Nhật Tuấn
Bùi Nhật Tuấn
(1939 Hà Nội - 2015 Sài Gòn)
Hưởng thọ 76 tuổi
Nhà văn
TT - Nhà văn Nhật Tuấn từ giã cõi đời vào lúc 18g ngày 6-10 tại TP.HCM do chứng phù nề hành tá tràng.
Nhà văn Nhật Tuấn - Ảnh: Facebook cá nhân
Không ai, cả gia đình và bạn bè, lại nghĩ Nhật Tuấn ra đi nhanh như thế, vì cả cơ thể và sắc diện của ông vẫn còn khá tốt.
Nhưng sự thật là nhà văn tài hoa 73 tuổi ấy đã rời bỏ cuộc chơi trần thế. Ngày 7-10, gia đình nhà văn từ Hà Nội đã vào TP.HCM để lo tang lễ.
Bùi Nhật Tấn - con trai duy nhất của nhà văn Nhật Tuấn với người vợ đầu, sinh năm 1970 - cho biết gia đình đã quyết định lễ tang theo trình tự: 7g ngày 10-10 lễ viếng bắt đầu tại nhà tang lễ TP, 10g sáng cùng ngày động quan và lễ hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.
Tên thật của nhà văn Nhật Tuấn là Bùi Nhật Tuấn. Ông sinh năm 1942 tại Hà Nội, sống và gầy dựng sự nghiệp viết văn ở đó suốt cho đến khi chuyển vào sống tại TP.HCM vài năm sau 1975.
Nhật Tuấn chăm viết, viết đều, nhiều tác phẩm của ông cả truyện ngắn và tiểu thuyết gây được tiếng vang trong lòng người đọc: Con chim biết chọn hạt (1981), Lửa lạnh (1987), Đi về nơi hoang dã (1988), Những mảnh tình đã vỡ (1990), Một cái chết thong thả (1995)...
Cái tài, cái duyên văn của Nhật Tuấn khi tuổi còn trẻ hay đã ở độ xế chiều vẫn là dồn hết cho thể loại truyện ngắn. Nhiều người đồng tình với nhận định: Nhật Tuấn là một tài năng trong lĩnh vực truyện ngắn, cả ngày xưa lẫn bây giờ. Văn của ông duyên dáng về cách sử dụng từ ngữ và sâu sắc về ý tứ.
Nhật Tuấn được giải thưởng văn chương ở thứ hạng cao và khá sớm: giải nhì cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ (1977, Ngôi nhà đang lên tầng), giải nhất giải thưởng văn học của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (1978, tác phẩm Trang 17).
Tác phẩm đã in
Đi Về Nơi Hoang Dã là một tiểu tuyết nổi tiếng của nhà văn Nhật Tuấn. Ngoài ra ông còn những sáng tác khác:
1
Trang 17
(1978)
2
Con chim biết chọn hạt
Con chim biết chọn hạt
(1981)
3
Bận rộn
Bận rộn
(1985)
4
Mô hình và thực tế
Mô hình và thực tế
(1986)
(1987)
6
Biển bờ
Biển bờ
(1987)
7
Tín hiệu của con người
Tín hiệu của con người
(1987)
8
Đi về nơi hoang dã
Đi về nơi hoang dã
(1988)
http://vietmessenger.com/books/?title=ddivenoihoangda
9
Niềm vui trần thế
9
Niềm vui trần thế
(1989)
10
Những mảnh tình đã vỡ
Những mảnh tình đã vỡ
(1990)
11
Tặng phẩm cho em
Tặng phẩm cho em
(1995)
12
Một cái chết thong thả
Một cái chết thong thả
Cho ta nương nhờ chút thở than
Thị Beo
Thị Beo
Nhật Tuấn
Nhật Tuấn sinh năm 1939, tuổi Kỉ Mão.
