Mặc Đỗ
Đỗ Quang Bình
(1917 - 2015)
Hưởng thọ 98 tuổi
Nhà văn, Nhà báo, Dịch giả
Nhà văn Mặc Đỗ tên thật là Đỗ Quang Bình. Sinh năm 1917 tại Hà Nội. Di cư vào Nam năm 1954. Tị nạn đến Hoa Kỳ năm 1975, và qua đời tháng 10 năm 2015, hưởng thọ 98 tuổi.
Tác phẩm đã xuất bản:
2
Siu Cô Nương
Siu Cô Nương
Dịch thuật
1
Lão Ngư ông và biển cả
(E.Hémingway)
Quan điểm 1956; Cảothơm 1965; Đất sống 1973-1974
2
Con người hào hoa
Con người hào hoa
(F.S.Fitzgerald)
Quan điểm 1956
3
Một giấc mơ
Một giấc mơ
(Vicky Baum)
Cảo thơm 1966 (nxb.Hội nhà văn in lại 2003)
4
Người vợ cô đơn
Người vợ cô đơn
(F.Mauriac)
Cảo thơm 1966; Đất sống 1973 (nxb.Hội nhà văn in lại 1997)
5
Thời nhỏ trong gia đình Luvers
Thời nhỏ trong gia đình Luvers
(B.Pasternak)
Tập san Văn 1967
6
Tâm cảnh
Tâm cảnh
(A.Maurois)
Tập san Văn 1967
7
Anh MÔN
Anh MÔN
(A.Fournier)
Cảo thơm 1968
8
Vùng đất hoang vu
Vùng đất hoang vu
(L.Tolstoi)
Đất sống1973
9
Giờ thứ 25
(Georghiu)
Đất sống 1973
10
Thần nhân và thần thoại Tây phương
Biên khảo, nxb.Trương Vĩnh Ký, Saigon 1974
(nxb.Văn hoá Thông tin in lại 1995)
Tác phẩm:
Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973), Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân 2 Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.
Dịch thuật:
Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966); Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).
Từ bốn mươi Siu Cô Nương tới Tân truyện
Tác phẩm thất lạc
Vào đời tràn háo hức
Tiếp theo liền dằng dặc ưu tư
Nhắm mắt còn ưu tư
Đời người lãng đãng bóng mây trôi
tham đeo đẳng không đành thoát
Muôn kiếp sinh sôi vẫn một nòi
Nợ nước tình nhà và sự nghiệp
Tuyết sương rồi cũng thế mà thôi
Sống thừa mới thấy thừa chi lắm
Lão giả chen nhau kiếm chỗ ngồi
Ngồi bên bờ cỏ để buông trôi
Cúi đầu cố học ngu không hết
Nghển cổ tầm sư lạc mất nòi
Tính sổ cuộc đời nhiều mực đỏ
Bài thua úp xuống xoá đi thôi
Cười xem thời vận mong Bùi Tín
Áo gấm về quê chẳng mấy hồi
Những khớp xương nghe đời phôi pha
Nhưng như xưa tấm lòng vẫn ấm
Tiễn đưa chào đón chén trà đậm
Cuộc tình trời đất dài thăm thẳm
Hai bàn tay khép mời nguyện ngắm
Theo nén nhang sợi khói bay cao
Những mối yêu nguyên vẹn thuở nào
Một mình bàu bạn không trăng sao
Tư bề không tiếng sóng dạt dào
Thời gian ngồi lại không chờ đợi
Buồn vui không cũ cũng không mới
Mặc Đỗ
Ngô Thế Vinh
Long Beach, 20/ 06/ 2015
Con đường Mặc Đỗ từ Hà Nội Sài Gòn tới Trưa trên đảo san hô
Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một trong những tên tuổi của
văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở cái tuổi 58 còn
tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn, chữ của
Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào
trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại -- [biển ngoài, chữ của
Mặc Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên
lãng.
Tiểu sử Mặc Đỗ
Tên Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà Nội trong một gia đình Nho
học nhưng hấp thụ một nền văn hoá Tây phương. Học Luật nhưng không hành
nghề và chọn viết văn. Tên Mặc Đỗ được thân phụ đặt cho, có nghĩa là
người họ Đỗ trầm lặng. Khởi đầu viết khá sớm các truyện ngắn, kịch và
dịch sách đăng báo. Sau Hiệp định Geneve 1954 di cư vào Nam, cùng với
Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách
của các thành viên trong nhóm. Về sinh hoạt báo chí, Mặc Đỗ đã cùng với
các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như
Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu
tiên ở Miền Nam. Sau 1975 Mặc Đỗ tỵ nạn sang Mỹ.
Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973), Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân 2 Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.
Dịch thuật:
Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966); Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).
Trong Mộng Một Đời, rất sớm từ thuở niên thiếu, Đỗ Quang Bình – chưa có bút hiệu Mặc Đỗ, đã nuôi mộng trở thành nhà văn, "Để
luyện văn phong, người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn
ngoại ra Việt văn. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch đã
giúp khá nhiều cho việc hoàn thiện những cấu trúc cho truyện dài dự định
sẽ viết." Lựa chọn của Mặc Đỗ có tác dụng "đôi": một viên đá bắn 2 con chim/ kill two birds with one stone,
anh tạo được một văn phong rất Mặc Đỗ với ảnh hưởng nền văn học Tây
phương, và thành quả tiếp theo là các tác phẩm dịch thuật của Mặc Đỗ từ
hai ngôn ngữ Pháp và Anh sang tiếng Việt rất chuẩn mực và tài hoa, đã
như một phần sự nghiệp thứ hai của anh bên cạnh sự nghiệp sáng tác. Các
sách dịch của anh được liên tục tái bản những năm về sau này.
Hơn nửa thế ky
Về tuổi tác Mặc Đỗ hơn tôi hơn một thế hệ. Rất sớm đọc văn anh từ
tiểu thuyết Bốn Mươi (1957), Siu Cô Nương (1959) tới Tân Truyện (1967).
Tôi có mối giao tình với anh từ thập niên 1960, cho đến nay cũng đã hơn
nửa thế kỷ. Cảm tưởng khi mới gặp, anh có phong cách của một nhà văn.
Khi tôi chọn học Y khoa, làm báo Sinh Viên Tình Thương và bắt đầu
viết báo viết văn. Báo Tình Thương Y khoa có gửi biếu anh. Năm 1962, một
bản thảo truyện dài được viết xong, tôi gửi tới hai anh Mai Xuyên Đỗ
Thúc Vịnh Bóng Tre Xanh, và Mặc Đỗ Bốn Mươi đọc trước. Từ hai anh tôi đã nhận được những lời phê bình thẳng thắn.
Anh Đỗ Thúc Vịnh chú trọng tới sự trong sáng và văn phạm của tiếng
Việt cùng với vốn sống của người viết, anh rất quan tâm tới thế hệ Những Người Đang Tới, cũng
là tên một tác phẩm khác của anh sau này. Nhà văn Đỗ Thúc Vịnh thì nay
đã mất [1920-1996], vậy mà cũng đã ngót 20 năm qua rồi.
Anh Mặc Đỗ có quan niệm, với người trẻ bắt đầu viết văn nên tập viết
truyện ngắn trước và kỹ thuật là phần quan trọng. Tác phẩm đầu tay của
tôi không phải là tập truyện ngắn mà là một cuốn tiểu thuyết. Về chọn
lựa bước khởi đầu này, tôi đã không theo được lời khuyên của anh. Mây
Bão xuất bản 1963 với nguyên vẹn nội dung với mẫu bìa của người bạn tấm
cám hoạ sĩ Nghiêu Đề.
Do gần nửa phần đời sau ở hải ngoại, từ 1975 cuộc sống nhà văn Mặc Đỗ
gần như khép kín, thật khó để để vẽ một chân dung toàn diện về anh.
Chọn lựa và trích dẫn từ những bức thư anh gửi cho tôi, bớt đi những
phần quá riêng tư có lẽ giúp bạn đọc biết được nhiều hơn về một nhà văn
Mặc Đỗ quy ẩn.
Sang thế kỷ 21 kỷ nguyên của computer, Mai Thảo thì vẫn cứ ẩn nhẫn
viết tay kể cả trên những phong thư hàng tháng gửi báo Văn tới từng độc
giả dài hạn, riêng anh Mặc Đỗ vẫn thuỷ chung với chiếc máy chữ xách tay
thuở nào. Các thư anh gửi cho tôi đều là thư đánh máy. Chỉ một bức thư
hiếm hoi hoàn toàn viết tay của anh mà tôi có được là do một tai nạn,
chiếc máy chữ yêu qu. thiết thân của nhà văn Mặc Đỗ bị rơi và hư gẫy. Ít
lâu sau đó, anh được một ông bạn ở Pháp tặng cho một máy đánh chữ khác
như món quà Giáng sinh, từ đó tôi lại nhận được những lá thư đánh máy,
chỉ với chữ k. là thủ bút của anh.
