Phùng Cung
(1928 Vĩnh Yên - 1997 Hà Nội)
Hưởng thọ 69 tuổi
Nhà thơ, nhà văn
Phùng Cung là nhà thơ, nhà văn thế kỷ 20. Ông tham gia phong trào nhân văn giai phẩm tại miền Bắc vào những năm 1955 - 1957. Sau đó ông bị bắt giam 12 năm trong các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bát, Yên Bái, Phong Quang... Tác phẩm khiến ông rơi vào vòng lao lý là: Con ngựa già của Chúa Trịnh và Dạ Ký, ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ bẻ cong ngòi bút, không dám nói thật tiếng nói của mình, bị lưu đày trong cõi tung hô.
Tiểu sử
Phùng Cung: sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên.
Năm 1945, ông tham gia cách mạng, làm chủ tịch liên xã Hồng Liên Châu và lãnh đạo cuộc nổi dậy cướp chính quyền. Năm 1949, ông phải rút lên Chiến khu Việt Bắc và tham gia công tác văn nghệ. Năm 1954, tiếp quản Thủ Đô, ông về sống tại Hà Nội và hoạt động văn nghệ cho đến khi bị bắt giam vào năm 1961.
Năm 1973, ông được phóng thích. Tuy nhiên vẫn bị quản thúc và theo dõi. Sau khi được phóng thích, ông sinh sống bằng nghề làm đinh và vẫn âm thầm làm thơ. Tập thơ "Xem Đêm" của ông được nhà nước cho phép xuất bản vào năm 1995. Sinh thời, trong những năm tháng gian khó sau khi mãn hạn tù, ông là người anh kết nghĩa thân thiết của nhà thơ Phùng Quán.
Ngày 28, tháng 04, năm 1997, ông qua đời tại bệnh viên Saint Paul.
Hưởng thọ 69 tuổi.
Tác phẩm
Con ngựa già của Chúa Trịnh
(truyện ngắn)
Phương-Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan-Lâm chừng bẩy dậm. Từ Đan-Lâm vào Phương-Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dòng suối phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựạ Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan-Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lão Nông có con ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lão đặt tên nó là Kim-Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước-Hao. Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn-mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thể "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến.
Từ khi con Kim-bông bắc yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lão. Không cuộc đua nào con Kim-Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.
Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu cận, tìm đến tận nơi hỏi mua.
Lão nông tuy luyến tiếc con Kim-Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng :"Con ngựa của bần dân thuộc loại quý mã, lạ vật, nhưng nó hiểu tiếng người. Bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc cho đời nó lắm ! Nay chúa công lại cho vời nó về chốn triều đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim-Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quý mã; Kim-Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tâỵ. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long.
Viên quan vào tâu với chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua để kén ngựa chiến.
Một buổi sáng, trên các ngã đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim-Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, bổng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim-Bông và cũng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân-dân reo hò vang dậỵ Chỉ trong chớp mắt, con Kim-Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hằng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim-Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần trong bụi nắng lòa của kinh thành. Khi dứt hồi trống, con Kim-Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng reo hò ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phỉ sức.
Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim-Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy xối. Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh.
Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên-lý-mã" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thâỵ Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.
Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng-uyển, để làm chổ tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quý của Chúa.
Lần đầu tiên con "Thiên lý" đặt chân tới Hoàng-cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hão. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gương trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu dắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lỉnh.
Con Thiên lý được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một chổ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở bên ngoài cung cấm : "Ôi chao ! Còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba ? Với cái sức khỏe bay hàng nghìn dặm, với cái thể "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen sông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được ? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường ? Hay Chúa đã quên ta là kẻ có tài ?".
Một buổi sáng, nó đang đứng trong Mã-đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sững sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa mang đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp đẽ làm sao? Đời nó chưa từng thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã phu buông tay: lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôị Rồi một mã phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. ủa lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này ? Ta sẽ làm gì đây ? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngốc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đị Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho chúa.
Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân-tử vừa thơm vừa ròn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên-lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên-lý-mã.
Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần,tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm ! Chốn thâm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc-sự triều-đình nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung-hô Vạn-tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai-phong chiếm giải đầu trên các trường đua.
Một buổi chiều, trên cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng Bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng dưới nước. Chà! mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư ? Kìa hai lá đa che mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần ? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự ! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta ! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trời.
Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn thượng-uyển, có lệnh dừng lạị Tức thì hai bên tay ngai dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bổng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi hớn mặt lên thì gấu xiêm mầu thiên-thanh của Bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và Bà Phị Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và giải xiêm Bà Phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm động, đứng ngẩn ra, hai mắt dương thao láo : "Chà ! Thật là ngoạn mục ! Ôi ! Giời đã ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu-vật của trần-gian, ta đội ơn Trời ".
Càng nhìn theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống đất cộp cộp mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập dầu vừa kể tội : "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đã để cho Chúa và Bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào ! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao ? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phảo. Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an-cư lạc-nghiệp ! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái vượt hàng ngàn dậm đối với ta cò gì đáng kể ".
Sống một cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên-lý đã trồi lên một lớp lông vàng sòe. Trước mã đài nó đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã chuyển dần về già. Tài nó cũng đã mòn mổ. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dậm.
Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng Bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoàị Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi : " Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này ! ". Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại dừng lại tự hỏi : "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao ?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con dường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều.
... Xe đi mãi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở : "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng ". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng : "Bọn nhãi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh ! Các chú không biết ta là ai ư ? Đã quên tài của anh đấy rồi sao ?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ : "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ ! Đững khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa ! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn ?".
Con Thiên-lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại dật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đo. Vừa đi vừa nghĩ : "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nhìn có một chiều. Bây không biết được ta làm đây dể mấy kẻ đã làm được ! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được vài dậm đã phờ mao sều dão. Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ba !".
Và hình ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên-lý-mã vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.
Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại : "Muôn tâu Chúa-công, hiện nay trong triều-đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dậm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin chúa-công để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã-lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu chúa-công dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm ! ".
Nghe tâu trình, chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn.
Con Thiên-lý-mã được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa,. đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa ré lên thì cụt lủn như vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ rạch vượt theọ Tiếng trống liên hồi, con Thiên-lý càng cắm cổ chạỵ Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoáy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng : " Tiếng tăm lừng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến-trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến-trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa ! ".
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phong vĩ".
Hà Nội 10-1956
Phùng Cung
Dạ Ký
(truyện ngắn)
Thời tiết gì mà lạ vậy, trời đã vào thu mà đêm còn oi bức như nung, như thiêu. Thời tiết lạc hậu! Ðêm lạc hậu! Hay đây là điềm thiên thời ra tay ủng hộ để cái nóng nấn ná đòi đốt cháy giai đoạn? Mở mắt to hơn nhìn thấy cái lợi lớn thì nóng thế này chứ nóng nữa, nóng hơn cả giữa mùa hè cũng khắc phục được hết. Trong số nhà 135 Mai Hắc Ðế gồm bảy hộ - trong đó có gia đình tôi - thì sáu hộ có trẻ con ốm. Gia đình tôi chiếm một phòng trên gác, cả thẩy bốn nhân khẩu: hai vợ chồng tôi và hai thằng cháu nhỏ. Với mười hai mét vuông, so với sáu hộ khác còn xênh xang hơn nhiều - "Ăn hết nhiều ở hết bao nhiêu!" Câu đầu lưỡi được các cụ ta ngày xưa tổng kết đã, đang và sẽ còn giá trị!
Rủi ro thay! Gia đình tôi hai cháu ốm cả hai: Mẹ chúng bị đau lưng vào nằm viện đã được hơn hai tuần. Dưới nhà, chẳng biết hộ nào vụng trộm nhang khói cầu khẩn cho người ốm; mùi hương thầm thoảng đầy mê tín. Lại có tiếng càu nhàu văng bậy từ số nhà bên cạnh chửi cái nóng, chửi lung tung! Phải khẳng định những người này chưa thấm nhuần tiến bộ văn minh còn phải học tập, còn phải được giáo dục nhiều. Những hành vi ấy dẫu là bán công khai cũng đều rất ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt. Tôi chẳng hương khói, chẳng văng bậy, chẳng chửi; khó khăn phải khắc phục mà! Khắc phục được hết; nó là khẩu hiệu tiên quyết thắng lợi mọi mặt - Có thể khẳng định một thủ đô pha lê; một thành phố pha lê đã nằm trong tầm tay hoạch định của trên. Ai ai cũng nức lòng lạc quan - không phải lạc quan tếu - lạc quan cách mạng!...
Thỉnh thoảng tôi vèo xe đạp vào viện thăm vợ; vẫn phải nói với vợ bằng lời: "Yên trí! Tất cả đều tốt!" Cái lối động viên quen tai rất thời thượng - xuất xứ từ đâu? - Cửa miệng quái nào cũng có thể thốt ra được, ở bất luận trường hợp nào xét thấy cần thiết - nó khoanh trong cái vòng "người tốt, việc tốt". Ðơn giản mà nghĩ, tôi thấy lời của mình nói với vợ là láo toét! Là nói điêu, là dối trá nhưng được hơn là thành thật. Trong cõi hệ lụy thiên định, nhân định này, chỉ có những phù thủy giấu mặt, cao tay màu nhiệm "úm ba la" đổi trắng thành đen, đổi đen ra đỏ mà, văn hóa mới, văn minh mới chưa lùng chụp được - khiến số ít người còn bán tín, bán nghi, sợ sệt và coi khinh - Phù thủy thì khiếp lắm! Nó pháp thuật, người thành ma, ma thành người. Dân thường làm gì mà biết được.
Mình là người dân, là công dân, chỉ nên nói đến chuyện trong phạm vi công dân - Vinh dự cầm chặt trong tay thẻ cử tri, phiếu bầu cử là đủ tự hào quyền làm chủ! Nhất thiết phải có nghĩa vụ vinh quang! Sự đãi ngộ, hưởng thụ cũng rất khoa học, phải có tiêu chuẩn rõ ràng, không có lộn xộn như xa xưa; cái gì cũng "... giai do tiền định" - đừng hòng! - Phải thời đại hóa "Nhất ẩm nhất trác giai do tiêu chuẩn." - Bản thân tôi, một mình phải đương đầu, đánh vật với miếng ăn, miếng uống; đánh vật với bệnh tật của vợ con; đánh vật với đủ thứ rủi ro: nhòm ngó, nghe ngóng - mình đâu phải là Quan Âm Phật bà ngàn mắt ngàn tay mà lường hết được; - đánh vật với chính mình! thâu ngày, thâu đêm còn đâu hơi sức để tỉnh táo, để định thần, để khôn ngoan, để phớt cẳng vượt lên tiêu chuẩn cao hơn - không ai cấm đoán; còn khuyến khích động viên nữa là khác.
Hai cháu, thằng anh bốn tuổi, hơn thằng em hai tuổi; cộng cả hai là sáu tuồi - đang trong vòng "tuổi mụ" - nói như thời xưa là chúng đang được bàn tay bà mụ che chở cho đến tuổi mười hai. Bây giờ thì chẳng có mụ mẫm gì, ai dám cả gan tin; lên tiếng thử xem? Tất nhiên tôi cũng chẳng dám tin, dại gì chuốc vạ vào thân! Hai đứa cứ như thi đua lên cơn sốt, đã bốn ngày, năm đêm, kể cả đêm nay.
Từ đêm chúng vắng mẹ, đêm nào tôi cũng phải nằm dang hai tay ra hai bên như một cây thánh giá; mỗi cánh tay làm gối đầu cho một đứa. Chúng đều nóng hầm hập; ngày sốt ít, đêm sốt nhiều; chừng như chúng lên sởi. Cả hai đều rên khe khẽ, nghe rất tội nghiệp! Hai cháu ngoan, biết nằm im, rồi ngủ thiếp đi khiến tôi đỡ bối rối. Nằm giữa chúng, tôi lơ mơ ngủ, lơ mơ thức; có thể nói là ngủ trong thức, thức trong ngủ. Tôi cứ nằm trong cái thế "chịu tử nạn!", ê ẩm hai cánh tay, không dám cựa, chỉ mong chút im lặng để chợp mắt.
Ðêm lặng, hơi có gió nhưng là gió nóng; có lẽ gió từ dưới đất lên. Tôi cảm thấy hai mắt đang được băng lại bằng lụa mỏng - một thứ lụa chuyên dùng của thần ru ngủ? Tai tôi vẫn còn thức, nhờ gió đón nhận được những âm thanh của đêm thu. Âm thanh cũng đứt, nối, nổi, chìm, to, nhỏ, gió ý thức điều chỉnh?... "Thề phanh thây, uống máu... cùng tiến lên!..." Thì ra trong tôi cơ hồ bị thất thoát khái niệm thời gian. Những bài ca cách mạng hùng tráng; xa, gần, các giới, đoàn thể đang tập luyện để long trọng đón kỷ niệm ngày đại lễ của đất nước - Cách mạng Tháng Tám, ngàn thu ghi nhớ! Âm thanh ấy đang dẫn dắt tôi, hoặc tôi níu lấy nó để đưa mình vào cõi chập chờn...
... Một không gian đỏ, xanh, vàng, tím bao la quay cuồng biến ảo; bóng tối bưng lấy mắt, rồi lại thay bằng một thứ ánh sáng dìu dịu của đêm trăng, rồi ngả sang màu ánh sáng của bình minh ảo - không gian phù thịnh. Tôi đang thông thả bước trên một đường phố - trước kia rải nhựa nay đầy những vết xe tăng để lại nham nhở. Tôi mất phương hướng, mất cả lập trường, lại không phải nhà quân sự nên không nhìn nhận rõ đây là dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược. Tôi tiếc con đường nên nghĩ dông dài thô thiển: Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!... Bỗng một bàn tay đập vào vai tôi, tôi giật mình. Tôi chỉ nghĩ chứ đâu đã nói ra, nên tôi lại định thần quay lại. Ai nhỉ? Một người mà tôi thường hàng ngày chạm mặt. Vẻ mặt dễ mến này hẳn tôi đã lưu giữ trong tiềm thức nhưng vẫn không sao nhớ được tên - Nói theo tiếng xưng hô - hóm hỉnh - mỡ nạc - vui tính - hàng ngày của nhà văn Kim Lân, là "người anh em". Tôi hỏi "Người anh em đi đâu?" Người này chỉ cười, không trả lời; càng cười càng tỏ vẻ dễ dãi. Trong chuỗi cười, nói lên cả một lời khuyên nhủ "Ðồng hành!" Tôi vốn có thói quen trực giác cảm thấy đáng tin, là tôi sẵn sàng thả lã sự giao tiếp ngay; không chút đắn đo, ngần ngại. Anh ta đi trước, giữa tôi và anh ta có mấy thứ khoảng cách; khoảng cách tuổi tác, tôi kém anh ta ít cũng ba trăm sáu lăm ngày nhân bốn hoặc năm; khoảng cách chức vị xã hội thì dài lắm, bởi tôi chẳng là cái gì; khoảng cách bước đi vừa bằng chiều dài một con chó. Kẻ trước, người sau đều bước, tôi vẫn băn khoăn, không sao nhớ được tên. Ði là đi, tôi cũng chưa kịp hỏi là đi đâu, bởi tôi tin theo sau anh là vô hại, nếu chưa nghĩ đến là lợi lộc. Ði được một quãng, anh ta nói với tôi bằng cái giọng quyến rũ, tiếng to, tiếng nhỏ, tôi nghe câu được câu chăng: "đường vinh quang" hay "đài vinh quang!"... gì đó. Tôi bụng bảo dạ: "hay rồi!" Anh ta cứ nói, tôi cứ nghe. Xem chừng đã mỏi chân, khát nước, muốn tìm chỗ nghỉ để rồi lại đi. Thình lình tôi quay lại, không thấy anh ta đâu, rõ ràng tiếng nói của anh ta còn bám trên vành tai tôi. Tôi lấy làm lạ, nhìn đông, nhìn tây không thấy. Anh ta đi đâu nhỉ? - rẽ lối nào? - để làm gì? - Tại sao mình lại không biết? Tất nhiên tôi chẳng mất mát gì; chẳng có gì để mất mát. Ẩn hiện kiểu này chỉ là thần hoặc ma, tôi đâm ra lo sợ. Giữa thanh thiên bạch nhật lại xảy ra chuyện kỳ lạ nhường này! Tôi vừa đi vừa nghĩ, cố rà lại trong kho lưu trữ của mình để ghép dựng lại con người anh ta. Tôi tiến hành theo cái kiểu làm dồi lợn, được đoạn nào buộc đoạn đó - biết mình đầu óc kém khoa học, kém tổng kết, hay để sổng ý nghĩ - dễ xáo trộn lung tung. Trước hết tôi lần nhớ dáng đi của anh ta, lon ton, lon ton - lối vận hành của quan hoạn - À! nhớ ra rồi! Kho nhớ của tôi về anh ta như ổ khoá mở đúng chìa; thậm chí tôi có thể biết cả sơ yếu lý lịch của anh ta - Con trai thứ của một viên chức loại thường ở thành phố cảng, nhà lại có cửa hàng cửa hiệu; học vấn đã qua tú tài, và đã qua vài năm trường luật - nhờ tham gia cách mạng từ thời Nhật thuộc - trình độ văn hóa - giữa lúc mà Bác mình đang kêu gọi diệt giặc dốt - thì anh ta thuộc loại có hạng. Bởi vậy anh ta được giao công tác "tuổi trẻ chức cao". Hình hài xếp loại đẹp giai, trông rất đàn ông, da ngăm ngăm, mũi cao, mày rậm, mắt sáng, râu quai nón - lúc nào cũng cạo nhẵn - khi chưa kịp cạo, râu hơi lờm sờm càng đẹp vẻ mày râu.
Anh ta được trên sủng ái; cái giọng nói to nhỏ từ miệng khuôn ra toàn đạo đức; mới nghe ngọt sớt nhưng ngẫm nghĩ thì nó lộ nguyên hình mỹ ký. Chả biết anh ta học ai mà nhuần nhuyễn bài bản mỹ ký đến thế; chẳng lẽ bẩm sinh? - Hẹp hòi, ích kỷ, thù vặt, đầy người - kể cũng được việc lắm! Văn, thơ, kịch cọt, nhạc nhiếc, triết trủng, anh ta tự hào "thập bát ban võ nghệ tinh thông!" Nhờ tài hoa ấy mà đời anh ta thông bén luồng lạch! ngóc ngách công tác cũng như riêng tư. Tôi được biết nhiều phụ nữ từ quan hệ công tác - môi trường tạo gần gụi, ngụy trang - chị em phái yếu nhà mình không ít nhẹ dạ, nhẹ như xăng - như thùng xăng. Anh ta rất nhạy bén đánh hơi khi thùng xăng hở nút, hoặc rò rỉ, quẹt diêm đúng lúc - Dẫu đội quân cứu hoả nhà trời cũng đừng hòng tắt ngay được! Hậu quả chị em đã bị anh ta làm cho khốn khổ; chị em đã có chồng con không xiêu nhà nát cửa, cũng mang hận suốt đời! Kiêng nể cách mạng nên phụ nữ không dám lên án anh ta là tên "Sở Khanh cách mạng" mà chỉ nhổ hơi nặng bãi nước bọt! Anh em trong ngành văn nghệ đã phong tặng anh ta danh hiệu "con chó dái đầu bảng!"
Con người như thế phải là như thế. Khi vợ anh ta bị bệnh lao phổi, chết tại Việt Bắc, biến đau thương thành hành động; anh ta lao vào công tác vừa phần rảnh thân kiếm bạn đời, rảnh cẳng lông nhông...
Chẳng hay, cấp trên trực tiếp, gián tiếp có biết đầy đủ về con người anh ta không? - Sáng suốt nhường ấy thì chắc chắn phải biết. Có phải vì văn thơ kịch cọt của anh ta hợp khẩu vị - mà trên làm ngơ, hoặc đang có tác dụng này nọ; cân nhắc thấy những "nhược điểm nhỏ" của anh ta không ảnh hưởng gì đến nền đạo đức cách mạng, chỉ là cá tính vô hại. - Anh ta cũng đã mấy lần lầm lữa - giở quẻ - hợm mình - nâng giá! lên voi xuống chó, những lúc ấy trông anh ta thiểu não, ai cũng động lòng - người trong ngành nhận định chỉ là sự "giơ cao đánh khẽ" để vào khuôn phép, kỷ cương! - Nhận định như vậy hình như đúng - Trên đường hoạn lộ anh ta vẫn được đàn anh dấm dúi thập toàn đại bổ. "Nhược điểm nhỏ" anh ta cũng có phải trả giá - giá chợ chiều.
Tóm lại đâu vẫn hoàn đấy; vẫn lông nhông leo thang; công tác vẫn ngon lành. Thế mới biết con người ta đều có số phận cả! Biết rõ anh ta là ai rồi nhưng tôi vẫn thắc mắc về sự ẩn hiện của anh. Theo truyền ngôn, nước ta chỉ có "Tứ bất tử", các vị này đều dày công tu luyện đạo gì, đạo gì đó. Vậy chẳng lẽ anh ta đã bổ sung vào hàng ngũ đó sao? Chẳng lẽ học thuyết Mác Lê Nin cũng là đạo sao? Vô thần cơ mà! - Ừ thì cứ cho là đạo vô thần đi - Ðạo vô thần mà lại lắm phép lạ đến thế thì khiếp thật! Và đương nhiên anh ta phải là bực chân tu chính đạo! Tôi tự thấy mình hoá thành kẻ đa sự nên vội trụt ý nghĩ lại. Từ lúc trong đầu bận tập trung suy nghĩ về anh ta, quen chân, đều bước cũng chẳng biết mình đã đi bao xa và đi đến đâu. Chỉ thấy chân mỏi nhừ, khát nước bỏng cổ họng. Tôi trở lại cái thói quen thiển cận, những điều gì không tự giải đáp nổi cho quên béng đi, là thượng sách...
