Hoàng Trúc Ly
Tên thật: Đinh Đắc Nghĩa
(1933 - 1983)
Bình Định
Hưởng dương 50 tuổi
Nhà thơ
Hoàng Trúc Ly (1933-1983) tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1933 tại Bình Định. Sau khi đậu bằng tú tài Pháp, ông đã ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao lâu thì bỏ học vì không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng đường. Ông mất vì tai nạn giao thông khi đang băng qua đường vào ngày 23 tháng 12 năm 1983 tại Sài Gòn.
Thơ Hoàng Trúc Ly có nhiều bài sáng tạo mang sắc thái tuyệt mỹ, xuất thần với những ngôn ngữ, thi ảnh tinh khôi, đầy rung cảm, trữ tình và tiềm tàng ý niệm huyền học, triết học.
Phạm Công Thiện đã phát biểu: "Thơ Hoàng Trúc Ly có ma lực kỳ quái của những câu phù chú. Đối với Hoàng Trúc Ly, ngôn ngữ hãy còn mới tinh. Mỗi chữ đều mang một linh hồn, mỗi chữ là một sinh vật. Tôi gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ lớn, là nhà thơ bậc thầy của thi ca hiện đại".
Tác phẩm tiêu biểu: tập thơ duy nhất "Trong cơn yêu dấu" (1963) và một số thi phẩm khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí, tập san ở miền Nam Việt Nam.
CẢM ĐỀ THƠ HOÀNG TRÚC LY
- Tam Ích -
Mỗi một cuộc chiến tranh đều gây nhiều đổ vỡ lớn và nhỏ. Đồng thời nó kết thúc một số vấn đề và đưa lên thảm xanh một số vấn đề… Nó làm một việc khác nữa: vạch ra một biên giới – biên giới vừa làm tiêu chuẩn để mọi người tính sổ thời đại, vừa làm vị trí cho mọi người từ đó nhìn trước và nhìn sau. Nhìn sau coi những gì đã xong đi những quá trình… nhìn trước coi những gì sắp ra đời, sắp có mặt…
Trạng thái ấy có thể nói về văn nghệ nữa – về thơ chẳng hạn…
Thơ có khi như gấm vóc: gấm vóc Á đông với tất cả những màu sắc cổ truyền thấp thoáng những màu sắc mới – mơ hồ, kín đáo, thoả mãn thị giác của những người đương hoài niệm và cũng đương hướng thượng… Đó là chuyện đã qua…
Thơ có khi là những thử thách nhiều hứa hẹn mà tương lai chờ đợi: một chân trời mới, một chân trời lạ. Muốn cho người đương thời và người đời sau khỏi lẫn sau và trước trong thời gian, và bộc lộ tính chất đối kháng của cá tánh con người thời đại muốn li khai với quá khứ, thi nhân hiện đại gọi thơ họ là thơ tự do… Đây là chuyện bây giờ…
Vì vậy, bên này và bên kia biên giới có những người nhìn một số người – đồng thời đương định vị trí cho người và cho mình trong thi giới. Cũng có khi họ quên ý thức về vị trí của mình, của người, vì chiến tranh thường kết thúc mà cũng thường xoá thứ tự…
Có lẽ mọi thứ tự, mọi sự còn mất, mọi sự nên chăng trong văn nghệ sẽ ngã ngũ trong những giáo đường văn học. Nhưng đôi khi những giáo đường văn học trong lịch sử lại dựng lên ngoài tầm cân nhắc và tính toán của thông minh… hoặc sớm quá mà bỏ sót, hoặc trễ quá nên dư…
Nhưng – cũng lạ! – lại có người: một người thôi… một vài người thôi… làm thơ hay mà không kể đến sự có mặt của biên giới thời gian: biên giới không vạch được đường chân trời mà cũng mất tính chất một tiêu chuẩn. Nói một cách khác: thơ họ hay trong thời gian, thơ họ từ chối sự nghiệt ngã của sổ kế toán lịch sử, từ chối thế lực… xuyên tạc của danh từ…
Một trong vài người đó là Hoàng Trúc Ly.
Đọc thơ Ly, người ta không hiểu Ly có vị trí bên Hàn Mặc Tử với nhiều mẫu tượng trưng của Xuân Diệu, Huy Cận cũ – hay Ly có vị trí đặc biệt bên một vài nhà thơ tự do nổi tiếng nhất hiện thời.
Và thơ lục bát của Ly sẽ làm Nguyễn Bính chẳng hạn ngạc nhiên lắm: một bút pháp mới, một nhạc tính mới, kể cả một dân tộc tính mới – một thứ gấm vóc từ những chân trời xa lạ Á đông rất mới đượm một hương vị trừu tượng táo bạo của nhạc tính Âu tây đầy màu một nghìn lẻ… một hương vị siêu thực… xưa và bây giờ.
Nhà thơ ấy – xin nhắc lại – tên là Hoàng Trúc Ly. Nhà thơ ấy đã có mặt, đương có mặt, sẽ có mặt… Người thanh niên trí thức ấy một sớm từ chối vài cơ hội tiến thân thông thường… để say mê làm thơ và “giang hồ mê chơi quên quê hương”.
Thiên hạ sao, Ly vậy: khóc cho thân phận, khóc cho con người của riêng mình, của chung mình, khóc suốt đêm dài, đằng đẵng, không khô ráo…
Và một thiên tài trưởng thành đương đòi vị trí xứng đáng của mình trong thi giới hiện đại.
Hoàng Trúc Ly chưa làm khác, cũng chưa làm khác, vẫn chưa làm khác… Và kiên tâm.
Tôi thường nói về Ly rằng Ly còn trong tâm hồn một-cái-gì-đương… chưa vỡ: portent en lui un “abcès” qui devrait crever! Ngày nào có sự đổ vỡ trong tâm hồn con người ấy, chúng ta sẽ thấy một người đi một giai đoạn dài nữa trong văn thi giới. Ngày đó, nước mắt sẽ khô ráo: Ly sẽ chịu đựng thân phận mình, thân phận người. Rất can đảm. Ô Sisyphe!
Tôi tin thơ Ly lại sẽ có một nhạc tính mới nữa, và sẽ làm mọi người ngạc nhiên.
Hình như Baudelaire nói rằng đối tượng của văn nghệ là làm cho mọi người… nhạc nhiên. Le but essential de l’oeuvre-d’art est d’étonner… Ý của Baudelaire là như vậy.
Hoàng Trúc Ly đã và đang làm mọi người ngạc nhiên. Họ Hoàng sẽ còn làm mọi người ngạc nhiên – ít nhất là một lần nữa – về thiên tài của mình.
Tôi dùng danh từ “thiên tài” không dè dặt chút nào. Ly vốn khiêm tốn; nhưng cách đây gần mười năm, một trong những người bạn đường văn nghệ đầu tiên của Ly – là tôi – là người có quyền hãnh diện với chính mình, và hãnh diện cho cả văn và thơ hiện đại.
(Đọc tại Đài Phát thanh Sài Gòn, tháng 12 năm 1962)
Tác phẩm đã xuất bản:
1
Trong cơn yêu dấu
(thơ, NXB Hướng Dương, 1963)
2
Tiếng hát lang thang
(1967
3
Huyền sử một kiếp hoa
(1967)
4
Trạng Quỳnh
5
-Từ em đến anh-
6
Truyện truyền kì Việt Nam
7
Cổ tích Việt Nam
8
Người lớn từ biệt trẻ con
Thơ
1
Áo hoa phơi
Long lanh từng giọt trắng da trời
Bàn tay rất trắng áo hoa phơi
Mỗi lần nắng trắng em phơi áo
Vô tình phơi nắng cả hồn tôi.
Đời còn kẹp tóc tuổi trăng tròn
Miệng còn ngọt sữa lúa đang non
Mềm môi em thở hương lùa nhạc
Ngày sẽ dài như một nụ hôn.
Đường vào quên lãng cõi người ta
Vừng trán tôi nhăn trước tuổi già
Áo nắng hoa phơi ngoài thiên hạ
Ngày sẽ mờ như mộng chảy qua.
Đâu bàn tay sữa đọng da trời
Người yêu áo mỏng nắng thu phơi
Van em một nụ hôn thơm nhạc
Từ tay lên môi còn xa xôi.
Đường xa như từ tay lên môi
Xa hơn chân mây hơn mặt trời
Áo hoa thấp thoáng người thiên hạ
Ngày sẽ đêm đen lửa tắt rồi.
2
Bên tê sông
Đêm nay chở hồn ra Huế
Nghe ngàn thông reo mùa Trọng Thể
Lời xuân gọi gió quạt mênh mông
Đỉnh Ngự trăng treo dải yếm hồng.
Nhịp hò khoan trải trên sông
Mái chèo khua nhạc phiêu bồng thuyền trôi
Trăng đêm mưa gió sụt sùi
Hồi chuông Linh Mụ chôn vùi hồn ta.
Ai về Gia Hội
Với bóng trăng tà
Ai qua Thành Nội
Xa vút lan xa
Theo dòng còn chảy tiếng ca
Hát lên rung động canh gà sương khuya
Miệng cười gió thổi
Ôi mái tóc thề
Ngày đi mộng mị người về
Trên sông
Ạ ơi thuyền xuôi nước
Ạ ơi nước xuôi dòng.
3
Cõi nghìn trùng
Mai mốt em về, em về đâu?
Con sông nước chảy trắng chân cầu
Tiếng hát già nua người bạn cũ
Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau
Ngoài kia trời mưa buồn không em
Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm
Thương nhau ái ngại tìm đôi mắt
Chưa biết đêm nào thức trắng đêm
Mái tóc em bồng bềnh bể khơi
Áo mỏng vì em nằm đây nhớ đời
Chiêm bao nửa giấc trời mưa bụi
Thấp thoáng em về như lá rơi...
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng phổ nhạc thành bài hát Bên kỷ niệm.
4
Cơn mê
Có phải vì em đang gỡ tóc
Cho mây từng sợi rối chân chim
Có phải hoa bay đầy cánh bướm
Vì em khua gió áo bay lên
Ôi mới hôm nào như hôm qua
Tay ai bùa phép nắm đôi ta
Như nắm mùa đông hơ ngọn lửa
Cho tuyết đầu non chảy máu ra
Ôi mới hôm nào như hôm kia
Con đường chở nặng những đêm khuya
Cho nên bóng tối bay thành khói
Ánh mắt mờ sương lạc lối về
Ôi có hôm nào là hôm nay
Anh ghen vì gió đã choàng vai
Em đi như vẽ trên đường nắng
Em nói như đàn trong miệng ai
Anh là dòng sông mê chín suối
Em là mặt trăng thèm mặt trời
Cách trở bốn mùa vây trái đất
Còn nghe chua xót thuở nào nguôi
Nguồn: Mười hướng sao (thi tuyển của 10 tác giả), Nhân Chứng xuất bản, 1971
5
Gởi người em
Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người em nhỏ bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi?
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa xưa thao thiết nắng hoe thềm
Lòng trong đã trắng tình nguyên thuỷ
Nghe bước xuân về êm quá êm
Em lắng tai đâu?... Chiều lững lờ
Thơ tôi vừa hát khúc ban sơ
Lòng chưa tội lỗi mà vô cớ
Bỗng muốn gục quỳ bên tuổi thơ
Em là em - tôi có là tôi?
Dù nghĩa thời gian ngăn cách rồi
Tôi đứng bên này lưu luyến quá
Những người em nhỏ của tôi ơi!
1953
Nguồn: Phạm Thanh, Thi nhân Việt Nam hiện đại, NXB Sống Mới, 1959
6
Mùa xuân nằm mộng thấy Tam Ích
Người về cát bụi như giun dế
Hồn gặp linh hồn không nói năng
Người quàng khăn đỏ như em bé
Trong truyện thần tiên bị sói ăn
Tôi hôn khô héo bờ môi chết
Da thịt mồ hoang không máu tươi
Nắm tay tê tái bàn tay chết
Áo khói sương khuya hỡi dáng người
Tôi thấy người nhìn le lói quá
Ánh trăng vừa rụng một hồn ma
Tôi biết người cười chua xót quá
Vui đời, ai nhắc bạn hôm qua?
Trừng mắt đau theo chân người đi
Lòng nghe vô tận một chia ly
Xiết bao ngày tháng căm căm nhớ
Buồn dựng ngang mày một tử thi.
7
Mưa chiều nay
Mùa mưa nghe trời ướt mắt xanh
Gió thổi mưa xưa hờn kinh thành
Hôm nay lưu luyến về bên ấy
Em lạnh lùng không khi nhớ anh
Ngày quen em phượng nở môi son
Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn
Từ mang ly biệt vào năm tháng
Thao thức cho bằng mấy núi non
tranh Đinh Cường
Trong cơn yêu dấu
Tập thơ
(1963)
1
Tự thán
Đời biết anh là kẻ hào hoa
riêng gởi anh lời tao nhã
sao em không mê anh?
Đời biết anh là kẻ tình si
riêng gởi anh niềm chung thủy
sao em không hôn anh?
Đời biết anh là kẻ quyền uy
riêng gởi anh hồn thi sĩ
sao em không quỳ bên anh?
Nguồn: Hoàng Trúc Ly, Trong cơn yêu dấu, Nxb Hướng Dương, 1963
2
Ca sĩ
từ em tiếng hát lên trời
tay xao dòng tóc, tay vời âm thanh
sợi buồn chẻ xuống lòng anh
lắng nghe da thịt tan tành xưa sau
trời em tiếng hát lên từ
âm ba tóc rối lững lờ vòng tay
áo dài lùa nắng vào mây
dấu chân hồng nhạn rụng đầy gió sương
(nghĩ về tỳ bà hành)
mùa xuân còn gì thưa em?
sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
cô đơn đỉnh núi gần trời
nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh
3
Hành trình
1.
tôi nay đi giữa hoang đường
niềm đau thân thể tuổi buồn hai vai
giật mình nước mắt tương lai
ngày qua và tiếng thở dài xuống thu
2.
toa xe cửa khép khung trời
người đi môi đỏ run lời tiễn đưa
tóc dài xõa mộng ngày xưa
vết thương kỷ niệm bây giờ lại đau
3.
khuya đi dù biết về đâu
nghiêng vai còn mãi tiếng sầu vọng âm
đường xưa trải nhớ nhung thầm
ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời
4.
qua đây từng giọt buồn phiền
mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời
bãi hoang cồn dựng bể khơi
xuôi tay xuống gởi miệng cười mộng du
5.
tôi ơi tôi mãi tôi còn
trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân
nhớ gì vết cỏ bàn chân
lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu
4
Đối thoại
đêm tàn rồi em ngủ bên anh
tình yêu là chim non
và người yêu vừa mọc cánh
em là người yêu em là tình yêu
khi tình yêu đang là chim non
người yêu bắt đầu mọc cánh
chim chắp cánh chim nhớ trời xanh
nhớ trời xanh và em quên anh
đêm tàn rồi không thấy trời xanh
chim bay về đâu em không biết
5
Đêm
thành phố lên đèn chiều thứ bảy
anh chết vì yêu em
đêm vũ trường khép mở
buồn ơi rát cổ giọng kèn
dải lầu cao che kín mặt trời
ban ngày không nắng sưởi
đèn đỏ đèn xanh bưng bít cuộc đời
ban đêm không trăng soi
xin vỗ tay đưa tiễn giọng kèn
thành phố lên đèn chiều thứ bảy
thành phố tắt đèn sáng thứ hai
6
Chắp nối
Thái Bình Dương Thái Bình Dương sóng vỗ
tôi thương tôi nhớ là đây
ôi máu người hòa nước mắt trời mây
tim biển cả bao giờ nguôi thổn thức?
tôi nghe bao la
nghìn năm mây trắng quyện Hồng Hà
vết sẹo linh hồn trong lịch sử
rượu Đường Thi mềm môi Trang Tử
đêm Á châu huyền diệu trăng sao
cánh sen bừng nở
một sớm hoa đào...
mùa đông hè phố cũ
tuổi tình yêu ban đầu
em ơi em về đâu?