Cher Vinh,
Tôi lọng cọng đánh rơi cái máy chữ yêu qu., nhà thương Mỹ thích
thay parts hơn là chữa, trong khi chờ một bàn tay Á đông đành nắn nót
viết, tập trung vào mấy ngón tay mệt óc quá, cho nên chỉ có thể ngắn
gọn, trang thư qua printer mất personality.
Cám ơn Vinh đã cho tôi thấy Vinh rõ hơn nữa. Nhúm lửa trong tôi,
có trước ngày tôi nghe lời bạn chôn bản thảo "Đứng ngồi không yên" dưới
ba lớp giấy gói và gác lên nóc tủ, nhúm lửa đó tôi thấy thấp thoáng đôi
chỗ qua những lời đối thoại của Vinh. Sau ngày đó bút của tôi không tìm
thấy AN nữa - chữ AN Phật dạy. Mừng thấy bút Vinh vẫn AN.
Kết luận, thấy Vinh hơi lạc quan. Nhìn thêm cái "nửa vơi", ngắm con người chúng sinh. Yêu nước cũng là một thứ tham. Thân, [Mặc Đỗ, Feb 5 1996]
Từ bốn mươi Siu Cô Nương tới Tân truyện
Bốn Mươi (1957) là một tiểu thuyết, Mặc Đỗ viết về giai tầng trí thức tiểu tư sản, ở cái tuổi không còn ngờ vực "tứ thập nhi bất hoặc";
họ xuất thân từ những gia đình giàu có, đi du học rồi tốt nghiệp, trở
về nước và sống trong sự xa hoa của một xã hội thượng lưu. Họ là những
chính khách salon, theo cái nghĩa rất thời thượng, tự đồng hoá với giai
tầng sĩ phu trước kia, rất xa lạ với đời thường nhưng có ảnh hưởng trên
chính trường, họ tin vào vai trò lãnh đạo của giai cấp trí thức tiểu tư
sản trong cuộc chiến Quốc-cộng.
Siu Cô Nương (1959) là tiểu thuyết thứ hai của Mặc Đỗ, viết về
ba người đàn ông và hai phụ nữ trong bối cảnh một Miền Bắc 1954, sau
hiệp định Geneve khi một Việt Nam sắp chia đôi. Ba người đàn ông ấy cũng
thế hệ bốn mươi có l. tưởng, tin vào vai trò lãnh đạo giai tầng trí
thức tiểu tư sản với chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ kiểu Tây
phương – không chấp nhận cộng sản. Và họ giã từ Hà Nội, di cư vào Miền
Nam -- tỵTần, chữ Mặc Đỗ dùng sau này để chỉ những cuộc lánh nạn cộng
sản. Không gian sinh hoạt của các nhân vật trong Siu Cô Nương trải rộng hơn Bốn Mươi nhưng
vẫn là một thứ xã hội trên cao, với mấy mối tình ngang trái, tất cả chỉ
cái cớ cho những tình huống lịch sử mà viễn kiến của nhà văn là cái
nhìn tiên tri. Cũng để nhận ra rằng: cái thème chính của tác phẩm Bốn Mươi, Siu Cô Nương là
cuộc đấu tranh giai cấp, đưa tới cuộc nội chiến Nam Bắc kéo dài 20 năm
sau đó. Với hậu quả là cuộc tỵTần lần hai sau 1975 với hàng triệu người
Việt Nam tung ra khắp thế giới.
Hãy để chính Mặc Đỗ nói về tác phẩm Siu Cô Nương của mình: "Tôi
nhớ trong đoạn kết Siu Cô Nương một nhân vật trên chuyến xe lửa ra đi
ngó xuống những ruộng đồng hai bên đường với những nông dân đang cặm cụi
đã thắc mắc, mai ngày những con người kia sẽ thành thù địch ư? Thắc mắc
này trải dài trong 500 trang truyện tiếp SCN." [Thư Mặc Đỗ, Sept 28, 1994]
Tân Truyện I (Quan Điểm1967) và Tân Truyện II (Văn
1973) là hai tập truyện ngắn mà Mặc Đỗ gọi là tân truyện / nouvelle. Mỗi
truyện như một viên ngọc của một chuỗi ngọc thể hiện quan niệm dựng
truyện ngắn với nhiều vận dụng kỹ thuật của Mặc Đỗ và ngôn ngữ thì giàu
hình ảnh nhưng cô đọng và chau chuốt. Mỗi tân truyện của Mặc Đỗ đều để
lại cho người đọc một ấn tượng rất đặc biệt và khó quên.