Trời đã ngả chiều, từ trên cao chợt có tiếng "quạ nổ pháp miệng" - Tiếng của làng quê tôi như thế - Tôi nhìn lên ngọn cây chòi mòi kề bên cổng một ngôi đền cổ kính. Không am tường ngôn ngữ chim muông nhưng tôi đoán đó là một dạo khúc bản Sê-rê-nát quạ. Con quạ khoang vươn cổ réo lên đủ bảy tiếng chiều - vấp nhịp - bốc cánh bay đi; vừa bay vừa ỉa thản nhiên. Tôi muốn ghé nơi cảnh vắng này để độ chân, luôn thể ăn mày ngụm nước. Tôi vừa bước khỏi cổng, bỗng thấy khác lạ: rõ ràng vừa rồi là một cổng đền, nay lại biến thành một tam quan đẹp - Chùa hay đền? - Tôi chẳng hiểu gì về kiến trúc, chẳng phải tín đồ, con hương, đệ tử. Tôi chẳng có cương vị quan tâm. Tôi bước thêm dăm bước. Chợt tiếng "đậu phụ chùa" sủa dữ dằn. Tôi để mắt tìm chẳng biết con vật ấy đâu. Tiếng sủa từ bốn phía giáp công giòn giã đan vây. Tôi biết làm gì đây để thanh minh mình không phải là kẻ gian phi. Tôi cố gắng nhìn ngó muốn tìm đến chủ của chúng dù là nhà sư hay là ông từ để nói lên cái yêu cầu không nhỏ của mình. Rất tiếc, tôi chẳng thấy bóng một ai! Chẳng biết sức gì lôi cuốn, khiến tôi tò mò ngoan bước. Vào đến thềm đại bái, tôi chợt nghe tiếng lịch kịch bên trong như tiếng thu dọn đồ đạc. Tôi bước hẳn vào bên trong, nhìn lên tam bảo uy nghi. Cái mắt tò mò chuộng lạ của tôi dè dặt tôn kính từ ba vị tam thế, đến hai bên hành lang, đủ loạt: tượng Phật, tượng thánh gỗ hay đất chẳng biết, đều sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Trời! Tôi bỗng rủn cả người! Các tượng tĩnh toạ ở cái thế thiên thu bất biến, nhất loạt chăm chắm nhìn tôi. Tôi rẽ sang hành lang bên tả, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang tả lườm tôi! Tôi rẽ sang hành lang bên hữu, các vị cũng nhất loạt đánh mắt sang hữu - Còn nhanh hơn - lườm tôi! Sự hoạt động của nhãn tượng nhạy bén tựa cái vô lăng ô tô quành trái, quành phải trên con đường chữ chi, ổ gà, do một tay lái tột bậc, điều khiển. Tôi cảm thấy lạnh toát người; tôi cố trấn tĩnh làm nhanh bản tự thuật trong đầu. Tôi vẫn biết đã là tự thuật là thành khẩn tự nhận tội lỗi là cốt lõi của vấn đề. Tôi tự nhủ có lẽ con mắt của thần, Phật; chỉ con mắt thần Phật mới nhìn thấu hết. Hẳn kiếp trước mình là kẻ bất lương, bất hảo!...
Tôi khép nép đi lùi theo lối cận thần sau khi vào bệ kiến đức vua mà tôi đã có nhiều dịp chứng kiến trên các chiếu hát chèo. Lùi đến khi gót chân va vào bậc cửa tôi mới dám cúi đầu quay ngang và bước hẳn xuống thềm.
Khát quá! Nhìn thấy một bể nước kề sát tường, tôi vội nghĩ: thôi thì dẫu sao mình cũng đã bị kiềm kim ấn ba kiếp thì liều thành tâm ăn mày trộm ngụm thanh thủy! Rủi thay! tôi nhìn vào bể chẳng còn lấy một giọt nước, đáy bể đã chớm rêu. Góc bể phía trong, một con cá đã chết từ bao giờ trong môi trường thiên định, chỉ còn nguyên bộ xương trắng màu gạo hẩm! Chờ ăn vạ, hay đợi thời gian mài giũa để siêu thoát, hay chờ bàn tay mầu nhiệm cho tái sinh? Duyên kiếp người cũng như ngư, điểu đều may ít, rủi nhiều, cứ nằm đấy mà chờ đợi! Tôi trộm nghĩ lõm bõm lời Phật tổ: "Nước bốn đại dương dồn chứa chưa bằng nước mắt chúng sinh trong thế giới ba ngàn!" Nếu được xét tái sinh hẳn con cá này sẽ được thung thăng ưu ái trong nước mắt mênh mông vô tận - Coi chừng, kẻo uổng phí kiếp tái sinh!
Bộ xương cá đòi bằng được chỗ đứng trong kho lưu trữ đầu tôi, làm tôi nao nao; cá đã chết rũ xương trong môi trường thì còn biết thế nào mà lường được! Môi trường đang là cái lò sát sinh được ngụy trang chăng?
Tôi vừa đi vừa nghĩ bỗng cơn mưa ập đến, nghe tiếng mưa rào rào, tôi nhìn xa gần để tìm nơi trú. Nhưng lạ thay, mưa mà quần áo tôi không ướt. Mới ở chùa ra, có lẽ mưa tưởng tôi là người nhà Phật, hay ít cũng vương mùi Phật nên kiêng nể chăng? Lại thình lình một mũi giày đá vào mông tôi. Ðá khá mạnh nhưng không đau. Tôi lại giật mình quay lại. Chẳng phải ai xa lạ, ông bạn cao tuổi, nhà thơ giả thiểu số - Tôi hơi bất bằng cái lối mở đầu sự gặp gỡ kiểu này, nhưng không tiện tỏ thái độ, chưa hẳn sợ anh mà là ngại anh thì đúng hơn. Anh đá tôi bằng giày vải quân đội nước bạn Trung Hoa viện trợ - Trong giày nó có sức điều tiết lúc êm, lúc đau - phát đá hữu nghị giao hảo thì nghe êm; ngược lại thì gấp ngàn vạn lần giày săng đá của lính Lê dương. Anh hất hàm hỏi tôi: "Ðã thật thành khẩn chưa?" Tôi chưa kịp trả lời mà nghĩ nhanh: sao anh ta lại hỏi đột ngột thế nhỉ? Anh ta có ở trong đầu mình đâu mà biết được bản tự thuật lúc nãy mình chỉ mới nghĩ, chứ có viết hoặc nói ra đâu. Lạ thật! Chẳng lẽ tiếng lịch kịch khi tôi nghe thấy lúc còn đứng ở thềm đại bái lại là tiếng do anh ta tạo nên. Có lẽ anh ta nấp đâu ở trong chùa mà tôi không biết. Cái khoa "Phật vận" của anh làm tôi phục anh sát đất. Cũng có thể do anh ta quen tin lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay chăng? - Như người bị bắt quả tang, tôi cứ ngớ ra: Chút bình tĩnh dần dần được hồi phục, vì mình không khuất tất, không trộm cắp gì. Vả lại nhà tôi cũng có nuôi chó. Người lạ đến nhà là nó sủa; bất kể là ai. Nhiều con khôn còn biết sủa lập công phò chủ. Tôi ít nhiều bị chúng hiểu lầm nhưng chẳng đáng để ý. Anh nhà thơ lên mặt giáo dục tôi: "Chưa được thành khẩn, phải đào sâu suy nghĩ, còn phải, bộc lộ!..." Tôi nghĩ đây đâu phải là đang cuộc chỉnh huấn. Nếu là chỉnh huấn tôi cũng chẳng tiếc gì vài cái gãi đầu đấm ngực, lên án mình - dù thật hay vờ miễn học ủy gật đầu chấp nhận... Anh nhà thơ lại hạ giọng: "Cũng tạm được, cũng đã có ít nhiều chuyển biến!...". Nói xong anh quay đi, đi rảo bước cho kịp một người bạn đồng hành của anh. Tôi được giải thoát, tôi thở phào nhìn theo hai người. Quái lạ! Anh nhà thơ, lúc nãy tôi có thấy anh ta cầm cái gì đâu. Bây giờ lại thấy tay phải cầm ngang một chiếc côn gỗ đầu đen, đầu đỏ - Nếu là côn đầu trắng đầu đỏ thì tôi đã biết nó là côn công sai - côn thủy hoả! Nhưng loại côn này thì tôi chịu. Người cùng đi với anh, không nhìn mặt tôi cũng biết. Vóc dáng cao lớn, gầy, đen, tứ thời đầu húi móng lừa, tứ thời bận đồ nâu - kể cả khi bận com-plê cũng nâu - na ná một ông sư Cao Miên - đó là một nhà văn, nhà lý luận - lối lập luận thời thượng nhất - vừa mũi nhất - Anh em trong ngành văn học nghệ thuật nói vụng với nhau là "Tên đầu bếp vụng, nhưng được kẻ ăn khen ngon!"...
Nhà lý luận một tay bá cổ nhà thơ, một tay cũng một cái côn, giữa sơn vàng, hai đầu đỏ, màu sắc tất nhiên khác hẳn côn của nhà thơ - Nó tượng trưng cho cái gì thì tôi cũng xin chịu - Côn nào cũng có tính năng của nó, không phải chuyện trang trí, tạo dáng.
Một lúc sau, không biết hai người đã rẽ lối nào, tôi chẳng quan tâm, ngả ba, ngả tư thiếu gì. Ðến một ngả ba, thấy lối rẽ bên phải đường nhẵn cát pha, tôi liền rẽ theo ngả này. Ôi! Vô phúc thế nào lại dẫn thân vào nơi cấm địa; lầu son, gác tía dựng ngay trước mặt. Tại sao mắt tôi không nhìn thấy từ xa nhỉ. Tôi dừng chân nhìn một ngôi hoá hai, hai hoá ba, ba hoá bốn, hoá năm, liên khu lâu đài, biệt thự - như trời hoá phép vậy! Tôi tưởng đây chỉ là ảo giác. Tôi xoa mắt, định thần. Tôi đứng bên ngoài hàng rào cấm, nhìn lên thấy một tấm biển màu đỏ, chữ vàng, chữ loà nhoà tôi không đọc rõ - treo ngay ngắn trước một biệt thự chính giữa. Hai hàng người quần áo đồng màu cắp côn đỏ, xếp thứ tự nghiêm chỉnh từ dưới chín cấp lên tận cửa son. Ðứng đầu hàng bên tả là người nào tôi không biết; đầu hàng bên hữu là ông anh đẹp trai tôi gặp lần đầu - ông anh rất chững chạc, rất điệu có vẻ điêu luyện nhất: Hẳn ông anh đang giữ chức chỉ huy, bên cửa son. Cặp mắt hau háu, trai lơ, sung mãn! Lúc này tôi mới chợt nghĩ lại mấy tiếng "vinh quang" mà tôi đã được nghe anh nói; hẳn là chốn này đây! Chả có công việc gì mà cứ luẫn quẫn nhìn ngó dễ bị xơi đòn nên tôi liền lảng nhanh. Tôi đang nghĩ tiếng "vinh quang", hẳn là anh đó khoe mình đang vinh quang, hoặc chỉ nhủ tôi đi xem "vinh quang" mà thôi. Như vậy là tôi đã được biết cái vỏ vinh quang, còn tất cả bên trong là như thế nào, ngữ tôi làm gì được biết. Tôi nghĩ: "đi một ngày đàng học một sàng khôn". Học cái gì, khôn cái gì? toàn là những điều không thực dụng, vô bổ.
Khát cứ khát, đói cứ đói, chân cứ đòi bước như thể tự mình dẫn độ mình trong vô định. Ðang đi trong lối đi của thành phố, trong đầu cứ bẵng đi một cái lại gặp một sự lạ. Ðường phố rõ ràng thoắt biến thành lối đi đèo dốc miền thượng du. Hai bên rừng rậm rập, tiếng chim hót đủ loại, nhiều nhất là vẹt và khướu bách thanh, hai loại này tay có nghề mà kiếm được vài cặp nuôi dạy làm mồi thì tuyệt vời!
Tôi chợt nghe giọng âm ấm ngâm câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp côi..." Tôi nghĩ ai đó đang ngâm nga câu thơ của Quang Dũng thì thấy đúng Quang Dũng xuất hiện. Tôi cảm thấy may mắn, gặp anh. Tôi vội hỏi anh đi đâu đến chốn này. Anh cười vẻ buồn buồn: "Ở Tây tiến về! Hôm nay sinh nhật mình, mình đang muốn tìm bạn dự sinh nhật!" Tôi nghĩ bụng: Thế thì đúng lúc, mình đang đói, khát, lại có bạn rủ đi sinh nhật thì còn gì bằng. Tôi ngỏ lời chấp thuận. Thế là anh ta kéo tôi ngồi xuống gốc cây bên cạnh giở trong bọc ra mấy củ khoai lang luộc, và tháo từ nách ra một bi đông - bi đông nhôm hơi méo đựng nước chè xanh. Hai thằng cùng ăn khoai, cùng uống nước - Anh ta giới thiệu khoai quê mình đấy, chè thì ở Gốt cũng gần quê mình - Ta lấy khoai làm bánh kẹo, lấy nước chè làm rượu - Anh vừa nói vừa cười hỏi tôi: "Cậu chúc gì mình nào?" Tôi đáp: "Chúc ông làm nhiều thơ hay!" - Anh ta lắc đầu, im lặng. Tôi thấy sinh nhật một nhà thơ sơ sài quá! đơn giản quá! Nhưng tôi lấy nội dung làm chính. Anh ta lại nói: "Khoai lang ăn nó dễ đi ỉa, nhuận tràng; chè xanh mát ruột!" Tôi cũng miễn cưỡng cho là phải - và đang nhìn mơ hồ lên bầu trời cao xanh. Bỗng tôi thấy anh lấy từ trong túi đựng khoai ra một con dao dài chừng một gang tay, chuôi đồng, lưỡi dao sáng loáng, anh ta vừa nhổ nước bọt vào gan bàn chân, vừa liếc dao, vừa khóc! Nước mắt lăn rơi đầy mặt! Liếc dao xong, anh ta đứng phắt dậy, mắt gườm gườm nhìn tôi. Tôi sửng sốt không hiểu nổi cái gì sẽ xẩy ra đây? Tôi cũng đứng dậy. Anh ta cầm lăm lăm con dao sắc trong tay: "Tao thiến mày!" Tôi hoảng sợ nhưng vẫn nghĩ là anh đùa: "Ðừng đùa dại thế anh!" - Anh nhảy bước tới tôi. Tôi lùi nhanh. Anh nói: "Ðùa à! Tao thương mày, mày có muốn làm quan hoạn không?" Tôi nghĩ: Thằng này phát điên hay sao đây mà lại quái gở thế này? - Anh ta nói liền liền: "Tao thương mày! Tao thương mày! Cùng quê nhau cả, tao giành cho mày mọi sự ưu ái!" Nhấp nhỏm có ý rình miếng chụp gọn lấy tôi. Tôi vừa sợ, vừa nghĩ: anh ta phát điên hẳn rồi! Ưu ái - quan hoạn - lộn xộn chẳng còn biết ra thế nào! Tôi lùi một bước, anh ta tiến một bước, tôi lùi hai bước, anh ta tiến hai bước. Anh ta một tay múa dao, một tay chuẩn bị chụp bộ hạ tôi. Chạy là thượng sách! Tôi phá chạy, anh ta huỳnh huỵch đuổi theo sau. Rõ ràng tôi cắm cổ gắng sức mà vẫn như chạy tại chỗ. Anh ta cũng không đuổi kịp được tôi. Chạy được một lúc, tôi ngoái nhanh cổ nhìn lại, không phải Quang Dũng mà là một nữ du kích; đầu chít khăn đen kiểu mỏ quạ, áo cánh nâu, quần đen có chít ống, trông cũng xinh xinh. Tôi vừa chạy vừa nghĩ chẳng lẽ Quang Dũng tàng hình hay cô du kích tàng hình. Tôi cứ chạy lối chữ chi như để tránh luồng đạn. Chạy mệt quá! đứt hơi rồi. Tôi đành nhắm mắt gửi thân cho số phận. Ngồi thụp xuống thở. Và cũng chẳng thấy ai đuổi mình. Người ấy biến đâu? Thế là thoát! Tôi ngồi nghỉ lấy lại sức, nhờ có vài củ khoai và vài ngụm chè xanh sinh nhật, cái đói khát cũng đã tạm ổn.
Trên đường toàn những khách văn chương, thời thịnh văn chương! Cũng như người ta nói: "Ra ngõ gặp anh hùng", là rất có cơ sở, rất có lý. Ngay nơi gia đình tôi đang ở, cũng hàng chục Hùng - Hùng Sơn, Hùng Việt, Hùng Anh, anh Hùng, thậm chí có cả Hùng Nhèm, Hùng Giẻ Rách v.v... Cũng là thời thịnh anh Hùng nên người ta ngưỡng mộ cái danh hiệu cao sang ấy mà đặt tên không ngoài sự khuyến khích "hướng hùng". Nhà thơ tôi may mắn gặp đây - sau một phen hết hồn bị thiến trượt - là Hoàng Cầm: Một người bạn vong niên kể tuổi đời tuổi văn thơ cũng xứng đáng là bậc "liền anh" của tôi. Anh có dáng thư sinh nho nhã - nghe nói cũng có đôi người phái đẹp chê anh là ẽo uột! - Với tư thế một sĩ quan văn học trong đoàn quân bách chiến, trời phú trong cổ họng có cái còi mạ vàng; nhờ đó anh sổng giọng vàng mười sang sảng khi ngâm thơ - Có người đố kị bảo thơ anh đầy vẻ lấp lánh trang kim hàng mã - Cũng vẫn lối đố kị có vẻ khen anh nổi tiếng nhờ ngâm thơ chứ không phải vì thơ hay. Cứ cho là đúng; cứ cho là không đúng đi - Tất cả đều là phù phiếm có giới hạn - Nhờ tài hoa, duyên phận, anh đã "cuỗm" được một phụ nữ nạ dòng "đờ luých" - đó là lời đùa quá trớn của bạn anh - chẳng thấy cần phải nêu tên; nhưng thôi, tôi cứ nêu béng tên ra để khỏi mập mờ - đó là Tử Phác. Tôi biết Tử Phác với Hoàng Cầm có thể nói là đôi bạn nối khố nhưng, cũng không ít lời cay độc ngay trong lúc trò chuyện với nhau. Hình như Tử Phác ta cũng ít nhiều có sự ghen tị với Hoàng Cầm về đường phu thê? Tử Phác độc quyền châm chọc Hoàng Cầm, ai khác cũng nói lời của Tử Phác như vậy; tức thì Tử Phác bênh bạn chầm chập: "Ôi chà! nạ dòng loại chúa như thế còn gấp triệu lần loại váy đụp lên ngôi - loại váy đụp đã lên ngôi thì khiếp lắm!... - được thôi mà!..." Ðương nhiên cái lối nói này lạc hậu tầm cỡ quốc tế! Nên chỉ là nói vụng.
Thật là đẹp đôi! Thật là trai tài gái sắc! Cái đất Hà Thành này, cái đất quanh vùng Hoàn Kiếm này, - theo tôi - nếu không muốn nói là hiếm thì cũng không nhiều - trong mâm ăn hàng ngày chắc có cơm tám chả chim.
Hoàng Cầm nắm vai tôi hổn hển: "Mình đang nghỉ giải lao, đang bận tập, nếu không thì mời cậu về nhà chơi". Tôi vội hỏi, "Tập tành gì?" Hoàng Cầm quay sau lưng, lấy tay chỉ chỏ. Tôi nhìn theo tay anh, thấy một bãi tập rộng, cỏ mọc xanh rờn xung quanh đều có hàng rào thép gai cao chừng hai tầm đầu người lớn. Hai bên phía bãi tập là mấy ngôi biệt thự mới: cái thì mái cong như mái chùa; cái thì mái vòm, trên nóc có hình củ tỏi. Bỗng một hồi chuông vang lên, Hoàng Cầm định bắt tay tôi để vào bãi. Nhưng anh lại dừng ngay và nói với tôi: "chưa đến đợt bọn mình!" Tôi lại hỏi anh: "Tập tành gì vậy - và nơi đây là gì?" Anh trả lời: "Cứ đứng đây nhìn sẽ biết".