ân tình đi rải rác
còn chi một nhịp cầu
hai mùa duyên chắp nối
ngàn xưa qua ngàn sau
là nghĩa đời lên ve vuốt quá
người yêu ơi! mấy thuở mong chờ
chín mươi dòng chữ bằng thanh sắc
7
Gặp người em
Những người xưa đi rồi không về nữa
Một mình anh lại gặp một mình em
Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm
Em cúi mặt mắt buồn ươn ướt đỏ
Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi
Đời anh lạnh lùng bốn hướng gió và mưa
Ta lạc nhau từ em còn bé nhỏ
Anh thương em câm nín đến bao giờ
Bởi vì đâu da em xanh giá rét?
Nắng rưng vàng lên mái tóc mồ côi
Ngày giặc giã quê hương mình mỏi mệt
Mười năm qua hình ảnh có ngậm ngùi
Nhà anh nghèo, anh đau tim anh yếu phổi
Em bềnh bồng, anh phiêu lãng về đâu
Không dĩ vãng cho đêm dài đợi sáng
Không mai sau cho nước chảy qua cầu
Em bảo anh người đi không trở lại
Nấm mồ ai như giọt lệ chưa tan
Ngọn gió nào mang anh vào mộng mị
Em giang hồ làm tiếng hát lang thang
Ta đến bên nhau sao chùng bước mỏi
Lời sắp xé môi sao bỗng nghẹn lời
Anh nhớ em: núi cao càng hiu hắt
Anh thương em: máu vọt bốn phương trời...
8
Về xuân
bây giờ ngày mai chưa đến
và những ngày xưa qua đi
thơ anh là thuyền nhớ bến
đố em thuyền cập bến gì?
bây giờ mùa xuân sẽ đến
trên môi trên má em hồng
lửa ở lòng anh lạnh quá
làm sao sưởi ấm mùa đông
em có còn đau nét mặt
những đêm mưa đạn trắng rừng
em có vàng hoe nước mắt
những hoàng hôn khóc rưng rưng
anh sẽ viết lời thương nhớ
trên môi trên má em hồng
anh sẽ si tình trọn kiếp
ơi mùa gạo chợ nước sông
thơ anh là thuyền nhớ bến
đố em thuyền cập bến gì?
bây giờ mùa xuân sẽ đến
trên môi trên má em hồng
lửa ở lòng anh lạnh quá
làm sao sưởi ấm mùa đông
em có còn đau nét mặt
những đêm mưa đạn trắng rừng
em có vàng hoe nước mắt
những hoàng hôn khóc rưng rưng
anh sẽ viết lời thương nhớ
trên môi trên má em hồng
anh sẽ si tình trọn kiếp
ơi mùa gạo chợ nước sông
9
Hàng cây bên đường
người yêu tóc xõa tròn vai
nửa đêm da thịt quên cài áo khuya
xác thân rã mục lời thề
mùa đi lá rụng đường về xuân thu
người yêu tóc xõa tròn vai
nửa đêm da thịt quên cài áo khuya
xác thân rã mục lời thề
mùa đi lá rụng đường về xuân thu
10
Lá hoa duyên
1.
xin em dừng lại môi mềm
giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu
tay xuôi mười ngón rụng sầu
xa nhau năm tháng cúi đầu nhớ nhau
2.
về đâu hoa nở má hồng
mùa xuân tiếng nhạc nửa vòng tay ôm
với em xa cách thêm buồn
trời cao bóng nhỏ dặm buồn chân đi
3.
mùa này em lắng tai đâu?
hoàng hôn có nghĩa là màu nhớ nhung
cô đơn tiếng gọi nửa chừng
áo em trắng quá ngập ngừng vòng tay...
4.
ra về tiếng hát thuỳ duyên
lời ru sầu muộn con đường tình duyên
thôi em người bệnh tàn dần
ngủ yên hơi thở hai lần hồi sinh
5.
nhìn lên cửa khép lầu cao
bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
về đêm khuya khoắt nhớ thương
mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng ngang
11
Tiếp theo và hết
anh sẽ bình yên mà chờ đợi từ đau thương ấy đến bây giờ
từ mùa xuân rụng trên vừng trán
có phải tên người yêu là Thơ?
hay là, hay là, hay là, ai?
trong em: thú vật và thiên thần
anh mơ thượng đế khi yêu dấu
thể xác linh hồn không nói năng
anh sẽ vì em anh sẽ yêu
hai tháng hai năm hai buổi chiều
khi ngất ngư rồi anh sẽ chết
nhớ gì như nhớ bóng người yêu
và còn các anh còn các em
hoa ngón tay còn níu tóc thề
dâng em tất cả ôi hoàng hậu
ta biết còn gì trong cuộc mê?
12
Nhìn
cô dâu đêm tân hôn
trong vòng tay chú rể
trong tình yêu trong sức khỏe
nhìn lên
ngực mẹ căng tròn hai vú sữa
lời ru lênh đênh
giấc mơ trẻ dại
nhìn lên
xa nhà người trai
không cơm ăn không nước uống
nhìn về ngày mai
gục xuống
13
Đường tình
tháng chín ban mai cười gió thổi
đêm đêm rưng lệ nguyện cầu
lòng tôi không muốn khóc
nước mắt có gì đâu?
từ lớn khôn rồi yêu không dám nói
dạ chỉ bồi hồi lòng chỉ sắt se
hình ảnh người em mái tóc quên thề
cát bụi chìm chân nhỏ bé
ngày mẹ thương con ngày con nhớ mẹ
tôi có bao giờ tôi còn trẻ thơ
giọt nước mắt chưa hề được khóc
những tiếng nói chưa hề được nói
tôi có bao giờ là tôi-muôn-năm?
anh đi nắng đậm bờ anh
em ơi đau đứt ruột
hai bàn tay tù đày
đã đi rồi anh muốn nhảy anh muốn bay
cho khăng khít nhịp chân trời đất
mộng vừa nghiêng mắt
quê em ngày đẹp vàng son
đường xa mờ nhảy múa núi non
ơi những cô mình bàn tay sữa đọng
khi gió mùa lên ngực vừa căng mọng
đa tình đuổi bướm lang thang
sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng
anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá
nghe mến thương như thời gian phép lạ
rót vào ta từng giọt sữa... xưa kia
anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa
và anh đi
qua bóng ngày hấp hối
đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối
ngại ngùng mái lá mưa khuya
em ơi đau đứt ruột
hai bàn tay tù đày
đã đi rồi anh muốn nhảy anh muốn bay
cho khăng khít nhịp chân trời đất
mộng vừa nghiêng mắt
quê em ngày đẹp vàng son
đường xa mờ nhảy múa núi non
ơi những cô mình bàn tay sữa đọng
khi gió mùa lên ngực vừa căng mọng
đa tình đuổi bướm lang thang
sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng
anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá
nghe mến thương như thời gian phép lạ
rót vào ta từng giọt sữa... xưa kia
anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa
và anh đi
qua bóng ngày hấp hối
đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối
ngại ngùng mái lá mưa khuya
14
Chứng tích
gởi vì sao khuya cô độc đêm đêm rưng lệ nguyện cầu
lòng tôi không muốn khóc
nước mắt có gì đâu?
từ lớn khôn rồi yêu không dám nói
dạ chỉ bồi hồi lòng chỉ sắt se
hình ảnh người em mái tóc quên thề
cát bụi chìm chân nhỏ bé
ngày mẹ thương con ngày con nhớ mẹ
tôi có bao giờ tôi còn trẻ thơ
giọt nước mắt chưa hề được khóc
những tiếng nói chưa hề được nói
tôi có bao giờ là tôi-muôn-năm?
15
Tuyệt bút
mai này tôi chết đi
Cho mây từng sợi rối chân chim
Có phải hoa bay đầy cánh bướm
Vì em thay áo mái tây hiên
Ôi mới hôm nào như hôm qua
Tay ai bùa phép nắm đôi ta
Như nắm mùa đông hơ ngọn lửa
Cho tuyết đầu non chảy máu ra
Ôi mới hôm nào như hôm kia
Con đường chở nặng những đêm khuya
Cho nên bóng tối bay thành khói
Ánh mắt mờ sương lạc lối về
Ôi có hôm nào là hôm nay
Anh ghen vì gió đã choàng vai
Em đi như vẽ trên đường nắng
Em nói như đàn trong miệng ai
Anh là dòng sông mơ chín suối
Em là mặt trăng thèm mặt trời
Cách trở bốn mùa vây trái đất
Còn nghe đau xót thuở nào nguôi?
nằm nghe hồn cô độc
trời chiều không nói năng chi
em ơi sao em không khóc
mai này tôi chết đây
vì sao em không khóc
vết thương mửa máu tôi nào hay
như xế chiều nay như sáng nay
tôi viết từng trang tuyệt bút
mai này tôi chết đây
nắng ơi trời ơi nắng
nửa đêm sáng quá tôi nào hay
mùa xuân vừa nguôi cay đắng
xin rũ tóc dài lên gối trắng
người yêu nằm mộng thấy tôi về
xin gọi tên tôi dù xa vắng
thịt da người ánh lửa tình khuya
mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi
mai này tôi chết đi
em bé mười lăm năm tóc xoã xuân thì
đời lên mấy vạn lần nhan sắc
đau đớn vô cùng đêm biệt ly
trời chiều không nói năng chi
em ơi sao em không khóc
mai này tôi chết đây
vì sao em không khóc
vết thương mửa máu tôi nào hay
như xế chiều nay như sáng nay
tôi viết từng trang tuyệt bút
mai này tôi chết đây
nắng ơi trời ơi nắng
nửa đêm sáng quá tôi nào hay
mùa xuân vừa nguôi cay đắng
xin rũ tóc dài lên gối trắng
người yêu nằm mộng thấy tôi về
xin gọi tên tôi dù xa vắng
thịt da người ánh lửa tình khuya
mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi
mai này tôi chết đi
em bé mười lăm năm tóc xoã xuân thì
đời lên mấy vạn lần nhan sắc
đau đớn vô cùng đêm biệt ly
16
Hoàng Lan
Có phải vì em đang gỡ tóc Cho mây từng sợi rối chân chim
Có phải hoa bay đầy cánh bướm
Vì em thay áo mái tây hiên
Ôi mới hôm nào như hôm qua
Tay ai bùa phép nắm đôi ta
Như nắm mùa đông hơ ngọn lửa
Cho tuyết đầu non chảy máu ra
Ôi mới hôm nào như hôm kia
Con đường chở nặng những đêm khuya
Cho nên bóng tối bay thành khói
Ánh mắt mờ sương lạc lối về
Ôi có hôm nào là hôm nay
Anh ghen vì gió đã choàng vai
Em đi như vẽ trên đường nắng
Em nói như đàn trong miệng ai
Anh là dòng sông mơ chín suối
Em là mặt trăng thèm mặt trời
Cách trở bốn mùa vây trái đất
Còn nghe đau xót thuở nào nguôi?
17
Gọi một mình
Bếp lửa nhà ai lên khói sương
Người yêu mường tượng mắt u buồn
Buổi chiều rét mướt vào chăn gối
Sao em không về tôi mến thương?
Thơ mà huyền hoặc núi non ơi!
Lửa thép cuồng lên giữa mộng đời
Qua thoáng qua rồi mơ ước cũ
Máu nghẹn đôi đường vơi lệ vơi...
Em ơi! Vì sao em vô tình
Anh ơi! Vì đâu anh lặng thinh
Đây chớm thu về đau đớn lắm
Tôi gọi hồn tôi gọi một mình
Từ buổi so le đến lứa đôi
Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời
Tôi thương tôi nhớ, tôi thương nhớ
Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?
Người yêu mường tượng mắt u buồn
Buổi chiều rét mướt vào chăn gối
Sao em không về tôi mến thương?
Thơ mà huyền hoặc núi non ơi!
Lửa thép cuồng lên giữa mộng đời
Qua thoáng qua rồi mơ ước cũ
Máu nghẹn đôi đường vơi lệ vơi...
Em ơi! Vì sao em vô tình
Anh ơi! Vì đâu anh lặng thinh
Đây chớm thu về đau đớn lắm
Tôi gọi hồn tôi gọi một mình
Từ buổi so le đến lứa đôi
Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời
Tôi thương tôi nhớ, tôi thương nhớ
Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?
18
Nằm mộng thấy nữ sinh
tặng HOA của trăm hoa
Ta từ giấc mộng bước gần em
Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm
Ô hay con gái bay nhiều quá
Hai cánh tay mềm như cánh chim
Như cuống của hoa như cội của cành
Em đến bao giờ là em của anh
Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả
Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh
Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương
Vai áo hào hoa tê tê bụi đường
Ra đi ta đắp lên sông núi
Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương
Ta từ giấc mộng bước gần em
Đường phố đầy trăng hay mặt trời chìm
Ô hay con gái bay nhiều quá
Hai cánh tay mềm như cánh chim
Như cuống của hoa như cội của cành
Em đến bao giờ là em của anh
Thôi đã vô cùng cô liêu bóng cả
Như chim xa rừng tội nghiệp rừng xanh
Tuyệt mù giấc mộng mỏng như sương
Vai áo hào hoa tê tê bụi đường
Ra đi ta đắp lên sông núi
Trời rộng sông dài nỗi nhớ thương
19
Nhân dạng
Nhân dạng
Tôi còn yêu cho biển còn xanh
Mây còn bay cho chim chấp cánh
Ngựa què rồi em cỡi lưng anh
Tôi cứ yêu, khốn nạn, cứ cười
Chim cứ bay cho mây gãy cánh
Em chết rồi ai ám sát tôi
20
Môi giới
Tên em:
Xin mời em chối bỏ tên anh
Vì tên em là cuộc đời
Ba\. Bảy. Năm. Tám. Sáu\.