Tưởng cũng nên ghi lại đây quan niệm viết của Mặc Đỗ: "Từ khi bắt
đầu viết tôi đã chọn một đường lối nhất định, không bao giờ đem đời tư
của riêng một ai, quen hay không quen vào truyện. Tất cả đều là những
nhân vật được cấu thành do những chi tiết, hình ảnh, ngôn từ, đã ghi
được qua bao nhiêu dịp quan sát, nhận định; mỗi nhân vật là một hội tụ
đúng chỗ của những tài liệu chọn lọc." [Phụ lục: Truyện Không Thể Viết, Trưa Trên Đảo San Hô. Nxb Quan Điểm 2011]
Một số truyện ngắn trong Tân Truyện I & II được Mặc Đỗ chọn cho in lại trong hai tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô (2011): 13 truyện và tuyển tập Truyện Ngắn (2014);
30 truyện, gồm cả 13 truyện đã in trong tập Trưa Trên Đảo San Hô. Và
không có một truyện nào được ghi thời điểm sáng tác.
Như một giã từ
Nói rằng nhà văn Mặc Đỗ hoàn toàn không viết gì khi ra hải ngoại thì
không đúng. Anh có viết nhưng phải nói là rất ít. Anh đã góp bài cho ấn
bản đầu tiên báo Lửa Việt với truyện Cái Áo Len Màu Rêu,
anh cũng góp bài cho Tạp Chí Văn Học Nghệ Thuật của Võ Phiến gồm các bài
nhận định văn học, truyện ngắn trong những số đầu tiên: số 1 (Kế hoạch chống đàn bà, truyện ngắn), số 2 (Làm văn học nghệ thuật trong hoàn cảnh tỵ nạn), số 4 (Văn Nghệ Việt Nam ở hải ngoại), số 7 (Con người Nga trong khuôn đúc cộng sản) VHNT bộ cũ (1978) [http://tapchivanhoc.org]
Trong một thư riêng anh viết: "Một hai năm đầu khi mới đến đây tôi
có viết đôi chút để tiếp tay vài bạn cũ ra báo trong khi còn hiếm bút,
sau này làng ta trở nên phồn thịnh thì tôi yên tâm ngồi im, trừ một số
nhỏ dịp phải trả nợ nhiều số báo được tặng không (Văn, Thời Tập) thì có
đóng góp một chút." [Mặc Đỗ 25/08/1991]
Và một năm sau, trong lá thư đánh dấu 17 năm tỵTần, anh viết: "Từ
hôm qua tôi bắt đầu nhận được báo Xuân, sớm nhất là Văn [của nhà văn Mai
Thảo, ghi chú của người viết]. Vui thấy bạn còn nhớ cho báo đều đặn,
đọc báo thì chẳng mấy vui. Rất hiếm đọc những bài viết cho thấy cái công
phu của người chau chuốt nghệ thuật. Luôn luôn nổi rõ sự vội vàng sản
xuất và vội vàng chấp nhận... Sự đời ở biển ngoài đã biết rồi, thưởng
thức hiếm có dịp, thành ra chẳng thấy vui." [Mặc Đỗ 11/01/1992]
Trong sáng tác, Mặc Đỗ có quan niệm khá nghiêm khắc, cả với chính
anh. Anh luôn luôn nhắc tới kỹ thuật là quan trọng nhất trong việc viết
truyện.
Anh kể lại: "đã mất khá nhiều bạn trẻ đã cho tôi đọc bản thảo hay
sách đã in vì tôi rất thẳng trong . kiến đưa ra sau khi đọc, tôi cũng
than chuyện đó với một vài anh bạn già (không viết) thì được trả lời ai
bảo đụng tới nhược điểm của người ta! Tôi tiếp tục không nghe lời khuyên
đó vì tôi thấy cần phải sòng phẳng với ai có bụng tin tôi và chính tôi
nữa..." [Mặc Đỗ 5/02/1994].
Khi viết về chính anh: "Riêng phần tôi, sau từng trải và đánh giá
mọi khả năng còn lại, tôi bây giờ rất sáng suốt mà bi quan và tiêu cực.
Thái độ này tôi giữ từ sau khi tự tay đốt cuốn truyện 'Bong Bóng Bay'
kết quả của cả chục năm hì hục." [Mặc Đỗ 01/11/1995] Cuộc "phần thư" lần này trên đất Mỹ là do chính tay anh, chứ không phải do kẻ bạo Tần của thế kỷ 21.