Nếu dừng lại ở thị Beo, thì Nhật Tuấn có 5 đời vợ. 3
có hôn thú 2 không, xen kẽ nhau. Cơ số này sau ngày cưới rất lâu, thị Beo cũng mới
biết do chị ruột Nhật Tuấn kể cho nghe.
Thị Beo có mối quan
hệ rất tốt với các vợ và cả với kha khá bồ bịch của Nhật Tuấn. Thậm chí 4 người
trong số họ còn đánh bạn với Thị Beo tới tận
giờ luôn.
Nhật Tuấn chưa bao giờ học về cầu đường như một vài báo trước đây viết. Hết
lớp 10 một thời gian dài sau, ông đi làm công nhân, ngày ấy gọi là phụ động, cho một nhóm khảo sát
thiết kế đường lên mạn Tây và Đông Bắc. 6 năm lăn lộn ở đây đã được tưởng thưởng
một cách xứng đáng cho số phận một nhà
văn sau này, tác phẩm Đi về nơi hoang dã
.
Sau đó ông về làm tại bộ Giao thông, trải
qua nhiều công việc như giữ thư viện, nhân viên trực tổng đài điện thoại. Cái tổng
đài ngày xưa to bằng nửa căn nhà với rất nhiều ổ-phích, nhân viên phải rút ra cắm
vào liên tục ấy là nền để hư cấu nên truyện ngắn Con chim biết chọn hạt. Đây
cũng là thời gian Nhật Tuấn viết những truyện ngắn hay nhất của mình Trang 17, Con tàu trắng đi trong khói nắng,…
Thấy ông có năng khiếu văn chương, cơ quan cho đi học
tại chức khoa Ngữ văn, Đại học tổng hợp. Tốt nghiệp, ông được nhà văn Hoàng Lại
Giang giúp chuyển về NXB Văn học. Hoàng lại Giang còn là người ơn rất nhiều việc lớn
sau này của Nhật Tuấn.
@
Nhật Tuấn có
thói quen viết gần xong mới đặt tựa sách. Đặt tựa trước, ông sẽ khởi động
chương đầu cực kì khó khăn. Đi về nơi
hoang dã là trường hợp gần như xuất thần đặc biệt.
Người có công đặt tựa và gợi ý Nhật Tuấn viết cuốn này
là nhà văn đã quá cố Lê Quốc Minh, trong một bữa nhậu có sự tham gia của
nhà văn đã quá cố Trần Hoài Dương, nhà thơ Trần Mạnh Hảo, vợ chồng nhà
thơ Hoàng Hưng. Trong lúc bàn chuyện thế sự và ôn cố tri tân chuyện Tây Bắc, trong
ngôi nhà vườn rất đẹp ở Gò Vấp, Lê Quốc Minh đã bật ra cái tựa trên.
Ngay hôm sau, Nhật Tuấn bắt tay vào viết và viết rất
nhanh.
Trong thời gian
chung sống, tất cả sách của Nhật Tuấn do thị Beo biên tập, sửa bon morat. Thêm
bớt cắt gọt gì hầu như ông không quan tâm sau khi đã đặt dấu chấm hết, mà cứ thế đưa thẳng
sang nhà xuất bản. Thường thì sửa rất
nhiều. Ví như Lửa lạnh, sửa bê bết đến mức Nhật Tuấn càu nhàu, Cậu làm như đồng
tác giả.
Riêng Đi về nơi
hoang dã, không sửa gì kể cả
thì là mà và. Tất cả các chi tiết trong sách, buồn đốt rừng ngắm chơi, ông cán bộ ăn
vụng bánh, móc thịt chôn đã mấy ngày lên ăn… đều có thật, không có bất cứ tình tiết hư cấu nào.