Tôi nhìn vào trong đã thấy sáu bảy hàng người, mỗi hàng chừng vài chục. Có hai người đang đứng trước những hàng người, nói gì tôi không nghe rõ. Một người cao đen, mà trong anh em văn nghệ mệnh danh là đầu bếp vụng; người kia là nhà thơ giả thiểu số. - Theo Hoàng Cầm cho biết người cao đen là giáo sư viện trưởng qua đào luyện theo hệ Nam Hải. Người nhà thơ là giáo sư viện phó, qua đào luyện theo hệ Ðông Phương. Cả hai tôi đều biết, nhưng tôi thắc mắc: Nam Hải là gì? Ðông Phương gì? sao anh lại nói mập mờ khó hiểu vậy - tôi không tiện hỏi. Sau mấy tiếng hò hét của hai vị giáo sư - Giáo sư viện trưởng, vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng trượng và hơn thế nữa. Cái lưỡi cứ ngoằn ngoèo lượn như xiếc Trung Hoa múa lụa vậy. Mấy hàng học viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng lưỡi đỏ, cũng ngoằn ngoèo nhưng còn ngắn hơn giáo sư nhiều - Còn vị phó giáo sư thì phóng một loại lưỡi khác thẳng đơ như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng, có kém cũng không đáng kể - Cái lưỡi của vị phó giáo sư không múa liệng mà cứ đập lên đập xuống, cái lối dẻo cứng. Theo tôi đúng là một trăm phần trăm cao su nhân tạo hay thiên nhiên thì không biết - Mấy hàng học viên dưới sự huấn luyện của vị này cũng phóng lưỡi ra cũng đập lên đập xuống, tất nhiên so với phó giáo sư còn kém nhiều! Tôi nhìn thấy cũng ngoạn mục, cũng lại sờ sợ. Tôi chưa được nghe ai nói về sự việc này - Nay đột nhiên được thấy tận mắt mới biết mình còn ngờ nghệch nhiều trong cuộc sống! Ðột nhiên tôi thấy một người nhỏ thó, mắt hơi lé, nói giọng kim từ đâu vừa đến. Viện trưởng, viện phó cung kính cúi nửa người - Hẳn có lắp bản lề trong lưng. Rồi lại thẳng người, vươn lưỡi lăng qua, lăng lại - nghi thức lễ tân của học viên chào thượng cấp. Tôi hỏi Hoàng Cầm xem ai đó. Hoàng Cầm nói nhỏ: "Thi hào, viện trưởng danh dự của viện!". Tôi cố hỏi Hoàng Cầm: "Học viện gì và làm sao anh lại được vào theo học?" Hoàng Cầm khẽ trả lời: "Học viện múa lưỡi đấy!" Anh còn thố lộ với tôi, trong viện có nhiều giáo sư và tuy cùng một viện nhưng hai ngành múa khác nhau. Thỉnh thoảng hai ngành có thi đấu. Lưỡi nọ quấn lưỡi kia vẫn chưa phân thắng bại: Về lý thuyết thì hai bên đều đầy sức thuyết phục. Cũng theo anh kết luận thì hình như lưỡi lụa đang có đà thắng thế. Anh cũng thè lưỡi cho tôi xem. Tuy đã được nhận vào viện nhưng lưỡi anh cũng mới dài gấp hai lưỡi người thường. Anh tâm sự: có lẽ phải bỏ dở, vì vốn anh không có sở trường: bỏ thì cũng tiếc, nếu theo hết khóa, ra viện thì cũng có chỗ đứng vững vàng - Tôi muốn ngỏ ý được xem trận đấu lưỡi, chỉ một lần thôi. Hoàng Cầm huơ tay ra hiệu: "Không được! không được! Ðây là việc cơ mật của quốc gia!" Tôi thấy anh nói vậy, cũng không dám vật nài. Anh còn cẩn thận vỗ vai tôi khuyên: "Chớ có bép xép - oan gia đấy!" Tôi cũng khuyên lại anh, nếu như cảm thấy không hợp sở trường thì xin thôi mà làm thơ, ngâm thơ, tội gì mà lao vào, cho mệt. Hoàng Cầm suỵt! một tiếng khẽ, vừa đủ tôi nghe: "Lúc vào viện, viện thấy không đủ khả năng thì viện sẽ loại, chứ tự mình xin ra thì trước hết mất lưỡi; lưỡi mất, còn ngâm ngợi cái gì. Ðến kẻ hành khất cũng phải nhờ cái lưỡi, mới sống nổi. Cậu khuyên dại dột thế!" Tôi câm miệng, cảm thấy hãi hùng! Tôi lại tò mò hỏi anh với điều kiện nào mà được tuyển vào viện? Hoàng Cầm cười: "Trải qua một quá trình thử thách; trời phú cho mình cái bản chất co giãn, lúc nào cần thì cứng cũng xương đồng da sắt, lúc nào cần mềm thì cũng nhũn nhùn nhùn như bánh đa nhúng nước; nhờ vậy đấy!" Nói vừa dứt lời. Hoàng Cầm liền biểu diễn sức co giãn; anh gồng người lên, tôi sờ vào quả cứng thật; anh làm mềm, tôi sờ vào người anh chẳng thấy có xương cốt gì hết toàn thịt và gân nhẽo nhèo. Anh còn cho tôi biết đây mới chỉ là hình thể nhìn thấy bằng mắt, còn cái phần vô hình - tâm hồn, tư tưởng - sức co giãn còn gấp ba bốn lần là ít. Tôi phục anh, bằng lời nói vui "Chịu ông anh!" Hoàng Cầm hắt nhanh lời vào mặt tôi đầy vẻ tự phụ: "Chứ sao!"\
Gặp nhau đã được một lúc, tôi sợ anh quên lỡ giờ tập, tôi nhắc anh. Anh nói cho biết, anh là học viên dự bị, ít giờ tập chỉ bằng một phần tư chính khoá. Anh liền phàn nàn với tôi lẽ ra anh không phải qua dự bị lâu đến thế, tất cả chỉ vì thằng em kết nghĩa nó làm hại. Tôi hỏi anh xem thằng nào? Anh tỏ vẻ bực mình "Cái thằng cùng họ với cậu chứ thằng nào!" Tôi gật đầu biết đó là Phùng Quán, nhưng tôi muốn biết Phùng Quán đã làm việc gì mà gọi là làm hại? Anh vẫn bực nhưng giọng nói đã có phần mềm mại: Nó mua, trồng cho tôi cây ổi. Khi ổi chín phóng ra toàn mùi "nàng tiên nâu" mới chết người chứ! Tôi vội hỏi: "Sao lại có cái mùi tên lạ vậy?" Anh cười khẩy: "Sao tối dạ thế! Nó là mùi thuốc phiện!" Tôi trách: "Sao anh không nói toạc ra mà còn dùng lời bóng bẩy để làm gì?" Anh chặc lưỡi: "Thì mình có nghề văn thơ thấy chữ đẹp thì dùng - chữ của đàn anh mình đấy!" Tôi đang mót nghe cái việc lạ lùng mà tôi khó tin này. Anh như đoán biết được ý nghĩ của tôi, nên nắm vai tôi đẩy nhìn đàng sau: "Ðây! Ðây!" Tôi quay lại như là thần thông biến hoá - tôi đã đứng tại sân nhà anh, cạnh gốc cây ổi. Nhà đi vắng không có ai ngoài tôi và anh. Tôi nhìn lên cây ổi, quả không sai mấy, quả nào cũng bằng nhau, quả nào cũng đỏ da chu; quả nào cũng giống hệt cái tẩu Thổ Hà. Anh lấy cái móc giật xuống vài quả. Tôi bửa ra thấy đúng là ổi nghệ, nhưng sực mùi thuốc phiện. Anh hỏi tôi: "Thấy chưa?" Tôi lấy làm lạ quá! tôi không sao tưởng tượng nổi. Tôi khuyên anh: "Sao không phong nó đi?" Anh bĩu môi: "Sao dễ thế!" Tôi hỏi: "làm sao?" Anh lắc đầu liền mấy cái: "Cây bản mệnh đấy! Nó chết thì mình cũng đi Văn Điển chứ còn sao!" Tôi quay hỏi anh, Phùng Quán có hay qua đây không; anh nói: "Mất mặt gần một năm rồi!" Cái quan hệ kết nghĩa và cây ổi khiến tôi càng ngổn ngang; thậm chí hơi hoang mang; không có đầu không có cuối. Chẳng hay Phùng Quán có biết việc này không? Tôi cũng muốn tìm Phùng Quán để hỏi xem, nhưng tìm Phùng Quán lúc này thì khó lắm. Theo chỗ tôi biết thì anh ta - mang thói xứ sở - như bản đơn ca được ông anh kết nghĩa Thanh Tịnh phối âm, phong phú - chỉ ẩn hiện quanh Hồ Tây vào ban đêm. Gặp được anh ta vào lúc ấy, chỗ ấy có khi mình có số lại mang thân vào cho muỗi đồn công an nó mở đại tiệc chưa biết chừng - Thôi cứ để thư thả - Tôi nghĩ vậy. Tôi đang cần đi tiểu tiện, Hoàng Cầm biết ý, chỉ cho tôi cái chỗ cố định. Tôi ra tới nơi - xin lỗi! - đang mới cởi khuy quần; quay lại xem có ai theo quán tính trước khi "khởi sự". Ôi! chẳng thấy Hoàng Cầm đâu? Chẳng thấy cây ổi đâu? Chẳng thấy nhà Hoàng Cầm đâu? Trước mặt tôi lại có cái biển cấm: "Cấm đái ở đây!" Chữ viết bằng vôi trắng, dễ đọc - Hoá ra tôi đang đứng trên một con đường quang quẻ sạch sẽ - ánh sáng như pha lê đang tới tấp từ đâu dội đến - Tôi nghĩ bỗ bã: có lẽ từ ý nghĩ dội đến!
Tôi cứ theo con đường đầy ánh sáng pha lê mà đi. Phía trước tôi không xa là mấy bà đồng nát lông vịt, vừa đi vừa rao mua; tiếng rao cất lên như đồng ca hai bè của bản hành khúc "Ðồng nát - lông vịt". Tôi nghe cũng được, giá như tiếng ca nhỏ bớt chút nữa thì đỡ chối tai hơn. Mỗi lúc họ càng tấu to hơn, ra điều ta đây đang làm chủ mặt đường, làm chủ ít nhất cũng một khoảng không gian tương đối rộng lớn. Tôi đành dừng lại chờ cho họ đi khuất. Dư âm bản đồng ca cũng không còn lảng vảng bên tai. Thính giác tôi đã trở lại bình thường; nó đón nhận tiếng ồn ào, ồn ào từ phía xa xôi bên trái. Tôi biết đó là tiếng họp chợ. Tôi liền rẽ bước theo hướng đó, đi chừng hơn một dặm thì đến một cái chợ. Chẳng để mua bán gì, nhưng phởn dạ bước chân muốn học đòi du khách rẽ vào chơi chơi. Chỉ nhìn thoáng cũng đủ nhận biết đây là một cái chợ pha tỉnh, pha quê, gần giống như chợ Mơ; gần giống chợ Chi Đông, Phúc Yên; gần giống chợ Nghệ Sơn Tây; gần giống chợ Rồng Nam Định. Bụng bảo dạ: Cả đến cái mặt chợ búa trên trần gian - cũng cứ na ná giống nhau, huống hồ trăm, ngàn, vạn mớ những cái khác khiến người ta dễ nhầm lẫn là phải. Khi tôi để ý nhìn lên đầu tường của một quán gạch lợp ngói - chìa bày mấy chữ đắp bằng vôi, xung quanh chữ cũng đóng khung vôi vuông vắn như một bức phù điêu - tất cả đều cùng một màu vôi vàng đã cũ. Mấy chữ Pháp lộn chữ Việt "Marché de Yên Thái". Thôi đúng là chợ Bưởi! Hẳn là từ thời vong quốc "đề huề" mà bàn tay của hôm nay hoặc bỏ quên chưa xoá; hoặc để làm lưu niệm; hoặc để làm một cáo trạng ngắn gọn của dấu chân đô hộ; hoặc để làm gì khác? Thắc mắc trong đầu là quyền mình; nếu như muốn chất vấn, muốn được giải đáp thì chất vấn cái mặt tường vôi ư?...
Chợ họp chính phiên. Ba bốn quán ngói, còn xung quanh là quán lá, lợp rơm rạ, hoặc trải lên tấm lá cót sơ sài - bao giờ cũng như bao giờ; tiếng thế nó cũng đầy vẻ vĩnh cửu - Chợ đông, đủ các loại hàng bán. Cái chợ Bưởi được "cưới" từ ngày nào, thời nào, ai biết? Tôi thiết nghĩ: có lẽ người vùng này cũng đã quên gốc tích nó. Qua cái giọng đặc thù kẻ Bưởi của mấy làng thì quả là trộn không lẫn. Chợ Bưởi còn là nơi đảm nhiệm gây giống gia súc và cây trồng; nhất là cây hoa, cảnh cho nhiều vùng. Chợ còn nổi tiếng: tháng năm cũng gọi khách kinh kỳ; những quý miệng sành ăn, lui tới đặt lưỡi vào của "trái chua"; đó là bò thui đặc chủng. Nói theo lối nói của một nhà văn thì chợ Bưởi đây cũng đã một thời "vang bóng bò thui". Nhưng vì hy sinh cho một nền công nghiệp phát triển, bò bê cũng đã được đổi mới từ thui sang lột!...
Bỗng có tiếng huyên náo khác thường nhưng êm dịu vì không pha chút thét gào. Tôi lét mắt phía ồn ào thấy lối dãy hàng tôm, hàng cá nối liền dãy hàng chó mèo có một giai nhân xuất hiện. Quần lĩnh nhóng nhánh; áo cũng lĩnh nhóng nhánh; khăn cũng lĩnh nhóng nhánh - đội rất điệu đàng - Trên cõi mặt da hoa phấn duyên dáng, răng cũng đen nhóng nhánh - tất nhiên không phải răng lĩnh - chẳng qua để cho nó "uy ni" mềm mại. Giai nhân bước đi nhẹ nhàng tha thướt uốn éo nhún nhẩy, nhún nhẩy nhịp "đánh bồng". Miệng tủm tỉm, mắt liếc qua, liếc lại - Khi giai nhân đi đến cách tôi quãng một tầm nước bọt, tôi sững cả người: "Anh Tô Hoài!", tôi thốt ngầm trong bụng. Một người anh về tuổi đời cũng như về văn chương. Từ rừng Việt Bắc trong các khuôn mặt đàn anh quắc thước, sành sứ thì tôi chọn mặt anh để "gửi vàng". Anh Xuân Diệu lại nhìn anh bằng con mắt xanh khen "Toujours aimable!" - Tôi không lầm. Anh đã giúp đỡ tôi nhiều về mọi mặt. Quá khứ ân tình ấy tôi có muốn quên cũng không sao quên được. Nhưng liệu có phải anh thật không? Cái valy cũng đen bóng màu lĩnh, bên tay trái người đẹp. Tôi níu vào cái nghề cổ truyền lĩnh Bưởi quê anh để đỡ ngộ nhận. Nhìn cho rõ thì hoàn toàn là một "com-ra-đe " hãng dệt lĩnh. Nếu tôi khẳng định như vậy thì nảy ra một thắc mắc làm sao anh phải đổi nghề? Tôi thiết tưởng sự kiếm sống bằng nghề nghiệp tầm cỡ, có bề dày rất đáng kể về thời gian, tôi chưa nói đến bề dày quyền lực cũng như mọi bề dày khác. Cái gì đã thôi thức đổi nghề? Nếu không muốn nói đến số phận. Cái mũi thèm văn cố hữu của tôi; tôi đánh hơi thấy mùi sách trong chiếc valy căng phồng. Nếu có tiền, nếu cá cược, tôi xin đặt giá mười ăn một; trong valy không có vải lĩnh! Ðầu tôi đang muốn được giải toả cái tiếng "com-ra-đe"! Song tôi vẫn nghi hoặc, vẫn rất băn khoăn. Một thứ băn khoăn rối lộn, nó chao qua, chao lại như đánh võng trong đầu, khiến tôi phải nhắm mắt lại. Khi mở mắt không thấy bóng giai nhân đâu cả. Chẳng biết cái gì đã đẩy tôi đến một không gian khác. Anh Tô Hoài hoàn toàn Tô Hoài, nhà văn Tô Hoài. Tầm vóc anh không thay đổi, chỉ có con dế mèn bên cạnh anh là to lớn khác thường, nó xấp xỉ một con ngựa - loại ngựa gié - đang tuổi phát nha. Anh đã dắt nó, hay nó dắt anh không rõ - tranh thủ đại diện ruổi rong đất lạ, ê hề! Nay đang cùng nhau nghỉ dưới một gốc cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Con dế đang lóm lém ăn cỏ, còn anh cũng đang ngồi đọc bản thảo, tay phải cầm bút máy thỉnh thoảng có ghi thêm hay sửa chữa gì đó. Cả người và vật toát lên đầy vẻ hả hê, sung túc. Trước mặt anh là một quan lộ, một dãy người gánh toàn sách là sách. Họ gánh đi bán rong hay chuyển đi phân phối cho đại lý. Họ nhìn anh, anh nhìn họ gật gù cười cười, rõ ràng là quen thuộc nhau cả. Có người nói văn anh đang hợp thời vận! Quyển nào anh viết ra cũng có tẩm ít mùi dế mèn nhưng chẳng thấm tháp mấy. Có thể ví như người bán trà ấm, vảy vài giọt ét-te sen, nhài vậy. Anh đã đạt tới mức quán quân thực hiện khẩu hiệu "nhanh, nhiều, tốt, rẻ". Sách anh được phát hành số lượng không hạn định, bầy tại quầy sách quốc doanh; cứ như gạo cửa hàng mậu dịch vậy. - Làm gì có chuyện đong gạo ngoài cửa hàng! Lòng nhân ái, sợ người người đói văn khát sách nên anh trổ tài đáp ứng. Ngồi chỗ nào anh cũng viết được. Ðứng chỗ nào anh cũng viết được, tay cứ thoăn thoắt tài nhả đều đều. Có người nói anh viết như đan len! Và anh đã chiếm lĩnh một góc trong cái tam giác thơm Tô Hoài - Lê Văn Trương - Hồ Biểu Chánh.
Ngồi nghỉ đã lâu lâu, anh đúng dậy, kéo theo con dế, anh vỗ vào lưng dế như vỗ vào lưng ngựa! Hẳn anh đang lấy lưng dế làm chuẩn, tập thể dục, thể thao. Anh cứ nhấp nhổm nhảy mãi vẫn không qua lưng con dế mèn! Anh bị ngã! Chống tay nhổm dậy; nhìn trước, nhìn sau, xem có ai nhìn thấy không? Anh đứng hẳn dậy, lắc đầu ngán ngẩm...
Tại sao anh lại lắc đầu ngán ngẩm nhỉ? Ngã thì lại dậy. Phải chăng anh đã nghĩ xa xôi sợ "sinh nghề, tử nghệ". Theo thiển nghĩ của tôi thì anh lầm rồi! Nghệ của anh chỉ có sinh làm gì có tử!
Tôi đang bận tâm suy nghĩ; tôi vừa chớp mắt một cái bỗng lại thấy mình đang ở giữa chợ. Trong đầu tôi lại nối vào cái mạch cũ, từ khi gặp giai nhân. Mối nghi ngờ dâng lên mỗi lúc một cao - không sao tự mình giải đáp được. Tôi định rẽ hẳn vào dãy hàng chó xem người ta bán, mua, người ta khen, chê tướng mạo lũ chó má. Chợt cùi tay ai đó huých nhẹ vào sườn tôi. Qua cái kiểu huých ấy, tôi đoán ngay là cùi tay của bạn thân. Tôi quay cổ lại, đúng là Ðào Công Ðạt - Lê Ðạt - cái tên do anh Nguyễn Huy Tưởng đặt cho từ rừng Việc Bắc. Lê Ðạt, tôi rất có cảm tình với anh, phục anh, mặc dù anh ra đời sau tôi tám tháng. Anh thông minh, anh có tú tài Tây và còn học cao hơn nữa. Dầu toàn quốc kháng chiến anh còn theo học trường pháp lý - Ðỗ Xuân Sảng. Còn tôi không dám giấu giếm, chỉ có cái trung học - phải thi lại lần hai. Anh hay lắp bắp, lắp bắp vui miệng như tép nhảy. Tôi chỉ hơi khó chịu với anh một chút vì bất cứ với ai anh hay giở giọng "lãnh tụ non". Tôi cũng đại khái biết anh, có giai đoạn anh đã nhậm chức secrétaire particulier cho một vị cỡ nào đó - anh nói chuyện hay chen tiếng Pháp - khi đang nói, anh ngừng lại, đấm nhẹ lên trán, để tìm từ Việt cho thích hợp - na ná như người ở Pháp lâu năm mới trở về nước - bất đắc dĩ có kinh nghiệm - phụt tiếng Pháp. Theo tôi không chắc chắn lắm - phần nào để tạo dáng kẻ nhiều chữ?
Lê Ðạt là người sòng phẳng, ngay thẳng, đôn hậu, chỉ phải nỗi: tính đôi khi tắt mắt; hoặc hay cầm nhầm - có kinh nghiệm chữ của người khác khảm sâu trong sáng tác văn thơ của mình - dẫu có vết, thì ngọc vẫn là ngọc! Tôi còn quý anh ở một điểm nữa là anh hay cho tôi đi ăn phở. Có lần tôi vui miệng hỏi anh: "Tiền đâu mà cậu cứ cho mình ăn phở mãi thế?" Anh nói nhỏ vừa đủ tôi nghe: "Bà cụ mình vẫn có chút buôn bán nhỏ kiếm thêm!..." Tôi cười, không phải chê bai gì. Nhưng anh hiểu lầm như là tôi có ý chê việc buôn bán - Vào cái thời mà gia đình cán bộ vẫn phần nào dựa vào buôn bán để cải thiện đời sống đều bị coi là thiếu trong sáng - Anh liền cười văng tục: "Chả thế lấy đéo đâu ra cho mày ăn!.." Tôi chẳng phật ý về câu nói. Tóm lại tôi vẫn thấy có bổn phận đối với anh như bát nước đầy.
Hôm nay, gặp nhau đây, anh lại hỏi tôi: "Ðã ăn gì chưa? Phở chứ?" Tôi đón lòng thảo của anh: "Gì cũng được!" Nhân dịp gặp anh, tôi khẳng định sự nhìn nhận của mình về anh Tô Hoài, về giai nhân. Tôi đưa mắt hỏi anh, không chần chừ Lê Ðạt khẳng định: "Đúng lúy!" Tôi hỏi lại: "Có chắc không?" Lê Ðạt nói: "Chắc!" Tôi lại hỏi tiếp: "Sao lại như vậy nhỉ?" Lê Ðạt cười: "Ai mà biết được, ông anh lắm mưu nhiều mẹo; có thể nói là đương kim vô địch đấy!" Tôi ngỡ ngàng hỏi: "Về cái gì?" Lê Ðạt đập mạnh bàn tay vào vai tôi: "Thôi đừng vờ! Mày mà không biết à?" Tôi nói: "Không biết thật mà!" Bây giờ Lê Ðạt mới nói toạc ra: "Về cái khôn chứ cái gì!" Tôi công nhận lời nói của Lê Ðạt; chẳng những Lê Ðạt mà anh em trong văn nghệ thường cũng nói như vậy. Lê Ðạt lúc nào cũng lại đưa tay vỗ vỗ lên trán nói: "Tao nghĩ, về văn ông anh đã bội thu, còn muốn gì nữa cho nhọc xác!" Tôi chưa kịp đáp lời, Lê Ðạt mau miệng tiếp: "Bọn mình nhặt được vài hạt khôn của ông anh rơi vãi thì cũng lấy làm mãn nguyện phải không mày?"
Tôi bần thần cả người, tâm trạng tôi ngổn ngang, không vui, cũng chẳng buồn, chẳng ước ao hay nuối tiếc gì cái hạt khôn của anh Tô Hoài để rơi vãi.
Tiếc thay! Nếu anh không ủ một mưu mẹo gì cao hơn; đến bây giờ mới ngoặt bước sang một đường mới khác thì hơi muộn. Dẫu sao thì cũng là giả. Có lẽ anh nhạy bén trong lúc thật giả lộn sòng nên mới quyết tâm như vậy chăng? Tôi nghĩ trách ông Xanh kia vẫn còn õng ẹo, đã cho người ta cái ngoại hình hấp dẫn thế này, sao không phóng tay mà còn bủn xỉn đắn đo tiếc rẻ không cho nốt cái chút nhỏ bé cần thiết; để người ta được trở thành một giai nhân hoàn mỹ; để người ta mang cái thân hình ngà ngọc ngay từ tuổi mâng mâng bẻ gẫy sừng trâu, hành hương trên đường tìm Chân Mỹ. Tôi chẳng dại dột gì mà dính Mỹ với Thiện ở đây. Nếu người ta không đem được cái Chân Mỹ dáng hoa ban phát nơi nơi thì ít nhất cũng cho một vùng không nhỏ. Mặt này thiết tưởng người ta còn gặt hái gấp bao nhiêu lần gặt hái văn chương. Cái tháp ngà Chân Mỹ hẳn mở rộng cửa đón chờ. Người ta khỏi phải khéo khôn, loay hoay; khỏi bị ngộ nhận, rất tội nghiệp!
Lê Ðạt kéo vai tôi lên trên đường, tìm ăn phở, vừa để hóng mát, quanh quẩn dưới chợ, thế đã đủ rồi. Tôi và Lê Ðạt vừa lên khỏi dốc, đến đầu hàng cây cảnh. Lê Ðạt đang bận để mắt tìm hàng phở. Tôi đứng xem cây cảnh. Bỗng từ trong chậu cảnh hoa giấy phơi phới màu đỏ, một người bước ra, dáng vẻ mãn nguyện đàng hoàng như từ Pô-đê-ga bước ra. Lẽ ra tôi phải kinh hãi cái lối tàng hình hoá phép. Nhưng không hiểu sao tôi lại coi là chuyện bình thường; chuyện tầm thường! Tóc rẽ cánh phượng, trên khuôn mặt chim, trộn không lẫn. Nách trái cặp một tập nhạc. Tôi biết ngay là ai rồi. Hình như anh ta đã nhìn thấy hai chúng tôi; anh ta đưa bàn tay lên che miệng cười - cái thói quen cố hữu. Lê Ðạt quay đầu lại lắp bắp lên tiếng trước: "Chào cụ Tiên". Chỉ mấy tiếng của Lê Ðạt, tôi có cảm tưởng như anh đang giỡn, đang yêu cầu con tầu lịch sử dân tộc cài số lùi hàng vài thập kỷ - cái thời Tiên thứ chỉ, đầu gà má lợn - cái thứ bông phèng thiếu ý thức ấy mà lọt đến tai trên thì kiểm điểm mệt! Cụ Tiên hỏi: "Tụi mày đi đâu đến đây?" Lê Ðạt trả lời gặn: "Chơi!" Cụ Tiên ta lại che miệng cười: "Có thể dẫn tao đi Văn Phú hàng Lạng được chứ?" Lê Ðạt hơi ngần ngừ, đưa mắt cho tôi. Cụ Tiên kịp thời theo mắt Lê Ðạt hỏi tôi: "Khá không? Nghe Phùng Quán nói dạo này sáng nào mày cũng luyện thái cực quyền à?" Tôi chưa hiểu hai tiếng "khá không" là khá về mặt nào, khá cái gì? Tôi trả lời: "Múa may vài cái cho nó qua giờ ăn sáng chứ côn quyền gì đâu!" Tôi cũng tin rằng anh ta hỏi là hỏi chứ cũng biết thừa hoàn cảnh tôi nghèo lõ ra chứ có gì. Lê Ðạt đầu cứ gật gật khẽ - gật đầu kiểu này không phải là đồng ý. Cụ Tiên chép miệng: "Bấy lâu nay tao chưa xem lại cái tiết mục Náo long cung!" Thật ra lúc này tôi mới hiểu rõ ý muốn của cụ Tiên. Cách đây mấy năm, đoàn xiếc Tề Tề Cáp Nhĩ Trung Hoa có sang biểu diễn tại nhà hát nhân dân; trong đó có tiết mục "náo long cung" gồm đủ loại thủy tộc, ba ba, lươn, ếch nhào lộn. Từ đấy cửa hàng ăn Văn Phú mới đặt tên cho một thực đơn là "náo long cung". Tôi cũng đã có một vài lần được các ông anh Hoàng Cầm, Tử Phác, Ðặng Đình Hưng, Cụ Tiên và cả Lê Ðạt, cho đến dự tiết mục đó - ai trả tiền thì không nhớ.