Rồi ở cái tuổi đã ngoài 90, anh quyết định cho in tập truyện ngắn Trưa Trên Đảo San Hô (2011), mà anh gọi là "tác phẩm cuối đời" với một bìa lưng hoàn toàn trống trải chỉ với mấy câu thơ thật thanh thoát [Hình III]:
Tự nhiên thành núi băng
Lục địa lạnh một ngày tách biệt
Lênh đênh vào có không
Trưa Trên Đảo San Hô gồm 13 truyện ngắn, được sắp xếp theo ngược dòng thời gian: 7 truyện đầu được viết thời tỵ nạn [tị-Tần
chữ của Mặc Đỗ: anh ví chế độ Cộng sản Việt Nam với nhà Tần 221-297 BC
được coi là triều đại tàn bạo nhất trong cổ sử Trung Hoa], 3 truyện tiếp theo được viết tại Sài Gòn trước 1975; 3 truyện cuối được viết tại Hà Nội khoảng 1946-52. Mặc Đỗ viết: "Ba
truyện cuối trong toàn bộ cũng là ba truyện đầu tiên tôi viết sau nhiều
năm học, tập, và đến lúc tự xét thấy có thể bắt đầu viết." Chỉ là
một tập truyện ngắn nhưng đã ghi dấu ấn ba chặng đường và cũng là ba
không gian sáng tác của Mặc Đỗ: Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam và Hoa Kỳ.
Trong Lời cuối, anh tâm sự: "Thấy tương lai rất ngắn trước
mặt (cũng như viễn tượng viết truyện ngắn/dài) tôi tự xuất bản tập
truyện này sau một thời gian vắng bóng trong làng văn ở ngoài nước, coi
như một giã từ."
Nhưng rồi tiếp theo đó, ba năm sau "Đứng ngồi không yên" -- tên một tác phẩm của anh bị thất lạc, anh lại cho in thêm một tuyển tập Truyện Ngắn (2014), gồm các tân truyện viết trước và sau 1975; cả hai tác phẩm tác giả tự xuất bản vẫn với tên Tủ Sách Quan Điểm.
Tác phẩm thất lạc
Nhà của gia đình anh Mặc Đỗ ở Sài Gòn, không phải là ngôi biệt thự sang trọng như bối cảnh sinh hoạt của tiểu thuyết Bốn Mươi, chỉ
là một căn phố lầu trên đường Trần Hưng Đạo nhưng rất ấm cúng bao năm,
sau 30 tháng Tư, 1975 tôi có ghé thăm, trông thật lạnh lẽo, những chiếc
ghế nệm bỏ trống, bức tranh lập thể sơn dầu của Tạ Tỵ rất đẹp cũng không
còn treo trên tường nơi phòng khách, sau đó tôi mới được biết cả gia
đình Mặc Đỗ đã âm thầm rời Sài Gòn đêm ngày 29 tháng Tư, chỉ một ngày
trước đó. Dĩ nhiên, cũng như mọi người, anh chẳng mang được gì ngoài một
chiếc túi nhỏ xách tay.
Trong một thư, sau này anh kể rõ hơn về số phận tập bản thảo "Đứng ngồi không yên" và sau đó đã thành tro than ra sao. "Sau
khi hoàn tất cuốn "Đứng ngồi không yên" tôi có đưa cho ba bốn người mà
tôi kính trọng, [anh có kể tên nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh] vì nhiều lẽ
đọc. Tình cờ tất cả chung một nhận định: lắm động chạm đủ thứ! Nhận định
đã khiến tôi suy nghĩ và gói kín trọn vẹn bản thảo và tư liệu trong
chiếc hộp, cột dây và gắn si cẩn thận với mảnh giấy dán bên ngoài: Để
dành cho thế hệ sau. 75 tôi đi rồi thì một thằng cháu chạy đến lục lọi,
nó lấy đi cùng với những thứ khác cái hộp tưởng qu. lắm. Về nhà nó mở ra
rồi vừa tức vừa sợ nó vứt tất cả trong chiếc thùng sắt đổ dầu đốt cháy
sạch. Bao tâm tư đốt cháy khói khét lẹt! Mãi sau này tôi được kể lại chi
tiết đã tức cười nghĩ, Thế cũng đáng! Đáng đốt! "Bên trên là nói chuyện
với BS NTV, Biệt Cách Dù. Đây là nói chuyện với nhà văn NTV... Vào thu
rồi, đang chuẩn bị nhận một flushot nữa và nhớ lại lũ trẻ trung học Pháp
thời trước/ sau TCII gọi những ông bà già là những PPH (Passera Pas cet
Hiver/ sẽ không qua khỏi mùa đông này – ghi chú của người viết). Chúng tôi thì chắc chưa!" [Mặc Đỗ, 28/09/1994]
Tác phẩm lớn không thể viết
Sau Lời Cuối trong tập truyện Trưa Trên Đảo San Hô còn có thêm một Phụ Lục Truyện Không Thể Viết, Mặc Đỗ tâm sự: "Với
một người viết đáng buồn nhất khi thấy cần thành thật với chính mình và
quyết định không thể viết tác phẩm thèm viết... Theo dòng lịch sử đất
nước, tôi không thấy thời cơ nào có thể so sánh với gần tròn một thế kỷ
qua, với ba biến cố đặc biệt nối đuôi nhau, cùng hết sức giàu sinh động
trong muôn vẻ chi tiết. Cảnh khổ ly tán được cụ thể hoá bằng một vụ phân
ly giữa hai miền Nam Bắc. Kinh nghiệm độc lập người Việt ở hai miền
cùng thâu góp, chất ngất, trong nước mắt. Biến cố thứ hai hào hùng thay!