Tiểu thuyết viết theo kết cấu cổ điển. Câu chuyện bóc
dần những bản năng âm u, sư tha hóa của con người trên hành trình, càng đi càng dấn sâu vào
nơi vô định hoang dã. Vế sau của lời nhận xét này chính là “độ lớn”, là tầng ngữ
nghĩa thứ hai của tác phẩm. Đi về nơi hoang dã là
gạch nối- kết thúc “trường phái” sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa được tụng
ca trước đó, đồng thời nó là cuốn thành công nhất trong nhóm những tác phẩm
được mệnh danh văn học phản kháng (Ly
thân, Thiên đường mù…), tồn tại gần chục năm sau thì tự hết.
@
Đi
về nơi hoang dã chưa bao giờ bị cấm đoán. Lần xuất bản đầu
in 10 ngàn cuốn, một con số thông dụng cho hầu hết các tác giả có tiếng thời điểm
ấy. (Những tác giả bán chạy nhất như Nguyễn Mạnh Tuấn thường phát
hành 30 đến 50 ngàn bản cho lần in đầu).
Việc nó không được bàn luận nhiều trên báo chí, lỗi tại…nhà
báo. Riêng báo nhà thị Beo, dứt khoát
không có chuyện được nhắc đến hay nhờ ai nhắc đến bất cứ cuốn nào, ko riêng Đi về nơi hoang dã. Chồng hát vợ khen
hay là thiếu tự trọng. Giờ nghĩ lại, thấy quan niệm kẻ sĩ Bắc Hà này
quê mùa cũ kĩ và phi thị trường.
@
Non nửa ngày vật vã trên xe vì điện thoại hết pin. Tới
khách sạn còn giành nhau ổ cắm chán chê mới vào mạng. Có lẽ thị Beo là người biết
tin Nhật Tuấn mất cuối cùng, trong số những người cần biết.
Sinh thời, Nhật Tuấn là người lạc quan và cực kì ghét
những lời sến sẩm. Nhật Tuấn và Beo xưng hô nhau Cậu- Tớ. Gây lộn thì Ông- Tôi.
Mấy năm sống chung, hợp khẩu nên cũng hiếm khi to tiếng
với nhau.
76 năm có mặt
trên cõi đời, Cậu đã góp phần cùng thị Beo tạo ra hai sinh vật đẹp đẽ, ngoan
ngoãn và thành đạt. Để lại một cuốn sách mà sau đây, không một cuốn văn sử nào được phép quên.
Không phải ai cũng làm được những điều to tát thế, Nhật
Tuấn ạ.
R.I.P Cậu.
Cứ thô ráp và hoang dại như vẫn, nơi cõi ấy nha!
TẶNG PHẨM CHO EM
Nhật Tuấn
Người
đàn ông ngồi cuối xe khóc lặng lẽ. Không ai nhìn thấy những giọt nước
mắt đang làm nhòa cặp kính đen to tướng. Chiếc xe buýt chạy rất chậm.
Con đường dọc theo những ngôi nhà nhiều tầng đang xây. Buổi chiều thu
muộn trong veo làm rõ những đường gờ đỉnh núi lãng đãng mây trắng. Trên
đó là vệt mòn chân thú chạy ngoằn ngoèo qua tầng lá mục. Những cây đại
thụ cổ kính. Chú sóc nào đó nhởn nhơ và vô tư trên sợi dây leo đu đưa.
Trên đó nữa là...bầu trời.
“Nó mới nói cuối năm hai đứa sẽ làm đám cưới”.
Cô gái nói bâng quơ bên tai người đàn
ông mang kính đen. Trong xe, những người ngồi và những người đứng vẫn im
lìm. Tiếng máy rù rì chảy dài trên đường. Bắt đầu lên dốc, người lái
gạt cần chuyển số và bất ngờ lên tiếng: “Chiếc xe này lẽ ra sáng nay chở
khách về Hà Nội. Hôm trước nó mới xin tôi cho nó đi nhờ. Nhà chồng nó ở
phố Bà Triệu phải không?”.
Không ai trả lời. Xe vẫn chạy rất chậm
và lên cao dần. Chiều thu muộn trải ra mênh mông trên dòng sông quanh
co. Ven bờ, những máy san màu vàng đang gạt đất, lầm lũi như con dế
trũi. Xa hơn nữa những cánh tay cần trục đang quay trên những hàng giáo
nhọn hoắt.
