
Không biết trên thế giới có bao nhiêu dân tộc người ta đã phải làm cái việc cố gắng lìa nhau để sống, vui mừng vì có người đi thoát khỏi đất nước, dù chẳng còn mong có ngày gặp lại.
Người ta gần như không còn tìm ra dấu vết thơ mộng, lòng yêu đời, yêu người, yêu đất nước của Tử Phác trong ca khúc Tiếng Hát Quay Tơ nữa :
Chiều không hương, buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông, tím ngắt, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm
Vun vút bóng câu khắp trời, bát ngát khói hương
Thì thào lá biếc, có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng, heo may hòa đàn
Ngập ngừng xe quay, run run in bóng dáng người
Người chiến sĩ ầm gió rít mưa bay,
Dấn mình trong khói súng,
Chiến trường áo mong manh,
Căm thù nuôi ấm thân,
Quyết gắng sức nâng cao sắc cờ
Chàng ra đi giữ miếng vườn này, giữ mái tranh này
Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá siết em run ngỡ tiếng, ngỡ tiếng bước ai về
Quay quay, thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay, se áo rét dâng chàng
Rộn ràng tơ lướt tới người chiến sỹ yêu
Quay quay, thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay, chăn ấm cuốn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mối giây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu
Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng
Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng, quay gấp bánh xe
Tơ vàng chắn lối gió đông
Cho người chiến sỹ đêm không lạnh lùng
Ơn lòng trai cứu nước
Gửi cùng áo ấm muôn vàn nhớ thương
-------------------------------------------------
Tử Phác sống trong cảnh tù giam lỏng từ lúc được tha khỏi trại tù cải tạo cho đến lúc chết vì ung thư.
Trong bài ai điếu Trần Dần đọc trước đám tang ông có những câu :
Ngày xưa
Ngày xưa ... có một chàng trai
Trong ầm ầm gió rét mưa bay
Ðộng tâm vì những người chiến trường
áo mong manh
Liều lấy cả tuổi xanh mình
Tim thật mình
Quay tơ... may áo
Ai ai đều nhớ
Mỗi một đường tơ là mỗi giây tình
dâng người hiên ngang
Thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
Cho hơn môt thế hệ những người áo mong
manh chiến trường
Như thế, văn nghệ sĩ miền Bắc trước ngày 30 Tháng Tư 75 cũng có những người khốn khổ chẳng khác văn nghệ sĩ miền Nam sau ngày 30 Tháng Tư 75.
Vậy, những ai là người sung sướng ?
----------------------------------------
Tiếng Hát Lênh Đênh
Lương Ngọc Châu và Tử Phác
Nghe ầm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm kiếp lá úa rơi đầy
Chiều lắng xuống bao kiếp cô liêu, đìu hiu bến vắng, trong lòng muôn dòng nước trôi
Nhà ai thấp thoáng lửa hồng
Người đi có nhớ đường về, miền giang khô héo đìu hiu
Nghe ầm vang lên tiếng chiến chinh
Mơ làm diều mang sáo thanh bình
Nghe vườn cây xao xác gió may
Mơ làm kiếp lá úa rơi đầy
Hiu hiu theo chiều gió dâng lời thầm ước
Anh nghe chăng lá vàng rụng lay lắt rót nhớ thương
Lời 1:
Anh nghe chăng bao tiếng đời, bao tiếng lòng
Ngàn muôn xa cách bừng lên phố phường
Hoa rung rinh chập chờn gió lướt bâng khuâng
Cho mềm cánh bướm phân vân
Lời 2:
Anh nghe chăng bao tiếng đời, bao tiếng lòng
Hòa muôn tiếng dế nỉ non mấy lời
Đêm không trăng, ai làm ngây ngất sương mây ?