Nhưng đã hiện hình chẳng bao lâu sau, và kéo dài tới nay đã hơn ba mươi
năm. [những dòng chữ này có lẽ Mặc Đỗ viết khoảng 2005, ghi chú của
người viết] Hai biến cố đó xô tới biến cố lạ lùng, ngót hai triệu người
Việt Nam thình lình tìm được tới, và bắt đầu mọc rễ trên những bến bờ
lạ. Khơi lên từ cảnh đời một cô gái lai Mỹ, thiên truyện mọc lên trong
đầu tôi khả dĩ ôm trọn ba biến cố vừa kể... Trong nhiều tháng sau tôi mê
mải với đề tài Truyện, ra công sắp xếp cái sườn để gài lên những tình
tiết... Ai sẽ viết? Cái vốn quan sát nhận định, rung cảm, chứa sẵn trong
đầu, tôi có thể dùng cho phần đầu Truyện. Nhưng từ đêm 29 tháng Tư 1975
tôi đâu còn ở trong nước để quan sát, nhận định, rung cảm nữa... Tôi đã
không thể viết... Tôi mong cho tôi, cũng mong cho đông đảo độc giả Việt
Nam vì hiện chưa có một tác phẩm nào ghi lại liên tục giai đoạn lịch sử
độc đáo vừa bi hùng vừa đáng cười ra nước mắt...Kho tàng đó đang chờ
những người Việt Nam dám lãnh vinh dự và trách nhiệm là nhà văn." [TTĐSH, lược dẫn Phụ Lục tr.219-230]
Đó là nỗi buồn và cũng là cái giá rất đắt phải trả của một nhà văn
lưu đầy. Không thể viết nhưng Mộng-ngày bao năm trước về một tác phẩm
lớn vẫn cứ vất vưởng như một ám ảnh khôn nguôi đối với nhà văn Mặc Đỗ.
Tiếp theo liền dằng dặc ưu tư
Nhắm mắt còn ưu tư
Tìm chữ An trong Đạo Phật
"Ngay từ thời đọc 'Cạn Dòng' tôi đã buồn thấm thía trước viễn
tượng sớm muộn sẽ thành sự thật và nông nỗi bất khả kháng trong thời thế
toàn cầu hiện nay. Vinh và các bạn đang theo đuổi một cố gắng đúng, rất
nhiều người khác tại các nước khác cũng theo đuổi những cố gắng khác
với chung một mục đích cứu vãn đời sống trên mặt đất, khổ một nỗi loài
người bây giờ quá ham tranh chấp đạp lên mọi lẽ phải. Sinh thời nhà tôi
chúng tôi thường nhìn nhau, thu gọn mối sầu mênh mông vào một vòng nhỏ
với cảm nghĩ: Tội nghiệp lũ con, cháu, chắt... sinh sau! Cũng như tôi,
bất cứ độc giả nào đọc 'Nghẽn Mạch' không thể không xúc động trước những
sự thật đã hiển hiện sớm hơn cả viễn tượng lo lắng." [Mặc Đỗ 06/04/2007]
Dưới bức thư đánh máy, anh Mặc Đỗ có thêm một dòng tái bút viết tay:
"Vinh có nghĩ tới trận chiến lớn sẽ có thể xảy ra và Việt Nam sẽ hứng chịu?"