“Năm ngoái đã có một người ngã từ giàn giáo tầng năm xuống đất, chết ngay...”.
“Tại sao không đeo dây phòng hộ? Tại sao an toàn viên không kiểm tra? Tại sao...”.
Giọng gay gắt của một người ngồi đầu
xe chìm vào tiếng động cơ rầm rì. Không ai trả lời ông ta. Mắt mọi người
dường như đang nhìn xuống.
Người đàn ông dừng khóc, đưa khăn tay lau kính. Cô gái ngồi bên nói rất khẽ:
“Ông ấy mới trên tổng công đoàn xuống. Ông ấy đã hỏi rất nhiều câu “tại sao” mà không ai trả lời được”.
“Rồi sẽ phải trả lời. Tại tôi, tại các anh hay tại nó?”.
“Ồ...không đâu. Đã có nhiều chuyện xảy ra không quy được tại ai cả”.
Cô gái nghĩ một điều gì đó, chợt trừng mắt:
“Nhưng rút cuộc, vẫn do một người nào đó chứ”.
“Tôi không biết. Tôi không được biết chuyện đó”.
“Nó hiền như đất ấy. Nó sợ tất cả mọi
người. Bố chết, mẹ đi lấy chồng từ khi nó còn bé. Nó ở thuê cho người ta
rồi lớn lên, đi công trường”.
Ngưòi đàn ông quay đi và lại khóc
trong cặp kính. Xe buýt đi vào thung lũng, không còn nhà cao tầng, không
còn cần trục, không còn giàn giáo. Phía trước, những nếp nhà sàn nằm
nép mình trong lùm cây xanh tươi. Đường máng nước mảnh khảnh đổ xuống từ
sườn núi. Chiếc cối cổ xưa nặng nhọc kéo cần và tự rơi buồn bã. Một con
trâu đen bỗng nhô ra từ bụi rậm. Nó nhìn ngây ngô, chớp chớp đôi mắt
ướt nhoèn và nhảy quàng lên đồi. Tiếng lục lạc trên cổ lóc cóc điểm vào
không gian ngưng đọng.
Sau đó, người đàn ông ngồi cuối xe không còn nhìn thấy gì nữa, ngọai trừ cặp mắt kính đen nhòa nước.
Cô gái ngồi bên nhìn thấy những gương
mặt căng thẳng. Tất cả mọi người đều đang nghĩ. Trong giây phút này,
không ai là không nghĩ một điều gì đó.
Nguời có tuổi đứng giữa xe nghĩ về
trách nhiệm của mình. "Tôi đã đôn đốc thực hiện mọi quy tắc. Tất nhiên,
là giám đốc tôi không thể đi lay từng cái cột giáo xem có chắc chắn hay
là không”.
Chàng kỹ sư ngồi đầu xe nghĩ về cái
“ngày hôm ấy”. Thật là may, ngay từ đầu giờ, mình đã đến giao việc tỉ
mỉ, đầy đủ cho bà đội trưởng”.
Bà đội trưởng đang âm thầm ngồi ở gần
cửa xe. Hai hôm nay, bà luôn luôn cảm thấy bị nhìn bằng những con mắt
kết tội. “Các đồng chí kết tội tôi sao được? Tôi không thể chờ phòng vật
tư cấp cho tôi gỗ tốt hơn để làn giàn giáo. Ai cho phép tôi chờ? Tiến
độ là cái cao hơn hết thảy. Thành tích của chúng tôi ở đó. Trong hàng
trăm cây gỗ, làm sao biết đuợc cây nào đã mục ruỗng ở bên trong? Không
ai có thể biết được. Năm nay, đội tôi mất danh hiệu đội lao động xã hội
chủ nghĩa là cái chắc. Nhưng cái đó đâu phải tại tôi...”.