Hai\. Bốn. Chín. Mười\. Mười\.
Con số có tên kiếp người có tuổi
Anh già rồi chối bỏ tên anh?
Hai chân:
Xin mời em đạp lên số mệnh của anh
Vì chân em là nhịp bước
Anh rớt lại rất thèm tới trước
Xin mời em
Răng:
Xin mời em cắn vào lưỡi anh
Vì răng em là giọt sương
Sớm mai mở mắt sương chưa tan
Nên răng em chưa thành giọt lệ
Xin mời em
Môi:
Xin mời em ghì sát môi anh
Vì môi em là âm nhạc
Em mở môi ra
Mùa xuân cựa mình múa hát
Hai tay:
Xin mời em tát vào mặt anh
Vì tay em là hoa lá
Chút ơn cuối cùng xin lễ phép nơi em
Miệng:
Xin mời em cười lên dốt nát của anh
Vì miệng em là ánh sáng
Anh đui mù giữa tha ma dĩ vãng
Xin mời em
Tóc:
Xin mời em thắt chặt cổ anh
Vì tóc em là sợi dây xiết cổ
Anh le lưỡi ra giã từ đau khổ
Xin mời em, mời em!
21
Vĩnh Biệt
Rồi mai khởi sự xa đời
Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm
Trăng sao bốc cháy chỗ nằm
Áo xanh mây lá vết bầm núi non
Chuyến xe trăm tuổi đưa người nghìn năm
Trăng sao bốc cháy chỗ nằm
Áo xanh mây lá vết bầm núi non
22
Mật ong
Lối cũ cô liêu niềm gió thoảng
Cỏ gai sướt nhẹ dấu chân mềm
Thèm đau một chút da con gái
Cho máu xuân đời dậy sóng lên
Chim biết đường về mái ngói cong
Tôi quên không được má em hồng
Bên nhau nhìn trộm chim trai gái
Hơi thở người xưa ngọt mật ong
Sáng soi tiếng sáo thổi đêm dài
Mùa rụng cành sương trắng ghé vai
Cho em rẽ tóc dòng sông lẻ
Mộng thả trôi thuyền như mắt ai
Ô hay! Hạnh phúc mờ tay vẫy
Cho vội mười năm bóng nhạt nhòa
Cơn mê tôi vẽ bằng lưu luyến
Trong lòng bạc xóa cõi người ta
Đặng Tiến
HOÀNG TRÚC LY,
NỤ CƯỜI TRONG VÀ ĐÔI MẮT SÁNG
Bìa Trịnh Cung
Không có gì dễ, và không có
gì khó, bằng vẽ chân dung một nhà thơ. Lý do giản dị là thi nhân
không có chân dung.
Thi sĩ chỉ là một tiếng nói,
thay âm độ qua từng giây phút và chuyển hóa không ngừng mỗi lần
đến với chúng ta. Vẽ lại khuôn mặt của người thơ là tạo ra giữa
không gian mênh mông những tiếng rì rào chung quanh tâm hồn và
đôi khi phải vẽ thêm niềm im lặng giữa chiều sâu ý thức.
Mỗi câu thơ mang mùi hương,
đến với chúng ta một lần để không bao giờ trở lại; mỗi bài thơ
là một âm điệu lướt đi, lướt đi, về vĩnh viễn. Vẽ lại mùi hương
đã thoảng qua, âm điệu đã chìm trong tiềm thức, ôi có gì dễ, ôi
có gì khó cho bằng!
Tôi sắp sửa làm một công việc
phù du, dùng chiếc cọ vô hình để vẽ lên không trung một khuôn
mặt chưa bao giờ có thật: khuôn mặt nhà thơ Hoàng Trúc Ly
(1933–1983). Tôi bắt đầu vẽ ngay nụ cười, một nụ cười khoan
dung, chấp nhận, lúc nào cũng hiền hòa giản dị, nhưng lúc nào
cũng xa vắng, mênh mông như từ bên kia cuộc đời gửi lại. Tôi sẽ
vẽ thêm đôi mắt trong xanh và cái nhìn cũng hiền hòa, dịu dàng
như nụ cười, đôi mắt vuốt ve, lưu luyến. Tôi sẽ ngưng lại ở đây,
vì thi sĩ Hoàng Trúc Ly chỉ gửi vào thi ca có đôi mắt và nụ cười
trong sáng, e ấp quan niệm sống, phản chiếu một ý thức nghệ
thuật sau những ngập ngừng dò dẫm suốt hơn mười năm sáng tác.
Ở cỡ tuổi ngoài hai mươi
Hoàng Trúc Ly đã tự chọn ngừng lại trước ngưỡng cửa công danh (hiểu
theo nghĩa thông thường): chàng không muốn đi sâu vào đời, chỉ
mến yêu những hè phố về khuya. Quyết định phản lệ ấy đẩy chàng
xa gia đình, lại một cái cớ để chàng đi dọc bên lề cuộc đời, cho
đến khi tai nạn dồn dập đôi lần suýt đẩy Hoàng đến bờ cõi chết.
Nhưng rồi chàng không chết… Trở lại cuộc đời, Hoàng Trúc Ly cho
in tập thơ đầu: Trong cơn yêu dấu.
Thi phẩm đầu tay này không
mang dấu vết thơ của tuổi hoa niên. Nhưng chúng ta sẽ dò thăm ấu
thời của thi ca Hoàng Trúc Ly bằng cách lục lại các tạp chí cách
đây tám, chín năm. Muốn dò thăm tương lai thơ của chàng, ta sẽ
đọc qua đôi bài thơ Hoàng đang chuẩn bị xuất bản trong tập thơ
sau. Sau khi tìm hiểu tâm hồn, quan niệm sống của thi nhân, ta
sẽ nhìn qua kỹ thuật một nhà thơ, những đại lộ tôi muốn mời
người đọc cùng giẫm chân lên.
Tôi xin đóng vai trò giới
thiệu, vì người giới thiệu có quyền hạn rộng hơn người phê bình,
ví dụ như có quyền chủ quan, nhìn vào cái hay trong khi đợi chờ
thử thách của thời gian.
Có e dè chăng nữa, là trên
đời, không có hai người cùng đọc một bài thơ được đến hai lần.
Lần sau, một lớp cát mỏng sẽ phủ nhẹ lên lớp phù sa còn đọng lại
sau lần thứ nhất. Như thế, mỗi bài thơ dưới mắt mỗi người là một
bài thơ riêng, duy nhất, chỉ đọc một mình và chỉ đọc một lần.
Đọc thơ, là cùng cô đơn với
thi nhân, một loại "cô đơn hai người" ấm áp. Vì Hoàng chỉ lo
phải cô độc một mình:
"Bước chân người thơ đôi
khi hấp tấp quá, đến sớm quá và lịch sử mới chớm nở: cô độc. Đôi
khi đến trễ quá và lịch sử đã qua một quá trình trưởng thành: cô
độc. Đôi khi họ đến trong thời kỳ mà người viết sử với thi nhân
như chưa gặp bao giờ: cô độc. Và bao nhiêu bỡ ngỡ, bao nhiêu dồn
ép khiến họ mặc cảm như mình đang lạc địa dư, lầm thế kỷ… Bởi vì
đã đi trước… Bởi vì đã đi sau. Và dù đi sau hay đi trước, vẫn
chỉ đi một mình."
(Hoàng Trúc Ly, trích bài tựa
tập Khát vọng của Chế Vũ)
TRƯỚC CƠN YÊU DẤU
Những vần thơ trẻ dại của
Hoàng Trúc Ly mang hình ảnh quê hương tơi bời lửa đạn. Hoàng
Trúc Ly xuất thân từ một gia đình công chức nhưng hồi cư hơi
muộn. Hoàng phải chạy giặc một thời gian quá lâu. Hình ảnh nhàu
nát của quê hương như in vết hằn trên tâm tưỏng, nhất là khi quê
hương lại là miền Trung nghèo khó.
Những vần thơ bình yên, trong
sáng nhất của Hoàng Trúc Ly cũng ngậm ngùi. Tình yêu quê hương
thường thể hiện qua hình bóng một cô gái, do đó, đằm thắm, thiết
tha…
Gió lạnh mười năm lạnh lắm
rồi
Vườn dâu cô gái hái dâu ơi!
Quê hương xa lắm dòng sông lạnh
Lẩy bẩy chiều mưa bến lạnh người
Xóm xóm nhà ta
Nhớ buổi hoa bay bừng nắng hạ
Môi em thơm mãi gió giang hồ
Áo thêu màu lá xanh như lá
Nhịp lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô
Giờ đã mấy mùa thu lã chã
Đã mấy mùa thu vèo lá bay
Thương kẻ một đi là tất cả
Năm năm sông nghẹn sóng lưu dày
Ôi một mùa thu đẹp mắt huyền
Em về vui hội lá hoa duyên
Quê xưa tang tóc tàn đi hết
Trong ánh trăng này mộng ngủ yên
Vườn dâu cô gái hái dâu ơi!
Quê hương xa lắm dòng sông lạnh
Lẩy bẩy chiều mưa bến lạnh người
Xóm xóm nhà ta
Nhớ buổi hoa bay bừng nắng hạ
Môi em thơm mãi gió giang hồ
Áo thêu màu lá xanh như lá
Nhịp lướt nhịp nhàng vai nhấp nhô
Giờ đã mấy mùa thu lã chã
Đã mấy mùa thu vèo lá bay
Thương kẻ một đi là tất cả
Năm năm sông nghẹn sóng lưu dày
Ôi một mùa thu đẹp mắt huyền
Em về vui hội lá hoa duyên
Quê xưa tang tóc tàn đi hết
Trong ánh trăng này mộng ngủ yên
(“Tình Đầy,” trích toàn bài)
Ấu thời chìm trong khói lửa
không để lại trong tác phẩm Hoàng Trúc Ly những hơi thở cuồng
nhiệt của cuộc sống. Tâm hồn ông, hồi trẻ dại đã có khuynh hướng
bình tĩnh, và chậm chạp gạn lọc những âm vang từ cuộc đời dội
đến. Sau này, khuynh hướng ấy lại thể hiện rõ rệt hơn, như niềm
chua xót của Hoàng Trúc Ly từ thuở xa xưa đã biết thở dài im
lặng.
Chừng đây ai hát nữa
Tâm sự hướng về đâu
Thu xưa xa lắm và vui lắm
Trăng nước chưa qua một nhịp cầu
Tâm sự hướng về đâu
Thu xưa xa lắm và vui lắm
Trăng nước chưa qua một nhịp cầu
… Một đi là hết cả
Thế hệ chen hàng đôi
Nghiến răng cứa mạch sầu lưu thủy
Nghe lửa bùng lên tiếp mặt trời.
Thế hệ chen hàng đôi
Nghiến răng cứa mạch sầu lưu thủy
Nghe lửa bùng lên tiếp mặt trời.
(“Gởi mùa thu”)
Dấu vết tàn nhẫn của chiến
tranh là phân tán ý thức. Những chia ly, mất mát thường đào hố
sâu trong tình cảm, chứa chất bao đắng cay, và thời gian không
bao giờ lấp nổi. Những vần thơ không sặc sụa mùi máu lửa, nhưng
có khi là chứng tích sâu xa nhất của chiến tranh:
Chia tay rồi đau đớn gì
không?
Nửa đêm nước mắt chảy trong lòng
Vu vơ khói thuốc buồn ghê lắm
Mấy đuốc sao chìm ngang núi sông
Ơi ới xuân nào tươi ngoài kia
Nhà ai cửa khép gió không về
Người bên chân trời đánh giặc mướn
Ta theo cuộc đời đi viết thuê
Thương ai như người xưa ngày xưa
Thoáng bóng vàng bay ngỡ bóng cờ
Ba thu tận túy mềm yên ngựa
Quán trọ hồ trường nghiêng gió mưa
Lời sao nhầy nhụa sao tanh máu
Tương tư chí lớn cánh tay gầy
Tình sao sặc sụa mùi cơm áo
Số kiếp nào lên sương muối đây?
Chia tay rồi mơ ước gì không?
Đường xa hiu hắt nhớ nhau cùng
Mai về đất kể duyên thành thị
Tự bước chân đi đời trổ bông.
Nửa đêm nước mắt chảy trong lòng
Vu vơ khói thuốc buồn ghê lắm
Mấy đuốc sao chìm ngang núi sông
Ơi ới xuân nào tươi ngoài kia
Nhà ai cửa khép gió không về
Người bên chân trời đánh giặc mướn
Ta theo cuộc đời đi viết thuê
Thương ai như người xưa ngày xưa
Thoáng bóng vàng bay ngỡ bóng cờ
Ba thu tận túy mềm yên ngựa
Quán trọ hồ trường nghiêng gió mưa
Lời sao nhầy nhụa sao tanh máu
Tương tư chí lớn cánh tay gầy
Tình sao sặc sụa mùi cơm áo
Số kiếp nào lên sương muối đây?
Chia tay rồi mơ ước gì không?
Đường xa hiu hắt nhớ nhau cùng
Mai về đất kể duyên thành thị
Tự bước chân đi đời trổ bông.
(“Tiễn,” trọn bài)
Bài “Gió Lúa” trích nguyên vẹn sau đây, tượng trưng cho ý thức
một thanh niên sống trong đọa đày của hoàn cảnh; ở đây, tình yêu
quê hương vừa trong sáng vừa nhầy nhụa xen lẫn vào tình huynh đệ
rách nát vẫn còn thiết tha, u uất. Hoàng Trúc Ly luôn luôn
nghiêng về tình cảm, ở đây ảm đạm, thê lương. Chiến tranh không
tàn nhẫn bằng những gì còn lại sau chiến tranh. Những đổ vỡ
trong xã hội không là gì so với sự nhàu úa của linh hồn bên dưới
đống tro tàn, gạch vụn:
Tôi thương người anh không
biết khóc
Đêm nay nước mắt lại lưng tròng
Một vạn đầu trai bồng tóc gió
Sống là tất cả chết là xong
Mùa hè máu nhuộm lòng đất đỏ
Huyết phượng não nùng mấy núi sông
Mùa thu máu chảy bời bời đó
Sông Thương một giải, lệ đôi dòng
Đất ơi!
Tôi nhớ hương đồng
Hanh hanh men rạ nghe lòng quặn đau
Từ bến sông đời dậy lửa
Gió đưa mây trắng rượi sầu
Thương em chiều xưa mắt nhắm
Yếm đào chưa buộc lòng nhau
- Nhớ về thôn bản
- Nắng ngọt bờ cau
Bốn mùa biển lúa nương dâu
Câu ca nguyện ước miếng trầu trăm năm
- Thương về thôn bản
Chừ dây gió lạnh trăng thầm
Qua rồi buổi ấy vàng hoa cải
Cánh nhạn lờ đờ không tiếng tăm
Nhớ đêm ly biệt buồn không nói
Sông nước mang mang lòng lạnh lòng
Một vạn đầu trai bời tóc gió
Cười lên nửa tiếng đau ba đông
Mà thương người anh không biết khóc
Đêm nay sao nước mắt lưng tròng?