Trước mặt nhau đây, thấy "Cụ Tiên" vui vẻ tôi cũng mới dám chuyện trò cởi mở. Với "Cụ Tiên" tôi vốn ngại, sợ thì đúng hơn. Bởi tôi biết cụ Tiên có kèm một công tác đặc nhiệm; và đã vài lần lập chiến công tuy thầm lặng nhưng hiển hách. Tôi có lần được Tử Phác nói cho biết chơi với cụ Tiên là vẫn phải cảnh giác. Vui vẻ đấy nhưng lỡ miệng chuyện nọ xọ chuyện kia, cụ Tiên cho là phạm vào "tín điều", "đẹt" cho một cái, mình toi mạng! Bởi vậy, cũng như hôm nay, mỗi lần gặp cụ Tiên, tôi chỉ giao tiếp lấy lệ để cụ Tiên khỏi mếch lòng. Tôi vẫn tính bài lảng.
Phở chưa ăn, Văn Phú chưa quyết, chưa đi. Bỗng một loạt đại bác, chẳng biết từ đâu, chẳng biết vì sao, ầm ầm rung chuyển cả một không gian. Dưới chợ, trên đường huyên náo, người người đổ xô chen lấn, la hét, gà lợn chó má cũng kêu lên thất thanh. Kẻ chạy xuôi, người chạy ngược, xéo lên nhau mà chạy - đều chạy người không - bỏ của chạy lấy người - Cụ Tiên và Lê Ðạt đã biến nẻo nào rồi?
Trong cơn kinh hoàng, hoảng loạn, một mình tôi bơ vơ, không biết nên chạy đi đâu? Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội tưởng như vỡ trái đất; tưởng như phụt núi lửa, tưởng như trời sập; tưởng như Trân Châu cảng hay Hi-rô-si-ma. Cuồng phong, bảo tố nổi lên tiếp tay cho tiếng nổ. Cây cối ngả nghiêng, đất, trời chao đảo. Trên không trung, mây ngũ sắc xanh vàng tím đỏ vun vút như cờ thiên lôi từ bắc phương tràn xuống, từ tây phương đổ về. Vừa bay vừa đổi màu biến sắc. Tất cả gặp nhau, tụm lại, tạo một vòm trời đỏ như máu. Tôi đứng dưới vòm trời, ba hồn bảy vía chỉ may ra còn lại một hai.
Tôi tự hỏi thế này là thế nào? Ðời tôi chưa được nghe ai kể; chỉ khi còn thơ ấu được nghe ông lão hàng xóm nói chuyện đổi đời; nghe xong ngày đêm sợ hãi. Lần ấy chị gái tôi cũng còn bé, chị cóp được mấy hào, nghe nói sắp đổi đời đến nơi, hai chị em rủ nhau đem tiền mua kẹo bánh ăn bằng hết, kẻo bỏ phí. Câu chuyện đó tôi lớn lên vẫn còn bán tín, bán nghi; khi trưởng thành thì quên mất...
Câu chuyện ông lão hàng xóm kể có lẽ là lúc này đây! Ðã bơ vơ vì bạn, lại bơ vơ vì thiếu mặt gia đình! Lúc này thì tiếng nổ không còn, chỉ còn tiếng gầm rú của bão tố như ngàn vạn tiếng hổ gầm, voi rống, nghe càng hãi hùng! Dưới vòm trời tất cả đều nhuộm nhanh màu đỏ. Tôi bỗng choáng váng, đầu nhức, mắt hoa lên! Tôi phải đưa hai bàn tay đậy lên mặt, vì cảm thấy mặt đất quá cheo leo! Tôi sợ ngã!
Tôi vừa mở hai bàn tay không biết từ lúc nào và từ trên trời lao xuống, hay từ dưới đất trồi lên, một trái núi - trái núi hình nón - có lẽ là ngọn tháp, tôi chưa kịp phân biệt. Thì cứ gọi là một ngọn tháp khổng lồ. Ngọn tháp rung rinh lay động. Trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe lóe, hơi giống mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng là một lá cờ đại; xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không đính tua kim tuyến mà là lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra do cờ bay mà tiếng gầm rú hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc hàm!
Ngọn tháp mỗi lúc một to ra, cao lên, cờ cũng nhiều gấp bội. Có thể nói: đây mới đúng là rừng cờ, là nguồn sinh của cờ - cũng đều diềm lưỡi câu, cũng quay tít. Tôi đưa mắt nhìn kỹ thêm ngọn tháp từ chân tới đỉnh toàn người là người lớp nọ cưỡi lên cổ lớp kia ngất ngứ. Cái tháp người này sẽ là kỳ quan thứ mấy của thế giới đây? - Tôi nghĩ vậy - Thật là một sự kỳ lạ! Tạo được ngọn tháp này phải là các nghệ sĩ xiếc có hạng. Ai ở trên đỉnh chót nhỉ? - Tôi tự hỏi?
Thoắt một cái, chẳng biết từ đâu, người người lớp lớp đang chạy vòng quanh tháp - như đèn kéo quân. Chạy theo hướng cờ bay, chạy dưới bóng cờ. Từ chân tháp đổ ra không sao đếm xuể được số vòng trong, vòng ngoài là bao nhiêu. Tôi cũng là kẻ đang chạy vòng ngoài cùng. Tôi ngỡ ngàng không hiểu do sự xắp xếp nào mà tôi có mặt trong vòng chạy này? Làm sao tôi không biết? Vòng nào cũng đủ các loại người già, trẻ, đàn bà, đàn ông - bách tính tứ dân: sĩ, nông, công, cổ - Nhiều nhất vẫn là dân áo vải, chân lấm tay bùn - Hình như có cả Tây lai. Người nào cũng cầm vũ khí từ tối tân đến thô sơ: Tối tân đây là súng; nào là Rơ-manh-tông, Mút-cơ-tông, Anh-đô-si-noa, cả súng hỏa mai; nào là cuốc, xẻng, mai, thuổng, đòn càn, đòn gánh, nào là tay thước, dao quắm, mã tấu. Có cả mấy vị Trư Bát Giới cũng vác cào lệch ệch, hoặc xích trượng; cả mấy vị áo chùng thâm vác thánh giá chạy vòng gần chân tháp. Trong đế của đại tháp, tôi thấy đủ mặt: ông anh đẹp giai tay cầm một côn đỏ, Viện trưởng, Viện phó viện múa lưỡi. Cụ Tiên hai tay hai súng lục. Ông anh Tô Hoài, cả Hoàng Cầm, Lê Ðạt cùng bao nhiêu người khác tôi đã từng gặp mặt ở chiến khu Việt Bắc; điều kết thành một khối tháp vững chắc sống động. Các dòng người đều nhất loạt hướng tai lên đỉnh tháp nghe lệnh sang sảng "Kẻ thù phía trước! Kẻ thù phía trước!" Giữa người nọ với người kia nhất tề giữ đúng khoảng cách một tầm lê đâm trộm!
Ðêm xuống lúc nào không biết. Ðỏ pha đen, không gian là một màu huyết dụ; một thứ mùi rờn rợn, tanh tanh như mùi thép rỉ vây quanh. Tay tôi, chẳng biết ai đã trao cho một dùi gỗ, và tôi đã nhận làm vũ khí từ lúc nào? Dùi gỗ dài chừng nửa thước tây - bết máu. Chắc là chiến lợi phẩm thu được của kẻ thù tử trận. Ôi chao! Tôi nhìn gáy người phía trước tôi. Chẳng phải ai, chính là ông thầy học của mình. Trông vóc dáng của thầy; nhất là sau gáy có hai nút ruồi đen, to, liền nhau. Tôi khẽ lên tiếng: "Phải thầy Ðoàn đây không?" Thầy Ðoàn giật mình, không dám ngoái đầu, không dám lên tiếng. Nước mắt tôi trào ra, cổ tôi nghẹn lại, tôi lại hỏi tiếp: "Cung đây! Thầy còn nhận ra con không?" Thầy Ðoàn giật mình, co cổ lại. Thầy Ðoàn biết mình đang ở vị trí kẻ thù của tôi!!! Tôi bàng hoàng! Tôi đang là kẻ thù của ai phía sau tôi?
Tôi rùng mình kinh hãi, hai chân lảo đảo, loạng choạng, xéo phứa lên một bãi cứt. Tôi bị trượt chân văng ra khỏi vòng hiểm hoạ, ngã sấp mặt, nhờ một "bãi cứt cứu sinh". Tôi đau ê ẩm, nhưng vô cùng sung sướng. Tôi định thần, để ghi nhớ công cứu sống tôi. Tôi nghĩ sau này tôi phải viết một bài "Cứt tụng". Dù ai có chê bai cũng đành chịu vậy thôi. Trong đầu tôi mới xuất được một tứ: "Cứt không thèm với tay vịn gió đổi mùi; nguyện hôi thối hết mình để người đời khỏi ngộ nhận!..."
Tôi nằm ngơi; lúc này tôi mới nhận biết mình đang nằm trên đống máu - máu chiến thắng kẻ thù đồng loại! Gió mặt đất va vào tai tôi những tiếng khóc thê thảm tập thể từ đâu vọng lại. Tội nghiệp thầy Ðoàn bây giờ ở đâu? Thầy Ðoàn đang là kẻ thù của ai? - Tôi cầu khẩn đất trời ra tay cứu vớt để những đau thương tràn ngập được giải thoát. Lòng tha thiết bằng an của tôi có lừa dối tôi không? Chiêm bao trong chiêm bao - Vậy hẳn là tụi trẻ con mất dạy tinh nghịch bày trò chơi dại dột!
Chợt có tiếng từ đỉnh tháp đài sang sảng lói tai: "Bắt lấy nó! Băm nát thằng đào ngũ!" Tôi sợ quá, cứt máu đầy người vùng dậy chạy trốn. Tiếng súng ưu binh "chíu chíu" cùng tiếng chân huỳnh huỵch đuổi phía sau tôi. Nghe mỗi lúc một gần, tôi không dám quay đầu nhìn lại. Tôi cắm cổ chạy, hờm đá cheo leo, vực thẳm ngay trước mặt. Hàng ngàn vạn con rắn đỏ, rắn vàng, to bằng thân cây cau, dựng đầu, giương bành, múa đuôi ầm ầm như bão tố dưới vực. Cùng đường, trước mặt, sau lưng, hai cái chết rùng rợn! Vừa lúc lại một loạt đạn rít lên sát vành tai bên trái, tôi nghiêng đầu tránh đạn, sẩy chân đâm vút xuống vực, chỉ kịp rú lên một tiếng "Trời!" Tôi giật mình choàng tỉnh! Một cơn ác mộng khủng khiếp!
Cánh tay tôi làm bật cả hai thằng con ốm xô vào nhau trên ngực tôi. Chúng hoảng hốt, ngơ ngác. Dưới ánh sáng của bóng đèn bốn mươi nến, trống ngực tôi rộn rã liên hồi. Từ vô thức tôi buột miệng: "Dẫu sao thì thằng anh vẫn là anh thằng em!"
Phùng Cung
Hà Nội 9-1959
________________
(Phùng Cung-Truyện và thơ , Văn Nghệ Cali 2003)
Mộ Phách
(truyện ngắn)
Kép Nghề
(truyện ngắn)
Chiếc mũ lông
(truyện ngắn)
Quản thổi
(truyện ngắn)
Xem Đêm
(thơ)
Con Người Phùng Cung Và Những Bài Thơ Hay Trong Tập Xem Đêm
Nguyễn Hữu Đang
Thân ái tặng NXB Văn Hóa - Thông Tin
cũng là một Đạm Tiêm đem thơ trả lại người được giải oan
Cách đây ba năm, khi tôi còn ở quê (Thái Bình) và Phùng Quán còn sống bên Hồ Tây, ông khoe với tôi tập thơ hãy còn là bản thảo của Phùng Cung mà ông khen hết lời. Tôi nửa tin nửa ngờ: văn xuôi thì qua truyện ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh nổi tiếng, Phùng Cung đã tỏ ra có nghệ thuật vững, còn Phùng Cung làm thơ thì chưa chắc đã hay. Nhưng khi được đọc bản thảo, dù khó tính, tôi cũng thích thú. Nhiều bài hay, có những bài đáng coi là tuyệt tác. Và tôi cùng ông Quán cố gắng tạo điều kiện cho tác phẩm ra đời.
Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin đã sốt sắng nhận làm bà mụ đỡ đẻ cho đứa con tinh thần này của Phùng Cung. Khi đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi sẽ không chết tất cả"[1] (ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến.
Thơ Phùng Cung tích lũy trong thầm lặng khắc kỷ đã phải nằm chờ hơn hai mươi năm dưới lớp bụi thờ ơ, như Hằng Nga ngủ trong rừng, chưa có Hoàng tử Đẹp trai đến đánh thức, nay một phần được in là tín hiệu việc quản lý văn nghệ có khả năng mở ra một thời kỳ đổi mới -một thời kỳ mà Ehrenbourg[2] gọi là "đợt tan băng giá"- chí ít cũng hứa hẹn sẽ phóng khoáng hơn trước. Hứa hẹn chung với mọi người thì chưa chắc đã thực hiện được, nhưng riêng với Phùng Cung thì rõ ràng ông là một cây bút vốn bị hoàn cảnh không bình thường kìm hãm, đang giành lại chỗ đứng dưới mặt trời. Nếu không, sẽ chẳng bao giờ chúng ta biết đến một tập thơ đáng trân trọng.
Tập Xem đêm đem lại cho chúng ta những vẻ đẹp bất ngờ trong môi trường nông thôn cũ (chưa cơ khí hóa, điện khí hóa, tập thể hóa), nơi có hai nét đặc trưng cổ truyền là quang cảnh thanh bình và tinh thần thuần phác mà văn học thường phản ánh như sự đền bù cho tình trạng nghèo khổ, lạc hậu, hai nét đặc trưng mà những đồng bào đi sinh sống ở nước ngoài thường nhớ tới như diện mạo quê hương. Nói cho đúng, đó là hình ảnh tổng hợp những nét chung của nông thôn miền châu thổ sông Hồng trong một quãng dài lịch sử ngàn năm, một hình ảnh mà tác giả tha thiết giữ trong ký ức vì ông đã quyến luyến nó từ "thời mũi rãi". Cái nôi yêu quý ngày xưa đã trở thành nguồn cảm hứng phong phú ngày nay cho một tâm hồn bén nhậy.
Hiện thực ở đây đã được chắt lọc qua rung động thẩm mỹ nên thơ mộng, nhưng cũng rất thật. Thân quen biết mấy, những cánh đồng bát ngát, ruộng lúa, bãi ngô, vườn dâu, nương vừng, xóm trại, khúc sông, bến đò, quán chợ, giếng đình, giàn trầu, giàn bí, lũy tre, ao bèo, củ khoai, nải chuối, quả ổi, trái ớt, hoa bưởi, hoa cau ... và cả một thế giới động vật nhộn nhịp những trâu, bò, gà, chó, chim, cò, giun, dế, chuồn chuồn, đom đóm... xung quanh những con người lam lũ, hiền lành, có cô con gái "ý tứ soi gương đáy nón", có truyện cũ chàng trai si tình "đề thơ vạt áo", có người mẹ trẻ "sữa con so ướt yếm", có người vợ đảm về chợ tối "bước sấp ngửa" ... Bấy nhiêu hình ảnh tràn ngập không gian vang vọng tiếng gọi đò, tiếng sáo diều, tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng ru con ... Tất cả chung đúc lại thành bức tranh quê quen thuộc mà một Anh Thơ hay một Đoàn Văn Cừđã có lần ghi chép thật thà, mộc mạc, hoặc kết thành một khúc nông ca (bucolique) mà Virgile[3] đã để lại mẫu mực.
Nhưng tập Xem đêm không chỉ có thế. Do tự nhiên thuận lợi hay sáng suốt lựa chọn, Phùng Cung đã tìm được cho thói quen tằn tiện lời nói của mình một địa hạt đắc dụng là địa hạt thơ, nó đòi hỏi phong cách diễn đạt hàm súc. Thơ hai-kai của Nhật Bản mà thế giới đánh giá cao đã chứng tỏ khả năng truyền cảm, gợi ý tối đa của lời văn tối thiểu.
Tuy vậy Phùng Cung cũng chưa yên tâm mà vẫn đầu tư biết bao công sức để tìm những lời thơ "xuất thần", tìm không mệt mỏi như dân hải đảo mò ngọc trai. Ôi công sức của Phùng Cung, có lẽ bậc thầy Đỗ Phủ cũng phải bằng lòng vì đã mặc nhiên thực hiện câu thề nguyền của nhà đại thi hào đối với thơ: "Lời không làm cho người ta kinh hãi thì chết cũng chưa thôi" (Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu).
Bằng một thứ ngôn ngữ cô đọng như tinh chất, tế nhị như hương thơm, ông mời bạn đọc làm quen với một Nàng Thơ đẹp kín đáo duyên lặn vào trong và khó tính, để tìm hiểu đến trở thành tri kỷ. Tôi tin rằng với nhiệt tình yêu thơ, vào cuộc họ sẽ nhận ra tác giả gắn bó với tình người và sự thanh cao. Có điều là vào cuộc ở đây cần đến cảm quan trực giác nhiều hơn là trí tuệ thông minh.
Mặt khác, ngoài hai tính cô đọng và tế nhị phù hợp với thơ nói chung, ngôn ngữXem đêm còn đậm đà tính dân gian phù hợp vời đề tài thôn dã, được vận dụng điêu luyện trong những vần thơ êm nhẹ như cánh cò bay mà làm rộn lên trong tâm trí chúng ta lời ăn tiếng nói của bao thế hệ ông, cha.
Chúng ta hiểu vì sao nhà thơ Quang Huy, trong bài giới thiệu in ở đầu sách, đã khẳng định hoàn toàn khách quan, công bằng: "Phùng Cung xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ".
Chính nghệ thuật ngôn từ đã là một trong những yếu tố quan trọng làm cho thơPhùng Cung độc đáo. Độc đáo là một tiêu chuẩn văn học khó đạt được mà Guy de Maupassant[4] đề cao đanh thép như thách đố: Nhà văn xứng đáng với tên gọi ấy phải biết nhìn như chưa từng có ai nhìn như thế, biết nói như chưa từng có ai nói như thế.
Nhờ chiều sâu vốn sống và biết nhìn, biết nói như tính độc đáo yêu cầu, Phùng Cung đã tìm ra cái mới, cái lạ. Nhưng cái mới, cái lạ thường làm cho độc giả bỡ ngỡ, có khi không hiểu. Tôi muốn nói đến những điểm tối nghĩa trong Xem đêm, những điểm dễ bị người ta chê trách, hoặc là ẩn ý mà người ta không nghĩ tới, hoặc là bỏ lửng mà người ta không đoán ra, hoặc là ước lệ riêng về cách viết mà người ta không chấp nhận. Có thể đó là những sáng tạo chưa hoàn chỉnh, nhuần nhuyễn nhưng tác giả có quyền mạnh bạo đem thí nghiệm. Cũng có thể, như trong âm nhạc cổ điển, hội họa hiện đại, đó là những sản phẩm đặc biệt mà người muốn thưởng thức phải có "vốn" để thưởng thức. Nếu không ... nếu không thì người "ngoại đạo" bao giờ cũng thiệt vì "ngoại đạo", người "vô minh" bao giờ cũng bị thiệt vì "vô minh", chính kẻ viết bài này cũng đã "ngoại đạo", "vô minh" đối với một số điểm tối trong Xem đêm[5]. Còn về phía người làm thơ, dù không đi vào quỹ đạo những trường phái thơ kín mít, người làm thơ tự tín, tự trọng cũng tán thành lời nhắn nhủ của nhà phê bình trứ danh Pháp Sainte Beuve(1804-1869): Thi sĩ không nên vì tham vọng chiều ý được hết thảy mọi người mà "pha loãng nước hoa của mình".
Không phải vô lý nếu đã trên một trăm năm rồi, người ta nêu trách nhiệm tìm hiểu của người đọc là phải "đọc tích cực", phải "tự tìm ra thìa khóa", phải "đi gặp tác giả ở giữa đường". Về những điểm tối trong Xem đêm, tôi có ấn tượng tác giả tin tưởng và chờ đợi chúng ta sẽ thông cảm bổ sung, vì cái kho ngôn từ của ông dù đã phong phú cũng không đủ để ông bộc lộ được hết ý mình. Nhìn dưới góc độ tiến hóa chung, quần chúng hưởng ứng những sáng tạo của nhân tài như thế là phần năng động, phát huy trong sự phân công lao động xã hội.
*
Sau khi nhận biết thế mạnh và những đòi hỏi của tác giả để thực hiện độc đáo, chúng ta tìm hiểu tác phẩm tận gốc của nó là nguồn cảm hứng. Trên kia nói nguồn cảm hứng thứ nhất (về thẩm mỹ) của Xem đêm là những vẻ đẹp nông thôn đã hấp dẫn tác giả từ thuở nhỏ. Một nguồn cảm hứng nữa (về tư tưởng) đã đưa đến việc sáng tác hàng loạt những bài thơ chiếm gần nửa nội dung tác phẩm là tình thương cao cả của con người Phùng Cung.
Không phải ông chỉ thương số phận bất hạnh con người, mà thương cả số phận bất hạnh loài vật và cỏ cây là những sinh vật chung sống với người như hàng xóm, như bạn bè.
Ở đây hiện tượng xa lạ với hành động của một nhân vật lãng mạn, sướt mướt tưởng tượng bông hoa chết như người, rồi thương hoa, khóc hoa, chôn hoa. Cũng không phải trường hợp nhà văn dùng thủ thuật nhân cách hóa trong bút pháp hoặc mượn loài vật làm ẩn dụ để nói người. Ở đây hiện tượng là con ngườiPhùng Cung trong đời thường, với tư cách là một sinh vật, có ý thức đồng loại với những sinh vật khác và lấy đạo đức bác ái đối xử với đồng loại, cụ thể là thật sự có tình cảm với loài vật, cỏ cây.
Tôi biết Phùng Cung không chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi - kiếp nghiệp trong đạo Phật mà tình thương của ông cũng chan hòa rộng khắp đến mức trở thành ý kiến hiếu sinh đại đồng.
Cố nhiên tình thương ấy theo trật tự lô-gích ắt phải bắt đầu từ nhân loại và giành ưu tiên cho những người thân nhất. Trước hết, đi vào quá khứ, ông thương bà thân sinh quanh năm khó nhọc tảo tần miếng cơm, manh áo, nuôi con đến bước trưởng thành:
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
(Mẹ, trang 8)
Rồi thương người vợ hiền đã cùng mình chia sẻ cuộc đời điêu đứng:
Em vất vả
Tối ngày tất tả
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này vắt tận trong xương
(Mồ hôi xương, trang 33)
Đến thương một nhà thơ:
...