Vậy ai là người phải chịu trách nhiệm
về nó trong tất cả những gương mặt căng thẳng kia? Ông giám đốc,anh kỹ
sư hay bà đội trưởng? Không, không ai cả. Thế còn ông thư ký công đoàn
đang trầm tư và ông trưởng phòng tổ chức đang nhìn xuống cuốn sổ ghi
chép kia? Cũng không phải nốt. Thôi thì ...tại trời.
Nhưng ông trời cũng đã chết từ lâu
rồi, chết trong từng mỗi nguời. Trong chuyến xe này, không có ai còn tin
cái điều nhảm nhí nói rằng có một ông trời ở trên cao và ở cả trong
từng mỗi con nguời. Đó là một bày đặt nhảm nhí, mê tín,dị đoan. Tít trên
cao kia có con tàu vũ trụ và sâu mãi trong ta chỉ có ta mà thôi. Và
những “cái ta” ấy đều đã sắp sẵn một cung cách tự bào chữa một khi bị
hỏi tới trách nhiệm về nó.
Riêng người lái xe, từ nãy vẫn chăm chú nhìn con đuường, nghĩ về những chiếc ổ gà sẽ phải tránh, chợt quay lại hỏi to:
“Cái thằng chồng sắp cưới của nó có lên kịp không hả các ông?".
“Có biết đâu mà lên”.
“Tại sao ông không điện cho người ta?”.
“Nó chưa xin giấy chứng nhận để làm
giá thú. Trong lý lịch, nó cũng chưa khai tình trạng hôn nhân. Vậy hà cớ
gì phải đánh điện?”.
Rồi ông trưởng phòng tổ chức nói thật to cho mọi người đều nghe thấy:
“Trong mục “Khi cần báo tin cho ai” nó cũng không khai ai cả”.
Người lái xe lại hỏi tiếp:
“Vậy ai sẽ lĩnh tiền tuất? Tài sản của nó sẽ thuộc về ai?”.
Bà tài vụ ngồi ghế trên cùng trả lời rành rọt:
“Không ai được lĩnh tiền tuất cả. Tài
sản của nó sẽ bán hóa giá nhập công quỹ. Ngay sau cái lúc đó, chúng tôi
đã cử người phối hợp với công đoàn làm bản kiểm kê. Một cái hòm gỗ, hai
bộ quần áo, một chăn bông vỏ hoa, một cái gương con và một cái chậu
thau".
Bà tài vụ quay xuống nhìn ông giám đốc và yên tâm về câu trả lời của mình, bà trở lại vẻ mặt rầu rĩ cần thiết.
Trong buổi chiều thu êm đềm chiếc xe
buýt chạy rất chậm. Nó đã đi hết đọan đường lớn trải nhựa chạy qua công
trường. Nó đã leo đường dốc sang bên kia dãy núi. Nó đang đi vào thung
sâu để đến một nơi mà mọi người đều nóng lòng muốn đến: nghĩa trang.
Lẽ ra sáng nay nó chở cô ấy về phố Bà
Triệu gặp chồng sắp cưới. Bây giờ nó đang chạy rất chậm theo sau chiếc
xe tải chở cô ấy. Đó là đọan đường đi xe cuối cùng của một cô gái công
trường. Nhưng lần này, cô không mang theo chiếc hòm gỗ tùy thân chứa
đựng tất cả gia tài góp nhóp được sau bao chuyến đi qua các công trường.
Trong chuyến di chuyển này,cô chỉ mang theo chiếc hòm gỗ dài, chứa đựng hình hài của chính cô.
***
Cô nằm trong đó, chiếc quan tài màu đỏ
xung quanh đặt những vòng hoa rừng sặc sỡ. Hoa bằng lăng tím ngát, hoa
mò o đỏ tươi, hoa tóc tiên vàng dịu. Không tìm được đâu ra bông hoa màu
trắng để biểu thị sự trinh nguyên của cô...