Đêm nay nước mắt lại lưng tròng
Một vạn đầu trai bồng tóc gió
Sống là tất cả chết là xong
Mùa hè máu nhuộm lòng đất đỏ
Huyết phượng não nùng mấy núi sông
Mùa thu máu chảy bời bời đó
Sông Thương một giải, lệ đôi dòng
Đất ơi!
Tôi nhớ hương đồng
Hanh hanh men rạ nghe lòng quặn đau
Từ bến sông đời dậy lửa
Gió đưa mây trắng rượi sầu
Thương em chiều xưa mắt nhắm
Yếm đào chưa buộc lòng nhau
- Nhớ về thôn bản
- Nắng ngọt bờ cau
Bốn mùa biển lúa nương dâu
Câu ca nguyện ước miếng trầu trăm năm
- Thương về thôn bản
Chừ dây gió lạnh trăng thầm
Qua rồi buổi ấy vàng hoa cải
Cánh nhạn lờ đờ không tiếng tăm
Nhớ đêm ly biệt buồn không nói
Sông nước mang mang lòng lạnh lòng
Một vạn đầu trai bời tóc gió
Cười lên nửa tiếng đau ba đông
Mà thương người anh không biết khóc
Đêm nay sao nước mắt lưng tròng?
***
Sở dĩ khi gợi lại những cảnh
thảm khốc kéo dài hơn mười năm trẻ dại, Hoàng Trúc Ly vẫn
giữ được giọng nói hiền dịu, đằm thắm là nhờ được nuôi dưỡng
trong một tình mẫu tử dịu dàng và thắm thiết.
Thuở nhỏ, Hoàng là một cậu bé
thông minh và khiêm tốn, nhẫn nại mà kín đáo, sôi nổi nhưng tế
nhị, Hoàng đã ấp ủ mãi trong lòng bàn tay dịu hiền của người mẹ
suốt đời hy sinh vì con. Có thể nói trong số sáu anh em, Hoàng
Trúc Ly là người giống mẹ nhiều nhất, Hoàng Trúc Ly đã níu kéo
cuộc đời trên tay người mẹ.
Trong thời loạn lạc, hình ảnh
của mẹ già khổ hạnh đã in sâu vào ký ức Hoàng những kỷ niệm
nghẹn ngào:
Bao nhiêu mắt biếc bao
nhiêu mộng đời,
Mái gục vườn hoang hãi hùng đạn lửa
Ngực mẹ từ khô nguồn vú sữa
Tay gầy mòn mỏi
Tình tang khúc hát lênh đênh.
Mái gục vườn hoang hãi hùng đạn lửa
Ngực mẹ từ khô nguồn vú sữa
Tay gầy mòn mỏi
Tình tang khúc hát lênh đênh.
(“Giấc ngủ”)
Hoàng Trúc Ly rất kín đáo và
không bao giờ gửi gấm rõ ràng một giai đoạn nào của đời tư vào
tác phẩm. Nhưng ông đã dành trọn vẹn một bài thơ về hiền mẫu.
Bài thơ giản dị và thắm thiết, như tiếng líu lo của một con chim
non giúi đầu vào ngực mẹ. Âm thanh như lùa vào nhau. Khi rộn
ràng, nơm nớp như tiếng nói của trẻ thơ, khi lại lắng chìm như
tâm hồn một kẻ trưởng thành trong tủi cực bỗng xa lánh đời để
trở về trút đau thương trên vai mẹ:
Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ
Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ
Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ
Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến
Vằng vặc sương khuya sao trời cầu nguyện
Một ngọn đèn xa… lệ nến hai hàng
Biết mấy u buồn chảy xuống trần gian
Không khóc vội nửa đêm về mẹ
Bếp lửa nhà ai má hồng em bé
Tôi thương lời hình ảnh người xưa
Tình mẹ là đây mắt mẹ lệ mờ
Tôi có bao giờ còn tôi bé nhỏ
Ai đã qua rồi quá nhiều đau khổ
Ngày ngày dân tộc u uất hờn xây
Làng ta đó tơi bời lá đổ
Chiều nhà quê nơm nớp lệ vơi đầy
Lưng chừng tưởng nhớ đàn chim trắng
Ôi khát khao khi nắng hoa đào!
Biết mấy nụ cười hiền hậu trăng sao
Không nói hết nửa đêm về mẹ
Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ
Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ
Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến
Vằng vặc sương khuya sao trời cầu nguyện
Một ngọn đèn xa… lệ nến hai hàng
Biết mấy u buồn chảy xuống trần gian
Không khóc vội nửa đêm về mẹ
Bếp lửa nhà ai má hồng em bé
Tôi thương lời hình ảnh người xưa
Tình mẹ là đây mắt mẹ lệ mờ
Tôi có bao giờ còn tôi bé nhỏ
Ai đã qua rồi quá nhiều đau khổ
Ngày ngày dân tộc u uất hờn xây
Làng ta đó tơi bời lá đổ
Chiều nhà quê nơm nớp lệ vơi đầy
Lưng chừng tưởng nhớ đàn chim trắng
Ôi khát khao khi nắng hoa đào!
Biết mấy nụ cười hiền hậu trăng sao
Không nói hết nửa đêm về mẹ
(“Nửa đêm về Mẹ,” trọn bài)
Ngày mẹ thương con ngày
con nhớ mẹ
Tôi có bao giờ còn tôi trẻ thơ
Tôi có bao giờ còn tôi trẻ thơ
(“Chứng tích”)
Ngợi ca tình mẫu tử cũng là
một lối trở về lại thiên đường xanh của ấu thời man dại. Luyến
tiếc ấu thời không những là ước mơ mảnh hạnh phúc nhỏ bé đong
đưa trong chuỗi ngày vô tư lự, nhưng còn là luyến tiếc thế giới
trong sáng đang hiến dâng cả chiều sâu cho nhãn trường nhân
loại. Ngây thơ biết ngạc nhiên, biết tin tưởng, biết mến yêu,
biết tổng hợp. Trẻ thơ là kẻ ở gần nguồn, có lẽ trong Phúc âm
không có lời nào đáng ngạc nhiên bằng câu nói về trẻ con: “Nếu
các người không trở thành giống như những đứa trẻ này, các người
sẽ không được vào xứ Trời.”
Trong văn chương, xứ trời là
một vũ trụ thân ái và tươi mát luôn luôn nghiêng nguồn sinh lực
về phía con người, khi con người còn giữ được cái "khí hạo
nhiên" theo lời Mạnh Tử.
Hoàng Trúc Ly dưới đây, nhớ
trẻ thơ, nhưng kỳ thật, là nhớ hình ảnh của mình trong thời trẻ
dại bên kia khoảng cách của một dòng sông. Dòng sông tượng trưng
cho dòng thời gian chảy không ngừng và không bao giờ trở lại:
nước đi đi mãi không về cùng non…
Tôi đứng bên này bờ dĩ
vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người em nhỏ bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa xưa thê thiết nắng hoe thèm
Lòng trong đã trắng tình nguyên thủy
Nghe bước xuân về êm quá êm
Em lắng tai đâu… chiều lửng lơ
Thơ tôi vừa hát khúc ban sơ
Lòng chưa tội lỗi mà vô cớ
Bỗng muốn gục quỳ bên tuổi thơ
Em là em - tôi có là tôi?….
Dù nghĩa thời gian ngăn cách rồi
Tôi đứng bên này lưu luyến quá
Những người em nhỏ của tôi ơi!
(“Dĩ vãng,” trọn bài)
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người em nhỏ bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa xưa thê thiết nắng hoe thèm
Lòng trong đã trắng tình nguyên thủy
Nghe bước xuân về êm quá êm
Em lắng tai đâu… chiều lửng lơ
Thơ tôi vừa hát khúc ban sơ
Lòng chưa tội lỗi mà vô cớ
Bỗng muốn gục quỳ bên tuổi thơ
Em là em - tôi có là tôi?….
Dù nghĩa thời gian ngăn cách rồi
Tôi đứng bên này lưu luyến quá
Những người em nhỏ của tôi ơi!
(“Dĩ vãng,” trọn bài)
Trong thơ Hoàng Trúc Ly, rồi
đây ta sẽ còn bắt gặp nhiều lần đôi mắt luôn luôn điều tiết để
tạo cái nhìn trong suốt của trẻ thơ.
Bếp lửa nhà ai lên khói
sương
Người yêu mường tượng mắt u buồn
Xế chiều trang giấy nhòe tâm sự
Sao em không về tôi mến thương?
(“Gọi một mình”)
Người yêu mường tượng mắt u buồn
Xế chiều trang giấy nhòe tâm sự
Sao em không về tôi mến thương?
(“Gọi một mình”)
Có lẽ không có từ ngữ nào
diễn tả đầy đủ tình yêu của Hoàng Trúc Ly cho bằng chữ Mến
Thương: không bao giờ trong thơ Hoàng người đọc bắt gặp những
rạo rực cuồng bạo của xác thịt, cũng không có những đau thương
da diết vò xé linh hồn. Tình yêu nơi đây chỉ là nỗi niềm thương
nhớ mông lung dịu nhẹ. Trong ý thơ và trong lời thơ cũng như
trong không khí do hình ảnh và nhạc tính cấu tạo chung quanh một
bài thơ, chỉ có một ít u hoài mơ mộng:
Mai mốt
em về đâu?
Con sông nước chảy trắng chân cầu
Tiếng hát già nua người bạn cũ
Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau
Ngoài kia buồn không em
Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm
Thương nhau ái ngại tìm đôi mắt
Chưa biết đêm nào thức trắng đêm
Mái tóc em bồng bềnh bể khơi
Áo mỏng vì em nằm đây nhớ đời
Chiêm bao nửa giấc trời mưa bụi
Thấp thoáng em về như lá rơi…
Con sông nước chảy trắng chân cầu
Tiếng hát già nua người bạn cũ
Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau
Ngoài kia buồn không em
Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm
Thương nhau ái ngại tìm đôi mắt
Chưa biết đêm nào thức trắng đêm
Mái tóc em bồng bềnh bể khơi
Áo mỏng vì em nằm đây nhớ đời
Chiêm bao nửa giấc trời mưa bụi
Thấp thoáng em về như lá rơi…
(“Gửi người em,” trọn bài)
Thơ tình của Hoàng Trúc Ly
phảng phất ít nhiều chất "tình và mộng" của Lưu Trọng Lư, và gần
đây hơn, Quang Dũng. Thỉnh thoảng có thiết tha cũng chỉ nhẹ
nhàng như Verlaine.
Từ buổi so le đến lứa đôi
Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời
Tôi thương tôi nhớ tôi thương nhớ
Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?
Bao nhiêu mắt biếc lãng quên đời
Tôi thương tôi nhớ tôi thương nhớ
Nhân loại nỡ nào xa lánh tôi?
(“Gọi một mình”)
Tình yêu là một nhu cầu gần
gũi, nhưng nhu cầu ấy chỉ dừng lại ở những cảm giác êm ái, dịu
nhẹ thoảng qua. Đôi khi có cả âm điệu thân ái của tình huynh
muội:
Đời lê thê quá tôi về muộn
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
(“Em có là em”)
Sau những phút lo lắng cho
người yêu, thỉnh thoảng Hoàng Trúc Ly lại đợi chờ một cử chỉ âu
yếm, một lời nói ngọt ngào sưởi ấm những tháng ngày lạnh lẽo:
Những đêm dài heo hút
ngoại ô
Gác trọ vào thu gió thổi giang hồ
Thôn xóm hắt hiu ngại ngùng tiếng nói
Tôi ngủ một mình em không đến gọi
Chơi vơi bóng nhạn ân tình
(“Giấc ngủ”)
Gác trọ vào thu gió thổi giang hồ
Thôn xóm hắt hiu ngại ngùng tiếng nói
Tôi ngủ một mình em không đến gọi
Chơi vơi bóng nhạn ân tình
(“Giấc ngủ”)
Thì vẫn một lo lắng: em ngủ
một mình… Tôi ngủ một mình… Nhưng nhạc điệu ở đây mơ mộng, tình
cảm ở đây đằm thắm, người đọc phải vượt qua những mốc ái ân
thường tình để chia sẻ tình yêu với Hoàng. Không phải một lối
viễn ái lý tưởng người ta vẫn gọi là "platonique", cũng không
phải một thứ tình ngây thơ, trong trắng: vì cả hai loại tình cảm
ấy đều nảy sinh từ một hoàn cảnh bất lực. Trái lại khí hậu ân
tình trong thơ Hoàng Trúc Ly nồng nàn quá, đầm ấm quá, người đọc
không thể nghĩ đến hai loại tình cảm như của Lamartine với nàng
Graziella hay Madame Charles. Có thể nghĩ tới tình của
Baudelaire riêng với Marie Daubrun, nhưng trong thơ Hoàng Trúc
Ly phần nhục dục nhẹ nhàng hơn. "Luyến ái huynh muội", có lẽ chữ
ấy gần đúng… Sự thân ái vô cùng cảm động khi Hoàng Trúc Ly gửi
gấm đến người yêu nguyên vẹn khối cô đơn đang đè nặng lên linh
hồn:
Từng đêm từng đêm đời hấp
hối
Nghiêng tay xin vuốt mắt giùm nhau
Từng đêm từng đêm đời tội lỗi
Cắn răng xin nguyện khúc kính cầu
Từng đêm từng đêm từng đêm tối
Quên em còn biết nhớ ai đâu?
(“Bóng tối”)
Nghiêng tay xin vuốt mắt giùm nhau
Từng đêm từng đêm đời tội lỗi
Cắn răng xin nguyện khúc kính cầu
Từng đêm từng đêm từng đêm tối
Quên em còn biết nhớ ai đâu?
(“Bóng tối”)
Những lúc ngắc ngoải trong
môi giới của cõi chết, Hoàng Trúc Ly vẫn sợ phải “ngủ một mình.”
Buổi chiều rét mướt vào
chăn gối
Xót thương nhau tiếng khóc âm thầm
Mai kia tôi chết mồ hoang lạnh
Em có kìa em có ghé thăm?
(“Đau”)
Xót thương nhau tiếng khóc âm thầm
Mai kia tôi chết mồ hoang lạnh
Em có kìa em có ghé thăm?
(“Đau”)
Bài thơ trích trọn vẹn sau
đây mang khí hậu vừa ướt át vừa nồng thắm như một bếp lửa ân
tình trong đêm mưa gió; vừa mang tính chất mộng mị hoang đường,
xen vào những kỷ niệm u buồn chua xót; và phần âu yếm luôn luôn
vuốt ve hình ảnh "bé nhỏ người em gái". Nhịp điệu trầm buồn,
giản dị, thầm kín như những tia nhìn im lặng; nếu chỉ nói đến
nhạc tình, có lẽ không có bài thơ khúc nhạc nào êm dịu cho bằng,
kể cả "Vạn lý tình" của Huy Cận:
Mùa mưa nghe trời ướt mắt
xanh
Gió thổi mưa xưa hờn kinh thành
Hôm nay lưu luyến về hôm ấy
Em lạnh lùng không khi nhớ anh?