Với một Biển Đông hiện đang ầm ầm dậy sóng hình như sắp chứng nghiệm
cho lời tiên tri của anh. Mặc Đỗ luôn luôn nói tới chữ AN [viết hoa]
trong đạo Phật. Cũng vẫn chữ "AN" trong một thư từ Austin, anh viết:
"Cher Vinh, Năm nay Xuân từ Đồng Bằng Cửu Long không đem 'AN' đến
cho tôi. Đọc 'Tìm về' trước Tết, cái arrière-goût dai dẳng từ trước cho
đến sau Tết, không dứt. Tôi còn nhớ hồi nhỏ ở nhà khi có đám giỗ lớn,
họp đông họ hàng, hay có một vài vị lớn tuổi, không hiểu dòng dõi với
tiền nhân như thế nào nhưng đã được nghe truyền lại, kể thành tích chiến
công Nam Tiến với những chi tiết... Mỗi lần Me tôi thường khóc và nói
rằng, oán thù bao giờ rũ cho sạch được! Tết năm nay tôi cứ bị ám ảnh bởi
nhận định bi thương đó... Bây giờ sắp tới thời không còn giấu bụi dưới
thảm, càng buồn hơn. Nén buồn xuống chỉ còn mơ ước: Con người VN hồi
tỉnh và biết nắm tay nhau cùng đối phó, và đối thoại." [Mặc Đỗ, 18/02/2000]
* [Tìm Về là tên một chương sách Tìm Về Phương Đông, trong Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, Nxb Văn Nghệ 2000]
Ba nhà văn chủ lực trong nhóm Quan Điểm mà tôi được biết, phần cuối
cuộc đời đều có khuynh hướng tìm về đạo Phật. Tuyết ngưu Vũ Khắc Khoan
của Thành Cát Tư Hãn nơi xứ vạn hồ miệt mài với Đọc Kinh và nghe Kinh, để rồi "lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa pháp hội, một mình."
[1917-1986], Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng của Cách Mạng và Hành Động [1920-2000]
sau 1975 tịnh tu, mang nặng suy tư từ những trang Kinh Lăng Nghiêm,
viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp. Vũ Khắc Khoan và Nghiêm
Xuân Hồng thì đã lần lượt ra đi trong sự thanh thoát và cả lặng lẽ
tiếng kinh kệ. Mặc Đỗ thì sống quy ẩn từ bao năm như một hành giả không
ngừng đi tìm một chữ AN trong đạo Phật.
Xướng Họa và Khai Bút
"Hôm cuối năm, ông bạn già, anh Đoàn Thêm [nhóm Bách Khoa, tác giả
Những Ngày Tháng Không Quên, ghi chú của người viết] làm bài thơ 'Than
già' gửi cho bạn già đọc. Bài thơ có năm vần rồi-trôi-nòi-thôi-hồi. Một
bạn già khác hoạ lại, rồi lác đác nhiều bạn già khác cũng hoạ. Thấy anh
em vui tôi cũng nhẩy vô, tuy trong đời đây là lần thứ hai tôi thử trò
chơi nghĩ rằng chỉ dành cho các bậc túc nho. Nhảy vô thấy cũng thú giống
như thú chơi mots croisés chẳng hạn... Tôi chép hai bài tặng Vinh đọc
chơi làm quà cuối năm. Chơi trò xướng hoạ mới thấy cái thú vận dụng
tiếng Việt, một vần có thể xoay chuyển qua nhiều nghĩa. Càng thú nữa là
xướng hoạ không để đăng báo, thành danh. [Mặc Đỗ 11/01/1992]
Dư Sinh
Lời đẹp nghìn xưa đã dạy rồiĐời người lãng đãng bóng mây trôi
tham đeo đẳng không đành thoát
Muôn kiếp sinh sôi vẫn một nòi
Nợ nước tình nhà và sự nghiệp
Tuyết sương rồi cũng thế mà thôi
Sống thừa mới thấy thừa chi lắm
Lão giả chen nhau kiếm chỗ ngồi
Năm Mới
Đã đến thời thôi đếm tuổi rồiNgồi bên bờ cỏ để buông trôi
Cúi đầu cố học ngu không hết
Nghển cổ tầm sư lạc mất nòi
Tính sổ cuộc đời nhiều mực đỏ
Bài thua úp xuống xoá đi thôi
Cười xem thời vận mong Bùi Tín
Áo gấm về quê chẳng mấy hồi
Phải nói là ngạc nhiên đến thú vị khi thấy một người theo Tây học như
Mặc Đỗ, mới bước vào trường thơ xướng hoạ mà về vần và niêm luật, nhất
là bài thứ hai Dư Sinh anh đã đạt được tới mức độ gần hoàn chỉnh.