Nửa thế kỷ
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô.
(Tội nghiệp, trang 37)
Thương một gia đình cùng kiệt xác xơ:
...
Rổ không hờ hững quang treo
Nắng thả chào mào nghiêng nghé
Chó vẽ bóng gầy sân bếp
Gió khều tã vã múa may
(Gia cảnh, trang 19)
Thương những người xiêu bạt kiếm ăn:
Cửa liếp nối xa xăm
Người đi từ dạo đói
Chiều ghé sân hoang.
...
(Nắng hàn vi, trang 45)
Thương xóm nghèo:
Trang trại trưa hè khát bữa
Lẻ tấm
Búng đèn
Đũa mắm
Đểnh đoảng mùi cháo - canh
Gịuc cả xóm cởi trần.
Cháo - canh, trang 23)
Thương người cán bộ phụ nữ luống tuổi, phải về hưu non, sống khó khăn trong nghề bán rượu lậu, ba-lô nặng chĩu:
Nước thải
Hưu non
Vã mồ hôi son
Tảo tần chiều sớm
"Cuốc lủi" lưng vơi
Ngẫm câu tục ngữ[6]
Mắt trước mắt sau
Kinh hoàng di lụy
Tóc bạc vào mùa
Răng hơi bị đuối
Trệu trạo trái sung
Ruột tím cơ hàn.
(Tím cơ hàn, trang 102)
Thương người con gái chết đuối:
Chớm tuổi yếm son
Em hay xấu hổ
...
Chiều mưa ấy
Dốc ao trơn
Em sẩy chân
Bất ngờ - ân hận
...
Xóm khóc - ngậm ngùi
Từ đấy ao hoang
...
(Ao hoang, trang 49)
Thương những người nằm dưới đất:
Lạnh nhịp sương rơi
Chiều - gạo đổ
Dế gào chân mộ
Trăng lên.
(Nghĩa trang, trang 25)
Nhìn sang thế giới bên kia, ông thương những cô hồn lang thang:
Gió nã từng cơn
Bùa trấn trạch
Nấp trong giấy bản
Bến đò, quán chợ, ngã ba
Vật vã mùi cháo thí đêm hè.
(Cháo thí, trang 32)
Đã nghĩ đến những nghịch cảnh chung ở thế giới bên kia, hẳn Phùng Cungkhông quên những nghịch cảnh chung ở thế giới bên này. Ông thương đồng bào chịu gian khổ trong vùng lũ lụt:
Đồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng vắng bơi suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.
(Mùa nước mắt, trang 47)
Thương những người già trong kháng chiến phải bòn sức lao động sản xuất, đói vẫn hoàn đói:
Giặc quấy
Làng queo quắt
Tụi trẻ đi - đi hết
Dờ dật sức già gãi đất
...
Cái đói tròn
Lăn kín bốn mùa
(Gãi đất, trang 65)
Thương những người chết trận, nạn nhân của chiến tranh khốc liệt và chủ nghĩa anh hùng dã man thời phong kiến:
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường
(Gươm báu, trang 68)
Thương giai cấp nông dân sống cơ cực không lối thoát trong nền sản xuất lạc hậu:
Mặt trịn nắng
Ngả màu chum, vại
Hì hụi lối mòn tử đạo
Lưng cơm chan đẵm phong trần.
(Phong trần, trang 71)
Thương một dân tộc tàn lụi sau một thời cường thịnh huy hoàng:
Chiều Phan Rang xanh đau
ngọc nát
Nắng Chiêm Thành quanh quất
tháp hoang
(Tháp Chàm, trang 84)
Thương nhân dân nước nào đó sống lầm than dưới cường quyền:
...
Phải đâu nhật thực triền miên
Ngày tối hơn đêm
...
Quỳ gối chống tay vẫn còn sợ ngã
Mặt đất quá cheo leo.
(Đêm vó ngựa, trang 20)
Đến đây tôi muốn giới thiệu một Phùng Cung lãng mạn "như ai", thương tiếc những mối tình không trọn, cố nén lòng giữ giọt lệ khi gặp lại hai người yêu cũ, một đã thành sư bác mà vẫn chưa quên những ngày dan díu:
Nhìn trước nhìn sau
Em khẽ khóc
...
Ngại đường tu dang dở
Em vội lau nước mắt
...
Trót nhớ mãi
Một chiều nghiêng lụy.
(Nghiêng lụy, trang 100)
Người thứ hai dáng dấp gian truân, tiều tụy, không còn đủ can đảm nhìn người cũ:
Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước héo
Áo gầy
Gió va nón cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.
(Gặp em, trang 29)
Với lòng trắc ẩn ân cần đến có thể cưng chiều, ông mủi lòng về những tâm hồn trong sáng nhưng yếu đuối, không chịu nổi một sự buồn phiền nhỏ, như người phụ nữ thảo hiền đa cảm, khóc vì lo người thân phải chờ mong, tủi thân vì thiên nhiên cản trở:
Em về chợ tối
Gió bãi khoai quấn quít
Làm em mau nước mắt
Đèn con xóm trại đang chờ.
(Về chợ tối, trang 101)
Người được thương không có điều gì bi thảm, chỉ vì đức hạnh mà xúc động ngây thơ nên ông vì quý mến mà vỗ về, an ủi. Một tình thương dẹp dịu như ánh trăng thu!
Cũng với lòng trắc ẩn ân cần ấy, ông hận cho những cánh bèo trôi nổi không cùng:
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
(Bèo, trang 7)
Ông không thể cầm lòng trước cảnh những quả chuối mới trổ, bấy bớt như trẻ sơ sinh mà phải chịu rét mướt mùa đông, thân trần trụi:
Chuối vừa mới trổ
Dằn vật lỗi mùa
Băn khoăn chung chiếc khố
Lấy gì che chắn gió xung quanh.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Nếu trong thơ Đường, hoa đào vô tình bên cái chết bi thảm của người con gái ốm tương tư, vẫn thản nhiên "cười với gió Đông" thì, trong thơ Việt Nam, Phùng Cung
Xuân về chẳng nụ hoa
Lá gầy run gió lạnh.
(Cây đào, trang 21)
Vì ốm, cây đào thiếu vẻ đẹp trong mùa xuân đã là đau khổ nhưng sự sống chưa mất hẳn, còn cây cà:
...
Cõi bẩn thỉuCố xanh, cố tím.
...
mà bị sâu róm ăn hết lá, nhất định cây cà sẽ chết:
Cành suông chết điếng tím, xanh.
(Chết điếng, trang25)
Đối với cây, dù ông quan tâm như vậy, tình thương của ông cũng không nhiều bằng đối với loài vật có tri giác như người[7]. Điều đó ngẫu nhiên phù hợp với một luồng tư tưởng tiên phong hiện nay trên thế giới đòi cho loài vật được đối xử như người, muốn mở rộng dân chủ và đạo lý đến loài vật là đối tượng mà nhà văn kiêm nhà sử học Pháp Michelet (1789-1874) gọi thân thiết là "những anh em hạ đẳng của chúng ta". Phùng Cung không chú ý đến luồng tư tưởng ấy và những phong trào hưởng ứng[8], song đối với ông, thương loài vật như thể thương người là một đạo đức đi đôi với đạo đức "thương người như thể thương thân".
Tình thương của Phùng Cung đối với loài vật cũng như đối với người và cây, bắt nguồn từ ước mơ sẽ không còn thảm cảnh trên trái đất này, một ước mơ quá đẹp đã là một trong những động cơ của các tôn giáo lớn, các chủ nghĩa xã hội cũ và mới. Đâu phải chuyện hão! Từ thời tiền sử, sau khi con người homo sapiens (con người trí tuệ, tinh khôn) xuất hiện, ước mơ và hy vọng không bao giờ hết đã chiếm nửa cuộc sống loài người.
Nặng lòng ước mơ, Phùng Cung buồn rầu nhìn cái chết của con dế bé bủn và vô tội, biết "gào chân mộ", biết "tìm lại tiếng mình đêm trước", bỗng
Chiều mưa dội
Nước dềnh sân
Một xác dế bồng bềng.
(Dủi, trang 61)
Ông càng bùi ngùi về cái chết của con chào mào
Dây bẫy cần
Cánh xõa gió bung biêng
...
(Gốc vườn, trang 62)
Lại còn lũ gà con "nhú đôi cánh sữa" gặp rét thấu xương:
Gió bấc về
Gà con lên cơn sốt
Nhong nhóc đi, đứng
Chen nhau tìm chỗ ấm
Cẳng gầy lội gió.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Đều là thảm cảnh. Trong chuỗi thảm cảnh của loài vật được ông phản ánh trongXem đêm có lẽ số phận con trâu mà bài Ê ẩm hé mở cho thấy, làm ông đau xót hơn cả, đau xót và công phẫn. Kiếp trâu bạc bẽo, bạn hiền của người mà bị đối xử dã man đến cực độ, lúc khỏe kéo cầy là "đầu cơ nghiệp", khi kiệt lực bị giết để người ta ăn thịt lại còn lột da bưng trống.
Bên cạnh thảm cảnh của con trâu là thảm cảnh của con cua, con vạc; cả hai đều hèn mọn:
Phận lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi.
Vạc (trang 28)
Nắng táp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.
Hai bài thơ trên cùng với những bài Gia cảnh, Nắng hàn vi, Cháo - canh, Mùa nước mắt, Gãi đất, Nắng cũ, Ra Tết, Bánh trôi, Bữa đẹp, Nhỏ to, Nắng thừa, Dập gẫy, ... và hàng chục bài nữa, làm nổi lên cái hiện thực nghèo khổ của nông dân Việt Nam đến nay vẫn chưa hết. Con cua, con vạc khốn khổ gợi cho người ta nghĩ đến hàng bao nhiêu triệu gia đình nông dân đuối kém đang mong đến lượt mình được "xóa đói giảm nghèo".
Bình luận tập Xem đêm, một tờ báo xuất bản ở Đức nhận xét:
"Một đặc điểm của Xem đêm là không có bài nào động chạm trực tiếp đến các biến cố lịch sử trong đời sống dân tộc mấy chục năm qua", thay vào đó là "Những mảnh cắt từ một nông thôn Việt Nam nghèo khổ" và "Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại đây".
Một tháng sau bài báo nói trên, đài phát thanh Úc cũng lên tiếng khen ngợi tậpXem đêm, so sánh thơ Phùng Cung với thơ Octavio Paz (Mê-hi-cô) và Seamus Heaney (Ai-len) là hai người được tặng giải văn học Nobel, để rút ra nét gần gũi, tương đồng giữa ba cây bút.
Còn trong nước, bào Tiền Phong (Chủ nhật) ra ngày 18-8-1996 viết: "Sự trở về" của Phùng Cung gây ấn tượng cho làng thơ không phải chỉ vì sự đột ngột của nó mà còn vì sự tinh luyện của hồn thơ, của câu, chữ."
Báo Tuồi trẻ (Chủ nhật) ra quãng từ 6 đến 12 tháng 10-1996 viết: "Thời gian xuýt phủ rêu lên tên ông nhưng lưỡi dao thơ ông kịp cạo rơi màu quên lãng ấy".
Chẳng có "ban bệ" nào nâng đỡ, thơ Phùng Cung tự lực gặt hái đã tỏ ra là một thành tựu được dư luận rộng rãi chú ý, hoan nghênh. Và tất nhiên có nhiều người muốn biết thi pháp nào đưa đến thành công ấy. Nhưng Phùng Cung là người làm thơ không theo một lý thuyết vay mượn nào, kể cả những lý thuyết đã có uy thế một thời; ông cũng không tự đặt ra lý thuyết để áp dụng. Giá có ai thân mật hỏi "Thế nào là thơ hay?", "Phải làm những gì để thơ hay?", chắc ông sẽ chẳng có một "khoa học làm thơ" trong túi để đưa ra giới thiệu, mà sẽ khiêm tốn trả lời né tránh như là mình chỉ biết vâng theo tình cảm, xúc động, ngẫu hứng và ngôn ngữ quen dùng.
Nói khái quát, thơ Phùng Cung đã hình thành trong thực tiễn ghi nhận tinh tế và sâu sắc những phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực: hiện thực nhiều vẻ đẹp làm ông say mê thì nội dung thơ ông thẩm mỹ; hiện thực nhiều thảm cảnh khiến ông xót thương thì nội dung thơ ông hướng thiện. Phải nói ngày là ông coi trọng hướng thiện hơn thẩm mỹ. Ở điểm này thái độ Phùng Cung giống thái độ Romain Rolland (1866-1944), nhà văn Pháp nổi tiếng (được tặng giải văn học Nobel năm 1915), người đã từng tuyên bố: "Tôi sẵn sàng đặt lòng từ thiện lên bậc giá trị cao hơn nghệ thuật trăm lần[9]".
Chính vì thơ Phùng Cung xuất phát từ sự phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực nên trong khi thơ Lê Đạt muốn "vượt vũ môn" để tìm sức sống nơi bóng chữ thì thơ Phùng Cung -cũng như thơ Trần Dần đã được Hội nhà văn tặng giải thưởng năm ngoái- vẫn chân chỉ, trung thành với bóng người. Cái bóng của Phùng Cung là bóng một con người nhân hậu, khoan hòa, có lý tưởng công bằng, bác ái, yêu đời, yêu nước và làm thơ chưa đẫy sức. Chưa đẫy sức vì hoàn cảnh chưa thuận lợi cũng có, vì bản thân thơ chưa trưởng thành cũng có. Nếu tôi được ủy quyền chọn lại những bài thơ trong tập Xem đêm, tôi sẽ loại đi ít nhất một phần tư với lòng tin tưởng tác giả sẽ không dừng lại chỗ ấy.
*
Tôi vừa cố gắng tiếp cận với tiềm năng thơ Phùng Cung mới triển khai đầy hứa hẹn, trước hết với thế giới thơ của tập Xem đêm có những vẻ đẹp đồng quê thể hiện qua ngôn ngữ dân gian, có những cảnh nghèo khổ nông thôn được nhẫn nại chịu đựng, có một tình thương rộng lớn ân cần, đến với những số phận bất hạnh. Nhưng tôi không tin là sự phân tích của tôi có thể vẽ lại không sai sót chân dung một dạng thơ chưa quen thuộc về cả nội dung và hình thức. Để minh họa thêm rõ, tôi xin dẫn ra đây một số nhỏ trong những bài thơ mà tôi cho là tiêu biểu, cũng là những bài mà tôi thích nhất.
Chim hát thánh thi
Vườn cổ thụ
Xum xuê hoa trái Đại Xuân
Nao nao gió thổi gác Khuê Văn
Gỗ, đá rêu phong
Văn Miếu hiện dấu tay
bác phó
Nhúng mồ hôi điểm chỉ
gửi tương lai.
Đêm Nguyên tiêu (trang 74)
Cổng Phật chuông lay hoa rụng
Mõ dẫn kinh ruổi nhịp
luân hồi
Vương lụy hương bay đứt, nối
Cành sương trăng níu
Giọt nguyên tiêu.
Say (trang 18)
Ai chuốc rượu
Cánh buồm say lảo đảo
Quanh quẩn quãng sông chiều
Quên nẻo ra khơi.
Đổ vỡ (trang 70) - tản cư để tiêu thổ kháng chiến
Bình minh níu giọt tranh khoảnh khắc
Đổ vỡ trong lặng im
Hoa ngóng gió
Gửi hương tị nạn
Buồng thơm (trang 114)
Đêm vắng
Buồng thơm
Em soi gương trộm
Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng.
Dâu, biển (trang 8)
Chiều xâm xẩm
Vườn dâu đòi xanh biển
Con chim chích buông cành
bay liệng
Vẽ vòng sóng vỗ xa xưa.
Tìm em (trang 55)
"Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể Đông
(Ca dao)
Tìm về gặp em
Em đã đi
Vách, giường thơm lạnh
Mùi khăn áo cũ
Đêm nghiêng gió - chập chờn
mưa gõ lá
Không có sông
Sao có tiếng gọi đò.
Ê ẩm (trang 27)
Chợt nghe động trống
Trâu bò nhớn nhác
Dùi quật liên hồi
Ê ẩm tấm da khô.
Tôi nêu bài Ê ẩm sau cùng để tiện nói thêm ngay vài cảm nghĩ nóng hổi về một bài thơ đan thanh kiệt tác, hay nhất trong hai trăm bài của tập Xem đêm[10].
Con trâu chết đi do sự tàn ác của chủ, để lại nỗi oan khiên ẩn náu trong mặt trống. Đánh trống mà mặt trống thấy đau, tiếng trống vang lên mang theo oán hờn, tác động đến tinh thần những trâu, bò xung quanh, gây sợ hãi, kinh hoàng... Đem trí tưởng tượng nâng tri giác loài vật lên tới ý thức, lên tận cõi tâm linh kỳ diệu, tác giả đã biến bài thơ thành huyền thoại[11].
Trong văn học Việt Nam trước đây, những bài thơ có đôi cánh tiên bay bổng đến thế (của Hàn Mặc Tử, Huy Cận hay Vũ Hoàng Chương) ta có thể đếm trên đầu ngón tay.
*
Tiềm năng thơ Phùng Cung là vốn quý chẳng những của riêng cá nhân ông mà còn là của chung xã hội. Với ý thức phát triển văn hóa, những cơ quan quản lý xã hội không thể thờ ơ với nó khi nó còn gặp khó khăn trong một hoàn cảnh chưa được bình thường hóa dứt điểm.
Ở tuổi thiếu niên, truyện cổ tích thần thoại đã in vào trí nhớ ngây thơ của chúng ta hình ảnh những tiên nữ trên Thiên đình đánh rơi chén ngọc, bị đày xuống hạ giới[12], chịu khổ cực mãi rồi cũng có ngày trở về trời. Trải qua nhiều năm hoạn nạn, bất đắc dĩ phãi nghỉ ngơi, bây giờ được phục hồi sức lực và nhiệt tình,Phùng Cung đĩnh đạc bước ra khỏi vòng u uất. Tuy hơi muộn, ông cũng đến với làng thơ, đắn đo góp hai trăm bài nho nhỏ -những bài tưởng như đã nộp cho thần thánh để thanh minh, khiếu nại về một sự hiểu nhầm tai hại. Chúng ta mừng cho sự nghiệp văn chương của ông sau cái rủi có cái may, như kiếp tài hoa của Thúy Kiều gian nan hết mức suốt mười lăm năm, cuối cùng đến sông Tiền Đường xuýt chết đuối còn được Đạm Tiên đem trả lại thơ. Trả lại thơ với ý nghĩa "sổ đoạn trường rút tên ra" là bước đầu sửa sai của định mệnh vô tri, mù tối.
Tâm tư Phùng Cung, tôi hiểu được. Tiếp tục làm thơ hướng thiện bằng mồ hôi, nước mắt và chút sở trường là lẽ sống của ông
Còn phận bạc của ông trong hiện thực có sẽ kết thúc như phận bạc của Thúy Kiều trên trang sách hay không là việc của xã hội. (Trên trang sách, Thanh Tâm Tài Nhân đã tạo điều kiện cho Thúy Kiều làm lại cuộc đời có tình yêu đổi thành tình bạn của chàng Kim, có đại gia đình yên vui, đầm ấm, có đời sống vật chất đầy đủ, có am thờ Phật để tu tại gia, thực hiện "chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài"). Gần đây định hướng xã hội chủ nghĩa và khẩu hiệu xã hội công bằng, văn minh được đề cao, phải chăng đã đến lúc Phùng Cung, ngoài lòng tự tín, tự hào vốn có và niềm vui tìm thấy trong sáng tạo nghệ thuật, còn được "công bằng", "văn minh" đến khuyến khích Nàng Thơ và nâng cao đời sống?
Bước tới ngưỡng cửa của thế kỷ hai mươi mốt, văn nghệ Việt Nam một lần nữa chuyển mình, đang thu hoạch một mùa thơ có vẻ "trăm hoa đua nở" với hàng ngàn tác phẩm đủ các cỡ và một đội ngũ người làm thơ đông đúc như ngày hội. Nếu yêu cầu giá trị thật trong những bản in hoa mĩ thì phương pháp vẫn phải là đãi cát tìm vàng. Trong cái bề bộn vàng thau lẫn lộn, rất có thể là khủng hoảng trưởng thành, thật đáng phấn khởi khi được đọc tập Xem đêm, một tập thơ đích thực của một con người đích đáng. Thơ và người đều mang đặm bản sắc riêng mà không cách biệt với lý tưởng chung của dân tộc là sống yên lành, phúc đức -phúc đức hiểu theo Nho học gồm "nghĩa" và "nhân", nói theo Tây học là "công bằng" và "bác ái".
Công bằng và bác ái tương đối và thể hiện qua một tình thương rộng lớn không giới hạn trong chủ nghĩa nhân đạo, đó là tư tưởng cao đẹp của tập Xem đêm, của thơ hướng thiện.
Hà Nội ngày 25 tháng 10 năm 1996
Nguyễn Hữu Đang
_________________
Chú thích:
[1] Nguyên văn tiếng La Tinh Non omnis moriar
[2] Ehrenboug (1891-1967), nhà văn Liên Xô (cũ)
[3] Virgile (71-19 trước Thiên chúa) cũng như Horace (65-8 trước Thiên chúa) là thi hào la-tinh lớn, được đương thời và hậu thế ngưỡng mộ.
[4] Guy de Maupassant (1850-1893), nhà văn cự phách trong trường phái văn học hiện thực Pháp thế kỷ XIX.
[5] Như hai bài Bàn tay (trang 104) và Quả báo (trang 114) chẳng hạn.
[6] Bụng đói, đầu gối phải bò.
[7] Thật ra mấy năm gần đây, giới khoa học tự nhiên đã bắt đầu nhận ra khả năng thực vật cũng có tri giác tới nhiều mức độ khác nhau, cụ thể nhóm các nhà bác học Serge Delrot, Gabriel Roblin v.v... ở trường Đại học Poitiers (Pháp) đã nghiên cứu vấn đề được kết quả khả quan.
[8] Hiện đang có các tổ chức: GAIA (tiếng Pháp viết tắt: Groupe d'Action dans l'Intérêt des Animaux = Nhóm hành động vì ích lợi của loài vật), MLA (tiếng Pháp viết tắt: Mouvement de Libération Animale = Phong trào giải phóng loài vật), ALF (tiếng Anh viết tắt: Animal Liberation Front = Mặt trận giải phóng loài vật).
[9] Nguyên văn tiếng Pháp: "Je suis prêt à placer la charité à cent coudées au dessus de l'art".
[10] Tôi dành cho dịp khác phần bình luận những bài tiêu biểu ngoài bài Ê ẩm.
[11] Một huyền thoại về mối quan hệ mật thiết giữa vật chất và tâm linh gợi nhớ tới huyền thoại "Dự Nhượng đả long bào" trong bộ sách Đông Chu liệt quốc.
[12] Trong bài Vấn vương (trang 110), Phùng Cung viết:
Thiên cung ngày trước mảng vui
Hái hoa vườn cấm nên trời phạt ta.
Phùng Cung
truyện và thơ
truyện và thơ
TRĂNG NGỤC
"Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh, sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ.