Ngày quen em phượng đỏ môi son
Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn
Từ mang ly biệt vào năm tháng
Thao thức cho bằng mấy núi non
Ôi một đời trai phụ sách đèn
Hoàng hôn rượu máu thấm hơi men
Tâm tư nghe nặng hờn sông biển
Cuối bãi đầu non sóng mắt huyền
Đời biết anh là kẻ quyền uy
riêng gởi anh hồn thi sĩ
sao em không quỳ bên anh?
Gió thổi mưa xưa hờn kinh thành
Hôm nay lưu luyến về hôm ấy
Em lạnh lùng không khi nhớ anh?
Ngày quen em phượng đỏ môi son
Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn
Từ mang ly biệt vào năm tháng
Thao thức cho bằng mấy núi non
Ôi một đời trai phụ sách đèn
Hoàng hôn rượu máu thấm hơi men
Tâm tư nghe nặng hờn sông biển
Cuối bãi đầu non sóng mắt huyền
Đời biết anh là kẻ quyền uy
riêng gởi anh hồn thi sĩ
sao em không quỳ bên anh?
Cũng có thể là thi nhân kiêu
hãnh, cái kiêu hãnh dĩ nhiên và chính đáng của người thơ bị xua
đuổi ra khỏi nền Cộng hòa nhưng vẫn được cẩn thận tròng lên một
vòng hoa theo đề nghị của Platon. Cái kiêu hãnh của bậc trích
tiên khi được tướng quốc cởi giày, mài mực như trường hợp Lý
Bạch. Anh là kẻ hào hoa, vâng, đời biết anh là một bậc Tư Mã áo
xanh rỏ lệ trên những ngón tỳ bà một đêm Giang châu trăng lạnh.
Anh là kẻ tình si, vâng, đời biết anh là một Nerval đi tìm cái
hôn hoàng hậu, từ bên này cuộc đời sang bên kia cõi chết. Anh là
kẻ quyền uy, vâng, thời cổ La Hy, thiên hạ gọi thi nhân là kẻ
mang tiếng nói của thần linh.
Nhưng niềm kiêu hãnh của
người thơ sẽ vĩnh viễn dừng lại nơi đây, trong địa lý mênh mông
của khoảng trống. Đời biết, nhưng đời vẫn lạnh lùng; bởi vậy
những kẻ hào hoa, tình si, quyền uy đã có lúc, đâu đó, trở thành
thi sĩ côn đồ, b, những Villon, Sade, Rimbaud. Và từ một đầu
lãnh giặc Châu Chấu đến một chòm sao sáng trong bảy chòm
Pleiade, những ngõ ngách thi ca dù có quanh co, sợi dây "ariane"
nào thiếu chiều dài.
Thơ thường là phần thặng dư
của tâm tư; lượng thặng dư tràn ra tình trạng thiếu dung tích.
Người con gái trước mặt Hoàng Trúc Ly có thể là một định mệnh
chưa đạt tới, cũng có thể là một nghệ thuật chưa hoàn tất . Thi
sĩ do đó, ý thức được vị trí cao độ của mình, vẫn đòi hỏi, mong
đợi:
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Nghệ thuật đạt đến đỉnh độ
thường cô đơn. Cô đơn gần như là đặc tính của nghệ thuật và của
thiên tài. Trong Hoàng Trúc Ly nỗi hoang mang kiêu kỳ của kẻ từ
cao nhìn xuống, phải chăng là ký hiệu của thơ ông trong tương
lai?
Đời biết anh là kẻ hào hoa,
và anh biết anh là kẻ hào hoa.
Trong thơ, Hoàng Trúc Ly luôn
luôn tỏ ra dịu dàng, lễ độ, đôi khi lễ độ một cách quá đáng,
ngay với người yêu:
Mùa xuân còn gì, thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
(“Ca sĩ II”)
Tình cảm Hoàng gói ghém kín
đáo, gần như là lời tỏ tình nhiều hơn là tình tự. Tao nhã trong
ngôn ngữ, tao nhã trong động tác:
Về đâu hoa nở má hồng
Mùa xuân tiếng nhạc nửa vòng tay ôm
Mùa xuân tiếng nhạc nửa vòng tay ôm
Hào hoa đến độ đỏm dáng;
không phải là làm dáng trong thi ca, nhưng trước cuộc đời, thi
sĩ muốn sống bằng nghệ thuật, đo lường cẩn thận những cử động
của mình như họa sĩ đắn đo từng vết cọ. Những cử động tạo trong
thơ Hoàng Trúc Ly một sinh khí sống động, náo nức, và những cử
động ấy lại tạo ra một trạng thái vừa tĩnh tại, vừa uyển chuyển
một vẻ đẹp hình thể (1)
tựa những tác phẩm điêu khắc của Hy Lạp:
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh
Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh
(“Ca sĩ II”)
Con người ưa cử động ấy là
một nhà thơ ưa xê dịch. Có thể nói Hoàng Trúc Ly là một thi sĩ
lang thang: động từ "đi" hiện diện trong gần nửa số bài của "Trong
Cơn Yêu Dấu".
Tôi nay đi giữa hoang
đường
Niềm đau thân thể tủi buồn hai vai
Niềm đau thân thể tủi buồn hai vai
(“Hành trình I”)
Ngoài ra còn nhiều chữ liên
hệ đến ý niệm đổi vị trí như: về, dừng lại, con đường, bàn chân…
dường như có thường xuyên trong thơ Hoàng Trúc Ly.
Và thơ ông bắt nguồn từ đại
lộ. Không phải là thơ mô tả, nhưng thi sĩ ưa ghi lại nhận xét,
suy tư, những cảm xúc, thường là êm đềm, dịu nhẹ qua những cảnh
bắt gặp trên vỉa hè cuộc sống. Tiếng tỳ bà có lẽ từ một mái lầu
khuya vọng lại, đưa ông trở về sống chơi vơi trên sóng nhạc Tầm
dương; hàng cây bên đường mời mọc ông trở lại với kỷ niệm tình
yêu; đôi mắt cô gái từ khung cửa sổ một đêm gọi ông về với những
nhớ thương vạn cổ.
Quang cảnh trong thơ Hoàng
Trúc Ly chỉ là cái cớ gợi cảm: tự nó, nó không có một giá trị
thẩm mỹ nào. Ngoại cảnh ở đây tầm thường, giản dị, không quy
định một vùng địa lý nào rõ rệt, cũng không ghi lại một khoảng
thời gian nào đích xác. Quang cảnh ở đây chỉ là giao tiếp giữa
nội tâm và ngoại giới. Hãy nghe Hoàng Trúc Ly tả một Hàng Cây
Bên Đường:
Người yêu tóc xõa tròn vai
Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya
Xác thân rã mục lời thề
Mùa đi lá rụng đường về xuân thu
Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya
Xác thân rã mục lời thề
Mùa đi lá rụng đường về xuân thu
Người đọc nghĩ đến ngay bức
họa khoả thân, và gần đây một họa sĩ khi triển lãm tranh đã
trích hai câu để dưới một bức họa loã thể. Hoàng Trúc Ly có thể
trách họa sĩ hiểu lầm, nhưng họa sĩ có thể trách Hoàng Trúc Ly
nhìn nhầm thiên nhiên. Có lẽ trong cái thế giới thực tế này mọi
người đều nhìn đúng, ngoại trừ thi sĩ. Và mọi người đều có lý,
trừ các nhà thơ. Nhưng chúng ta yêu mến cái nhầm của thi sĩ vì
họ nhìn khác chúng ta, họ cảm thông sự vật: có nhầm cũng phải là
giữa bằng hữu mới nhầm. Chúng ta là kẻ mắt tục, nhìn chỉ thấy bề
ngoài và không bao giờ hiểu hết kích thước của tạo vật. Thơ là
môi giới giữa người và tạo vật. Và người thơ là người linh thị.
Mô tả hàng cây bằng
hình ảnh nồng nàn da thịt là một biệt nhãn. Thơ Hoàng Trúc Ly là
một loại thơ thân xác. Xin phân biệt thơ thân xác(2) và thơ nhục dục(3)
theo gần đúng danh từ xưa kia Phạm Văn Ký đã dùng để gọi thơ Hàn
Mặc Tử, khi đề tựa tập Gái Quê. Hoàng Trúc Ly ghi nhận
nhiều cảm giác của cơ thể, nhưng không phải dục vọng:
Lắng nghe da thịt tan tành
xưa sau
(“Ca sĩ I”)
Xin gọi tên tôi dù xa vắng
Thịt da ngời ánh lửa tình khuya
Thịt da ngời ánh lửa tình khuya
(“Tuyệt bút”)
Cơ thể dường như nhắc
nhở với Hoàng Trúc Ly rằng mình đang sống. Trái tim, ngón tay,
bàn chân, mái tóc, đôi môi thượng chuyển lên tác giả những cảm
giác, rồi suy tư. Hoàng Trúc Ly thường xuyên lắng nghe cơ thể và
âu yếm với thân xác. Jean Pierre Richard, một nhà phê bình mới
của Pháp nói về anh em nhà văn Goncourt, đã gọi họ là "écrivain
épidermique"(4)
tưởng ta có thể gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ của xúc giác.
Hoàng Trúc Ly, nhà thơ hào
hoa, phong nhã, con người ưa xê dịch và ưa cử động, yêu ngoại
cảnh và yêu cơ thể, con người ấy, đối với cuộc đời có thái độ
của một người khách.
Ta hãy tìm hiểu tâm hồn
nghịch lữ ấy nhiều hơn dưới ánh sáng tình yêu…
***
Người khách ấy không phải là
khách lạ, gọi là khách quen chàng sẽ mỉm cười. Nhưng dù lạ hay
quen, Hoàng Trúc Ly cũng vừa thân mật, vừa lễ độ, vừa nồng nàn,
vừa xa cách.
Người yêu dưới mắt thi sĩ là
một nét đẹp, trừu tượng, mong manh. Hình ảnh người đàn bà ẩn
hiện trong ảo giác, giữa những phút xuất thần, khi Hoàng Trúc Ly
bắt gặp nghệ thuật, một thứ nghệ thuật hão huyền, chợt biến:
Từ mùa xuân rụng trên vừng
trán
Có phải tên người yêu là Thơ
Có phải tên người yêu là Thơ
(“Tiếp theo và Hết”)
Có khi người yêu là một tiếng
hát; nhưng tiếng hát ngọt ngào, cao vút lại gói trọn niềm u uất
của tâm tư. Trong tiếng hát mong manh, thi sĩ đã tiên cảm được
những ngày cơ thể tan biến thành âm thanh:
Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành xưa sau.
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành xưa sau.
(“Ca sĩ I,” trọn bài)
Có khi người yêu chỉ là tiếng
đàn, một tiếng đàn ướt át. Khi loang ra đại dương, khi bay vút
không trung, khiến thi nhân ngậm ngùi cho những linh hồn cao cả
nhưng cô đơn. Cô đơn như những âm thanh:
Mùa xuân còn gì, thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh.
(“Ca sĩ II,” trọn bài)
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Nghiêng vai xin khoác nụ cười áo xanh.
(“Ca sĩ II,” trọn bài)
Cũng có khi người yêu hiện
đến với thi nhân, nhưng Hoàng Trúc Ly ngại ngùng, không muốn ôm
thần tượng vào lòng, sợ nhiệt độ thân xác sẽ làm tan rã tấm thân
khói sương của lý tưởng:
Mùa này
em lắng tai đâu?
hoàng hôn có phải là màu nhớ nhung
cô đơn tiếng gọi nửa chừng
áo em trắng quá ngập ngừng vòng tay.
hoàng hôn có phải là màu nhớ nhung
cô đơn tiếng gọi nửa chừng
áo em trắng quá ngập ngừng vòng tay.
(“Lá hoa duyên,” II)
Phải chăng vì mặc cảm tội
lỗi, vì những dấu vết bùn nhơ do cuộc đời bốc lên mà Hoàng Trúc
Ly từ chối người yêu? Hay Hoàng muốn giữ mãi một thần tượng vô
hình như xưa kia Baudelaire đã từ chối Madame Sabatier? Hoàng
Trúc Ly đã chọn lựa xa cách:
Xin em dừng lại môi mềm
giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu
tay xuôi mười ngón rụng sầu
xa nhau năm tháng cúii đầu nhớ nhau
giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu
tay xuôi mười ngón rụng sầu
xa nhau năm tháng cúii đầu nhớ nhau
(“Lá hoa duyên,” I)
Hoặc có thể đã hơn một lần
chết đi sống lại, Hoàng Trúc Ly muốn nhìn tình yêu từ một biên
giới… Đã từng hấp hối trong cái ngắm nhìn hơn là cái dọc ngang
chinh phục:
Ra về tiếng hát thùy dương
lời ru sầu muộn con đường tình nhân
thôi em người bệnh tàn dần
ngủ yên hơi thở hai lần hồi sinh.
lời ru sầu muộn con đường tình nhân
thôi em người bệnh tàn dần
ngủ yên hơi thở hai lần hồi sinh.
(“Lá hoa duyên,” IV)
Quý hóa chăng nữa, chỉ có một
ít âm thanh sầu muộn sẽ theo đuổi con người xuống mồ hoang, sẽ
đưa tiễn con người về với biên giới của bóng tối. Tình yêu chỉ
là xa cách mông lung, đo bằng một nỗi nhớ nhung dằng dặc:
Với em xa cách thêm buồn
Trời cao bóng nhớ dặm mòn chân đi
Trời cao bóng nhớ dặm mòn chân đi
(“Lá hoa duyên,” III)
Trước tình yêu, người lữ
khách chỉ dừng lại để ra đi, để mang theo ít nhiều lưu luyến,
tủi hờn. Hoàng đã từng đứng dưới một mái lầu cao, một đêm mưa,
để nhìn lên hình ảnh người phụ nữ "chảy" xuống thành thơ:
Nhìn lên cửa khép lầu cao
bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
về đêm khuya khoắt nhớ thương
mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng ngang
(“Lá hoa duyên,” IV)
bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
về đêm khuya khoắt nhớ thương
mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng ngang
(“Lá hoa duyên,” IV)
Hoàng Trúc Ly lại ra đi,
rồi anh lại ra đi như đã đến (thơ Hoài Khanh) nhưng sẽ vĩnh
viễn mang theo ký hiệu cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Và ở đâu, chàng
cũng nhìn thấy bóng dáng người yêu: mắt em ở bốn phương trời
(thơ Vũ Hoàng Chương).