Người con gái nằm xuống không được nói đúng về mình - đó là lỗi tự thiên nhiên.
Chiếc xe tải đi rất chậm rất chậm cũng
không sao tránh hết được những lồi lõm mặt đường. Mỗi lần ổ gà, chiếc
quan tài giật nảy, gõ vào thùng xe, gõ vào đầu anh lái, gõ vào chiều thu
mênh mông. Con đường, con đường - xin đừng gồ ghề cho cô được nằm yên
để đi cho hết đọan cuối cùng. Phađin... Cam Đuờng... Trái Hút...
Những chặng đường cầm mòn cán cuốc,
người con gái công trường không bao giờ còn vần chiếc hòm gỗ lên những
chuyến xe di chuyển, không bao giờ còn thức dậy trong tiếng kẻng thúc
vào giấc ngủ chập chờn, không bao giờ còn bịt khăn vuông kín mặt chống
che nắng gió. Màu da cô, thân xác cô sắp được ấp ủ trong lòng đất kín.
Chiếc xe tải đi rất chậm, rất chậm. Đã nhìn thấy màu đất đỏ bãi san sườn núi dùng làm nghĩa địa.
”Ngát ơi..Ngát ơi…”.
Tiếng kêu than níu kéo thảng thốt chấn
động trời chiều. Một cô gái ngồi trên xe tải chợt ôm cứng lấy chiếc
quan tài đỏ. Đó là người duy nhất phá bỏ tập tục, chít vành khăn đại
tang để trở bạn. Suốt dọc đường, cô ngồi bên thùng xe như hóa đá. Đôi
mắt cạn khô và vô tri. Dường như cô không còn nhìn cái gì nữa. Cô chỉ
thấy ở bên trong cô “cái Ngát”. Nó đấy. Miệng cười mơ hồ, ánh mắt xa
xăm, thân quen lắm và cũng xa lạ nhiều.
“Ngát ơi,có đau lắm không?”.
“Không đau đâu, chỉ thấy tối sầm lại rồi có còn biết gì nữa đâu…”.
“Tại cái xô đấy. Lúc giàn gíáo đổ
xuống, cái xô úp lên đầu Ngát, hai trăm viên gạch đè lên người Ngát. Rồi
thì... thôi, đừng nhắc lại chuyện ấy nữa. Không có cái chuyện ấy đâu.
Ngát không chui xuống giàn giáo để gánh nước đâu, cái xô vẫn treo ở đầu
hồi đấy. Ngát về Hà Nội với anh Uyên rồi. Vài ba hôm nữa Ngát lại lên,
đúng không?”.
“Không đúng đâu...”.
“Đúng đấy, hôm nào Ngát lên, mình phải
đi dỡ sắn đấy. Tháng này mỗi người phải trừ một cân gạo tiết kiệm. Cả
năm phải cắt đi một tháng đấy. Mình chẳng sợ Ngát nhỉ. Mình đã thái và
phơi đuợc ngót một yến sắn khô rồi. Chẳng đói đuợc đâu mà lo. Mình lại
còn vạt khoai lang đằng sau nhà kho nữa à... Ngát này ,con gà mái tơ
sáng nay nó đẻ đấy. Trứng to lắm. Tớ đã cất vào thùng gạo rồi. Chả mấy
chốc mà đủ một chục. Dành cả cho Ngát bồi dưỡng anh Uyên đấy. Phấn khởi
nhé. Dậy đi…”.
“Không dậy được đâu...”.
“Tháng hai này hai đứa có bảy công
tăng ca đấy. Dành cả tiền cho Ngát để mua lụa cung cấp nhé. Về Hà Nội đi
chơi với người yêu mà cứ diện mãi quần ta tăng cũ chẳng sợ người ta
cười cho. Còn tiền bán đỗ xanh thì để cuối năm Ngát làm đám cưới nhé. Lo
cho cô đến vậy, mai kia cô mải chồng quên tôi, mất chị mất em thì đừng
có trách. Dậy đi, anh Uyên anh ấy ở Hà Nội về kìa…”.