Thụy Khuê
Phùng Cung,
Ai liều tảo mộ chiều nay
Phùng Cung sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên và mất ngày 9 tháng 5 năm 1997 tại Hà Nội, năm năm sau, mùa đông 2003, nhà xuất bản Văn Nghệ California cho phát hành cuốn "Phùng Cung, truyện và thơ", do Lâm Thu Vân ở Canada chủ trương và tập hợp những sáng tác của Phùng Cung chưa bao giờ được xuất bản. Sách dày hơn bốn trăm trang, gồm hai phần: Phần truyện có 10 truyện ngắn cùng phụ lục in lại "Con ngựa già của chúa Trịnh", đã đăng trên Nhân văn số 4 (tháng 10 năm 1956) và phần thơ là tập "Trăng ngục" gồm 35 bài thơ làm trong 12 năm tù từ 1961 đến 1972, tại các trại biệt giam Bất bạt (Sơn tây), Yên Bái, Lào Cai, v.v...
Nói đến Phùng Cung, chúng ta không khỏi nghĩ đến câu hỏi: "Trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, Phùng Cung chỉ là một người viết trẻ, vừa nổi tiếng với truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh", vậy tại sao ông lại phải chịu kỷ luật khắt khe 12 năm tù như một tội nhân chính trị, khác hẳn một số đồng nghiệp nhà văn, nhà thơ đương thời đã tham gia NhânVăn Giai Phẩm. Tại sao?"
"Con ngựa già của chúa Trịnh" là một tác phẩm đặc sắc, đầy tính ẩn dụ, viết về con thần mã Kim Bông của lão Nông ở Sơn Tây, nó có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh."Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở thành con vật sủng ái của chúa, chuyên kéo xe hầu nhà chúa. Sống trong nhung lụa, nó được ngự trong mã đài ngày ngày chỉ có việc ăn và tắm. Nó được nhà chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt là cái mũ cánh chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm bị che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choàng váng, chân không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật xuống đất, đứt ruột mà chết. Kim Bông tượng trưng cho những thành phần tài năng của đất nước, nhưng khi đã một đời úp mặt phục vụ thế quyền để tìm bổng lộc thì đều trở thành những con ngựa già, vô dụng.
Là một trong những truyện ngắn hay nhất của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm,"Con ngựa già của chúa Trịnh" mang tính chất ẩn dụ tế nhị kín đáo chứ không đả phá trực tiếp như một số những sáng tác thơ văn thời đó. Phải chăng vì nó mà tác giả đã phải trả nợ 12 năm tù, hay vì những lý do khác, trải dài trong thân thế, tài năng và nhân cách sống của Phùng Cung?
Những tác phẩm in trong tuyển tập Phùng Cung truyện và thơ, viết trong khoảng từ 57 đến 60, tức là trước khi ông bị bắt, và hơn bốn mươi năm sau mới được đến với độc giả, nhưng chúng vẫn giữ nguyên phong độ của những tác phẩm có sức vượt thời gian. Ðó là những đoản thiên hiện thực viết về những kiếp người như lão Thiều trong Mạt kiếp, sống trong cái đói triền miên, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô tưới xuống đè chết. Truyện Mạt kiếp, là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về cái đói của con người.
Ngay dòng đầu, không khí bạo lực đã hực lên trong một mạch văn có chất họa và chất nhạc, đầy khí phách và quyết liệt : "Chiều xuống chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang vãi từ đỉnh Ba Vì hắt lại. (....)
Thình lình tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc Ba -điếm tuần của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần điếm còn nghe được cả tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng đấm đá, lên gối vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru lên một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm cũng chẳng ăn nhằm gì." ( tríchMạt kiếp, trang 27).
Ðó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lão Thiều. Thiều không phải tên của lão, lão tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão có một quá khứ tù mù, có thể trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội mũ chào mào khố xanh, khố đỏ thật, nhưng bây giờ lão thân tàn ma dại, vợ lão bỏ hay vợ lão chết cũng không ai biết. Lão phải ở nhờ nhà con rể cũng đến cả chục năm rồi. Ăn uống lão phải tự túc. Gặp lúc nhà người ta có việc gọi đến, lão còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài, lão đói rã họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt được trói gô vào cột đình đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng "no nên bụt, đói ra ma", "ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa rã họng chưa biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái đói, ông căm thù nhất cái đói" (trang 31). Lão Thiều ăn nói phạm thượng rất Chí Phèo; Chúa, Phật lão chả coi ra gì, quỷ ma thần thánh lão cũng theo tuốt miễn là có cái gì bỏ vào miệng. Lão làm tất tần tật, từ việc đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc nào. Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão đã được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá... Lão đã trải hết các "thời", vậy mà "ngày tháng lão lại vẫn lênh đênh trong bể trần đầy thèm khát". Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại:"Năm ấy là năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thuỷ dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước tràn lên đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!" (trang 56). Chẳng biết lão Thiều có ý nói kháy đến cái đói năm nảo năm nào trùng hợp với biến cố lịch sử nào không. Dám lắm, mồm mép lão còn nể gì ai. Nhưng dù sao thì lão cứ nhấn mạnh vào cái năm thổ tả ấy làm cho người ta đâm nghi ngờ, năm ấy, lão Thiều đến bước đường cùng, lão thoá mạ cái đói "Mày đang tâm biến người thành chó, chó thành người!"(trang 67). Lão bèn tính một nước cờ chót, lão lội lụt vào tận đáy cót ngô của nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống , lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn". Truyện Mạt kiếp, được viết với một gịong văn lạnh lùng, châm biếm, hài hước hoá nghịch cảnh khá tài tình và đó là nghệ thuật trình bày cái bi đát trong thân phận con người sâu sắc nhất. Lão Thiều bị cái đói nghiền nát nhân phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống như người nhưng cuối cùng lão cũng bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyện ông Lâm, một người thợ mộc, không thể hội nhập được với "đời sống mới". Nói đúng ra thì người thợ đầy lương tâm và nhân cách này không thể chấp nhận lối "ăn thật làm dối" trong cái "đời sống mới" này được. "Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!" (trang 155). Nhưng bây giờ ủy ban lại ra lệnh cho phó Lâm phải làm nhanh, phải đóng bàn không có tua, có mộng gì cả, chỉ ghép lại bằng đinh năm phân, chặt bỏ mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã ra lệnh:
"- Cứ mẫu ấy mà đóng!
(...)
-Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"
Phó Lâm cứ lẩm bẩm trong miệng những: dạ thưa, không làm được ạ, dạ thưa, khó quá ạ.... cho tới lúc bị ủy ban đuổi về.
Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt tích...
Có người đồn rằng họ thấy phó Lâm, vai vác rìu, tay sách hòn đục đi ngược dòng sông lên núi Tản Viên. Phó Lâm đi trên mặt nước mà như người đi trên đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả người! Ở đây ai cũng biết chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại một lần xuống núi tìm thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba năm, rồi sáu năm, rồi chín năm... không bao giờ thấy chồng trở lại, bà chọn tháng bẩy ngày rằm "xá tội vong nhân" làm ngày giỗ chồng
Biệt tích có những nét thần thoại mơ hồ và đầy ẩn dụ về một thời mà sự mất tích, biệt tích của con người có nhiều ý nghiã mờ ám, tối tăm và những giá trị đạo đức nghề nghiệp không còn chỗ đứng trong sự lên ngôi của dốt nát, lười biếng, cẩu thả. Phó Lâm chỉ muốn bảo tồn đạo đức nghề nghiệp của mình, nhưng không thể được và cuối cùng phó Lâm đã phải về trời, về với thần núi Tản, để được tự do sáng tạo, giữ trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Mộ phách đặc sắc nhất trong mười truyện. Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn phách, vì, người ta cho rằng: " từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ, không luyến tiếc" (Mộ phách, trang 204).
Truyện vợ chồng kép Tư Chản và Ðào Khuê, cả đời gắn bó với cây đàn tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của Nguyễn Tuân. Ông bà Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau này lớn lên nối tiếp nghề tổ để một đời có đủ cơm no áo ấm. "Thằng Thuyên, con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn, vuốt dây tơ..." (trang 205).
Ngoài thằng con trai, Tư Chản chỉ còn cây đàn là quý: "Ðàn này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại. Cụ kép Ðiều đã thành người thiên cổ; khi cụ Kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế kỷ.(...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! tiếng dụng! tiếng dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!
Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ- cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả.
Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái."(Mộ Phách, trang 207-208)).
Rồi thời thế thay đổi, thằng con trai lớn lên đi bộ đội cầm súng thay đàn...
Vợ chồng Tư Chản "nhớ dồn thương góp", âm thầm lấy đêm 17 tháng 8, cúng tổ tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, tìm lại nghề cũ, tiếng đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha thiết của những đêm xưa... "Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Ðàn phách im bặt. Hai linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng chó". (trang 210). Từ đêm đàn ca bất hạnh vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ người và sợ chó, sợ chó dưới dạng người.
Và chuyện gì phải đến đã đến. Chính người con trai duy nhất của họ, đang đợi được kết nạp vào Ðảng, đã đứng ra xử lý cây đàn, Thuyên khẳng định: trước mắt, đồn địch là cây đàn đáy và như một chiến sĩ, Thuyên xông vào tóm lấy cây đàn "Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết" (trang 233). Kêu cứu thất thanh cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan trái của mình. Sau khi bị đập tan tành nó được dùng làm củi nấu nước tắm cho cậu quý tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. (...) Ông hỏi vợ có nghe tiếng gì không? (trang 234).
Và từ đấy, ông cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng sau ông mất. Bà Chản chọn ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách quý của mình, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng không kém cây đàn đáy của chồng. Bà mai táng Kim phách trong ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ phách là một trong những truyện ngắn hay nhất mà chúng ta có thể đọc được trong những thập niên gần đây. Tác phẩm ngân lên như một khúc nhạc cổ điển ai oán, não nề, nó là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong một thời mà nghệ thuật đích thực không còn chỗ đứng. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại một chứng từ, một âm giai không bao gìờ tắt với thời gian về cái chết bức tử của cây đàn và sự thủ tiết của cỗ phách.
Trăng ngục
Như trên đã nói, hầu hết những truyện ngắn của Phùng Cung đều được viết trước 1960, thời kỳ chưa bị bắt, có lẽ vì vậy mà nhà văn còn giữ thái độ tương đối ôn hoà, ông dùng rất nhiều hình thức ẩn dụ để nói lên bộ mặt thực của đời sống hàng ngày. Tuy vậy, những vấn đề mà Phùng Cung đưa ra, thường có tính cách xoáy sâu vào nền tảng của chế độ cực quyền, mà thực chất dựa trên sự kiểm soát gắt gao mỗi hành động của người công dân. Một mặt khác, tư tưởng của Phùng Cung, không chỉ khoanh vùng trong sự đả phá chế độ chính trị mà còn mở rộng ra nhiều lãnh vực, đặc biệt trong phạm vi chống chiến tranh, đả phá sự kích lệ lòng căm thù, đả phá chính sách tuyên truyền giục giã con người xung trận và đó là điều ông trình bày rất rõ, trong thơ.
Ðiểm khác biệt sâu xa giữa Phùng Cung và phần lớn những thành viên trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và tất cả các nhà văn nhà thơ miền Bắc có lẽ là ở chỗ ấy.
Bởi hầu như tất cả đều chấp nhận cái lý tưởng chung ở miền Bắc thời ấy là "giải phóng dân tộc", nói đúng hơn là thống nhất đất nước bằng mọi giá xương máu; chỉ có một vài người như Phùng Cung... ở ngoài Bắc và Trịnh Công Sơn... trong Nam, nhìn thấy tính cách bạo tàn của chiến tranh nồi da xáo thịt và họ đã cất tiếng thơ, tiếng hát, hát cho những xác người. Sự phản đối chiến tranh của Trịnh Công Sơn, thời ấy được một nửa nước say mê, tôn thờ. Còn sự phản chiến của Phùng Cung đã bị vùi sâu trong ngục thất, rất có thể là vì nó mà tác giả đã phải trả giá 12 năm tù, hoặc vì những lý do khác, trải dài trong thân thế, "lý lịch" của Phùng Cung.
Nhưng trước khi đi xa hơn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu sâu hơn về thân thế, lý lịch của Phùng Cung.
Phùng Hà Thủ, nay cũng đã qua đời, kể lại trong bài viết "Nhà thơ Phùng Cung" như sau: "Là con trưởng của một gia đình đông con và giàu có. Ngay từ lúc nhỏ, bố tôi đã được cha mẹ gửi trọ học ở Sơn Tây. Ðến khi Nhật đảo chính Pháp mới trở lại quê nhà. Khi cách mạng nổi dậy cướp chính quyền (9-1945), vốn tuổi trẻ, năng nổ lại là người có văn hoá, bố tôi được dân bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu năm mới 17 tuổi. Và tên của địa phương do bố tôi đặt vẫn còn giữ cho đến tận bây giờ. Làm chủ tịch được vài năm thì "phá tề", thực dân Pháp quay trở lại càn quyét tái chiếm, bố tôi phải trốn lên chiến khu Việt Bắc và kéo theo mấy em trai còn ít tuổi theo cùng. Tại quê nhà, gia đình họ hàng bố tôi gồm bố, mẹ và các anh chị em khác đều bị liên lụy vì có con trốn đi làm cách mạng.(....)
Trong suốt thời gian tham gia cách mạng, bố tôi ít có điều kiện trở lại quê nhà (...). Một lần nhân dịp tết Nguyên đán, về thăm gia đình, thấy cảnh tượng cửa nhà, ruộng đất bị chia cướp, phá phách. Ông nội tôi rất lo lắng vì gia đình đang sợ bị quy là thành phần đia chủ cường hào. Bố tôi có an ủi động viên ông: "Con đi làm cách mạng, thoát ly đã lâu thì thế nào gia đình mình cũng được chiếu cố. Cùng lắm là nhà nước lấy lại hết ruộng đất chia cho người nghèo hơn, bố cứ yên tâm, đừng lo lắng gì cả, vả lại bố cũng nhiều tuổi rồi". Nhưng thật không ngờ, sau đợt về thăm nhà và trở lại cơ quan được ít lâu, thì bố tôi được tin gia đình bị quy là địa chủ cường hào ngay trong đợt phát động tiếp theo. Thực ra, ông nội tôi là người sống rất phân minh và tốt bụng, rất quý người và không ai trong số họ đứng ra tố cáo ông cụ. Sau khi bị tổ chức đấu tố tại địa phương mất mấy ngày, ông cụ lại tiếp tục bị bắt đưa đi giam ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên.(...) Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phiá sau trại giam và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của ông cụ, bố tôi quay ngay về Hà nội, rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh tiếp xúc với bên ngoài.
Năm 1956, một nhóm văn nghệ sĩ gồm những người tham gia kháng chiến cũ tập họp nhau đứng ra thành lập báo Nhân Văn và Giai phẩm. Ông Nguyễn Hữa Ðang đến gặp và bảo bố tôi tham gia viết bài. Truyện Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên báo Nhân Văn ngay sau đó." (Phùng Cung truyện và thơ, trang 16- 17).
Như chúng ta đã biết, rồi báo Nhân Văn ra được sáu số thì bị đình bản. Trong thời kỳ này, Phùng Hà Thủ kể tiếp: "Cũng trong thời gian này, bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết lách ở nhà, (...)
Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà nội). Ðó là tháng 5, 1961. Kể từ ngày đó mãi cho tới thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris, tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa lò, sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong quang (Lào cai).
Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo(....) Khi bố tôi mới bị giam giữ thì nghe nói thời hạn tập trung là ba năm, sau đó là sáu năm và chín năm hơn cũng chẳng thấy được tha về."(trang 18).
Qua lời chứng của Phùng Hà Thủ, chúng ta được biết, tháng 11 năm 1972, Phùng Cung được tha về cùng với hai người nữa là Ông Vũ Thế Hùng bên công giáo và ông Doãn tỉnh trưởng Vĩnh Yên cũ. Bài viết này làm lộ một số uẩn khúc trong cái án không có án của Phùng Cung và làm sáng tỏ thái độ tư tưởng của Phùng Cung.
Tập thơ Trăng ngục biểu hiệu cho chiều hướng tư tưởng đối lập đầy chất bất khuất, tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, "có chất thép", như những mũi dao nhọn đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, chọc thủng bức tường tù tội, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 61. Nhà thơ ví chế độ cực quyền như biển:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa- đáng thương (...)
Hỡi biển cả !
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Ðối diện với một thế quyền vũ bão như thế, con người là gì? Phùng Cung trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Lời thơ hào hùng bầy ra trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là cái thế quyền lồng lộng, khoác triều phục đại dương, mênh mông như biển cả, sẵn sàng vùi sâu mọi sinh linh, nhưng trước mắt đứa bé, thế quyền lồng lộng ấy là gì?
-Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không, bởi vì, dưới mắt trẻ thơ: "mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh".
Và đối với người lớn - người lớn ở đây là những con người bất khuất, trải nhiều đau khổ, đã chịu những đè nén nhục nhằn, nhưng không hề quy phục - thì họ làm gì?
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Giọng thơ hào hùng, phù hợp với tinh thần kẻ sĩ của một thời, thời Nhân Văn Giai Phẩm, nay không còn nữa
Bài Biển cả tung ra trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố đầy tính cách trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả, đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, bên cạnh cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường để cùng nhau hiện hữu.
Vẫn giọng hào hùng ấy, tiếng thơ không dứt được lãng mạn của tình riêng, bài Trăng ngục chỉ có vài câu, nhưng đã tập trung tất cả những tái tê bất hạnh của người tù, tình tù mà chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng, vầng trăng thay áo, vầng trăng là người bạn tri kỷ để nhà thơ tâm sự:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh- sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...
Hình ảnh "trên vai áo tù trăng vá lụa" thật đẹp, thật êm ái, thật tri âm tri kỷ, đó là sự hài hoà giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa xa và gần, người và trăng, biển và người như nhà thơ thầm ước, trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời mà chỉ có vầng trăng đáp lại.
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào. Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ trương chiến tranh là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái- trai
Bị lôi đi- hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Chiến tranh nào cũng chôn hết những tài hoa anh hùng , chỉ để lại người già ngồi gãi đất.
Bài Thu xa viết nên những lời tâm sự tha thiết của người chinh phụ trong chiến tranh, Thu xa đẹp như một giấc mơ cổ điển của thời nay, với những yếu tố, vần điệu đầy những nét thơ mộng của thời xưa:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Có lẽ trong các thi sĩ Việt Nam, nhất là miền Bắc, chưa ai dám đả động đến "chính nghĩa của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" như thế. Đó là một "chân lý tuyệt đối", đụng đến khói hương là trở thành "phản quốc", cho nên chưa ai dùng hoặc dám dùng những hình ảnh đẹp và khốc liệt như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều", để viết về một mùa thu như thế. Rồi tất cả những chữ khác như quay xa, tại sao nhà thơ lại viết "quay xa" mà không viết quay tơ, bởi vì chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là bánh xe của guồng tơ guồng cửi, xa còn là bánh xe chiến tranh, chiến xa, xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ thời mới này, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng cũng quay bánh chiến xa, nàng cũng "tắm máu rừng thu" như chồng. Đó là cái nhìn táo bạo và độc đáo của nhà thơ, người đã sáng suốt nhận thức được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ. Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông còn đi sâu hơn, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gíó!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không.
Bên cạnh những lời hỏi tội tầy đình như vậy, là những lời thơ trữ tình đẫm lệ, bài Quê hương, đưa ra một hình ảnh đất nước tang thương đầy máu và nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Trên mảnh đất quê hương này, dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những tiếng thúc giục giã lên đường, không chỉ là những tiếng hô thắng trận, mà đằng sau tất cả những cờ xí rợp rã đó là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
"Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa".
Những hình ảnh chết chóc cứ sừng sững và rũ liệt đi vào lòng người đọc như thế. Những cái chết "không trẻ ", "không mới" như hình ảnh "người chết hai lần" của Trịnh Công Sơn (ra đời cùng thời với thơ Phùng Cung, nhưng ở phía Nam). Thơ Phùng cổ điển hơn lời ca của Trịnh, có lẽ vì Phùng lớn tuổi hơn, vì không cùng một hệ suy tưởng, cho nên thơ Phùng đạo đức "gia tiên" hơn nhạc Trịnh. Tuy cùng viết về một nỗi đau, nhưng Bắc Nam giọng điệu có khác, Phùng Cung viết:
Bấm dốt ngón tay (....)
Nhớ người thiên cổ
Cạn máu kho thiêng
Kho thiêng rạn vỡ
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Và để tạm biệt Phùng Cung, chúng tôi gửi đến các bạn bài thơ Vay tuổi, như một điếu văn những linh hồn trẻ đã mãi mãi nằm xuống, và cũng để khâm liệm tâm hồn những bà mẹ già trong đêm tối bạc đầu vì nhớ thương, hương khói:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh- Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Dưới mồ, dường như có tiếng Phùng Cung nhắn lại: thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho đất nước này.
Thụy Khuê, tháng 3, 2004
© Copyright Thuy Khue 2004
ĐỌC LẠI TẬP THƠ XEM ĐÊM CỦA PHÙNG CUNG:
Phùng Cung qua lời kể của Hoàng Cầm
(trích trong băng ghi âm, Hoàng Hưng lưu)
Ông Phùng Cung mua được sự căm ghét của chính những người mà tác phẩm “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nó vạch ra, vạch ra một cách sâu sắc nhuần nhuyễn và đọc cái đó ai cũng thấy là hay, như ông cụ nhà tôi là một nhà Nho thôi chẳng có gì là Tây học cả mà thích làm sao đến mức bắt tôi phải mời ông Phùng Cung lên hẳn hoi để ông cụ tiếp kính trọng đến như thế…
Từ năm 1958, thì Phùng Cung có làm sao đâu, và trong cái bản kiểm điểm thì tôi khai bài “Con ngựa già của Chúa Trịnh” không phải Phùng Cung chủ định đăng vào Nhân Văn Giai Phẩm, lúc bấy giờ anh Phùng Cung đối với Nhân Văn Giai Phẩm anh chả là nghĩa lý gì cả không ai chú ý đến anh Phùng Cung cả, chẳng qua anh quen biết và quí mến tôi thì anh viết được cái gì anh hay cho tôi xem và yêu cầu tôi sửa chữa, thế thì cái việc đem đăng cái ấy vô đăng ở Nhân Văn số hai là hoàn toàn do tôi, hoàn toàn không phải do anh Phùng Cung. Mặc dầu tôi nói thế nhưng người ta ghét vẫn cứ ghét, người ta thù vẫn cứ thù chứ sao.
Sau khi thi hành kỷ luật các nhà văn, nhà thơ đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm rồi sang năm 1960 rồi, sau cả đại hội Đảng lần thứ ba rồi cuối năm 1960 thì anh Phùng Cung vẫn làm việc ở hội nhà văn, tức là làm việc lặt vặt, quét dọn, pha phích nước, rửa ấm rửa chén, hoặc in ronéo một vài tài liệu gì đó hoặc dán phong bì, làm việc rất lặt vặt hành chính của Hội Nhà Văn, chứ người ta cũng không duổi anh ra với số lương nhân viên hành chính có là bao nhiêu đâu vào khoảng độ 40 đồng lúc bấy giờ, như bây giờ vào khoảng ba, bốn trăm bạc ba, bốn trăm nghìn bây giờ.