Qua đây từng giọt buồn
phiền
Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời
Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời
(“Hành trình,” IV)
Tình yêu là phút im lặng
nhiều hơn lúc tự tình. Hoàng chuộng khoảng cách của không gian
và của âm thanh, khoảng im lặng trong ý nghĩa và trong cảm giác:
Anh mơ thượng đế khi yêu
dấu
Thể xác linh hồn không nói năng
Thể xác linh hồn không nói năng
Những lời cầu nguyện trong
giáo đường thiêng liêng vì không bao giờ được đáp lại bằng ngôn
ngữ.
Tình yêu thiêng liêng là
những khoảng im lặng bên nhau.
***
"Trong Cơn Yêu Dấu"
còn giữ ít nhiều cảm hứng xa xăm: một quê hương êm ả thấp thoáng
bên kia hình ảnh một người con gái, nhưng quê hương ở đây là kỷ
niệm xa xôi, thức dậy trong tiềm thức sau những đau buồn, tủi
cực của hiện tại. Quê hương là nỗi hoài mong, nơi trú ẩn, niềm
an ủi trong trí tưởng tượng. Thi sĩ tựa hồ như muốn níu kéo
những tháng ngày đã mất, muốn dùng những ảo tưởng quá khứ để
khỏa lấp đau thương hiện tại:
Tháng chín ban mai cười
gió thổi
anh đi nắng đậm xanh bờ
em ơi đau rứt ruột
hai bàn chân tù đày
đã đi rồi anh muốn nhảy muốn bay
cho khăng khít nhịp chân trời đất
mộng vừa nghiêng mắt
quê em ngày đẹp vàng son
đường xa mờ nhảy múa núi non
ơi những cô mình bàn tay sữa đọng
khi gió mùa lên ngực vừa căng mộng
đa tình đuổi bướm lang thang
sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng
anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá
nghe mến thương như thời gian phép lạ
rót vào tai từng giọt sữa… xưa kia
anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa
và anh đi
qua bóng ngày hấp hối
đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối
ngại ngừng mái lá mưa khuya.
anh đi nắng đậm xanh bờ
em ơi đau rứt ruột
hai bàn chân tù đày
đã đi rồi anh muốn nhảy muốn bay
cho khăng khít nhịp chân trời đất
mộng vừa nghiêng mắt
quê em ngày đẹp vàng son
đường xa mờ nhảy múa núi non
ơi những cô mình bàn tay sữa đọng
khi gió mùa lên ngực vừa căng mộng
đa tình đuổi bướm lang thang
sớm mai nào bên bông lúa trẻ măng
anh nghe tiếng đời kêu quen biết quá
nghe mến thương như thời gian phép lạ
rót vào tai từng giọt sữa… xưa kia
anh nằm nhay vú mẹ mà mắt đầm đìa
và anh đi
qua bóng ngày hấp hối
đại lộ cuộc đời buồn như ngõ tối
ngại ngừng mái lá mưa khuya.
(“Đường tình,” trọn bài)
Người đọc thấy rõ là đề tài
quê hương đã bị vượt qua. Nhãn tuyến trong bài thơ đã xóa nhòa
màu sắc địa phương. Những nhận xét về ngoại cảnh thân yêu dường
như đã chìm lắng, chỉ còn một ít xao xuyến trên diện tích của ký
ức; và qua diện tích ấy, Hoàng Trúc Ly nhìn ngoại cảnh bằng đôi
mắt trong sáng hơn.
Tình quê hương đã bừng nở
thành một ý thức vị trí. Cương giới sẽ mở rộng: thi sĩ biết tâm
hồn mình không chỉ nuôi dưỡng bằng màu xanh của bãi sắn, nương
dâu, mà còn bằng màu trắng của những cánh hoa sen bên bờ sông
Hằng, bằng men rượu bồ đào nồng thắm bên kia sông Dương Tử, bằng
cả màu đỏ những cánh hoa đào dưới chân Phú Sĩ sơn. Ngần ấy sắc
hương sẽ ướp mãi trang giấy của thi ca không biên thùy để phát
triển những tình cảm nhân đạo chàng hằng nuôi dưỡng trong tâm
hồn. Sông Hồng, Sông Hằng hay sông Dương Tử cũng sẽ đổ về một
bài thơ mang trọn vẹn âm thanh rào rạt của Thái Bình Dương:
Thái Bình Dương Thái Bình
Dương sóng vỗ
tôi thương tôi nhớ là đây
ôi máu người hòa nước mắt trời mây
Tim biển cả bao giờ nguôi thổn thức!
tôi nghe bao la
nghìn năm mây trắng quyện Hồng Hà
vết sẹo linh hồn trong lịch sử
rượu Đường Thi mềm môi Trang Tử
đêm Á châu huyền diệu trăng sao
cánh sen bừng nở
một sớm hoa đào…
mùa đông hè phố cũ
Tuổi tình yêu ban đầu
Em ơi em về đâu?
Ân tình đi rải rác
Còn chi một nhịp cầu
Hai mùa duyên chắp nối
Ngàn xưa qua ngàn sau
Là nghĩa đời lên ve vuốt quá
Người yêu ơi! mấy thuở mong chờ
Chín mươi dòng chữ bằng thanh sắc
Bừng sáng lưng trời ngọn lửa thơ.
(“Chắp nối,” trọn bài)
tôi thương tôi nhớ là đây
ôi máu người hòa nước mắt trời mây
Tim biển cả bao giờ nguôi thổn thức!
tôi nghe bao la
nghìn năm mây trắng quyện Hồng Hà
vết sẹo linh hồn trong lịch sử
rượu Đường Thi mềm môi Trang Tử
đêm Á châu huyền diệu trăng sao
cánh sen bừng nở
một sớm hoa đào…
mùa đông hè phố cũ
Tuổi tình yêu ban đầu
Em ơi em về đâu?
Ân tình đi rải rác
Còn chi một nhịp cầu
Hai mùa duyên chắp nối
Ngàn xưa qua ngàn sau
Là nghĩa đời lên ve vuốt quá
Người yêu ơi! mấy thuở mong chờ
Chín mươi dòng chữ bằng thanh sắc
Bừng sáng lưng trời ngọn lửa thơ.
(“Chắp nối,” trọn bài)
Một ý thơ bàng bạc trong thi
phẩm là hình ảnh những lần chết dở:
Đường xưa trải nhớ nhung
thầm
Ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời
Ngôi sao yểu mệnh căm căm cuối trời
"Trong Cơn Yêu Dấu" đã
từ giã người đọc bằng một trang "Tuyệt Bút". Hy vọng là sau
trang tuyệt bút vẫn còn…
Mai này tôi chết đi
Nằm nghe hồn cô độc
Trời chiều không nói năng chi
Em ơi sao em không khóc
Mai này tôi chết đây
Vì sao em không khóc
Vết thương mửa máu tôi nào hay
Như xế chiều nay như sáng nay
Tôi viết từng trang tuyệt bút
Mai này tôi chết đây
Nắng ơi trời ơi nắng
Nửa đêm sáng quá tôi nào hay
Mùa xuân vừa nguôi cay đắng
Xin rũ tóc dài lên gối trắng
Người yêu nằm mộng thấy tôi về
Xin gọi tên tôi dù xa vắng
Thịt da ngời ánh lửa tình khuya
Mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi
em bé mười lăm năm tóc xõa xuân thì
đời lên mấy vạn lần nhan sắc
đau đớn vô cùng đêm biệt ly.
(“Tuyệt bút,” trọn bài)
Nằm nghe hồn cô độc
Trời chiều không nói năng chi
Em ơi sao em không khóc
Mai này tôi chết đây
Vì sao em không khóc
Vết thương mửa máu tôi nào hay
Như xế chiều nay như sáng nay
Tôi viết từng trang tuyệt bút
Mai này tôi chết đây
Nắng ơi trời ơi nắng
Nửa đêm sáng quá tôi nào hay
Mùa xuân vừa nguôi cay đắng
Xin rũ tóc dài lên gối trắng
Người yêu nằm mộng thấy tôi về
Xin gọi tên tôi dù xa vắng
Thịt da ngời ánh lửa tình khuya
Mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi mai này tôi chết đi
em bé mười lăm năm tóc xõa xuân thì
đời lên mấy vạn lần nhan sắc
đau đớn vô cùng đêm biệt ly.
(“Tuyệt bút,” trọn bài)
Từ kinh nghiệm cõi chết,
Hoàng Trúc Ly học được cái nhìn của đạo học huyền diệu Đông
Phương. Địa dư hôm nay không còn những hoang vu, không còn sa
mạc, không còn hải đảo, nhãn trường không còn phối cảnh. Nhưng
chúng ta phải tạo một khoảng cách bên bờ cuộc sống.
Hoàng Trúc Ly sống được quan
niệm ấy dễ dàng hơn người thường nhờ một biệt đãi của số mệnh:
những lần chết dở, những lần giao thiệp với ma quái bên kia bóng
tối, Hoàng Trúc Ly đạt đến một vị trí xa cuộc đời, vị trí của kẻ
“ngoài đời“ , outsider theo tiếng Anh. Dường như Nguyễn Gia
Thiều dùng chữ ngoại vật trong Cung Oán..
Từ vị trí ấy, Hoàng
Trúc Ly đã cởi được cái nhìn
sáng suốt(5)
để đạt tới cái nhìn trong suốt(6). Đối chiếu hai trạng thái trong suốt và sáng suốt là đối chiếu
hai khả năng thu nhận ánh sáng của tâm hồn.
Ý thức sáng suốt dựa vào niềm
tin ở luận lý, và từ chối tình cảm, an ủi, nhớ nhung, từ chối u
hoài. Một đồng tử sáng suốt không thu nhận vết bợn của tình yêu.
Ý thức trong suốt, trái lại, làm bằng chiều dày của từ bi, khoan
dung, trìu mến; đối với một ý thức trong suốt, hay thông suốt,
chân lý không phải là một công thức, mà là phương cách trả lời
cuộc đời, một nghệ thuật sống.
Thơ Hoàng Trúc Ly có cái bình
thản âu yếm của kẻ đã đạt tới đạo, hiểu theo nghĩa Đông Phương:
y hồ thiên lý, nhân kỳ cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ
văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản chiếu. Thơ
Hoàng Trúc Ly trái lại chỉ là một khối thủy tinh, không trả lại
hình ảnh nào, không đón đợi mà cũng không phải là không đón đợi,
chỉ biết thích ứng với tất cả những gì đến với mình. Như thế tâm
hồn Hoàng Trúc Ly đã đạt đến hạnh phúc tối cao, đã liên hợp được
cái ngã và cái vô ngã trong sự thong dong không bờ bến.
Do đó, thơ Hoàng Trúc Ly,
không mang những ký hiệu "tuyệt vọng" của thi ca thời đại. Thật
ra, trên đời này không có "văn chương tuyệt vọng", vì lý do giản
dị là tuyệt vọng luôn luôn câm nín, không tình tự, không thở
than. Tuyệt vọng chỉ là một trong những cái cớ của văn chương,
ghép lại, "văn chương tuyệt vọng" lại là… mâu thuẫn danh từ.
Hoàng Trúc Ly thản nhiên, và
còn mỉm cười:
… Nghiêng vai xin khoác nụ
cười áo xanh
… Xuôi tay xin gởi miệng cười mộng du…
… Xuôi tay xin gởi miệng cười mộng du…
Trong một cuốn sách nhỏ
nhan đề là "L’ Humeur(Thần
Thái")(7)
R.Escarpit có phân tích nụ cười thành hai giai đoạn: yên nghỉ
trước thực tại, và vượt lên để chinh phục lại thế quân bình, an
ninh, ưu thắng; nụ cười là ý thức lướt tới, từ hoang mang đến tự
chủ. Nụ cười trong văn chương hiện đại rất hiếm hoi và quý giá:
"Ôi nụ cười, cánh ưng vàng
trên cát bỏng"
O rire, gerfaut d’or sur nos sables brulés
O rire, gerfaut d’or sur nos sables brulés
(Saint John Perse)
Trong bộ Thẩm Mỹ Học, Hegel
đã cho tiếng cười như là thể hiện cùng cực của ý thức nghệ
thuật, tiếp theo sầu muộn: trong sầu muộn còn luyến nhớ, ước
mong. Vị trí nụ cười là bên kia nước mắt: "Đó là lúc những khả
năng về hình thức và nội dung đều khô cạn, chỉ còn người nghệ sĩ
muốn xác nhận sự hiện diện của mình bằng một thể hiện cuối cùng"
(Hegel). Nụ cười ghi nhận biên giới tuyệt đối không thể vượt
qua, giới hạn sau những buồn đau và phẫn nộ: bên kia là quê
hương yên lặng…
Tuy nhiên, nụ cười không phải
là tâm trạng tĩnh tại của Hoàng Trúc Ly. Thi sĩ chỉ "khoác" nụ
cười, hay chỉ "gửi" nụ cười: bao gồm cả những trạng thái của tâm
tư, nụ cười vẫn chỉ là một vòng tròn ngoại tiếp. Nụ cười mới
chớm đã chìm vội trong hư không: dường như là biểu hiện của hư
vô, rồi gió sẽ mang về trả lại cho hư vô.
Nụ cười sứ giả với ngoại giới
- và sứ giả với chính lòng mình - sẽ mở rộng biên giới thanh
bình: đi vào "Trong Cơn Yêu Dấu" là lạc vào một thế giới
thân mật nồng nàn, âu yếm. Thế giới của hình người chan hòa
trong tạo vật.
Vì Hoàng Trúc Ly đã chọn vị
trí ngoại vi: một khách đứng ngoài.
Đã phân tích khách tính, thái
độ "outsider" của Hoàng Trúc Ly, tưởng cũng nên nhấn mạnh điểm
này, đang là vấn đề sôi nổi trong thời đại:
"Chỉ nên trôi nhẹ trên cuộc
đời và lướt theo cuộc đời, không nên chìm sâu" theo bài học của
Montaigne. Trong một số báo Nouvelle N R F, Maurice
Blanchot có nhắc những ý tưởng tương tự của Valéry và Nietzsche,
và gợi ý là văn chương hiện đại chỉ nên trôi theo chứ không nên
đi sâu.