Ai buồn tiếng hát lênh đênh
Tài Liệu Tham Khảo: Tiếng Hát Lênh Đênh, Tử Phác và Lương Ngọc Châu, Tinh Hoa ấn hành 1951
-----------------------------------
Tiếng Hát Quay Tơ
(lời copy từ một nguồn khác)
Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông tím ngát, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm, vun vút bóng cau
Khắp trời bát ngát khói sương
Thì thào lá biếc có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng heo may hòa đàn...
Ngập ngừng xe quay rung rinh in bóng dáng người
Ầm ầm... gió rét... mưa bay...
Chàng ra đi...
Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá xiết em run
Ngỡ tiếng ngỡ tiếng bước ai về
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay se áo rét dâng chàng...
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay chăn ấm quấn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu
Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng
Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng quay gấp bánh xe
Tơ vàng chắn lối gió đông chọ..đêm không lạnh lùng
Gửi cùng áo ấm
Muôn vàn nhớ nhung...
Tử Phác, 1948
-----------------------------------
(xin click vào tên bản nhạc để nghe)
Anh Ngọc trình bày
Quỳnh Giao trình bày
Tài tử Ngọc Bảo trình bày
Mai Hương trình bày
Tử Phác thương nhớ quyến vào tơ
NGUYỄN THỤY KHA
Nhạc sĩ Tử Phác.
Một lần đến uống rượu ở nhà ông Đặng Đình Hưng tại khu chung cư Giảng Võ, tôi thấy một ông gầy guộc, có gương mặt rất “trai phố cổ” với bộ ria mép rất tài tử xi-nê. Ông Hưng giới thiệu: “Đây là nhạc sĩ Tử Phác - tác giả “Tiếng hát quay tơ” nổi tiếng. Kha biết không?”.
Tôi vôi nắm chặt tay Tử Phác và thốt lên giai điệu: “Chiều không hương mây buông lắng xuống đồng quê …”. Ông Hưng cười ha hả: “Thằng này được. Nó còn thuộc cả “Mừng chiến thắng Tây Bắc” của tao nữa đấy”. Tử Phác cười khó nhọc. Được vài chén tôi mới biết ông chớm ung thư vòm họng đang điều trị. Vậy là hai ông “u gì” đang đối tửu cùng nhau.
Tôi thuộc “Tiếng hát quay tơ” từ nhỏ do nghe các anh các chị hay hát tại căn nhà thân yêu của chúng tôi ở Hải Phòng tạm bị chiếm. Sau này, tôi mới biết “Tiếng hát quay tơ” được Tử Phác viết ở chiến khu III, nhưng lại được hát rất thịnh hành trong vùng tạm bị chiếm giống như “Nụ cười sơn cước” của Tô Hải, “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn… Một điệu Valse thật nhịp nhàng đằm thắm, lãng mạn với ca từ đượm chất cổ thi: “Hàng nước mắt lá rơi/ Bên thềm vun vút bóng câu/ Kín trời tắm lối gió đông/ Thì thào lá biếc có chen lá vàng/ Tre ngà đưa võng đung đưa cung đàn…”. Nhờ thuộc giai điệu này, khi học đại học, tôi và thầy giáo môn “Sức bền vật liệu” tên là Tôn Huyến thường xuyên song ca trong các cuộc tụ tập ở vùng đồi cọ Phú Thọ. Qua Đặng Đình Hưng, tôi mới dần biết về cuộc đời phiêu lãng của Tử Phác.