Anh hay ở phòng làm việc của anh thì nó là phòng nhà dưới, có hai ông nữa là ông Trần Dần và Lê Đạt. Thỉnh thoảng anh Cung cũng có đến nói chuyện về văn nghệ với hai cái ông anh này, thì có khi anh chê, chê to tiếng đấy, anh nói to, chê ông Hoàng Trung Thông hay ông Nguyễn Đình Thi hay ông Tô Hoài hay ông nọ ông kia, những cái nào đáng chê thì ông chê, nói như chuyện vui hằng ngày với anh em thôi. Tôi thấy rõ anh Nguyễn Đình Thi cực kỳ ghét ông Phùng Cung. Lúc bấy giờ anh Thi là tổng thư kí, ngay những câu mà anh nói ở cơ quan đang giờ làm việc có thể nó cũng lọt đến tai anh Thi, thành ra càng ghét cho nên hai anh một anh là tổng thư ký hội, một anh là thường vụ hội nhà văn. Anh Thi và anh Hoàng Trung Thông có thảo kí chung một công văn gởi sang sở công an Thành phố Hà Nội, trong công văn đó nội dung là ở cơ quan hội nhà văn có một tên là Phùng Cung người đã từng viết truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh” đăng ở báo Nhân Văn số 2; hiện nay đang là nhân viên bình thường trong công việc hành chính của cơ quan Hội nhưng mà thường luôn luôn có một thái độ chống đối, luôn luôn đả kích những cán bộ lãnh đạo với một thái độ hằn học, vậy chúng tôi ban chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam yêu cầu cơ quan an ninh thành phố Hà Nội có biện pháp đưa anh Phùng Cung đi cải tạo lâu dài, đấy là nội dung công văn và dưới kí tên một bên là tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi, một bên là thường vụ hội nhà văn Việt Nam: Hoàng Trung Thông.
Sự thực thì cơ quan công an Thành phố thì cũng chả thù ghét gì anh ấy bởi vì anh có làm cái gì đâu, có làm gì phi pháp hay gây rối mất trật tự gì ở đường phố hay gì đâu, không có, thế bây giờ muốn đưa anh đi cải tạo lâu dài thì phải lấy cái cớ gì chứ, thế là công an cũng chả nghĩ ra cái cớ gì cả, thì họ bịa ra một chuyện là có một đơn khiếu nại là anh có hãm hiếp một phụ nữ chưa đến tuổi thành niên tức là vị thành niên, một thiếu nữ ở quanh hàng xóm nhà anh, cơ quan an ninh thành phố có nhận được một cái đơn như thế thì gọi anh lên để điều tra thế thôi. Vào khoảng 2h sáng thì người ta gõ cửa nói “Chúng tôi công an thành phố đây, mở cửa ra!”. Vào thì cũng đọc cái lệnh kí ở dưới là trưởng phòng an ninh trật tự. Lệnh: Khám nhà! Nếu chỉ chuyện hiếp dâm mà lại còn khám nhà thì lạ thật, thế nhưng vẫn có lệnh khám nhà và bắt, người ta khám nhà mà có những bài nào mà anh Phùng Cung viết dù là truyện ngắn hay bản nháp linh tinh thì đều tịch thu và đem về sở hết.
Tôi nhớ là trong thời gian từ sau kia đóng cửa Nhân Văn cho đến lúc bấy giờ thì anh Phùng Cung đã viết độ 20 truyện ngắn, anh có đưa cho tôi đọc và tôi là người đầu tiên anh ấy đưa đọc và xin ý kiến. Tất nhiên 20 truyện ấy không có thể so sánh được với truyện “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nhưng đều có những nét rất đặc biệt vì có những truyện khá xúc động và nếu nói về tâm trạng bi phẫn hoặc là phẫn uất thì có đôi truyện mang tâm trạng phẫn uất vô cùng, thế rồi có những truyện mang chất humour, trào lộng cũng sâu sắc lắm. Tôi thì nhớ chung vậy thôi chứ bài nào bài nào thì tôi chịu. Sau khi trả lại anh thì tôi chỉ nói “Cậu viết cái này tuy không được sắc nước bằng ngựa già chúa Trịnh nhưng đều được cả”. Tôi cũng vạch ra một vài truyện còn non thì những truyện nào cần phải sửa sang lại thì tôi cũng có đánh dấu vào đấy yêu cầu sửa sang lại, nhất là về văn cả về bố cục nữa thì tôi có góp ý kiến với anh một cách hết sức chân thành. Sau đó anh có cho anh Lê Đạt mượn và anh Trần Dần có mượn, thì riêng anh Trần Dần mượn có hơi lâu hình như đến một tháng trời.
Thế mà đến khi anh bị bắt thì cái này về sau tôi nghe qua người vợ anh thuật lại với tôi về tâm trạng anh sau khi bi bắt có truyền được về cho gia đình biết, thì có một điều anh ấy nghĩ và cứ khăng khăng nghĩ như thế suốt cho đến mãi năm 1989 tức là gần đến 1990 tức là từ 1960 – 1990: 30 năm trời anh không bỏ cái ý nghĩ đó: anh cho rằng anh Trần Dần đã đem nộp cái tập truyện ngắn mà anh cho mượn, anh ấy đã đem nộp cho hoặc là ban tuyên huấn hay bộ công an gì đó, vì thế mà anh bị bắt bởi vì cộng với “Con ngựa già của Chúa Trịnh” là cái đăng rồi còn 20 truyện ngắn kia chưa đăng đâu cả, người ta cho biết 20 truyện ngắn ấy là chống lại Đảng, chống lại cán bộ lãnh đạo v.v… thì người ta cứ suy diễn ra như thế. Vì thế mà anh bị bắt cho nên anh thù anh Trần Dần, anh coi anh Trần Dần là kẻ thù, tôi nói thế nào thì nói anh cũng không nghe, tôi tìm cách dàn hòa từ sau khi anh được tha về đến mãi đến mấy năm sau, cả Lê Đạt nữa chúng tôi xúm vào chuyện ấy để cố gỡ ra khỏi đầu óc anh cái tư tưởng ấy bởi vì tôi không bao giờ tôi tin anh Trần Dần làm việc đó.
Trở lại chuyện anh Phùng Cung đi cải tạo thì đầu tiên vợ tức là chị Thoa gánh một gánh quà, một số quần áo rét gì đấy lên thăm anh ở trên tít cái rừng từ Lao Cai đi vào 40km nữa thuộc huyện Hoàng Xu Phì (hay gì đó) thì anh nhất định không tiếp. Anh nói với quản giáo là nếu vợ tôi lên dù là có giấy phép hẳn hoi, tôi xin cán bộ cứ bảo là về đi, ông ấy không tiếp, cứ về mà lấy chồng đi, từ nay trở đi là ông không về nhà nữa đâu. Chị Thoa có kể lại với tôi và chị khóc lóc khổ sở lắm. Lúc bấy giờ chị cũng có làm cơ quan nhà nước tức là làm bào chế thuốc tức là làm về dược đấy thì lương một tháng hơn 40 đồng thôi, mà lại nuôi hai đứa con, hai đứa con trai, một đứa lúc ông bắt đầu đi cải tạo thì hãy còn bé lắm độ lên 2, lên 3, một đứa độ lên 5 lên 6. Thế thì không hiểu sao anh Phùng Cung không tiếp, nhưng tôi thì tôi hiểu nhưng không thể nói với chị thế được, không thể giải thích thế được, tôi hiểu thế này, anh Phùng Cung thương vợ lắm, mà anh thừa biết cái việc này, cái việc anh đi cải tạo này rất lâu, lâu đến mức không thể tính thời hạn là bao nhiêu cả, có thể là 10 năm, có thể là 15 năm cũng có thể là suốt đời mà lại cũng có thể ốm trong rừng rồi chết… Khi người ta đã có quyền mà thù hằn thì chỉ có một cách là chịu đựng mà chung sống với sự thù hằn đó, nếu mình không đủ sức chung sống thì mình chết thôi chứ không có cách gì mà gỡ lại được, thì bây giờ để người vợ trẻ như thế ở nhà chờ mình, chờ mình đến bao giờ đây mặc dù đã có hai con mà tuổi thì đã 35, 36 tuổi mà bây giờ chờ chồng đến bao giờ, chờ chồng đến già à?
Thế là anh định đóng vai kịch như thế, một vai kịch tàn nhẫn không chịu tiếp muốn gì thì gì và đuổi về, đi lấy chồng đi, tôi không yêu cô nữa, tôi không còn tình nghĩa gì nữa, tôi sẽ không trở về cái nhà ấy nữa, đấy là một vở kịch anh cố tạo ra để cho chị Thoa có thể hiểu nhầm rằng anh phẫn chí rồi, anh hỏng rồi thì thôi có lẽ mình chẳng có thể chờ anh ấy được thì phải đi bước nữa thôi để mà tìm người tốt nào đấy, để nuôi được hai đứa con chứ bản thân một mình mình bây giờ đã nuôi thân lại còn nuôi hai đứa con nữa mà với cái đồng lương hơn 40 đồng bạc thế này. Thành ra tôi cũng chịu, tôi bảo “chắc là anh cũng buồn bã, phẫn chí một tí thế thôi chứ sao anh không thương chị được, thì thôi chị chứ kiên nhẫn, nếu mà lần sau lên mà anh từ chối thì chị cứ nói với ban quản giáo là xin cho chị ở đấy hầu hạ các phạm nhân cũng được miễn là gặp được chồng, chị cứ kiên nhẫn đi rồi thì anh cũng phải nản lòng, anh phải cho chị gặp, đã cho chị gặp rồi thì dần dần lấy lại được bình thường”.
Thế thì chị Thoa cũng nghe tôi, thì độ một tháng sau chị lại được phép lên, chị lại mang lên, có cái lần này chị mang lên cái thật tốt mà ít thôi, không đem nặng lắm và chị xin bằng được để gặp anh ấy, và quả nhiên chị nghe tôi chị mới xin với quản giáo cho tôi ở lại đây, cho tôi một chỗ ngủ để tôi gặp chồng tôi bằng được mặc dầu chồng tôi không muốn tiếp, xin ban quản giáo hiểu cho là anh đang đau khổ quá thế thôi, xin ban quản giáo thông cảm tôi đi xa mà người thì yếu đuối mảnh dẻ như thế này.
Thế là ban quản giáo người ta nghĩ cũng ái ngại, người ta cho chị ở lại đâu hai ngày, thế thì lần sau ông Phùng Cung có ra tiếp nhưng mà anh chỉ cho nửa tiếng thôi, anh bảo không tôi chỉ nói chuyện với cô nửa tiếng, anh vẫn làm ra cái vở kịch đó, và anh nói thật: Tôi đi thế này cái tội của tôi nó to lắm thì khó mà về được sớm, em thì còn trẻ mặc dầu đã có hai con nhưng còn trẻ, nhà thì lại nghèo, em cần có chỗ dựa nào đó, mà chỗ dựa tốt, tìm gặp một người nào thật tốt em lấy người ta đi để vừa có chỗ dựa cho mình vừa có thể nuôi được hai con, em cứ nuôi hai con giúp anh, còn bao giờ anh về thì chưa thể nói được mà có thể là không bao giờ về cả, cố làm thế nào để hai đứa con trưởng thành, tôi chỉ ngồi nói chuyện nửa tiếng tôi đi vào chứ không thể ngồi lâu được, thế thì gặp nửa tiếng cũng được rồi.
Chị Thoa kể: “Ối giời ơi! suốt nửa tiếng em chỉ khóc, thậm chí em quì xuống chân anh em khóc, thôi anh đừng nghĩ ngợi gì, đã bị như thế này thì cố mà làm việc trong trại cho nó có kỷ luật thế nào cũng có ngày về, em thì dù túng thiếu thì vẫn cứ yên tâm chờ anh, thế nhưng Phùng Cung vẫn cứ kiên quyết: “Không, em đi về lấy chồng đi! Em đi lấy chồng nghe tin thế anh vui được chứ không để em như thế này thì anh không thể nào mà chịu nổi đâu”. Chị Thoa người mảnh dẻ, chị đẹp nhưng mảnh dẻ, rõ ràng trông yếu lắm, một cơn gió lạnh có thể bay. Thế thì anh thương quá cho nên anh cố tình làm cho chị chán đi, nhưng chị thì ngược lại, chị không giận gì anh cả, không chán nản mầ vẫn kiên nhẫn tiếp tế cho chồng hàng tháng, tháng nào chị không được tiếp chị vẫn xin với ban quản giáo cho ở lại bằng được.
Thế quả nhiên như thế độ ba lần sau thì bấy giờ anh Cung mới trở lại cái âu yếm bình thường của hai vợ chồng thì chị có thể ở với anh được đến ngày hôm sau vì ban quản giáo ở đấy cũng tốt, người ta cho phép vì đường xa mà đi bộ như thế thì cứ nói đi từ rừng mà ra ga Lao Cai thì phải sáng sớm là dậy rồi, đi mãi đến tối mới ra tới Lao Cai được, thế nếu có chuyến tàu tối thì về chuyến tàu tối mà nếu nhỡ thì phải ngủ trọ sáng hôm sau mới về Hà Nội được.
Anh bị giam như thế là 12 năm đằng đẵng ở trong rừng không thấy ánh nắng mặt trời chỉ biết có ngày có đêm thế thôi, chứ còn ngày nào cũng như ngày nào, cứ thấy mờ mờ ở trong rừng thế thôi, đến nỗi khi ra anh kể chuyện với tôi, sau một thời gian khá lâu, đến lúc anh ra được ngoài đường ngoài cái rừng ấy rồi thì nhìn trời nhìn đất đến nỗi anh như bị mê sảng, người như lạc cả hồn đi, nhìn một mảng trời xanh nhìn dãy núi xa xa, cây cối anh như bị mê hoặc, nó lạ như thế, không biết vào thế giới nào đây, tại sao lại có thế giới này.
Cái hôm anh mới về, vợ chồng tôi xuống thăm, đó là năm 1972 là B52 đang đánh Hà Nội đúng trong khoảng 12 ngày đêm thì anh được về, anh về thì thấy Hà Nội nó vắng ngơ vắng ngắt, đường phố thì đèn báo động, đèn phòng thủ cho nên tối lờ mờ, về đến nhà thì cửa lại khóa không biết vợ con sơ tán ở đâu, hàng xóm láng giềng cũng đi sơ tán hết chỉ có mỗi một con bé con nào đấy nó chỉ bảo “Đi sơ tán hết, có gì thì phải đến sáng mai thì mới nhắn được” thì anh phải ngủ ngoài hiên đêm hôm ấy và dự cả trận B52.
Đến hôm tôi và bà vợ tôi xuống thăm thì trong ánh sáng tối mờ mờ của gian phòng đó, chị khóc chị gọi “anh Cung ơi, anh Cầm với chị Yến xuống thăm mình đây này” thì tôi chưa nhìn thấy anh đâu cả mà không phải mắt tôi cận thị chỉ có cái phòng ấy tối tối, tôi không biết anh ấy đứng đâu mà chị Cung chị lại gọi, gọi “anh Cung ơi” thì hóa ra, một lúc tôi định thần lại, thì anh đứng trong góc nhà đấy thôi, đứng bên cạnh cái tủ nhà vẫn có cái tủ chè, anh đứng ngay cạnh tủ chè sát trong góc kề bức tường đến lúc tôi mới nhận ra thì thật sự như tôi nhìn vào bóng ma, trời ơi!
Người anh nhợt nhạt và anh nói thều thào thều thào như là một người sắp chết, nói mà tôi phải hết sức lắng tai nghe, tôi phải hỏi lại chị “Cô Thoa ơi! anh ấy nói gì đấy, chú ấy nói gì đấy”. Chính chị Thoa cũng nói “em chả nghe rõ đâu, nhưng ý của anh là anh rất vui được trông thấy anh chị xuống thăm thì em chỉ nhìn mồm em đoán thế thôi chứ anh không nói rõ đâu”.
Tôi chạy lại ôm hai cánh tay anh, ôm vai anh, nước mắt mình cũng rưng rưng, thương vô cùng mà người thì đúng như một hồn ma, gầy gò, sờ thì thịt nhão ra, đi đứng thì cứ lần lần từng bước, nói thì không nói một câu nào cho nó gãy gọn, cho nó ra lời, cứ thì thào thì thào thôi, mình hiểu được thế nào thì hiểu tùy mình. Cả bà Yến cũng khóc, hai bà phụ nữ đều ôm nhau khóc vì thương anh quá, thế thôi, thương quá mà các bà phụ nữ thì lại mau nước mắt. Tôi thì chỉ rơm rớm nghĩ mà thương bạn và cái ân hận là mình đã đăng cái bài ấy nó càng dày vò mình, tại mình anh mới thế này nếu tôi không đăng bài đó vào Nhân Văn số hai thì có lẽ không làm sao cả, thế mới đau, đó là một cái nghịch lý mà bây giờ tôi không biết là tôi nên đứng về phía nào.
Bây giờ cho tôi đặt một chữ “nếu” thì xin các bạn nếu đã hiểu chuyện này rồi qua lời tôi kể lại thử đặt xem tôi nên đứng về phía nào nếu có chứ “nếu” nha, nếu như tôi không đăng bài ấy vào số hai thì sao? Và nếu như thế thì anh Phùng Cung không làm sao hết, anh vẫn làm việc như một nhân viên bình thường ở cơ quan làm như thế nào, các bạn thử nghĩ trả lời hộ tôi xem thử, nếu có phép gì cho tôi chọn lại việc đó.
Đến độ 4, 5 năm sau thì anh lấy lại thăng bằng trong người và anh làm thơ, tập thơ “Xem Đêm” của anh là có giá trị như tôi đã phê bình trên báo mà phê bình trên báo là tôi chỉ mới nói qua loa thôi chứ chưa nói được kỹ bởi vì nếu nói kỹ thì cũng sợ đụng chạm, thế thì bài đó ông Nguyễn Hữu Đang ông dám nói là bài hay nhất của tôi từ xưa đến nay kể cả vượt tất cả những bài sáng tác, vượt cả “Kiều Loan” vượt cả “Lá Diêu Bông” “Bên Kia Sông Đuống” ông Đang dám khẳng định như thế bởi vì ông thích quá, ông thích bài tôi ca ngợi Phùng Cung ở trong “Xem Đêm”.
Hoàng Cầm
***
Một Số Bài Thơ Của Phùng Cung Trong Tập Thơ Xem Đêm:
TRÀ
Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương
*
BÈO
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh.
*
CUA ĐỒNG
Phận – lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng – vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi
*
VẠC
Nắng táp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.
*
MẸ
Mồ hôi Mẹ
Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người.
*
MỒ HÔI XƯƠNG
Em vất vả
Tối ngày tất tả
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này vắt tận trong xương
*
GẶP EM
Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước – héo
Áo – gầy
Gió – va – nón – cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.
*
TÌM EM
“Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể Đông”
(Ca dao)
Tìm về gặp em
Em đã đi
Vách, giường thơm lạnh
Mùi khăn áo cũ
Đêm nghiêng gió – chập chờn
mưa gõ lá
Không có sông
Sao có tiếng gọi đò.
*
GẶP THU
Trở dậy gặp thu
Không gian ngập mùi ổi chín
Mùi năm ngoái
Đáy nù ao bèo
Mây trắng lênh đênh
Bâng khuâng mình tự hỏi mình
Trời thu thả nắng
Giếng tình vắng ai.
*
ĐÊM CUỐI THU
Chó sủa dông dài
Gió chuyển canh
Trái thị cuối thu
Thơm mùi trăng-úa
Ao khuya nước thở thì thầm.
*
GiĂNG TƠ
Chút lòng đãy gấm khăn điều
Cảm thương cái nhện chiều chiều giăng tơ
Không gian đứt nối sững sờ
Khăn điều đãy gấm ngẩn ngơ mấy chiều.
*
TRI ÂM
Phách đàn lơi nhịp tri âm
Lưng trời lặng tiếng nguyệt cầm phù điêu
Gấm bào hoen giọt lệ điều
Bâng khuâng xa mã nửa chiều quân vương
*
NGÂU
Thác sinh trong cõi tình trường
Tình trường ly hợp đôi hàng chứa chan
Cầu đò mỏi nhịp Ngân giang
Mưa ngâu khuấy đục giếng làng chưa em.
*
CHÙA KIM LIÊN
Sen vàng từ thuở lên ngôi
Bâng khuâng du khách
Ngậm ngùi vần thơ
Cổng chuà nhện mải giăng tơ
Chuông thiêng ngân mãi
Tiếng thừa trong không.
*
BẠC TUỔI
Ai làm cho bạc tuổi nhau
Nhìn trời xanh nhớ mái đầu xanh xưa
Tuổi xanh bạc giữa bất ngờ
Trời xanh quên nửa bài thơ đoạn trường.
*
ĐÊM NGUYÊN TIÊU
Cổng Phật chuông lay hoa rụng
Mõ dẫn kinh ruổi nhịp
luân hồi
Vương lụy hương bay đứt, nối
Cành sương trăng níu
Giọt nguyên tiêu.
*
SAY
Ai chuốc rượu
Cánh buồm say lảo đảo
Quanh quẩn quãng sông chiều
Quên nẻo ra khơi.
*
BUỒNG THƠM
Đêm vắng
Buồng thơm
Em soi gương trộm
Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng.
*
DÂU, BIỂN
Chiều xâm xẩm
Vườn dâu đòi xanh biển
Con chim chích buông cành
bay liệng
Vẽ vòng sóng vỗ xa xưa.
*
Ê ẨM
Chợt nghe động trống
Trâu bò nhớn nhác
Dùi quật liên hồi
Ê ẩm tấm da khô.
*
KHÓI CUỐI NĂM
Sương chiều nghe lạnh bước chân
Khách áo cũ
Tìm về bạn cũ
Ai đốt rác lá tre bên ngõ
Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm.
*
XEM ĐÊM
Trở giấc xem đêm
Cuối trời trăng – mỏi
Trái gấc chín – ngập ngừng
Tóc rụng trạt lối đi
Trở giấc xem đêm
Thiên hà ngọc vụn
Gió thổi một mình
Mặt đất tròng trành
Ma hoa nhảy múa.
Phùng Cung,
Tập thơ Xem đêm, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin xuất bản vào năm 1995.
Tham khảo thêm về tác giả Phùng Cung
Tình bạn Phùng Quán-Phùng Cung
Xuân Đài
Xuân Đài
Phùng Cung, đời người, đời chữ
Lê Minh Hà
http://www.webook.vn/phung-cung-doi-nguoi-doi-chu_0E1047.aspx
Lê Minh Hà
http://www.webook.vn/phung-cung-doi-nguoi-doi-chu_0E1047.aspx
Trang thơ Phùng Cung
Quê hương
Quê hương ơi!
Đường quan lầy nước mắt
Điệu sáo hết du dương
Mây chìm – gió ngủ
Chiều nắng da – bò
Vẫn nhằm biên giới ưu tư
Rầu rầu đổ bộ
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy giùm ta
Gọi cành xanh thức dậy
Để quê hương nhìn lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Con thuyền lý tưởng
Lênh đênh bốn mùa
Ôi! Trong trắng thuở ngày xưa
Tiếng võng nhẹ đưa
Tiếng chị nhẹ ru
Hồn xuân lướt chênh chênh
Giữa trời xanh – cò lả
Nhiễu Đế kinh
Ai gửi làm quà
Rừng mải hoang vu
Hoa níu cành sương e lệ…
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Tiễn chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Đền – miếu tan rồi!…
***
Năm tận tháng cùng
To nhỏ hàn ôn
Trên từng đốt ngón tay
Để đèn chiều xao động
Lòng thành vụng trộm hành hương
Tranh thủ phút giây
Nhớ người thiên cổ
Kho thiêng rạn vỡ
Tiếng Gia tiên
Rầu rĩ dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn
***
Ơi! Quê hương
Hỡi những ngày xưa
Thủy chung nhân ái
Tất cả đều chìm lăn
Trong lừa dối nhỏ nhen
Trĩu bước lưu ly
Gót mòn sấp ngửa áo cơm
Trăm muôn vẻ thắm hữu hình
Chỉ còn là lưu ảnh
Chập chờn bên ải mưa sa.