"Sáng mùng một tết Tây 2003, tỉnh dậy nằm suy ngẫm chợt nhớ tới những
người Việt Nam lưu lạc khắp nơi", anh Mặc Đỗ gửi tặng tôi bài thơ mới
làm.
Khai bút
[Giao thừa lẻ hai vào lẻ ba]Những khớp xương nghe đời phôi pha
Nhưng như xưa tấm lòng vẫn ấm
Tiễn đưa chào đón chén trà đậm
Cuộc tình trời đất dài thăm thẳm
Hai bàn tay khép mời nguyện ngắm
Theo nén nhang sợi khói bay cao
Những mối yêu nguyên vẹn thuở nào
Một mình bàu bạn không trăng sao
Tư bề không tiếng sóng dạt dào
Thời gian ngồi lại không chờ đợi
Buồn vui không cũ cũng không mới
Mặc Đỗ
Chuẩn bị một chuyến đi thanh thản
Sau ngày Chị Mặc Đỗ mất, là một chấn thương lớn đối với anh, cả về
tinh thần và sức khoẻ. Mối quan tâm lớn của anh là chuẩn bị cho riêng
mình một chuyến đi thật nhẹ nhàng và thanh thản. Anh kể: "Tôi có một ông bạn Pháp 14 năm nuôi vợ ở tình trạng living death." Năm 2006, anh đã tự tay viết một di chúc về sức khoẻ / Advance Medical
Directives of Binh DoQuang, anh chia xẻ điều đó với tôi như một witness/ nhân chứng ở xa, do tình thân và cũng có thể do nghề nghiệp y khoa của tôi. "Tôi viết directive bằng Pháp văn cho thật đúng . nghĩ trước khi dịch ta Anh văn hợp với legalese."
Anh viết về sự hiểu biết của anh đối với căn bệnh Alzheimer cùng
những hậu quả do tiến trình căn bệnh trên người bệnh, gia đình và xã hội
và với tất cả sáng suốt - như "một lão giả" chữ của Mặc Đỗ, anh đã thanh thản viết xuống giấy sự chọn lựa của anh:
"Si j'amais j'attraperais ce mal Alzheimer, situation bien établie
par mon docteur et d'autres spécialistes consultés, je demande que
toute nourriture solide et liquide soit interrompue, nourriture ou
d'autre substance donnée par quel moyen que ce soit. J'implore tous les
membres de ma famille, toutes les autorités judiciares, administratives,
religieuses, politiques, et autres, à ne pas s'opposer à ma décision et
me laisser périr comme un vieil arbre aisiblement."
Chọn lựa của anh có thể là một tấm gương cho nhiều người, biết chấp
nhận chu kỳ sinh diệt như lẽ tuần hoàn của trời đất, nó cũng cứu vãn cho
một nền y tế Mỹ đang bị phá sản/ bankrupt chỉ vì vẫn muốn duy trì lâu dài những cuộc sống thực vật/ vegetative state hay living death, vẫn chữ của anh Mặc Đỗ.
Năm 2015, đã chín năm sau ngày anh viết di chúc sức khoẻ ấy, sáng nay
từ nhà thương nơi tôi làm việc, rất vui mới được nói chuyện điện thoại
khá lâu với anh [14/06/2015], vẫn là một nhà văn Mặc Đỗ giọng nói còn
sang sảng và tinh thần thì rất ư là minh mẫn. Phải chăng một phần do gene,
phần kia do một cuộc sống kỷ luật từ thời còn rất trẻ, sáng dậy sớm tập
thể dục tắm nước lạnh và sống điều độ suốt những năm sau đó, có thời ở
Sài Gòn anh đã chọn chế độ dinh dưỡng gạo lức muối mè, có lẽ vậy mà anh
dễ dàng sống tới trăm tuổi, vẫn tự sinh hoạt độc lập với nguyên vẹn phẩm
chất của cuộc sống. Một ngày nào đó mong còn xa, sự ra đi của anh theo
quan điểm y khoa sẽ được coi như một cái chết tự nhiên/ natural death, như một cây cổ thụ khô và tự héo dần - vẫn chữ của nhà văn Mặc Đỗ.
Ngô Thế Vinh
Long Beach, 20/ 06/ 2015
Mặc Đỗ qua nét bút Tạ Tỵ
Trở về
MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.