“ ....”
“Giời ơi... Ngát đâu rồi. Ngát đi đâu thế này. Đêm nay Ngát ngủ đâu. Ngày mai, ngày kia... Ối Ngát ơi là Ngát ơi...”.
Cô gái òa khóc và kể lể. Chiếc quan
tài giật nảy trong vòng tay cô khi chiếc xe tải dừng sững lại. Xe buýt
cũng vừa tới nơi. Nghĩa trang là một vạt đất do xe ủi san bằng ven sườn
núi. Màu đất đỏ, ráng chiều đỏ. Những hàng cây trang nghiêm. Những con
bướm trắng bay chập chờn. Tất cả mọi người đều đã xuống xe và vây quanh
chiếc áo quan đang được buộc dây.
Ông giám đốc ra lệnh khẽ:
“Nhanh tay lên...”.
Đám ma đi trong sương chiều, tiếng
khóc và những bước chân bấm trên mặt đất trơn lầy. Huyệt mộ đã được đào
sẵn. Những búi cỏ giập nát đã chớm héo vàng. Người đàn ông mang kính đen
đứng lẫn vào đám người xung quanh huyệt. Hai sợi dây ni lông trắng chầm
chậm đưa xuống chiếc quan tài đỏ. Từ đâu đó, anh cán bộ nhân sự bước ra
cầm mảnh giấy đọc những lời điếu viết sẵn. Trong im lặng nặng trĩu,
giọng anh khê nặc và trầm bổng.
“Cô Phạm Thị Ngát sinh năm 1960, bố
chết, từ nhỏ ở với mẹ, năm mười lăm tuổi theo tiếng gọi của đoàn và của
đảng, cô xung phong đi làm công nhân công trường…”.
Người đàn ông khóc nức lên sau cặp
kính. Cổ ông tắc nghẹn trong lúc chính ông muốn ông phải nói: “Không
đúng, không đúng đâu. Bố “nó” không chết. Bố “nó” còn sống đấy. Tôi đã
im lặng từ hai mươi năm nay và cho tới bây giờ tôi vẫn còn im lặng”. Ông
ta chới với níu cong xuống một cành cây gần đó.
Người con gái nằm xuống không được nói đúng về mình, đó là lỗi tự con người.
“Hãy biến đau thương thành hành động.
Hãy ra sức thi đua hoàn thành kế họach của tổng công ty giao cho. Phút
mặc niệm bắt đầu...”.
Cô ấy sắp đi hẳn rồi. Đi về đâu em ơi?
Về những nếp nhà sàn có chiếc cối nước rơi buồn bã. Về ngôi nhà đang
xây với cánh tay cần trục quay tròn trên hàng giáo nhọn hoắt. Đi về đâu
em ơi? Về đỉnh núi có chú sóc nhỏ vô tư hay về bầu trời mây trắng lãng
đãng. Không ai biết, không ai có thể biết được. Cái điều huyền bí ấy là
của riêng em, là tặng phẩm duy nhất em mang theo được cho một đời nỗ
lực.
Những hòn đất đỏ đã rơi xuống rồi.
Ngôi mộ đầy lên và sau cùng người ta đặt lên đó một bát cơm và một quả
trứng bửa đôi. Gió đưa khói hương bốc lên cao và tan đi mất.
Một cánh bướm chập chọang trong nhá nhem tối. Hai chiếc ô tô nổ máy trở về công trường.
Người đàn ông mang kính đen ngồi bên
ngôi mộ mới. Ông còn ngồi lại làm gì? Người con gái do chính ông sinh ra
và ông đã chối từ cho tới tận lúc nó chết chỉ vì sự bình yên cho chức
quyền của riêng ông, đâu còn nói được những lời tha thứ nữa...
Và ông cầu xin ai?
Nhật Tuấn
Bùi Ngọc Tấn & Bùi Nhật Tuấn
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều qua.