Biệt giam Yên Bái 65
Vấn vương
Sáo diều ai ruổi trong đêm
Nghe như chuông của đền thiêng làng trời
Thiên cung ngày trước mải vui
Hái hoa vườn cấm nên trời phạt ta
Đầu xanh rời bến Ngân hà
Xuôi thuyền đi trả nợ hoa dưới trần
Chúa xuân ơi! Hỡi chúa xuân!
Biết tin ta phải về trần hay chưa?
***
Trách lòng quên lỗi lầm xưa
Lại trao vàng gấm bên chùa Nhật Chiêu
Cánh thiêng vướng mãi lưới điều
Làm cho nợ sớm nợ chiều với hoa
Nợ nào hơn mắc nợ hoa
Trả chưa xong nợ tóc đà gội sương
Đã sinh ra cái tình trường
Thì đi bằng hết nẻo đường đang đi
Đất trời ta có hai quê
Khi đi vương vấn khi về vấn vương
Đất nước ơi
Tôi mến người
Như khi nhìn em bé ngủ
Tôi thương người
Như thương mẹ ốm
Vì đâu
Người khoác manh áo đỏ
Thừa sai – cũn cỡn
Tủi nhục tháng ngày
Long đong chiều sớm
Ôi! có bao giờ
Người đau đớn như thế này không.
Say
Ai chuốc rượu
Cánh buồm say lảo đảo
Quanh quẩn quãng sông chiều
Quên nẻo ra khơi.
Thu xa
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Lỡ xanh
Giọt nhớ ướt đằm nỗi nhớ
Luống cải vườn xưa
Đã lỡ xanh!…
Tay vịn đêm
Đầy mùi xa vắng
Nghe xóm nói
Em đi lấy chồng xa nghèo lắm
Có một lần về
Nhắn hỏi thăm anh.
Trăng hạ tuần
Trăng hạ tuần
Sà xuống đầu sông
Xem – vắng
Đôi bờ im ắng
Không thấy người
Sao có bóng người trôi
Mây gót bãi bệch – màu – cá chết.
Trằn trọc
Mái rạ trở mình
Mưa – hơi – thô
Hoa dứa gai
Thơm – lại mùi biên ải
Đêm trằn trọc
Xé đôi giấc ngủ
Nửa giấc tù ngồi
Nửa giấc trăng.
Bạc tuổi
Ai làm cho bạc tuổi nhau
Nhìn trời xanh
Nhớ mái đầu xanh xưa
Tuổi xanh bạc giữa bất ngờ
Trời xanh quên nửa bài thơ đoạn trường.
Ê ẩm
Chợt nghe động trống
Trâu bò nhớn nhác
Dùi quật liên hồi
Ê ẩm tấm da khô.
Ðêm chợt nghe
Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.
PHÙNG CUNG QUA LỜI KỂ CỦA HOÀNG CẦM
(trích trong băng ghi âm, Hoàng Hưng lưu)
Từ năm 1958, thì Phùng Cung có làm sao đâu, và trong cái bản kiểm điểm thì tôi khai bài “Con ngựa già của Chúa Trịnh” không phải Phùng Cung chủ định đăng vào Nhân Văn Giai Phẩm, lúc bấy giờ anh Phung Cung đối với Nhân Văn Giai Phẩm anh chả là nghĩa lý gì cả không ai chú ý đến anh Phùng Cung cả, chẳng qua anh quen biết và quí mến tôi thì anh viết được cái gì anh hay cho tôi xem và yêu cầu tôi sửa chữa, thế thì cái việc đem đăng cái ấy vô đăng ở Nhân Văn số hai là hoàn toàn do tôi, hoàn toàn không phải do anh Phùng Cung. Mặc dầu tôi nói thế nhưng người ta ghét vẫn cứ ghét, người ta thù vẫn cứ thù chứ sao.
Sau khi thi hành kỷ luật các nhà văn, nhà thơ đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm rồi sang năm 1960 rồi, sau cả đại hội Đảng lần thứ ba rồi cuối năm 1960 thì anh Phùng Cung vẫn làm việc ở hội nhà văn, tức là làm việc lặt vặt, quét dọn, pha phích nước, rửa ấm rửa chén, hoặc in ronéo một vài tài liệu gì đó hoặc dán phong bì, làm việc rất lặt vặt hành chính của Hội Nhà Văn, chứ người ta cũng không duổi anh ra với số lương nhân viên hành chính có là bao nhiêu đâu vào khoảng độ 40 đồng lúc bấy giờ, như bây giờ vào khoảng ba, bốn trăm bạc ba, bốn trăm nghìn bây giờ. Anh hay ở phòng làm việc của anh thì nó là phòng nhà dưới, có hai ông nữa là ông Trần Dần và Lê Đạt. Thỉnh thoảng anh Cung cũng có đến nói chuyện về văn nghệ với hai cái ông anh này, thì có khi anh chê, chê to tiếng đấy, anh nói to, chê ông Hoàng Trung Thông hay ông Nguyễn Đình Thi hay ông Tô Hoài hay ông nọ ông kia, những cái nào đáng chê thì ông chê, nói như chuyện vui hằng ngày với anh em thôi. Tôi thấy rõ anh Nguyễn Đình Thi cực kỳ ghét ông Phùng Cung. Lúc bấy giờ anh Thi là tổng thư kí, ngay những câu mà anh nói ở cơ quan đang giờ làm việc có thể nó cũng lọt đến tai anh Thi, thành ra càng ghét cho nên hai anh một anh là tổng thư ký hội, một anh là thường vụ hội nhà văn. Anh Thi và anh Hoàng Trung Thông có thảo kí chung một công văn gởi sang sở công an Thành phố Hà Nội, trong công văn đó nội dung là ở cơ quan hội nhà văn có một tên là Phùng Cung người đã từng viết truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa Trịnh” đăng ở báo Nhân Văn số 2; hiện nay đang là nhân viên bình thường trong công việc hành chính của cơ quan Hội nhưng mà thường luôn luôn có một thái độ chống đối, luôn luôn đả kích những cán bộ lãnh đạo với một thái độ hằn học, vậy chúng tôi ban chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam yêu cầu cơ quan an ninh thành phố Hà Nội có biện pháp đưa anh Phùng Cung đi cải tạo lâu dài, đấy là nội dung công văn và dưới kí tên một bên là tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam NĐ Thi, một bên là thường vụ hội nhà văn Việt Nam: Hoàng Trung Thông. Sự thực thì cơ quan công an Thành phố thì cũng chả thù ghét gì anh ấy bởi vì anh có làm cái gì đâu, có làm gì phi pháp hay gây rối mất trật tự gì ở đường phố hay gì đâu không có, thế bây giờ muốn đưa anh đi cải tạo lâu dài thì phải lấy cái cớ gì chứ, thế là công an cũng chả nghĩ ra cái cớ gì cả, thì họ bịa ra một chuyện là có một đơn khiếu nại là anh có hãm hiếp một phụ nữ chưa đến tuổi thành niên tức là vị thành niên, một thiếu nữ ở quanh hàng xóm nhà anh, cơ quan an ninh thành phố có nhận được một cái đơn như thế thì gọi anh lên để điều tra thế thôi. Vào khoảng 2h sáng thì người ta gõ cửa nói “Chúng tôi công an thành phố đây, mở cửa ra!” . Vào thì cũng đọc cái lệnh kí ở dưới là trưởng phòng an ninh trật tự. Lệnh: Khám nhà! Nếu chỉ chuyện hiếp dâm mà lại còn khám nhà thì lạ thật, thế nhưng vẫn có lệnh khám nhà và bắt, người ta khám nhà mà có những bài nào mà anh Phùng Cung viết dù là truyện ngắn hay bản nháp linh tinh thì đều tịch thu và đem về sở hết. Tôi nhớ là trong thời gian từ sau kia đóng cửa Nhân Văn cho đến lúc bấy giờ thì anh Phùng Cung đã viết độ 20 truyện ngắn, anh có đưa cho tôi đọc và tôi là người đầu tiên anh ấy đưa đọc và xin ý kiến. Tất nhiên 20 truyện ấy không có thể so sánh được với truyện “Con ngựa già của Chúa Trịnh” nhưng đều có những nét rất đặc biệt vì có những truyện khá xúc động và nếu nói về tâm trạng bi phẫn hoặc là phẫn uất thì có đôi truyện mang tâm trạng phẫn uất vô cùng, thế rồi có những truyện mang chất humour, trào lộng cũng sâu sắc lắm. Tôi thì nhớ chung vậy thôi chứ bài nào bài nào thì tôi chịu. Sau khi trả lại anh thì tôi chỉ nói “Cậu viết cái này tuy không được sắc nước bằng ngựa già chúa Trịnh nhưng đều được cả”. Tôi cũng vạch ra một vài truyện còn non thì những truyện nào cần phải sửa sang lại thì tôi cũng có đánh dấu vào đấy yêu cầu sửa sang lại nhất là về văn cả về bố cục nữa thì tôi có góp ý kiến với anh một cách hết sức chân thành. Sau đó anh có cho anh Lê Đạt mượn và anh Trần Dần có mượn, thì riêng anh Trần Dần mượn có hơi lâu hình như đến một tháng trời. Thế mà đến khi anh bị bắt thì cái này về sau tôi nghe qua người vợ anh thuật lại với tôi về tâm trạng anh sau khi bi bắt có truyền được về cho gia đình biết, thì có một điều anh ấy nghĩ và cứ khăng khăng nghĩ như thế suốt cho đến mãi năm 1989 tức là gần đến 1990 tức là từ 1960 - 1990: 30 năm trời anh không bỏ cái ý nghĩ đó: anh cho rằng anh Trần Dần đã đem nộp cái tập truyện ngắn mà anh cho mượn, anh ấy đã đem nộp cho hoặc là ban tuyên huấn hay bộ công an gì đó, vì thế mà anh bị bắt bởi vì cộng với “Con ngựa già của Chúa Trịnh” là cái đăng rồi còn 20 truyện ngắn kia chưa đăng đâu cả, người ta cho biết 20 truyện ngắn ấy là chống lại Đảng, chống lại cán bộ lãnh đạo v.v… thì người ta cứ suy diễn ra như thế. Vì thế mà anh bị bắt cho nên anh thù anh Trần Dần, anh coi anh Trần Dần là kẻ thù, tôi nói thế nào thì nói anh cũng không nghe, tôi tìm cách dàn hòa từ sau khi anh được tha về đến mãi đến mấy năm sau, cả Lê Đạt nữa chúng tôi xúm vào chuyện ấy để cố gỡ ra khỏi đầu óc anh cái tư tưởng ấy bởi vì tôi không bao giờ tôi tin anh Trần Dần làm việc đó.
Trở lại chuyện anh Phùng Cung đi cải tạo thì đầu tiên vợ tức là chị Thoa gánh một gánh quà, một số quần áo rét gì đấy lên thăm anh ở trên tít cái rừng từ Lao Cai đi vào 40km nữa thuộc huyện Hoàng Xu Phì (hay gì đó) thì anh nhất định không tiếp. Anh nói với quản giáo là nếu vợ tôi lên dù là có giấy phép hẳn hoi, tôi xin cán bộ cứ bảo là về đi, ông ấy không tiếp, cứ về mà lấy chồng đi, từ nay trở đi là ông không về nhà nữa đâu. Chị Thoa có kể lại với tôi và chị khóc lóc khổ sở lắm. Lúc bấy giờ chị cũng có làm cơ quan nhà nước tức là làm bào chế thuốc tức là làm về dược đấy thì lương một tháng hơn 40 đồng thôi, mà lại nuôi hai đứa con, hai đứa con trai, một đứa lúc ông bắt đầu đi cải tạo thì hãy còn bé lắm độ lên 2, lên 3, một đứa độ lên 5 lên 6. Thế thì không hiểu sao anh Phùng Cung không tiếp nhưng tôi thì tôi hiểu nhưng không thể nói với chị thế được, không thể giải thích thế được, tôi hiểu thế này, anh Phùng Cung thương vợ lắm, mà anh thừa biết cái việc này, cái việc anh đi cải tạo này rất lâu, lâu đến mức không thể tính thời hạn là bao nhiêu cả, có thể là 10 năm, có thể là 15 năm cũng có thể là suốt đời mà lại cũng có thể ốm trong rừng rồi chết… Khi người ta đã có quyền mà thù hằn thì chỉ có một cách là chịu đựng mà chung sống với sự thù hằn đó, nếu mình không đủ sức chung sống thì mình chết thôi chứ không có cách gì mà gỡ lại được, thì bây giờ để người vợ trẻ như thế ở nhà chờ mình, chờ mình đến bao giờ đây mặc dù đã có hai con mà tuổi thì đã 35, 36 tuổi mà bây giờ chờ chồng đến bao giờ, chờ chồng đến già à? Thế là anh định đóng vai kịch như thế, một vai kịch tàn nhẫn không chịu tiếp muốn gì thì gì và đuổi về, đi lấy chồng đi, tôi không yêu cô nữa, tôi không còn tình nghĩa gì nữa, tôi sẽ không trở về cái nhà ấy nữa, đấy là một vở kịch anh cố tạo ra để cho chị Thoa có thể hiểu nhầm rằng anh phẫn chí rồi, anh hỏng rồi thì thôi có lẽ mình chẳng có thể chờ anh ấy được thì phải đi bước nữa thôi để mà tìm người tốt nào đấy, để nuôi được hai đứa con chứ bản thân một mình mình bây giờ đã nuôi thân lại còn nuôi hai đứa con nữa mà với cái đồng lương hơn 40 đồng bạc thế này. Thành ra tôi cũng chịu, tôi bảo “chắc là anh cũng buồn bã, phẫn chí một tí thế thôi chứ sao anh không thương chị được, thì thôi chị chứ kiên nhẫn, nếu mà lần sau lên mà anh từ chối thì chị cứ nói với ban quản giáo là xin cho chị ở đấy hầu hạ các phạm nhân cũng được miễn là gặp được chồng, chị cứ kiên nhẫn đi rồi thì anh cũng phải nản lòng, anh phải cho chị gặp, đã cho chị gặp rồi thì dần dần lấy lại được bình thường”. Thế thì chị Thoa cũng nghe tôi, thì độ một tháng sau chị lại được phép lên, chị lại mang lên, có cái lần này chị mang lên cái thật tốt mà ít thôi, không đem nặng lắm và chị xin bằng được để gặp anh ấy, và quả nhiên chị nghe tôi chị mới xin với quản giáo cho tôi ở lại đây, cho tôi một chỗ ngủ để tôi gặp chồng tôi bằng được mặc dầu chồng tôi không muốn tiếp, xin ban quản giáo hiểu cho là anh đang đau khổ quá thế thôi, xin ban quản giáo thông cảm tôi đi xa mà người thì yếu đuối mảnh dẻ như thế này. Thế là ban quản giáo người ta nghĩ cũng ái ngại, người ta cho chị ở lại đâu hai ngày, thế thì lần sau ông Phùng Cung có ra tiếp nhưng mà anh chỉ cho nửa tiếng thôi, anh bảo không tôi chỉ nói chuyện với cô nửa tiếng, anh vẫn làm ra cái vở kịch đó, và anh nói thật: Tôi đi thế này cái tội của tôi nó to lắm thì khó mà về được sớm, em thì còn trẻ mặc dầu đã có hai con nhưng còn trẻ, nhà thì lại nghèo, em cần có chỗ dựa nào đó, mà chỗ dựa tốt, tìm gặp một người nào thật tốt em lấy người ta đi để vừa có chỗ dựa cho mình vừa có thể nuôi được hai con, em cứ nuôi hai con giúp anh, còn bao giờ anh về thì chưa thể nói được mà có thể là không bao giờ về cả, cố làm thế nào để hai đứa con trưởng thành, tôi chỉ ngồi nói chuyện nửa tiếng tôi đi vào chứ không thể ngồi lâu được, thế thì gặp nửa tiếng cũng được rồi. Chị Thoa kể: “Ối giời ơi! suốt nửa tiếng em chỉ khóc, thậm chí em quì xuống chân anh em khóc, thôi anh đừng nghĩ ngợi gì, đã bị như thế này thì cố mà làm việc trong trại cho nó có kỷ luật thế nào cũng có ngày về, em thì dù túng thiếu thì vẫn cứ yên tâm chờ anh, thế nhưng Phùng Cung vẫn cứ kiên quyết: “Không, em đi về lấy chồng đi! Em đi lấy chồng nghe tin thế anh vui được chứ không để em như thế này thì anh không thể nào mà chịu nổi đâu”.Chị Thoa người mảnh dẻ, chị đẹp nhưng mảnh dẻ, rõ ràng trông yếu lắm, một cơn gió lạnh có thể bay. Thế thì anh thương quá cho nên anh cố tình làm cho chị chán đi, nhưng chị thì ngược lại, chị không giận gì anh cả, không chán nản mầ vẫn kiên nhẫn tiếp tế cho chồng hàng tháng, tháng nào chị không được tiếp chị vẫn xin với ban quản giáo cho ở lại bằng được. Thế quả nhiên như thế độ ba lần sau thì bấy giờ anh Cung mới trở lại cái âu yếm bình thường của hai vợ chồng thì chị có thể ở với anh được đến ngày hôm sau vì ban quản giáo ở đấy cũng tốt, người ta cho phép vì đường xa mà đi bộ như thế thì cứ nói đi từ rừng mà ra ga Lao Cai thì phải sáng sớm là dậy rồi, đi mãi đến tối mới ra tới Lao Cai được, thế nếu có chuyến tàu tối thì về chuyến tàu tối mà nếu nhỡ thì phải ngủ trọ sáng hôm sau mới về Hà Nội được.
Anh bị giam như thế là 12 năm đằng đẵng ở trong rừng không thấy ánh nắng mặt trời chỉ biết có ngày có đêm thế thôi ,chứ còn ngày nào cũng như ngày nào, cứ thấy mờ mờ ở trong rừng thế thôi, đến nỗi khi ra anh kể chuyện với tôi, sau một thời gian khá lâu, đến lúc anh ra được ngoài đường ngoài cái rừng ấy rồi thì nhìn trời nhìn đất đến nỗi anh như bị mê sảng, người như lạc cả hồn đi, nhìn một mảng trời xanh nhìn dãy núi xa xa, cây cối anh như bị mê hoặc, nó lạ như thế, không biết vào thế giới nào đây, tại sao lại có thế giới này.
Cái hôm anh mới về, vợ chồng tôi xuống thăm, đó là năm 1972 là B52 đang đánh Hà Nội đúng trong khoảng 12 ngày đêm thì anh được về, anh về thì thấy Hà Nội nó vắng ngơ vắng ngắt, đường phố thì đèn báo động, đèn phòng thủ cho nên tối lờ mờ, về đến nhà thì cửa lại khóa không biết vợ con sơ tán ở đâu, hàng xóm láng giềng cũng đi sơ tán hết chỉ có mỗi một con bé con nào đấy nó chỉ bảo “Đi sơ tán hết, có gì thì phải đến sáng mai thì mới nhắn được” thì anh phải ngủ ngoài hiên đêm hôm ấy và dự cả trận B52. Đến hôm tôi và bà vợ tôi xuống thăm thì trong ánh sáng tối mờ mờ của gian phòng đó, chị khóc chị gọi “anh Cung ơi, anh Cầm với chị Yến xuống thăm mình đây này” thì tôi chưa nhìn thấy anh đâu cả mà không phải mắt tôi cận thị chỉ có cái phòng ấy tối tối, tôi không biết anh ấy đứng đâu mà chị Cung chị lại gọi, gọi “anh Cung ơi” thì hóa ra, một lúc tôi định thần lại, thì anh đứng trong góc nhà đấy thôi, đứng bên cạnh cái tủ nhà vẫn có cái tủ chè, anh đứng ngay cạnh tủ chè sát trong góc kề bức tường đến lúc tôi mới nhận ra thì thật sự như tôi nhìn vào bóng ma, trời ơi! Người anh nhợt nhạt và anh nói thều thào thều thào như là một người sắp chết, nói mà tôi phải hết sức lắng tai nghe, tôi phải hỏi lại chị “Cô Thoa ơi! anh ấy nói gì đấy, chú ấy nói gì đấy”. Chính chị Thoa cũng nói “em chả nghe rõ đâu, nhưng ý của anh là anh rất vui được trông thấy anh chị xuống thăm thì em chỉ nhìn mồm em đoán thế thôi chứ anh không nói rõ đâu”. Tôi chạy lại ôm hai cánh tay anh, ôm vai anh, nước mắt mình cũng rưng rưng, thương vô cùng mà người thì đúng như một hồn ma, gầy gò, sờ thì thịt nhão ra, đi đứng thì cứ lần lần từng bước, nói thì không nói một câu nào cho nó gãy gọn, cho nó ra lời, cứ thì thào thì thào thôi, mình hiểu được thế nào thì hiểu tùy mình. Cả bà Yến cũng khóc, hai bà phụ nữ đều ôm nhau khóc vì thương anh quá, thế thôi, thương quá mà các bà phụ nữ thì lại mau nước mắt. Tôi thì chỉ rơm rớm nghĩ mà thương bạn và cái ân hận là mình đã dăng cái bài ấy nó càng dày vò mình, tại mình anh mới thế này nếu tôi không đăng bài đó vào Nhân Văn số hai thì có lẽ không làm sao cả, thế mới đau, đó là một cái nghịc lý mà bây giờ tôi không biết là tôi nên đứng về phía nào. Bây giờ cho tôi đặt một chữ “nếu” thì xin các bạn nếu đã hiểu chuyện này rồi qua lời tôi kể lại thử đặt xem tôi nên đứng về phía nào nếu có chứ “nếu” nha, nếu như tôi không đăng bài ấy vào số hai thì sao? Và nếu như thế thì anh Phùng Cung không làm sao hết, anh vẫn làm việc như một nhân viên bình thường ở cơ quan làm như thế nào, các bạn thử nghĩ trả lời hộ tôi xem thử, nếu có phép gì cho tôi chọn lại việc đó.
Đến độ 4, 5 năm sau thì anh lấy lại thăng bằng trong người và anh làm thơ, tập thơ “Xem Đêm” của anh là có giá trị như tôi đã phê bình trên báo mà phê bình trên báo là tôi chỉ mới nói qua loa thôi chứ chưa nói được kỹ bởi vì nếu nói kỹ thì cũng sợ đụng chạm, thế thì bài đó ông Nguyễn Hữu Đang ông dám nói là bài hay nhất của tôi từ xưa đến nay kể cả vượt tất cả những bài sáng tác, vượt cả “Kiều Loan” vượt cả “Lá Diêu Bông” “Bên Kia Sông Đuống” ông Đang dám khẳng định như thế bởi vì ông thích quá, ông thích bài tôi ca ngợi Phùng Cung ở trong “Xem Đêm”,
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.