Tử Phác sinh ngày 31.12.1923 trong một gia đình ở phố Hàng Bạc. Tên khai sinh là Nguyễn Văn Kim. Do gia đình khá giả, ngay từ thời đi học, bạn bè đã gọi ông là “cậu Kim hàng Bạc”. Ông tham gia chiến đấu trên chiến lũy Hà Nội mùa đông 1946, rồi nhập vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Năm 1947 - 1948, ông là Thư ký tòa soạn báo Thủ Đô ở chiến khu III với bút danh Nguyễn Anh Chấn. Năm 1949 - 1950, ông được điều lên Việt Bắc làm Thư ký tòa soạn báo Sự Thật với bút danh Trương Công Kích. Năm 1950, Tử Phác chuyển sang quân đội làm Trưởng phòng Văn nghệ thuộc Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị. Trong chiến dịch Tây Bắc, dọc đường hành quân, khi phát hiện ra điệu múa sạp Tây Bắc đơn sơ với những nhịp múa uyển chuyển theo tiếng gõ vào ống nứa, ông đã nhanh chóng muốn có nhạc múa cho điệu múa độc đáo này. Ông đã cử nhạc sĩ Sao Mai đi thực tế lấy chất liệu dân ca Thái để viết ra giai điệu nhạc cho múa sạp. Ngày về giải phóng thủ đô, trong Liên hoan Ca múa nhạc toàn quân tại Nhà hát Lớn, múa sạp được khen ngợi. Đêm ấy, theo lời kể của Hoàng Cầm, hai ông đã tự thưởng cho nhau thuốc lá thơm Philip Morris và mấy ly cognac. Riêng với “Tiếng hát quay tơ” của ông, nghệ sĩ Kim Ngọc đã thể hiện hết sức tuyệt vời. Những ngày đầu đổi mới, bà Kim Ngọc hát lại “Tiếng hát quay tơ” vẫn hay và nhuyễn như xưa. Bài hát cần rất nhiều sắc thái khác nhau và bà đã thấm nhuần điều đó khi thể hiện. Đoạn thể hiện chiến sĩ ngoài mặt trận cần mạnh mẽ, bà đã hát rất cuốn hút và bốc lửa: “Người chiến sĩ ầm gió rít sương rơi/ Đẫm mình trong khói súng/ Chiến trường áo mong manh/ Căm thù nuôi ấm thân/ Quyết lấy máu pha tô sắc cờ…”.
Đoạn nối tiếp là tâm sự của người vợ ở hậu phương thì lại được thể hiện rất dịu dàng, mượt mà trong bâng khuâng thương nhớ: “Chàng ra đi giữ miếng vườn này giữ mái tranh này/ Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay/ Chiều nghe rơi tiếng lá xạc xào em ngỡ/ Ngỡ bóng dáng ai về…”.
Và thương nhớ đã quyến vào nhịp xa quay điệp khúc: “Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay quay may áo rét dâng chàng/ Rộn ràng tơ lướt tới người chiến sĩ yêu/ Quay quay thương nhớ luyến vào tơ/ Quay quay may áo rét dâng chàng/ Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình trong lòng/ Em dâng người hiên ngang…”.
Điệp khúc nổi tiếng đến nỗi như “Hành quân xa” và “Chiến thắng Điện Biên” của Đỗ Nhuận được lính ta “chế” lời ngay: “Quay quay rau muống chấm vào tương…”. Nhờ “Tiếng hát quay tơ”, Tử Phác đã tìm được “ý trung nhân” của mình là bà Lương Thị Nghĩa. Bà Nghĩa cũng là dân phố cổ như ông. Ông ở Hàng Bạc, còn bà ở Hàng Ngang. Bà học piano từ nhỏ. Kháng chiến, bà tản cư về Thái Bình giảng dạy âm nhạc và tham gia công tác phụ nữ. Bà lên Việt Bắc năm 1950, công tác tại ngành điện ảnh. Ở Việt Bắc, họ đã về với nhau.