Dĩ nhiên một số cuồng
tín của "chiều sâu", số "triết nhân chiều Chúa Nhựt" sẽ bĩu môi
phản đối. Nhưng muốn nhìn trong suốt, hay thông suốt, chẳng
những không nên đi sâu, mà còn phải đứng xa. Bàn về sự sáng suốt
và trong suốt, J.Onimus viết: "Phải trải qua một cơn hấp hối
thật sự của lý trí mới đạt tới cái nhìn thông suốt"(8)
tưởng như câu nói này áp dụng rất sít sao vào trường hợp Hoàng
Trúc Ly, vì thi sĩ không những đã trải qua cơn hấp hối của lý
trí, mà đã qua nhiều lần hấp hối toàn diện con người. Hơn ai hết
Hoàng Trúc Ly thông hiểu lý tương đối của lẽ sống, Hoàng không
quằn quại trong mặc cảm đen tối của Oedipe; trong ngôn ngữ,
Hoàng không hung hăng đi cướp lửa mặt trời như Prométhée. Hoàng
không cuồng nộ đi tìm Tuyệt Đối, vì biết rằng con người không
vĩnh cửu! Thi sĩ tự nhủ:
"Hồn ơi đừng khát vọng đời
sống vĩnh cửu, hãy khai thác môi trường những khả thể" theo một
câu cổ văn của Pindare, mà Valéry có trích dẫn một lần trên đầu
thi phẩm "Nghĩa trang miền Biển (Cimetìere Marin)" và
Camus trích dẫn thêm một lần ở trang đầu tập tiểu luận "Huyền
thoại Sisyphe(Le Mythe de Sisyphe)".
Nhờ đứng xa cuộc đời, Hoàng
Trúc Ly tránh được những thời trang của văn chương. Có khi mỗi
buổi chiều thứ bảy, những năm 1960 giới học thức trẻ Sài Gòn khi
thức giấc ngủ trưa bỗng "trở thành hiện sinh". Hoàng là một nhà
thơ trẻ tuổi mà vẫn còn tự chủ được lòng mình. Đó là một yếu tố
giúp Hoàng Trúc Ly hiện diện thành thật trong tác phẩm.
Và sự hiện diện này vừa gần
gũi vừa xa vắng…
SAU CƠN YÊU DẤU
Những bài thơ làm sau khi
xuất bản "Trong Cơn Yêu Dấu" báo hiệu một sự đổi chiều trong
ngôn ngữ. "Trong cơn yêu dấu" mang khí hậu lục bát trầm
buồn, những sáng tác phần nhiều là thơ tự do.
Tuy nhiên vẫn một thể hiện
tao nhã, lễ độ, và vẫn cái nhìn dừng lại bên triền cuộc đời, xem
thực tại như "môi giới":
Xin mời em chối bỏ tên anh
Vì tên em là cuộc đời
Ba, bảy, năm, tám, sáu
Hai, bốn, chín, mười, mười.
Con số có tên kiếp người có tuổi
Anh già rồi chối bỏ tên anh.
Xin mời em đạp lên số mệnh của anh.
Vì chân em là nhịp bước
Anh rớt lại sau rất thèm tới trước
Xin mời em
Xin mời em cắn vào lưỡi anh
Vì răng em là giọt sương
Sớm mai mở mắt sương chưa tan
Nên răng em chưa thành giọt lệ
Xin mời em
Xin mời em thắt chặt hồn anh
Vì tóc em là sợi dây siết cổ
Anh le lưỡi ra giã từ đau khổ
Xin mời em mời em
(“Môi giới,” trọn bài)
Vì tên em là cuộc đời
Ba, bảy, năm, tám, sáu
Hai, bốn, chín, mười, mười.
Con số có tên kiếp người có tuổi
Anh già rồi chối bỏ tên anh.
Xin mời em đạp lên số mệnh của anh.
Vì chân em là nhịp bước
Anh rớt lại sau rất thèm tới trước
Xin mời em
Xin mời em cắn vào lưỡi anh
Vì răng em là giọt sương
Sớm mai mở mắt sương chưa tan
Nên răng em chưa thành giọt lệ
Xin mời em
Xin mời em thắt chặt hồn anh
Vì tóc em là sợi dây siết cổ
Anh le lưỡi ra giã từ đau khổ
Xin mời em mời em
(“Môi giới,” trọn bài)
Những âm vận trữ tình lần
lượt chuyển sang một khí hậu hoài nghi. Vẫn thái độ trôi xuôi
theo cuộc đời, để tâm hồn đong đưa theo những đợt sóng tình cảm
lăn tăn và hạnh phúc chỉ là những viền bọt mỏng. Nhưng lần này
Hoàng Trúc Ly giải thích thái độ buông xuôi của mình bằng mối
hoài nghi rộng lớn:
Câu hỏi giáo khoa
- Bác hỏi tôi đi học để làm gì?
- Thưa bác, tôi đi học để… để… để
- Bác hỏi tôi đi học để làm gì?
- Thưa bác, tôi đi học để… để… để
(Theo "Quốc văn giáo khoa
thư" lớp Ba)
- Em hỏi anh trốn học để
làm gì?
- Vì lời giảng của chim trên cành đó
Khi chim nhớ rừng khi rừng nhớ gió
Anh nhớ em như miệng nhớ môi hôn
Và hàm răng đay nghiến mãi nỗi buồn
Xa cách
Em hỏi anh chăm học để làm gì?
Vì quá nghi ngờ sự thực bên này dãy núi
Đường gần nhất chưa hề là đường thẳng
Anh đến trường như người yêu ngoan ngoãn
Vâng lời dụ dỗ của em
Như ngày đêm ngọn thủy triều lên xuống
Theo lời dụ dỗ của trăng
- Em hỏi anh đi học để làm gì
Thế kỷ này đầy những danh từ lớn
Những trẻ - thơ - trí - thức những trí - thức - trẻ – thơ
Nghĩa là anh đi học
Để suốt đời bơ vơ
- Vì lời giảng của chim trên cành đó
Khi chim nhớ rừng khi rừng nhớ gió
Anh nhớ em như miệng nhớ môi hôn
Và hàm răng đay nghiến mãi nỗi buồn
Xa cách
Em hỏi anh chăm học để làm gì?
Vì quá nghi ngờ sự thực bên này dãy núi
Đường gần nhất chưa hề là đường thẳng
Anh đến trường như người yêu ngoan ngoãn
Vâng lời dụ dỗ của em
Như ngày đêm ngọn thủy triều lên xuống
Theo lời dụ dỗ của trăng
- Em hỏi anh đi học để làm gì
Thế kỷ này đầy những danh từ lớn
Những trẻ - thơ - trí - thức những trí - thức - trẻ – thơ
Nghĩa là anh đi học
Để suốt đời bơ vơ
Một ít bài thơ chưa giúp ta
có được ý niệm rõ ràng về ý thơ và tiếng thơ của Hoàng Trúc Ly
trong tương lai. Nhưng muốn biết một người sau khi nói đến dĩ
vãng và hiện tại, tưởng cũng nên hé mở khung cửa vào mai sau.
Từ một trái tim thanh niên
giàu tình cảm đến tâm hồn nghịch lữ trưởng thành ngoài thềm cuộc
đời, đế tư tưởng hoài nghi đang mỉm cười với thân phận, thiết
tưởng Hoàng Trúc Ly đã gửi đến bằng hữu nguyên vẹn những biến
chuyển trong tâm hồn. Tôi vẫn chưa tin là Hoàng Trúc Ly người
khách quen thuộc của cuộc sống lại muốn giã từ "môi - giới":
Con số có tên kiếp người
có tuổi
Anh già rồi chối bỏ tên anh
Anh già rồi chối bỏ tên anh
CÂY ĐÀN MUÔN ĐIỆU
Trong văn học quốc ngữ và
hiện đại, chỉ có thi ca là nhiều lần hóa thân nhất. Từ Hàn
Thuyên đến Tản Đà, qua bảy trăm năm dâu biển, thi ca Việt Nam ít
thay đổi hơn giữa khoảng năm mươi năm từ Tản Đà đến Thanh Tâm
Tuyền.
Chỉ năm mươi năm, thi ca bao
lần hưng phế. Ngày nay đọc văn xuôi của một Trọng Lang hay Tô
Hoài còn thấy thích, chứ đọc thơ Anh Thơ hay Đoàn Văn Cừ có lẽ
phải cực khổ lắm. Ngược lại nếu độc giả Nam Phong và
Đông Dương Tạp Chí sống dậy, đọc tiểu thuyết Doãn Quốc Sĩ
hay Dương Nghiễm Mậu họ còn chịu được, chứ đến đọc thơ Trần
Thanh Hiệp hay Tô Thùy Yên chắc họ phát điên.
Sự kiện văn nghệ này không
riêng gì ở Việt Nam mới có. Ở Pháp cũng vậy, người Pháp còn
chuộng tiểu thuyết của Balzac hay Stendhal, nhưng nếu đề nghị họ
đọc Lamartine hay Musset họ sẽ mỉm cười…
Qua những lần thoát xác, thi
ca lại chịu những chu kỳ; ví dụ ở Tây phương, sau cơn sóng siêu
thực xô bồ, hiện nay thi ca đang trở lại làm tiếng hát trong
trẻo. Làm thơ rất khó từ chối ảnh hưởng những trường phái đồng
thời. Phản ứng lại với đương thời đã là chịu ảnh hưởng.
Hoàng Trúc Ly rất trẻ, nhưng
ít chịu ảnh hưởng những thi sĩ đồng thế hệ và luôn luôn tìm
những giá trị mới trong hình thức cũ: "đôi giầy chật thường buộc
phải khám phá những vũ điệu mới" theo lời Valéry. Nhưng thơ ông
có ít nhiều hơi hướm thơ thời kỳ chống Pháp thời gian đầu, 1947-
1950.
Ví dụ thất ngôn là một thể
thơ cũ, Hoàng Trúc Ly đã sử dụng một nhạc tính mới, ngay từ hồi
mới tập làm thơ. Bằng cách xen kẽ nhịp thất ngôn luật 4/3 và
nhịp 3/4 trong thơ dân gian, nguồn gốc thể song thất:
Ánh sáng hôm nay buồn thủ
đô
Bước chân em không hẹn không hò
Buổi chiều nắng ngủ trên hè phố
Ánh sáng lênh đênh hờn thủ đô
Người yêu ơi nước mắt chưa lau
Từ đêm qua mê sảng bắt đầu
Buổi chiều nắng chết trên hè phố
Ánh sáng về đâu ai biết đâu…
Bước chân em không hẹn không hò
Buổi chiều nắng ngủ trên hè phố
Ánh sáng lênh đênh hờn thủ đô
Người yêu ơi nước mắt chưa lau
Từ đêm qua mê sảng bắt đầu
Buổi chiều nắng chết trên hè phố
Ánh sáng về đâu ai biết đâu…
Thơ thất ngôn luật thường
theo nhịp 4 - 3:
Qua đỉnh đèo Ngang/ bóng
xế tà
(Bà Huyện Thanh Quan)
Các thi sĩ làm thơ mới thỉnh
thoảng có tạo được một nhạc tính lạ, vẫn tôn trọng tiết tấu cổ
điển:
Nhị hồ/để bốc/niềm cô tịch
Không khóc/nhưng mà/buồn hiu hiu
Không khóc/nhưng mà/buồn hiu hiu
(Xuân Diệu)
Chỉ xin trích dẫn những câu
bảy chữ tân kỳ nhất, chứ thật ra, trong thơ Việt Nam, những câu
như trên khá hiếm. Trái lại, trong thơ Hoàng Trúc Ly, ngoài âm
giai mới, còn có tiết tấu lấy lại nhịp song thất:
Người yêu ơi/nước mắt/chưa
lau
Từ đêm qua/mê sảng/bắt đầu
Từ đêm qua/mê sảng/bắt đầu
Nhịp so le này thường tạo nên
cảm giác dang dở, trầm buồn như những câu thơ nhịp lẻ (vers
impairs) của Verlaine.
Trật tự bằng trắc trong câu
thơ cũng bị xáo trộn mà vẫn giữ nguyên nhạc tính dồi dào. Trừ
bài "Nhị hồ" của Xuân Diệu mà tôi đã trích hai câu ở trên
thường thường các nhà thơ chuyên lối thất ngôn rất trọng trật tự
bằng trắc dù trong những bài có âm điệu mới mẻ nhất, như "Vạn
Lý Tình" của Huy Cận:
Người ở bên trời ta ở đây
Chờ mong phương nọ nhớ phương này
Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây
Chờ mong phương nọ nhớ phương này
Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây
Trong thơ bảy chữ, chữ thứ
hai và thứ sáu, bằng trắc luôn giống nhau; một bằng, một trắc sẽ
bị khổ độc, Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh đối nhau mà vẫn
êm ái:
Từ đêm qua mê sảng bắt đầu
Ở những vị trí bất luận
(nhất, tam, ngũ) tuy là bất luận, âm bằng hay trắc luôn cân đối,
Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh lạ mà vẫn êm ái:
Mùa thu không gió em không
về.
Cuối cùng là niêm, Huy Cận,
trong bốn câu trên giữ niêm rất đúng, ít khi thi sĩ Việt Nam
thoát niêm. Bài "Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trường hợp
hiếm hoi, trái lại Hoàng Trúc Ly thường thoát niêm, dùng câu
bằng nhiều hơn:
Ngày quen em phượng đỏ môi
son
Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn
Từ mang ly biệt vào năm tháng
Thao thức cho bằng mấy núi non…
Chiều tiễn đưa lá rụng dép mòn
Từ mang ly biệt vào năm tháng
Thao thức cho bằng mấy núi non…
Thơ bảy chữ Hoàng Trúc Ly từ
âm thanh cho đến tiết tấu thường tạo ra những cảm giác mới mẻ và
tươi mát nhờ những âm giai tinh tế.
Thơ tám chữ cũng vậy: nhịp cổ
điển của thơ này là 3 - 2 - 3:
Em sợ lắm/giá băng/tràn
mọi nẻo
Trời đầy trăng/lạnh lẽo/suốt xương da
Trời đầy trăng/lạnh lẽo/suốt xương da
(Xuân Diệu)
Hoàng Trúc Ly dùng nhịp giản
dị hơn, không mới, nhưng lạ, êm ả
Ôi những đêm dài/heo hút
ngoại ô
Gác trọ vào thu/gió thổi giang hồ
Gác trọ vào thu/gió thổi giang hồ
Các nhà thơ tiền chiến thỉnh
thoảng vẫn dùng một tiết tấu mới, nhưng cầu kỳ , bác học quá,
nên giảm ít nhiều sự luân lưu tự nhiên của nguồn thơ. Ví dụ câu
này của Xuân Diệu:
Tôi đi/giữa buổi đầu
ngày/đi giữa
Buổi đầu xuân/đi giữa buổi đầu tiên
Buổi đầu xuân/đi giữa buổi đầu tiên
Trái lại Hoàng Trúc Ly tìm
những tác dụng vừa mới giản dị, bình thường. Ngôn ngữ trực tiếp
hơn, gợi cảm hơn, tương tự như một bản đàn.
Và một bản đàn không câu nệ
âm thanh, những câu bảy và tám chữ xen kẽ vào nhau, và âm giai
tự nhiên đến nỗi không tinh ý sẽ không thấy sự xen kẽ:
Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ
Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ
Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ
Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến.
Ngày già nua tóc mẹ phơ phơ
Tôi nói xôn xao tôi nói đợi chờ
Như tự bao giờ bây giờ quyến luyến.