Ngay sau giải phóng Thủ đô ít năm, Tử Phác chuyển sang làm Tạp chí Âm nhạc của Hội Văn nghệ Việt Nam cùng Đặng Đình Hưng. Không ngờ năm 1990, tôi lại là người kế nghiệp hai ông khi về làm Tạp chí Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Đọc lại những số đầu tiên do các ông làm, thấy các ông chính là những người đặt nền móng đầu tiên cho tờ tạp chí chuyên ngành này. Hồi ấy, chiều chiều tôi hay ngồi với “Lương kèn” - con trai ông Tử Phác. Anh em thường hàn huyên với nhau về ông. Hôm Lê Đạt đến đưa bài viết về Tử Phác, anh em rất cảm động. Qua Lê Đạt, biết Tử Phác là người rất kỹ tính và chiều bạn. Có Tết sau hòa bình, lúc này Tử Phác ở Hàng Giấy, ông dặn vợ gói mấy cái bánh chưng nhân thịt chim để thết bạn. Bữa đó có Lê Đạt, Văn Cao và Trần Dần. Bà Nghĩa lúc này dạy piano ở Trường Âm nhạc nhưng rất “tề gia nội trợ”. Song có lẽ do mất dấu nên khi bánh chưng bóc ra vẫn là nhân thịt lợn. Tử Phác yêu cầu vợ phải tìm bằng được bánh nhân chim để mời mọi người thưởng thức. Bà Nghĩa là em ruột nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Ông Châu lại lấy chị ruột nhạc sĩ Phạm Tuyên. Ông bà cũng có thời gian tham gia kháng chiến, sau sang định cư ở Pháp. Sau khi Tử Phác mất, bà Nghĩa cũng sang Pháp ở với anh chị Lương Ngọc Châu. Bà mất năm 1985.
Tử Phác gắn bó bạn bè như thế nên luôn luôn ủng hộ công việc của bạn bè. Khi tờ Giai Phẩm ấn hành, ông có gửi một sáng tác mới là bài “Gió hồ Tây” để góp mặt cùng bạn bè cho vui. Cũng như Đặng Đình Hưng, khi Hội kiểm điểm anh em tham gia Nhân Văn - Giai Phẩm, Tử Phác cũng bị liệt vào cùng một nhóm. Ông và Lê Đạt đi lao động ở nông trường Chí Linh. Lê Đạt thì chăn bò. Còn Tử Phác đánh gốc khẩn hoang. Lao động vất vả là thế nhưng vẫn không làm mất đi cái chất “trai phố cổ” trong Tử Phác. Chiều về, khi hết giờ lao động, ông lại gọn ghẽ, chải chuốt, thanh lịch như khi làm Tạp chí Âm nhạc. Cách sống riêng kiểu Tử Phác khiến nhiều người không ưa, cho là cầu kỳ. Song đó là một thái độ sống có văn hóa, một thái độ tự khẳng định.
Thời gian cứ thế trôi đi, qua hẳn một cuộc chiến tranh, rồi lại đến những năm đầu hậu chiến vẫn còn ùng oàng những tranh chấp biên giới phía Bắc và ở chiến trường Campuchia giúp bạn vượt qua thảm khốc diệt chủng. Chưa có gì để hy vọng. Riêng Đặng Đình Hưng thì sau khi cậu con trai Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin (1980) đã được phân nhà, đã được cứu chữa thoát hiểm u ác. Có một cuộc rượu tại nhà ông để mừng chuyện đó. Tử Phác tuy vẫn bị ung thư vòm họng nhưng cũng gắng đến góp vui với bạn bè. Vẫn là mấy người thân như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt và Dương Tường. Trần Dần lúc ấy cũng thoát hiểm tai biến mạch máu não. Thấy Tử Phác đến, Dương Tường hát “Tiếng hát quay tơ”. Giọng không hay nhưng da diết và đắm đuối.
Hoàng cầm thì ngân nga bài tựa truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh: “Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch …”. Trần Dần ngồi thu lu hai vai gù gù như con gấu, vừa lau mồ hôi vừa líu lưỡi nhại Vũ Trọng Phụng: “Em chã… em chã”. Đặng Đình Hưng cổ quàng khăn lụa hoa, đôi mắt sắc như dao, lơ mơ nhìn lên trần nhà hát “Cô láng giềng” của Hoàng Quý: “Cô láng giềng ơi!/ Không biết cô còn nhớ tới tôi…”. Hóa ra cô láng giềng của Đặng Đình Hưng ở Giảng Võ cũng vừa sang với cặp lồng đồ ăn và ít bánh mỳ. Có lẽ đó là buổi quần tụ cuối cùng của Tử Phác với bạn bè.
Từ ngày đổi mới, “Tiếng hát quay tơ” lần đầu tiên được hát trở lại. Cũng là bà Kim Ngọc khi xưa. Sau đó, câu lạc bộ nhạc tiền chiến, trữ tình mang tên “Ca khúc trữ tình” của nghệ sĩ violon Khắc Huề làm chỉ đạo nghệ thuật tại 51 Trần Hưng Đạo - Hà Nội, “Tiếng hát quay tơ” cũng hay được yêu cầu của thính giả. Mới gần đây thôi ở Sài Gòn, trong một cuộc tụ quần anh em, Dương Tường lại cao hứng: “Quay quay! Thương nhớ quyến vào tơ…”. Khoảnh khắc ấy, rất nhớ Tử Phác.
VÀI KỶ NIỆM VỀ NHÀ THƠ VÀ NHẠC SĨ TỬ PHÁC
VÂN UYÊN
Vân Uyên
Tên họ : Nguyễn Văn Ái
(Sinh tại Hà Nội năm 1920 là anh ruột của Tử Phác Nguyễn văn Kim)
Giáo sư Y Khoa Đại Học Sài Gòn, bộ môn Vi-Sinh-Vật-Học
1955-1975.
Viện trưởng Viện Pasteur Việt Nam (Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang) 1959-1975.
Đại diện VNCH trong chương trình Y Tế vùng nhiệt đới Asean.
Học tập cải tạo:
_ Trại Long Thành, 1975.
_ Trại Thủ Đức, 1975 – 1976
_ Trại Hà Sơn Bình, 1976 – 1979.
Tác giả: - Cuốn "Khoa Học và Đức Tin, Giới Thiệu Tư Tưởng của Teilhard de Chardin" Kim Lai Ấn Quán xuất bản Sài Gòn 1965.
Ba tập thơ:
Những vần lưu niệm, Paris 1996
"Tình Thơ" Paris 1997.
"Duyên Kiếp Thiên Tình" Paris 1999.
Huy Chương Vàng Toà Thánh (Vatican 1997).
VÀI KỶ NIỆM VỀ NHÀ THƠ VÀ NHẠC SĨ TỬ PHÁC
Vân Uyên
Hồn thiêng linh khí nơi nao
Tinh anh đố kỵ thanh tao nợ trần
Hiên ngang Tử Phác nhân văn
Quay tơ khúc điệp gieo vần tình quê.
Hoa xuân mê mẩn hương thề
Tâm can tận hiến đường về...hư không
Sầu thương khôn rửa Sông Hồng
Thơ ru nhạc thắm...máu hồng nhớ ai...
Trong cuộc điện đàm về buổi sinh hoạt của Câu Lạc Bộ Văn Hoá Việt Nam Paris ngày 15-6-2002, Đỗ Bình ngỏ ý muốn tôi đọc một bài thơ. Tôi suy nghĩ không biết nên đọc bài nào cho hợp với không khí buổi họp của Câu Lạc Bộ.
Vui chuyện tôi kể ngày 12-05-2002 được mời đi ăn giỗ nhân đó có viết mười sáu câu nhớ thương Tử Phác. Lúc đầu, hình như Đỗ Bình hơi bỡ ngỡ về bút hiệu Tử Phác, nhưng khi nghe nói tới Bài Hát Quay Tơ và Nhân Văn Giai Phẩm, Đỗ Bình nhớ lại ngay và đề nghị trước khi đọc thơ tôi nên có một đôi lời về nhà thơ kiêm nhạc sĩ Tử Phác.
Tử Phác sinh năm 1923 nhà ở phố Hàng Giấy Hà Nội khu chợ Đồng Xuân gần chân cầu sông Cái bắc qua sông Hồng Hà. Mất khi 59 tuổi trong cảnh cô đơn nghèo đói và thân thể đớn đau vì bệnh ung thư, vẫn ở trong căn nhà cũ nhưng đã bị chiến tranh tàn phá xác xơ...