Tóm lại trong thơ Hoàng Trúc
Ly, âm thanh mềm mỏng, dễ uốn nắn. Nhạc tính chơi vơi, uyển
chuyển, nhờ Hoàng Trúc Ly khéo điều hòa tác dụng thơ thất ngôn
luật Đường và thơ bảy chữ dân tộc trong thể song thất, một biên
giới mông lung, cho nên trật tự bằng trắc, niêm luật nhịp điệu
cơ hồ co giãn một cách hài hoà.
Thi ca Việt Nam phải ghi nhận
nơi đây một giai điệu mới.
Thơ tự do Hoàng Trúc Ly cũng
êm ái như vậy. Nói đến thơ tự do là nói đến một nhạc điệu ương
ngạnh, ngổ ngáo, phá phách. Nhưng thơ tự do Hoàng Trúc Ly êm ả
như ca dao, điều hòa như thủy triều:
Anh đến trường như người
yêu ngoan ngoãn
Vâng lời dụ dỗ của em
Như ngày đêm ngọn thủy triều lên xuống
Theo lời dụ dỗ của trăng.
Vâng lời dụ dỗ của em
Như ngày đêm ngọn thủy triều lên xuống
Theo lời dụ dỗ của trăng.
Nhưng Hoàng Trúc Ly thành
công nhất trong thể thơ lục bát. Thơ sáu tám, cấu trúc cố định,
nên káo co giãn như các thể thơ khác. Không thể kiến tạo một
nhạc tính mới cho hình thức thi ca kiên cố ấy: chỉ có thể phổ
những giá trị mới của từ vựng vào tiết điệu đã có sẵn, phải đi
sang địa hạt từ pháp.
Tôi ơi tôi mãi tôi còn
Trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân
Nhớ gì vết cỏ bàn chân
Lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu.
Trái tim bé nhỏ nỗi buồn chung thân
Nhớ gì vết cỏ bàn chân
Lối đi thơ dại đêm gần tịch liêu.
Kỹ thuật thơ lục bát của
Hoàng Trúc Ly là không có kỹ thuật. Bốn câu thơ hầu như là không
có mỹ từ pháp, âm điệu lục bát lại cổ điển. Nhưng không ai từ
chối được giá trị của bốn câu này. Vậy thi tính ở đâu?
Có lẽ ở âm điệu vừa giản dị
vừa tinh tế. Trong bốn câu chỉ có hai chữ giàu âm lượng là
"buồn" và "liêu" còn là những âm thanh sáng sủa , bình dị, ngắn
ngủi. Con người tự tình với chính mình: ngôn ngữ trực tiếp,
trong sáng.
Nhưng có lẽ chưa ai hài lòng
về lời giải thích này. Trong thi ca, mỗi chữ đều có một âm chấn,
và những âm chấn cùng một tần số thường tạo trạng thái giao
thoa: trạng thái ấy chính là chất thơ trong thi ca.
Những chữ: trái tim, vết cỏ,
bàn chân, lối đi, đêm và bé nhỏ, thơ dại như mời nhau; và những
chữ: nỗi buồn, chung thân, tịch liêu cũng gọi nhau, những từ ấy
là những âm chấn đồng tần số. Và chạm nhau tạo thành một vùng âm
hưởng êm đềm, âu yếm.
Mỗi âm thanh thường gợi một
vùng âm hưởng đến những chữ chung quanh và khi những âm hưởng ấy
ôm ấp lấy nhau, câu thơ trở thành một cơ thể với những tế bào
sống quấn chặt lấy nhau: Chúng tôi gọi một cách cầu kỳ là đã đạt
đến một "mạch lạc hữu cơ". Trong câu thơ:
Trời cao bóng nhỏ dặm mòn
chân đi
Những tế bào tạo thành một cơ
thể. Nhất là câu này:
Nửa đêm da thịt quên cài
áo khuya
Từ ngữ có âm chấn trong câu
thơ, bài thơ và đôi khi trong cả một tập thơ hay trong thi
nghiệp.
Hoàng Trúc Ly thích những khí
hậu ẩm thấp, ướt át, nên trong thơ hình ảnh đều mang ít nhiều
thủy tính, và Hoàng Trúc Ly thường dùng từ ngữ, mà nếu muốn viết
theo lối chữ nôm phải kèm theo "bộ thủy". Như các chữ: mềm,
chảy, chìm, tan, ướt, rã mục, chơi vơi, lênh đênh…
Sáu dây rét mướt chưa mềm
trăng khơi.
"Mềm" là trạng thái có
khả năng đổi hình thể tự nhiên hay dưới tác dụng của nước. Lão
Tử viết "quí nhu", nghĩa là chuộng cái mềm dẻo, và "thủ hư",
nghĩa là giữ cái hư không, và Lão Tử đã nói thêm: "Thường khoan
dung ư vật": bình thường khoan dung với mọi vật, chúng ta thấy
Hoàng Trúc Ly đi rất gần với Đạo giáo: thi sĩ chuộng cái mềm,
biên giới giữa chất đặc và lỏng, vì dường như những vật mềm hứa
hẹn một chiều sâu. Baudelaire trái lại chuộng những vật rắn như
cẩm thạch, kim khí; Jean Pierre Richard bàn luận cho rằng một
diện tích rắn tượng trưng cho bức tường bất khả xâm phạm, cả trí
thức lẫn trực giác của con người không thể vượt qua, che giấu
một thế giới tuyệt đối, hoàn toàn xa lại với con người(9).
Chất mềm ngoài ra còn là một khả năng đổi dạng, vì cái nhìn
Hoàng Trúc Ly đã khám phá ra tương đối tính của hình thể.
Mùa mưa nghe trời ướt mắt
xanh
"Ướt" khác với mềm ở chỗ chỉ
là trạng thái của ngoại diện. "Ướt" là sự tương phản giữa chất
đặc và lỏng; sự giao tiếp hời hợt dừng lại ở vị trí bên ngoài.
Và "mềm", "ướt" là những trạng thái tĩnh tại. "Chảy", trái lại
là luân lưu:
Bóng em chảy xuống vực sâu
mắt buồn
Chảy là đổi cao độ, di chuyển
vị trí từ cao đến chỗ thấp hơn, theo độ dốc của thiên nhiên:
"thủy chi tựu hạ dã", nước chảy xuống chỗ trũng. Hoàng Trúc Ly
còn viết:
Như ngày đêm ngọn thủy
triều lên xuống
Theo lời dụ dỗ của trăng
Theo lời dụ dỗ của trăng
Hoàng có khuynh hướng lướt
xuôi theo thiên nhiên, gần giống như chủ trương "thuận vật tính,
thượng tự nhiên" của Trang Chu.
Nhưng "chảy" trên ngoại vật,
là di chuyển trên một mặt bằng. "Chìm", trái lại là lắng xuống
chiều sâu:
Giấc mơ thê thảm bóng chìm
đêm sâu
Chìm: từ ngữ gợi một ý niệm
mới: ý niệm về trọng lượng. Chìm là di chuyển theo chiều đứng,
tìm về đáy của sự vật. "Rụng" trái lại chỉ tìm một thế quân bình
xuống mặt phẳng .
Tay xuôi mười ngón rụng
sầu
Trong văn chương "chìm"
thường diễn tả thất bại (trong khoa học trái lại theo nguyên lý
Archimède, là một ưu thế về trọng lực). Chỉ có thất bại mới đi
sâu vào đáy tạo vật, phải chăng là kinh nghiệm đau thương của
những kẻ thám hiểm chiều sâu cuộc đời ?
Tuy nhiên, "chìm" vẫn còn giữ
được hình thể. "Rã mục" trái lại là bị phân hóa, hủy diệt:
Xác thân rã mục lời thề
"Rã mục" là thất bại vĩnh
viễn dưới tác dụng lâu dài của nước, một ngoại thể thấm đều vào
nội chất.
Mềm, ướt, chảy, chìm, rã mục,
những từ ngữ thường gặp trong thơ Hoàng Trúc Ly, phản chiếu quan
niệm sống, một lối nhìn vào tạo vật. Từ ngữ ấy, trở lại nhiều
lần, tạo khí hậu cho thơ Hoàng Trúc Ly, một không khí kín đáo và
nhất khí.
Có người sẽ trách chúng tôi
chẻ sợi tóc theo chiều dài, nhất là đang nói về hình thức bỗng
bàn sang nội dung.
Xin đáp: trong thơ, hình thức
và nội dung là một. Phải dùng cái nhìn sâu lắng để tìm nội dung
trong hình thức và hình thức trong nội dung, vì một tác phẩm văn
nghệ không có hai giá trị khác biệt, mà là một thể hiện duy
nhất.
Hoàng Trúc Ly là một nghệ sĩ
khéo lựa tiếng đàn. Trong thi phẩm từ ngữ luôn luôn tạo thành
một hòa âm tinh tế. Thường những bài lục bát của Hoàng chỉ có
bốn câu, nhưng bốn câu ấy tựa vào những âm vọng, âm hưởng hòa
hợp lẫn nhau để tạo thành một sinh khí, một cơ thể, một năng
lực.
Nghệ thuật diễn tả của Hoàng
Trúc Ly đạt đến độ tài tình. Hoàng Trúc Ly phả hơi thở mới vào
các hình thức đã già nua. Hoặc bằng nhạc điệu, hoặc bằng từ
vựng, Hoàng Trúc Ly chứng tỏ rằng thi ca Việt Nam vẫn còn những
kho tàng chưa khám phá.
Hoàng Trúc Ly đến với nhân
gian dưới khuôn mặt hào hoa, phong nhã, với thái độ chừng mực
của một khán giả, một khách lạ. Nhưng trong cô đơn, ông đã dùng
cả tinh lực để pha chế từng màu sắc đậm nhạt, dung hòa từng ánh
sáng mờ tỏ, để tạo ra một thế giới thật hơn thế giới chúng ta…
KẾT TỪ
Tôi vẫn chưa muốn rời Hoàng
Trúc Ly. Thơ Hoàng có chất nhựa giữ người, tâm hồn Hoàng mời gọi
triền miên. Thi sĩ than thở:
Những tiếng nói chưa hề
được nói
Còn bao nhiêu lời tôi chưa
kịp nói về Hoàng? Những đau thương u hoài bàng bạc trong thơ
Hoàng, tôi chỉ nói sơ lược. Tôi cũng không nhấn mạnh đến ám ảnh
bệnh tật. Và bao nhiêu lời tôi chưa kịp nói, Hoàng Trúc Ly đã
trần tình:
"Tôi lớn lên giữa khôi hài
của công lý, giữa tật nguyền của luân lý, giữa hủy hoại của linh
hồn. Tôi không hề hổ thẹn khi gục đầu trên những ám ảnh cô độc,
ma quái, thú vật, tự tử đang đe dọa đời tôi như những áng mây
đen".
Trong thi ca Hoàng Trúc Ly
giữ một địa vị đặc biệt. Địa vị của thi sĩ dường như
vượt lên hẳn các trường phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi
mát, mới mẻ, trong sáng, ở một giai đoạn mà Tây phương cũng đang
biến thi ca thành tiếng hát…
Nếu trước Đệ Nhị Thế Chiến,
thơ Tây phương phá phách, bí hiểm bao nhiêu thì trong hai mươi
năm gần đây, thi ca muốn bỏ tham vọng tìm tuyệt đối của
Mallarmé, bỏ ý định đi "cướp lửa mặt trời" của Rimbaud. Trường
phái siêu thực dần dần phá sản, trường phái bí hiểm cũng dần dần
im tiếng. Nếu tiểu thuyết và sân khấu tiếp tục tra hỏi cuộc đời,
thi ca trái lại ve vuốt cuộc đời bằng những âm thanh óng ả. René
Chair, Alain Bosquet… ở Pháp; Eugenio Montalo, Umberto Saba… ở
Ý; Rafael Alberti, Frederico Garcia Lorca… ở Tây Ban Nha đều góp
công đưa thi ca trở lại thời kỳ giản dị, trong sáng…
Nhất là Frederico Garcia
Lorca, người mà Hoàng Trúc Ly đã bỏ công nghiên cứu và chịu ít
nhiều ảnh hưởng về quan niệm nghệ thuật cũng như về ngôn ngữ thi
ca, Frederico Garcia Lorca vẫn chủ trương đưa thơ trở lại với
dân ca bình dị.
Chỉ ngôn ngữ bình dị mới diễn
tả được quan niệm nhân sinh của Hoàng Trúc Ly.
Trở lại bài học Hoàng Trúc
Ly, chúng ta mến phục phong thái nghệ sĩ muốn vượt lên trên cuộc
đời để nhìn cho "trọn vẹn".
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Trước cuộc đời, Hoàng Trúc Ly
chỉ đóng vai người khách hào hoa phong nhã. Thi sĩ đã trở lại
đời sống thanh thoát của nhà hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ
tân kỳ ảnh hưởng của Tây phương, nhờ đó, đã chắp cánh để bay vút
lên cao.
Thơ Hoàng Trúc Ly là một miền
siêu thoát.
Đọc thơ ấy sẽ học lại cái
nhìn thản nhiên và trìu mến, và nụ cười vừa hiền dịu vừa bình
tĩnh.
Trong nhập đề, tôi đã hứa chỉ
vẽ chân dung Hoàng Trúc Ly qua một nụ cười và cái nhìn. Có lẽ
tôi đã đi quá, hoặc không làm trọn vẹn lời hứa.
Bây giờ, khi giã biệt thi
nhân tôi xin tri kỷ giữ hai nét trên một nhân diện đã khắc sâu
ký hiệu của Nghệ thuật và Định mệnh: nụ cười trong và đôi mắt
sáng.
ĐẶNG TIẾN
(Sài Gòn - 1964)
_____________
(1) Beauté plastique.
(2) Poésie charnelle.
(3) Poésie érotique.
(4) Littérature et sensation,
Edit, du Seuil, 1954.
(5) Regard lucide.
(6) Regard limpide.
(7) Collection Que Sais-je,
1960.
(8) Face au monde actuel,
nxb Desclee de Brower, 1962.
(9) Poésie et profondeur,
Editions du Seuil, 1955.
_____________
Ghi chú:
- Bài này viết cho một
cuốn sách không được xuất bản, về sau đã đăng trong tạp chí Tân
Văn, Sài gòn, số 3, phát hành tháng 7.1968
- Gia đình nhà thơ đã in
lại trong thi tập Hoàng Trúc Ly: Khi người lớn từ biệt trẻ
con, nxb Trẻ, Tp HCM, 2008.
- Tập Trong cơn yêu dấu,
nxb Hướng Dương in tại Sàigòn, 1963.
- Nhà thơ Hoàng Trúc Ly
tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh tại Đà Nẵng, ngày 14 tháng 4
năm 1933, mất tại Sài Gòn ngày 23 tháng 12 năm 1983 sau một tai
nạn lưu thông.
- Đọc lại và ghi chú tại
Đà Nẵng, Tết Kỷ Sửu, ngày 25 tháng 1 năm 2009.
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.