Bài thơ tôi viết khi nghĩ về Tử Phác được đặt tên là: "Nhớ Thương" và phần trên gồm tám câu lục bát đã được dùng để mở đầu bài nầy.
Một năm trước ngày mất, đứa cháu nội lên ba vào thăm trong bệnh viện, Tử Phác ôm cháu trên đùi nhưng cố không cho cháu nhìn thấy mặt, vì:
... ...
Chiếc mặt nạ treo cao rạp hát
Nửa cười nửa khóc tấn trò đời
Cũng giống mặt tôi nửa người nửa ngợm
Tôi quay đi khỏi tủi mắt cháu tôi.
Thẹn thùng ý tứ với nhà thơ
Tầm dương canh khuya người kỹ nữ
“Tay ôm đàn che nửa mặt hoa"
Tôi giữ cháu tôi trên đùi tôi nhún nhẩy
Quay đầu đi giấu nửa mặt mo.
...
Ông nằm đây đã hết đớn đau rồi
Chỉ còn nhớ thương và uất hận không nguôi.
Tử Phác, 19-4-1981.
Lúc còn trẻ vào tuổi 14-15, Tử Phác đã giỏi về Việt Văn điểm thường là 19-20, trong những lời phê của giáo sư có câu: Trong mùa hè nóng bức đọc bài văn nầy như gặp một cơn gió mát...
Thuộc nhiều thơ và say mê âm nhạc, nhưng ông cụ thân sinh cấm ngặt không cho các con học đàn hát. Tử Phác năn nỉ bà mẹ xin tiền mua giấu một cây vĩ cầm gửi ở nhà nhạc sĩ Lương Hàm (ngọc?) Châu, thỉnh thoảng tạt qua tập dượt. Gia đình nhạc sĩ Châu có đàn dương cầm.
Hai người cùng nhau soạn nhiều bản nhạc thường Lương Hàm (Ngoc?) Châu làm nhạc còn Tử Phác viết lời. Vào thời đó, Tử Phác hay dạy các trẻ trong gia đình và ngoài khu phố những bài hát rước đèn Trung Thu tự mình sáng tác.
Sau nầy khi lập gia đình ở ngoài bưng, Tử Phác cưới vợ là em gái của Lương Hàm (Ngọc?) Châu. Gia đình họ Lương thuộc dòng dõi của cụ Lương Văn Can trong Đông Kinh Nghĩa Thục.
Còn bút hiệu Tử Phác có nghĩa người con của Phác, vì mẹ tên Trương Tần Phác, một hậu duệ của người hùng Gò Công Trương Công Định.
Tử Phác tên thật là Nguyễn Văn Kim khi viết văn thường ký bí danh Nguyễn Anh Chấn còn viết thơ và nhạc dùng bút hiệu Tử Phác.
Mồ côi mẹ lúc 16 tuổi và cha ba năm sau, theo kháng chiến chống Pháp rất sớm năm 1945, vì viết nhạc viết văn làm thơ nên được giao công tác văn công quân đội.
Từ đó, Tử Phác di chuyển chỗ nầy chỗ khác khắp vùng Bắc Việt, chính trong thời gian nầy Tử Phác đã viết lời và nhạc bài "Tiếng Hát Quay Tơ" vào năm 1948. Ngay từ những buổi trình diễn đầu tiên bài hát "Tiếng Hát Quay Tơ" đã được hoan nghênh nhiệt liệt:
Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông tím ngát, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm, vun vút bóng cau
Khắp trời bát ngát khói sương
Thì thào lá biếc có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng heo may hoà đàn...
... ...
Ngập ngừng xe quay rung rinh in bóng dáng người
Ầm ầm...gió rét...mưa bay...
... ... ...
Chàng ra đi...
Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá xiết em run
Ngỡ tiếng ngỡ tiếng bước ai về
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay se áo rét dâng chàng...
... ...
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay chăn ấm quấn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu
Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng
Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng quay gấp bánh xe
Tơ vàng chắn lối gió đông cho...đêm không lạnh lùng
... ...Gửi cùng áo ấm
Muôn vàn nhớ nhung...
Tử Phác, 1948
Khi nói về bài "Tiếng Hát Quay Tơ" nhà văn kiêm thi sĩ Hoàng Cầm đã viết: "Cả đoàn Việt Bắc đều thích hát cả ngày ca khúc Quay Tơ, có anh còn nhảy "valse"theo nhạc Quay Tơ nữa, nghe thật sang trọng hào hoa cuốn hút thắm thiết..."
Tử Phác nổi tiếng từ đó, nhưng cũng từ đó Tử Phác không còn thường sáng tác thơ nhạc vì được điều động vào cương vị tổ chức điều khiển làm Trưởng Phòng Văn Nghệ Quân Khu 3.
Năm 1950 lên Trung Ương giữ chức Trưởng Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chính Trị và năm 1952 làm Tổng Phụ Trách Văn Công Quân Đội cùng với Chính Hữu, Trần Dần và Hoàng Cầm trong Ban Chỉ Huy Tổng Đoàn.
Khi Trung Quốc tung ra phong trào "Trăm Hoa Đua Nở” Việt Nam cũng hùa theo và một số văn nghệ sĩ cùng nhau làm tờ báo "Nhân văn Giai phẩm" vào những năm 1957-1958.
Tử Phác là Thư Ký Toà Soạn của báo Nhân văn Giai phẩm.
Khi chính quyền dẹp Nhân văn Giai phẩm những người có liên quan tới Nhân văn Giai phẩm đều bị trừng phạt và đối xử tàn tệ. Riêng người bị trừng trị tàn nhẫn nhất là Tử Phác.
Tử Phác bị hạ tầng công tác mất hết quân hàm không còn được quân đội trả lương và cấp dưỡng, phải đi cải tạo ở Hoà Bình trong hai năm 1959-1960. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì Tử Phác đã bị bỏ chết đói ở Hoà Bình. Gia đình gửi cho Tử Phác một chiếc xe đạp để Tử Phác làm nghề “thồ đồ” kiếm sống. Sức khoẻ của Tử Phác từ đó cứ sút giảm dần liên miên hết bệnh nầy sang bệnh khác.
Khi được thả về Tử Phác không tìm được một việc làm nào, các báo và nhà xuất bản bị cấm không được đăng và trả tiền nhuận bút những bài văn thơ nhạc của Tử Phác. Con cái không cho đi học ở những cấp cao.
Trong 30 năm, Tử Phác như tù giam lỏng không ra khỏi nhà. Các người lại thăm, có người Tử Phác tiếp đón niềm nở, có người Tử Phác không chào hỏi để mặc ngồi đó hàng giờ không trả lời một câu, ngồi chán rồi đi, Tử Phác không để ý tới. Các con hỏi tại sao thế? Tử Phác đáp: “Những thằng đó đến xem bố nói gì để viết báo cáo”.
Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương cầm, cái hương án...
“Tôi biết đi đâu biết về đâu
Tuy không reo ác lại hái sầu
Đất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu.
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi.
Tôi hỏi bình minh tôi hỏi mây
Hỏi sóng biển hỏi trời giông bão
Hỏi tình yêu hay hỏi niềm đau
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi."
Tử Phác, 12-1979
Chính vì đâu đất lành dung lũ chúng tôi? Nên khi phong trào vượt biên lan ra ngoài Bắc, Tử Phác dành để vợ con vượt biên chỉ có người con đã lập gia đình ở lại trông nom Tử Phác.
Nghịch cảnh nên thơ cũng nghịch thường. Xa quê hương ai ai chẳng nhớ thương nhưng Tử Phác đã viết: "Vui sướng reo mừng. Biệt ly nào không buồn?" Nhưng Tử Phác lại viết: Vui Biệt Ly, trong những câu thơ sau:
Đất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết tiếng hải âu
... ...
Ai xa quê hương mà nghe náo nức
Ai biệt chồng con vui sướng reo mừng
... ...
Ai đã chắc biệt ly là khổ
Ai cầm bằng đến được bờ vui
Vui ly biệt mà buồn thân phận
... ...
Tử Phác, 12-1979
Nỗi niềm lo lắng cho những người vượt biên Tử Phác gói ghém trong những câu thơ:
... ...
Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Máu nhuộm hồng triệu mắt héo phân kỳ
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Thuyền con như lá rớt giữa giòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Đâu Macao, Tân Đảo, đâu Hồng Kông
Một trời một nước bờ xa khuất
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Tử Phác, 12-1979
Và may thay... ...
Những người vượt biên tới Hồng Kông và sau được định cư ở Pháp vì có thân nhân bảo lãnh. Nhớ vợ thương con, có đêm Tử Phác nằm mê thấy vợ về thăm trong vườn hồng tặng một tấm hình còn Tử Phác tặng vợ một bài thơ:
Cố nhân mặc áo hoa
Lẫn muôn hoa vườn hồng
Mắt lão nhìn chưa ra
Đã mờ đi lệ nhoà
Ba mươi năm chiến tranh
Không lạc nhau bom đạn
Thế mà nay về già
Lại lạc nhau trong vườn hoa
Bà tặng tôi tấm hình
Rẽ hoa tìm cố nhân
Tôi tặng bà vần thơ
Vẫn rành rành tôi đó
Tuổi già tưởng suôi sẻ
Ai ngờ vẫn phong ba
Bão táp trong vườn hoa
Vẫn ương ương vậy mà
Tử Phác, 29-7-1980
Đám tang của Tử Phác có công an chìm nổi canh chừng cẩn mật vì có nhiều người tới tham dự. Trong bài văn tế của Trần Dần có những câu như sau:
Ngày xửa, ngày xưa...có một chàng trai...
trong ầm ầm...gió rét...mưa bay...
động tâm vì những người chiến trường áo mong manh...
liều lấy cả tuổi xanh mình...tim thật mình...
quay tơ...may áo...
ai ai đều nhớ...
mỗi một đường tơ là mỗi dây tình...
dâng người hiên ngang...
thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
cho hơn một thế hệ những người áo mong manh chiến trường
những người hồi ấy hiên ngang kháng chiến...
Sự tích chàng trai chỉ cần có thế:
Tử Phác...Le Fier...Từ đầu...
Rồi khổ ải...khổ ải...30...
Hơn 30 năm sau...anh nằm đây...
Vẫn anh...Tử Phác...Le Fier...
Anh đã sống- đã đau-anh đã thác
Yêu nghệ thuật-yêu thơ-yêu nhạc
Một đời anh thác chỉ vì ...yêu
... ...
Anh để lại cho chúng tôi một thái độ
Chúng tôi ở lại...anh đi...
Âm dương không cách trở...
Trần Dần, 12-05-1982
Mười năm sau, tờ báo Âm Nhạc số 4 năm 1992 ở Hà Nội mới đăng bốn trang nói về Tử Phác kèm theo ảnh.
Và mười sáu năm sau, tờ báo Lao Động số 11 năm 1998 mới đăng ảnh của Tử Phác và một bài ngắn coi Tử Phác như một "nghệ sĩ có tầm vóc văn hoá sâu sắc thuộc số người sớm nhất mở đường “sân khấu hoá” cho một điệu múa dân gian là điệu múa sạp.”
Hai chục năm qua thoáng tới ngày
Kỵ linh thanh khí có về đây?
Gia phong nhang khói tình vương vấn
Sứ điệp ngàn thu mộng đắng cay.
Non nước tiếc thương tài mệnh bạc
Nhạc thi âm hưởng luỵ trần ai
Bến xưa chìm bóng trăng đồng nội
Sương phủ mù đêm lệ ứa đầy...
Vân Uyên, 12-05-2002
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.